intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Biện pháp giúp học sinh lớp 2 giải toán có lời văn theo mô hình trường học mới

Chia sẻ: Quách Văn Hùng | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:11

737
lượt xem
29
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của đề tài: Giúp học sinh lớp 2 nắm và có kĩ năng giải được các dạng toán có lời văn đồng thời khi làm bài các em mạnh dạn và tự tin, không cần sự hỗ trợ của các nhóm trưởng hay của cô giáo. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Biện pháp giúp học sinh lớp 2 giải toán có lời văn theo mô hình trường học mới

  1. BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH  LỚP 2 GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN THEO MÔ HÌNH TRƯỜNG HỌC MỚI I.  ĐẶT VẤN ĐỀ: 1. Bối cảnh của đề tài: Năm học 2017 – 2018 tôi được Ban Giám hiệu nhà trường phân công  chủ nhiệm lớp 2D, đa số các em thuộc hộ gia đình nông dân và buôn bán hoặc  đi làm ăn xa nên không có nhiều thời gian để  quan tâm đến việc học của con   em mình. Trong đó có môn toán học là một môn khoa học nghiên cứu một số  mặt của thế giới hiện thực, là một trong những môn học chính mà chúng ta đều  quan tâm. Nó góp phần rất quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp suy   nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết  vấn đề  có căn cứ  khoa   học. Phát triển trí thông minh, các suy nghĩ độc lập, linh hoạt, sáng tạo của học  sinh. Nó cũng góp phần vào việc hình thành các phẩm chất cần thiết cho con   người như: Cần cù, cẩn thận, ý thức vượt khó khăn, làm việc có kế hoạch, có   nề  nếp và tác phong khoa học. Đồng thời Toán học nó cũng là công cụ  cần  thiết cho việc học tập các môn học khác. Trong môn toán, việc giải các bài toán có lời văn có vị  trí quyết định,  nhằm giúp học sinh biết vận dụng những kiến thức về  toán, được rèn luyện  kỹ năng thực hành với những yêu cầu được thể hiện một cách đa dạng, phong  phú. Giải toán có lời văn là một hoạt động bao gồm những thao tác: Xác lập  được mối quan hệ giữa các dữ liệu; giữa cái đã cho và cái phải tìm trong điều  kiện của bài toán. Học sinh phải biết chọn được phép tính thích hợp, trả  lời   đúng câu hỏi của bài toán. Việc giải toán có lời văn là sự vận dụng có tính chất   tổng hợp các kiến thức, kĩ năng, phương pháp về  toán tiểu học với kiến thức   cuộc sống. 2. Lí do chọn đề tài     Là một giáo viên trực tiếp đứng lớp 2, tôi thấy giải toán có lời văn có vị  trí rất quan trọng trong chương trình toán ở  tiểu học và đặc biệt dạy học theo  Mô hình trường học mới. Các em làm quen với toán có lời văn ngay từ lớp học,  đặc biệt ở lớp 2 yêu cầu các em viết lời giải cho phép tính, chúng ta thấy rằng  đây là một khó khăn lớn đối với các em. Đọc một đề  toán đang còn là khó với  các em vậy mà còn phải tiếp tục tìm hiểu đề toán, tóm tắt đề toán, đặt câu lời   giải, viết phép tính, ghi đáp số. Trong việc dạy học theo Mô hình trường học  mới học sinh làm bài một cách độc lập theo từng cá nhân. Chính vì điều ấy mà   tôi luôn băn khoăn trăn trở làm sao tất cả các em đều làm đúng phép tính, ghi lời  giải chuẩn xác và ghi đáp số rõ ràng. Trang 1
