Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3B trường Tiểu học Yên Lãng 1 học tốt môn Toán
lượt xem 8
download
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3B trường Tiểu học Yên Lãng 1 học tốt môn Toán với mục tiêu giúp học sinh thực hiện thành thạo các phép tính nhân và phép chia là một vấn đề cấp thiết, vô cùng quan trọng. Giúp học sinh có nền tảng để thực hiện tốt các phép nhân, phép chia ở lớp trên và học tốt các mạch kiến thức khác trong chương trình.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3B trường Tiểu học Yên Lãng 1 học tốt môn Toán
- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN Kính gửi: Hội đồng chấm Sáng kiến huyện Đại Từ - tỉnh Thái Nguyên Tôi là: Tỉ lệ (%) Trình đóng góp Chức độ STT Họ và tên Ngày sinh Nơi công tác vào việc vụ chuyên tạo ra môn sáng kiến Trường TH 1 Đặng Văn Chỉnh 13/10/1989 Giáo viên Đại học 100% Yên Lãng I Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3B trường Tiểu học Yên Lãng 1 học tốt môn Toán" 1. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Không có 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Toán học 3. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Từ tháng 9 năm 2022 đến tháng 4 năm 2023 4. Mô tả nội dung sáng kiến. 4.1. Tính mới. Năm học 2022-2023 là năm đầu tiên áp dụng chương trình giáo dục phổ thông 2018 với lớp 3. Trong nội dung chương trình lớp 3 quy định rõ là Toán là môn học bắt buộc. Môn Toán cấp tiểu học có một vai trò hết sức quan trọng trong việc hình thành nhân cách cho học sinh Tiểu học. Qua thực tế giảng dạy, tôi thấy trong mạch nội dung Số và phép tính của môn Toán lớp 3 thì khi thực hiện phép nhân, phép chia và giải toán có lời văn học sinh còn hay nhầm lẫn, gặp nhiều khó khăn. Do ở lớp 3 học sinh mới bắt đầu được thực hiện phép tính nhân và chia ngoài bảng. Chính vì vậy việc giúp học sinh thực hiện thành thạo các phép tính nhân và phép chia là một vấn đề cấp thiết, vô cùng quan trọng. Giúp học sinh có nền tảng để thực hiện tốt các phép nhân, phép chia ở lớp trên và học tốt các mạch kiến thức khác trong chương trình.
- 2 Như chúng ta đã biết môn Toán là một môn rất khô khan, rất khó khăn trong cách thức tổ chức để tạo sự cuốn hút cho học sinh khi học môn Toán. Vì thế tôi rất quan tâm tới việc làm sao có thể phát triển một cách tối ưu năng lực, phẩm chất của học sinh; tổ chức làm sao cho tiết học tạo được không khí vui tươi, học sinh làm sao có thể chủ động, chú ý hơn trong giờ học toán, sẽ áp dụng những giải pháp nào, kỹ năng nào trong dạy học cho phù hợp, hiệu quả. Từ những khó khăn và trăn trở trên bản thân tôi thiết nghĩ để giờ học Toán đạt hiệu quả tốt nhất thì điều cơ bản nhất vẫn chính là cần tin tưởng ở học sinh của mình hơn để cho học sinh có cơ hội được trải nghiệm, được khám phá, người giáo viên cần chú trọng nhiều hơn đến việc hoạt động làm việc của các nhóm 4, nhóm 3,… thực hiện hiệu quả các kỹ thuật dạy học như kĩ thuật “Các mảnh ghép” sử dụng hiệu quả nhóm chuyên gia khi thực hiện kỹ thuật. Đẩy mạnh công nghệ thông tin trong dạy học. Với suy nghĩ đó, trong quá trình dạy học ở lớp 3, tôi rất băn khoăn và mạnh dạn nghiên cứu “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3B trường Tiểu học Yên Lãng 1 học tốt môn Toán.” 4.2 Tính thực tiễn. Trong thực tế giảng dạy vẫn còn một số học sinh chưa biết giải toán có lời văn, chưa thuộc được bảng nhân chia, các em còn mải chơi, cho nên hiệu quả giờ học không được cao * Đặc điểm tình hình lớp Năm học 2022-2023 tôi được Ban giám hiệu phân công tôi làm công tác chủ nhiệm và giảng dạy lớp 3B, một số thông tin về lớp như sau: Tổng số Nữ Dân tộc Nữ dân tộc Hộ nghèo HS xã ngoài Đúng độ tuổi 35 17 28 14 1 2 35 Là một tập thể lớp có nhiều đối tượng học sinh khác nhau về tất cả các mặt nhưng chính vì vậy bản thân tôi đã khảo sát chất lượng đầu năm để nắm được tình hình, chất lượng nhằm phân hóa đối tượng học sinh theo khả năng nhận thức của từng nhóm đối tượng học sinh. 2
- 3 Kết quả khảo sát chất lượng môn Toán đầu năm học 2022- 2023 như sau: Nội dung khảo sát Số lượng Tỉ lệ Hoàn thành bài tốt, trình bày sạch đẹp. 11 31,4 Chưa hiểu yêu cầu của đề 1 2,9 Sai câu lời giải 18 51,4 Tính toán chậm 3 8,6 Chưa thuộc bảng nhân, chia 2 5,7 Qua giảng dạy tôi nhận thấy, phần lớn các em chưa nhận thức đúng vai trò của môn Toán. Học sinh chưa ý thức được nhiệm vụ của mình, chưa chịu khó, tích cực tư duy suy nghĩ tìm tòi cho mình những phương pháp học đúng để biến tri thức của thầy thành của mình. Cho nên sau khi học xong bài, các em chưa nắm được lượng kiến thức thầy giảng, rất nhanh quên và kỹ năng tính toán chưa nhanh. Tinh thần hợp tác học tập chưa cao nhiều em còn chưa tự tin, học thụ động. Học sinh chưa yêu thích môn toán, nhiều em bảng nhân chia còn chưa thuộc hết, cách tính toán của các em còn ẩu. Đó là thực trạng mà bản thân tôi luôn lo lắng, băn khoăn khi làm công tác giảng dạy lớp 3B trong năm học này. Chính vì những lý do nêu trên mà tôi đã chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3B trường Tiểu học Yên Lãng 1 học tốt môn Toán” trong năm học 2022- 2023. * Thuận lợi Về phía nhà trường: Nhà trường có cơ sở vật chất trang thiết bị phục vụ cho công tác dạy và học khá đảm bảo. Các đồng chí trong Ban giám hiệu có trình độ chuyên môn vững vàng, luôn sẵn sàng giúp đỡ, hỗ trợ giáo viên kịp thời đặc biệt là những giáo viên trẻ mới vào nghề, luôn tạo điều kiện tốt nhất cho giáo viên trong công tác giảng dạy cũng như nâng cao chuyên môn nghiệp vụ. Về phía giáo viên: Được sự quan tâm và chỉ đạo tốt của các cấp lãnh đạo về chuyên môn. Tổ chức bồi dưỡng giáo viên, tổ chức những buổi học chuẩn kiến thức kỹ năng cho học sinh tiểu học. Cung cấp đủ tài liệu, phương tiện để nghiên cứu, học hỏi, giảng dạy. Nhà trường trang bị đầy đủ máy chiếu, bộ đồ dùng dạy học cho giáo viên.