  2. Từ đó bản thân tôi đã trăn trở, mình cần phải làm gì để giúp học sinh lớp   2 nắm và có kĩ năng giải được các dạng toán có lời văn đồng thời khi làm bài   các em mạnh dạn và tự tin không cần sự hỗ trợ của các nhóm trưởng hay của  cô giáo. Chính vì điều đó nên ở  mọi nơi, mọi lúc tôi luôn tìm tòi, học hỏi để áp   dụng một số biện pháp, một số  kinh nghiệm vào trong giảng dạy giải toán có   lời văn đối với học sinh lớp 2 vì vậy tôi đã chọn đề  tài:  “Biện pháp giúp học   sinh lớp 2 giải toán có lời văn theo mô hình trường học mới”. 3. Phạm vi và đối tượng của đề tài:  ­ Phạm vi nghiên cứu: Các biện pháp, kỹ năng giải toán có lời văn cho học   sinh lớp 2. ­ Đối tượng nghiên cứu: Học sinh khối lớp 2 trường Tiểu học Thạnh   Đông A1, xã Thạnh Đông A, huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang. 4. Mục đích của đề tài:  Giúp học sinh lớp 2 nắm và có kĩ năng giải được các dạng toán có lời văn  đồng thời khi làm bài các em mạnh dạn và tự  tin, không cần sự  hỗ  trợ  của các   nhóm trưởng hay của cô giáo; 5. Sơ lược những điểm mới cơ bản nhất trong kết quả nghiên cứu: ­ Rèn kỹ năng giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 2 ­ Một số kỹ năng đặt lời giải cho các bài toán. ­ Giúp học sinh xác định chính xác các bước giải một bài toán có lời văn.  ­ Xác định chính xác các phép tính cho một bài toán. 6. Khẳng định tính sáng tạo về khoa học và thực tiễn của vấn đề: Bản thân tôi khẳng định những phương pháp được đề  xuất được chính  bản thân tôi nghiên cứu và lần  đầu tiên  được  áp dụng tại trường Tiểu học  Thạnh Đông A1 huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang. Trong đó tôi đã đề  xuất các   kinh nghiệm hoạt động theo một hệ  thống logic và có tính nguyên tắc cao đảm  bảo thực hiện có hiệu quả. II. PHẦN NỘI DUNG:  1. Cơ sở lý luận:    ­  Người giáo viên muốn dạy tốt phải nắm vững chương trình, nắm  vững đặc trưng của phân môn toán, chuấn bị tốt các phương tiện, các đồ  dùng  cần thiết cho tiết học. Luôn chọn cho mình phương pháp dạy phù hợp nhất cho  từng bài toán. Và bên cạnh đó người giáo viên phải nắm vững phương pháp  dạy học mới theo Mô hình trường học mới. ­ Các em học sinh muốn học tốt thì trước hết phải tập trung học tập,   phải suy nghĩ kĩ và đọc đề  toán nhiều lần. Tuy nhiên trong thực tế ý thức học   Trang 2
  3. tập ở học sinh lớp 2 còn thấp, không chịu đọc đề vì các em còn nhỏ, đặc điểm   tâm sinh lý chưa ổn định, còn ham chơi. Việc dạy học theo Mô hình trường học  mới học sinh phải ngồi học theo nhóm nên các em  các em dễ quay cóp khi làm  bài nên từ đó suy tính ỷ lại, không chịu tập trung suy nghĩ. ­ Những bài toán có lời văn  ở  lớp 2 là những bài toán thực tế, nội dung   bài  toán thông qua những  câu nói về  những  quan hệ  tương   đương và phụ  thuộc, có liên quan đến cuộc sống hằng ngày. Cái khó ở đây là làm thế nào để  lược bỏ  những yếu tố  về  lời văn đã che đậy bản chất toán học của bài toán.  Hay nói một cách khác làm sao phải chỉ ra được các mối quan hệ giữa các yếu   tố  toán học chứa đựng trong bài văn và tìm ra được những câu lời giải, phép  tính thích hợp để từ đó tìm được đáp số của bài toán. 2. Thực trạng vấn đề: ­ Khi giảng dạy lớp 2 theo Mô hình trường học mới, tôi nhận thấy học   sinh khi giải toán có lời văn thường rất chậm so với các dạng bài tập khác. Các  em rất lúng túng khi viết câu lời giải tuy rằng các em biết ghi phép tính đúng.  Nhiều em nêu câu lời giải không phù hợp với yêu cầu đề  toán đặt ra. Tất cả  các nhóm khi làm đến dạng toán có lời văn đều đưa thẻ  cứu trợ  để  giáo viên  đến hướng dẫn; ­ Qua kết quả khảo sát đầu năm ở phần giải toán có lời văn thì lớp 2D có  9/32 em học sinh giải và trình bày được, 10/32 các em biết tóm tắt bài toán, ghi  đúng lời giải nhưng thực hiện phép tính thì sai. 13/32 các em chưa biết ghi lời   giải của bài toán, chưa có em nào có sáng tạo hay có lời giải hay hơn, gọn hơn.  3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề: a) Chuẩn bị cho việc giải toán:    ­ Để  giúp học sinh có kĩ năng trong việc giải toán có lời văn thì chúng ta   không những hướng dẫn các em trong giờ  học toán khi các em cứu trợ  mà còn   luyện cho các em kĩ năng nói trong các tiết học ở môn Tiếng Việt. Chúng ta đã biết các em còn nhỏ, còn rụt rè chưa tự  tin trong giao tiếp.  Chính vì vậy khi dạy chương trình trường học mợi các em được hoà đồng cùng  bạn bè, học hỏi  ở bạn bè và mạnh dạn đưa thẻ  cứu trợ khi làm bài chưa được.  Giáo viên  gần gũi với học sinh, khuyến khích các em trong giao tiếp, tổ chức các  trò chơi để các em luyện nói nhiều để giúp các em có vốn từ lưu loát. Bên cạnh  đó người giáo viên phải chú ý nhiều đến kĩ năng đọc và phần tìm hiểu bài của  phân môn Tiếng Việt để từ đó các em có kĩ năng phán đoán yêu cầu cơ bản mà   bài tập đề ra. Trang 3
  4. b) Giúp học sinh nắm được trình tự của việc giải một bài toán có lời văn: * Tìm hiểu nội dung bài toán: Đọc đề, tìm hiểu đề bài. Đây là một bước rất quan trọng, giáo viên cần nhắc nhở cho học sinh đọc  kĩ đề, đọc nhiều lần (đọc thầm trong nhóm) để hiểu rõ đề toán cho biết gì? Như  đã cho biết điều kiện gì? Bài toán hỏi cái gì ? Bài toán thuộc dạng nào? Khi đọc   bài toán   phải hiểu thật kĩ một số  từ, thuật ngữ  quan trọng chỉ  rõ tình huống  Toán học được diễn đạt theo ngôn ngữ thông thường.  Trong đề  tài này tôi không thể  trình bày được hết phần thực nghiệm và  đánh giá kết quả  thực nghiệm của tôi trong năm qua, chỉ  xin mô tả  một vài bài   thực nghiệm ở chương trình toán 2 để chứng minh phần lý luận đã nêu . Chẳng hạn “ Một giàn có 46 quả gấc”  bài 4/65 SHD. Hay “ Bạn Tú cân  nặng 32 kg...”  5/86 SHD  vv.... Mỗi học sinh trong nhóm cần đọc nhẩm nhiều  lần đề toán đã cho. Cần dùng bút chì gạch chân hoặc ghi vào vở nháp những điều kiện đã biết và  cái phải tìm. Ví dụ:  Bài toán: Mảnh  vải màu xanh  dài 34 dm, mảnh  vải màu tím  ngắn hơn  mảnh vải màu xanh 15 dm. Hỏi mảnh vải màu tím dài bao nhiêu dm? + Học sinh đọc đề, tìm hiểu và có thể  gạch chân như  trên. Sau đó học   sinh có thể nêu được (có thể cho các em tự hỏi đáp nhau) * Bài toán cho biết gì? (Mảnh vải xanh: 34dm, mảnh vải tím ngắn hơn  mảnh vải xanh: 15dm). * Bài toán hỏi gì? (Mảnh vải tím dài bao nhiêu dm?). + Cho học sinh phân tích ngược:  * Bài toán hỏi gì? (Mảnh vải tím dài bao nhiêu dm?) * Bài toán cho biết gì? (Mảnh vải xanh: 34dm, mảnh vải tím ngắn hơn  mảnh vải xanh: 15dm) *  Tìm tòi cách giải toán : ­  Chọn phép tính giải thích hợp ­Sau khi  các em đã xác định được đề toán  như  cái gì đã cho và cái gì phải  tìm cần giúp học sinh chọn phép tính thích hợp: Chọn “ PHÉP CỘNG” nếu bài   toán yêu cầu: “ Nhiều hơn, nặng hơn, cao hơn  hoặc “ gộp”, “ T ất cả”. Ch ọn   tính trừ nếu đề toán ra là “ bớt” hoặc “tìm phần còn lại” “ ngắn hơn”  hay là “ ít  hơn” “ trong đó” Trang 4
  5. ­ Lập kế  hoạch giải toán nhằm xác định trình tự  giải quyết, thực hiện   phép tính. Từ  tóm tắt đề  toán, một lần nữa cho học sinh nắm lại mối liên hệ  giữa đề toán đã cho và cái cần tìm. Trong lớp GV phải quan sát, nếu có một nhóm đưa thẻ cứu trợ thì ta đến  nhóm đó để hướng dẫn . Trường hợp nếu có nhiều nhóm cùng đưa thẻ  cứu trợ  thì giáo viên nên cho các em cùng quay mặt lên bảng để giáo viên hướng dẫn. Ta có thể hướng dẫn cho học sinh suy luận từ câu hỏi bài toán đến dữ  kiện đã  cho.    + Bài toán hỏi gì? (Tấm vải tím dài mấy đề xi mét).    + Trong đó dữ kiện nào đã biết? (Tấm vải tím ngắn hơn tấm vải xanh   15dm)    + Mà tấm vải xanh đề toán đã cho biết là bao nhiêu dm? (Vải xanh dài 34  dm)    + Vậy muốn biết tấm vải tím dài bao nhiêu dm ta thực hiện phép tính gì?  (Thực hiện phép tính trừ 34 trừ đi 15). + Vậy kết quả cuối cùng có phải là đáp số của bài toán không? (Đó là đáp  số của bài toán). * Thực hiện cách giải quyết bài toán: ­ Quá trình tìm tòi cách giải quyết, học sinh tự trình bày bài giải của mình  có thể làm vở ô li, vở nháp. ­ Hoặc tạo sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các đối tượng học sinh trong  nhóm, học sinh trong nhóm trao đổi ý kiến về cách làm bài hoặc giải bài toán. ­ Giáo viên có thể  lựa chọn nội dung cho thật tinh giản, xác định rõ các   kiến thức cơ  bản, các thuật ngữ  quan trọng trong bài, lời giải thích phải ngắn,  gọn, nhấn mạnh các chỗ cần thiết, minh họa bằng nhiều ví dụ quen thuộc (gợi ý   một số đặc điểm riêng của đơn vị. Đối với bài toán này đơn vị của nó là dm). ­ Sau khi đã hướng dẫn, giáo viên cho các nhóm làm bài vào vở. Bài toán  này có một phép tính nhưng có thể  có nhiều lời giải khác nhau mà vẫn phù   hợp .Việc cho học sinh tự  tìm nhiều lời giải khác nhau có tác dụng lớn trong  việc gây hứng thú cho học sinh, thúc đẩy các cố  gắng tìm tòi, sáng tạo và rèn   luyện óc suy nghĩ linh hoạt, độc lập.  Học sinh có thể nêu lời giải như sau:                     Số dm mảnh vải tím dài là (Mảnh vải tím dài là /Chiều dài mảnh   vải tím là /Độ dài mảnh vải tím là ...)                                       34 – 15 = 19 (dm). Trang 5
  6. Đáp số: 19 dm. *  Kiểm tra cách giải bài toán: ­ Việc kiểm tra này nhằm phân tích cách giải đúng hay sai, sai chỗ nào để  sửa chữa. Giáo viên hướng dẫn học sinh kiểm tra lại trình tự các bước giải thử  lại phép tính đã thực hiện trong bài giải ... Từ đó giúp các em có thói quen kiểm  tra đánh giá, sửa bài.  ­ Với kết quả bài toán trên có thể hướng dẫn học sinh kiểm tra xem mảnh   vải tím có phải là 19 dm không? ­ Hay khi cộng 19 dm của mảnh vải tím với 15 dm chiều dài tấm vải xanh  dài hơn có bằng chiều dài tấm vải xanh là 34 dm không? Ta xét tính hợp lý của   đáp số. * Tóm lại: Đối với mỗi bài toán, học sinh cần  đọc thật kĩ đề bài, tìm hiểu đặc điểm  của bài toán: các dữ kiện đã có và vấn đề  cần tìm. Sau đó tóm tắt đề toán bằng   sơ đồ  minh họa hoặc bằng lời. Rồi tự suy nghĩ hoặc thảo luận nhóm, tổ để tìm   ra hướng giải quyết bài toán, lựa chọn cách giải hay nhất, phù hợp nhất. ­ Khi giải xong cần kiểm tra thử lại kết quả có đúng và phù hợp không? ­ Khuyến khích học sinh tự  đánh giá bài làm của mình, của bạn để  khắc   sâu kiến thức. ­ Đối với bài toán khó học sinh cần phải đọc đi, đọc lại nhiều lần, cố  gắng suy nghĩ tìm ra cách giải cho phù hợp.  c) Rèn cho học sinh những thói quen cần thiết trong quá trình học tập môn  Toán : ­ Hình thành nề  nếp học tập: Mọi học sinh phải độc lập suy nghĩ, làm  việc tích cực. Có thói quen tự  giác, chủ  động khi làm bài, không quay cóp bài   bạn, không đưa thẻ cứu trợ khi chưa suy nghĩ và chưa đọc đề toán. Học sinh biết  huy động các kiến thức của mình tham gia tích cực vào việc giải quyết nội dung,   yêu cầu bài toán. ­ Rèn cho học sinh tính cẩn thận chu đáo trong học tập như  : Trước khi   làm bài phải nháp. Hay không hiểu thì nên hỏi nhóm trưởng hoặc các bạn khác   trong nhóm. ­Khi thấy đúng mới chép vào vở. ­ Yêu cầu học sinh  ở  từng nhóm phải viết chữ  và số  trong phép tính rõ  ràng. Trình bày bài giải toán có lời văn đúng, đẹp. Trang 6
  7. ­ Diễn đạt lời văn phải chính xác, cụ thể. Tạo cho học sinh tính mạnh dạn   để trao đổi ý kiến trong nhóm  hoặc toàn lớp vì sự hổ trợ giữa các học sinh trong   nhóm, lớp, góp phần làm các em mạnh dạn hơn hiểu bài sâu hơn, giúp học sinh   tự  tin hơn vào khả  năng của bản thân , tự  rút kinh nghiệm về  cách học của   mình . ­ Sau khi làm xong bài tập cho các em tự kiểm tra, đánh giá và sửa chữa bài  làm của mình trước khi nộp bài. ­ Cần rèn ý chí vượt khó cho các em khi làm bài. Khi giải toán gặp các bài  toán khó, giáo viên cần giúp các em có sự  tự  tin, không nên nản lòng. Khuyến  khích các em tự lực làm bài, tìm tòi hướng giải quyết để  đạt được kết quả  cao  trong học tập. d) Các biện pháp khác giúp học sinh giải toán có lời văn: ­ Dạy học theo mô hình mới này đòi hỏi người giáo viên khi chia nhóm   giáo viên chia đủ các đối tượng giỏi, khá, trung bình, yếu. Khi học tập, làm việc   theo nhóm, học sinh thường mạnh dạn trao đổi ý kiến, khuyến khích học sinh   tìm tòi, sáng tạo, biết đánh giá ý kiến của bạn. Chẳng hạn một bài toán khó, nếu  như  nhiều em cùng bàn bạc, phân tích thì nhất định sẽ  tìm cách giải hay. Nhờ  như vậy các em tự tin hơn trong khi làm bài. ­ Giáo viên cần động viên, tuyên dương kịp thời  khi đến từng nhóm kiểm   tra để  học sinh có sự  hứng thú trong học tập. Nhất là các học sinh Trung bình,  yếu. Giáo viên phải theo dõi nhận xét, bổ  sung khuyến khích, khen các em khi  các em trả lời đúng. ­ Việc tổ  chức hướng dẫn cho học sinh làm bài tập là việc làm rất quan   trọng, nên mỗi câu hỏi của giáo viên đều phải có nội dung chính xác phù hợp với  mục đích yêu cầu, nội dung bài học, câu hỏi rõ ràng. Cùng nội dung có thể  đặt  câu hỏi dưới những hình thức khác nhau để  giúp học sinh nắm vững kiến thức   và linh hoạt trong suy nghĩ. ­ Tổ  chức học sinh khá giỏi trong nhóm thường xuyên giúp đỡ  các bạn  yếu, kém, nếu các bạn có yêu cầu về phương pháp vận dụng kiến thức. ­ Tổ chức kèm cặp, phụ đạo trong điều kiện thời gian qui định một số tiết   tăng cường trong ngày. Trong các buổi này chủ  yếu là việc lĩnh hội các kiến  thức giảng dạy trên lớp, nếu cần ôn tập , củng cố  kiến thức để  các em nắm  vững chắc hơn . ­ Phân tích cụ thể các sai lầm và hướng dẫn phương pháp giải để các em   nắm vững. Trang 7
  8. ­ Cải tiến giảng dạy sao cho sát đối tượng, nói chuỵên riêng và giải thích  thêm cho các học sinh trong từng nhóm để học sinh lĩnh hội được nội dung cơ  bản của bài học. ­ Cần hướng dẫn cụ thể khi kiểm tra từng nhóm, Giáo viên yêu cầu học   sinh trình bày cách giải hay câu trả lời bằng cách diễn đạt của mình, không nhất   thiết phải lắp nguyên văn theo sách. ­ Củng cố  kiến thức dưới các hình thức tổ  chức trò chơi, tạo sự  vui vẻ,  hứng thú trong học tập và khắc sâu kiến thức đã học. * Bên cạnh đó người giáo viên cần phải :  + Người giáo viên rèn thường xuyên   kĩ năng nghe, nói, đọc, viết trong môn  Tiếng Việt. Luyện kĩ năng hỏi ­ đáp để các em có vốn từ lưu loát hơn. + Người giáo viên kiên trì uốn nắn học sinh trong mọi lúc trong giờ học. + Nghiên cứu kĩ giáo án, lập kế hoạch cụ thể cho từng tiết. Trong tiết dạy phải   kiên trì giúp đỡ từng em, biết cách gợi mở và nâng cao tri thức mỗi em. + Người giáo viên lên lớp phải có tác phong nhẹ  nhàng, giọng nói, lời giảng rõ  ràng dễ hiểu cũng giúp cho học sinh tiếp thu nhanh và làm bài tốt hơn. e) Hiệu quả của giải pháp: ­ Qua một thời gian từ đầu năm đến nay  áp dụng giải pháp mới lớp 2D do   tôi làm chủ nhiệm đạt kết quả rất cao,  đặc biệt là môn toán có 24/32 học sinh   hoàn thành tốt yêu cầu học tập môn học; 8/32 em học sinh hoàn thành yêu cầu   học tập môn học; không có học sinh chưa hoàn thành. ­ 100% số học sinh đạt bài kiểm tra trên điểm 5.  ­ Số  học sinh đạt điểm 9, 10  ở  môn Toán là 17 em đạt 53% đó cũng nhờ  một phần lớn các em nắm bắt được kĩ năng giải Toán có lời văn do giáo viên  khắc sâu được kiến thức bài dạy trên lớp. III. PHẦN NỘI DUNG:  1. Bài học kinh nghiệm :  ­ Để  giúp học sinh lớp 2 giải toán có lời văn đạt kết quả  tốt thì chúng ta  cần: + Hướng dẫn học sinh  trong từng nhóm trước khi làm toán phai đọc đề  bài và tìm hiểu đề bài thật kĩ. Đây là bước quan trọng giúp các em tìm ra hướng  giải quyết bài toán. + Lưu ý học sinh trung bình, yếu cần xác định rõ đâu là dữ  kiện đã có và   vấn đề  cần tìm của đề  toán để  tất cả  các đối tượng đều giải được toán. Nếu   như  các em đó nêu lời giải đúng mà khi tính đến phép tính giả  sử  là phép tính  Trang 8
  9. nhân hay chia mà các em không thuộc thì giáo viên cũng có thể  cho các em mở  bảng nhân hay  chia nhìn theo mà ghi kết quả  vào. Chính vấn đề  này từng bước dìu dắt những  em quá yếu vươn lên trong học tập. + Chính cách dạy học theo kiểu mới này, việc học theo nhóm  các em có  điều kiện phát huy hết khả  năng của mình trong việc bàn bạc trao đổi tìm ra   cách giải quyết để đi đến kết quả. + Giáo viên theo dõi đến từng nhóm chấm bài thường xuyên để  nắm bắt  phần sai sót của học sinh uốn nắn sửa chữa từng bài, từng lời văn trong bài làm  của các em một cách kịp thời. + Giáo viên không ngừng đầu tư, nghiên cứu về  đổi mới trong phương   pháp dạy học. + Trong các giờ học khi khởi động cần áp dụng những trò chơi để khắc  sâu kiến thức cho các em, đồng thời làm cho các em hăng say trong học tập, gây  hứng thú trong giờ học chính vì điều đó sẽ  đem lại kết quả cao. + Đến từng nhóm kiểm tra  động viên, tuyên dương khen ngợi  kịp thời để  các em phấn khởi, tự tin trong học tập. + Tạo không khí lớp học vui vẻ. + Khảo sát kiến thức từng đợt, từng tháng . + Quan tâm đến tất cả các đối tượng học sinh trung bình, yếu. Khi chấm   bài phát hiện những em hỏng kiến thức, ghi tên vào sổ  riêng của giáo viên để  tiếp tục phụ đạo. + Kết hợp với gia đình: Thường xuyên nhắc nhở  học sinh về  nhà làm  phần hoạt động ứng dụng để  từ đó phụ  huynh quan tâm hơn đến việc học của   con em mình, học sinh có kiến thức sâu hơn, chắc hơn. + Thường xuyên phối hợp với phụ huynh trong việc giáo dục học sinh. 2. Ý nghĩa của giải pháp Qua việc áp dụng,  thực hiện sáng kiến tôi thấy mang lại những ý nghĩa sau: ­ Việc thực hiện theo sáng kiến này giúp các em học sinh lớp 2D giải toán có  lời văn nhanh và chính xác. ­ Sáng kiến đã được anh chị  đồng nghiệp trong khối khảng định là sáng   kiến hay và áp dụng có hiệu quả đối với các em học sinh lớp 2   ­ Riêng với bản thân tôi, tôi nhận thấy rằng đề tài cần được tiếp tục đầu  tư  thực hiện  ở  trường trong những năm tới. Tất nhiên, mỗi năm sẽ  có bổ  sung  thêm những biện pháp mới để  nâng cao tính hiệu quả  của đề  tài và để  khẳng   định giá trị thiết thực của đề tài. Trang 9
  10. ­ Khả năng ứng dụng của giải pháp: Giải pháp này có thể áp dụng tốt ở  tất các trường tiểu học trong huyện. ­ Những kiến nghị, đề  xuất:   Để  việc làm trên đạt hiệu quả  cao khi áp  dụng thì điều cần thiết và không thể  xem nhẹ  là giáo viên cho các em trong   nhóm thực hiện tốt phần hoạt động cơ  bản từ  đó mới phát triển được tư  duy   suy luận của các em để phần hoạt động các em mới nắm chắc bài và làm bài tốt   hơn. Để rèn kĩ năng giải toán có lời văn ở lớp ở 2 thì trong quá trình giảng dạy  giải toán nên kết hợp và lựa chọn các phương pháp dạy tốt, cần đặt ra các tình  huống để  các em suy nghĩ, tìm tòi cách giải. Một điều  không kém phần quan   trọng nữa là người giáo viên khi đứng lớp phải có lòng tận tình, say mê với nghề  nghiệp, làm hết lương tâm, trách nhiệm của người thầy. Qua một tiết dạy Toán  trên lớp phải nắm bắt được những cái gì học sinh làm được và những điều gì   học sinh còn vướng mắc, khó khăn để  từ đó người giáo viên nghiên cứu và tìm   ra được hướng giải quyết tốt hơn cho tiết học Toán sau.        Thạnh Đông A, ngày 28 tháng 9  năm 2017 Người viết                        Nguyễn Thị Thùy Liên IV.  TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1/   !00 câu hỏi và đáp về  việc dạy Toán  ở  Tiểu học ( Phạm Đình Thục­ Nhà  xuất bản Giáo Dục) 2/ Phương pháp giải Toán ở Tiểu học 3/ Phương pháp dạy học môn Toán ở Tiểu học ( Nhà xuất Giáo Dục năm 2000) 4/ Các bài toán có phương pháp giải điển hình tập 1, 2, 3 ( Đỗ  Như  Thiên xuất  bản năm 2006) Trang 10
  11. 5/ Sách Hướng dẫn học Toán 2 ( Sách thử nghiệm)                                                                                                            MỤC LỤC Trang 11
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1