- 4 Được sự giúp đỡ của Ban Giám Hiệu trường: tổ chức thao giảng, dự giờ hàng tháng, tổ chức những buổi học chuyên đề thảo luận về chuyên môn để rút ra những ý kiến hay, những đề xuất kinh nghiệm tốt áp dụng trong việc giảng dạy. Khi nhà trường họp thống nhất lựa chọn bộ sách giáo khoa phù hợp để phục vụ công tác giảng dạy năm học 2022- 2023, tôi đã nghiên cứu kỹ và lựa chọn sách giáo khoa Toán Cánh Diều làm công cụ hỗ trợ để phục vụ mục tiêu giáo dục Toán lớp 3 theo chương trình tổng thể. Có ý thức vận dụng đổi mới phương pháp trong dạy học một cách linh hoạt, sáng tạo. Có ý tức tự học, tự bồi dưỡng bản thân, để nâng cao nghiệp vụ. Luôn đúng phương pháp, sách giáo viên. Giáo viên có ý thức trách nhiệm với học sinh, giảng dạy nhiệt tình, chữa bài nghiêm túc, khách quan, tỉ mỉ. Giáo viên luôn có ý thức vận dụng đổi mới phương pháp dạy học. Giáo viên nắm chắc tiến trình tiết dạy, đi đúng mục tiêu của bài. Về phía học sinh: Các em phần đông được gia đình quan tâm, trang bị tương đối đầy đủ về trang phục, đồ dùng học tập, sách giáo khoa,… Nhiều gia đình, phụ huynh rất quan tâm đến việc học của con em mình như trao đổi tình hình học tập của con em thường xuyên với giáo viên, mua sắm máy tính cho con học tập,.... Đa số các em đều ngoan, lễ phép và biết nghe lời. Một số em tiếp thu nhanh, có sự chủ động trong học tập và ý thức giúp đỡ bạn học tập, làm toán nhanh. Về Phía phụ huynh: Đa phần phụ huynh cũng đã quan tâm tới tình hình học tập của con. Thường xuyên trao đổi việc học tập của con em mình với giáo viên giảng dạy. Nhiều phụ huynh cũng đã đồng hành, làm bạn cùng con trong học tập cũng như, rèn luyện,... mong muốn con em mình phát triển toàn diện. Về phía địa phương: Kinh tế - xã hội của xã Yên Lãng đang trên đà phát triển nên công tác xã hội hóa giáo dục của địa phương những năm gần đây ngày càng được đẩy mạnh đã tạo điều kiện rất lớn cho công tác phát triển giáo dục. * Khó khăn 4
- 5 Về phía giáo viên: Giáo viên mới được tiếp cận với chương trình giáo dục phổ thông 2018 đối với lớp 3. Giáo viên còn trẻ chưa có nhiều kinh nghiệm về phương pháp, cách truyền đạt của giáo viên cũng như cách đặt câu hỏi đối với học sinh đôi khi còn lúng túng. Giáo viên hướng dẫn giải toán có lời văn chưa rõ ràng làm cho bài toán trở nên phức tạp, học sinh khó hiểu. Chương trình mới nên có những bài vẫn chưa được trang bị đồ dùng, cơ sở vật chất còn nhiều hạn chế nên giáo viên phải thực sự linh động và nghiên cứu bài liên tục để tìm giải pháp khắc phục khó khăn. Việc sử dụng phương pháp và hình thức tổ chức dạy học mới áp dụng phương pháp dạy học tích cực, tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm, dạy học nêu vấn đề, trò chơi học tập,... nhiều lúc chưa hài hoà, thiếu sáng tạo nên tiết học nhiều khi chưa sinh động, hiệu quả giáo dục chưa đạt được như mong muốn. Trong thực tế dạy học vẫn còn một số Giáo viên chưa chú ý đúng mức tới việc vận dụng ưu điểm và phối hợp các Phương pháp dạy học như thế nào cho phù hợp với đối tượng học sinh của mình. Nguyên nhân là do giáo viên chưa nghiên cứu kỹ các phương pháp, kỹ thuật cần thiết và tích cực áp dụng cho từng bài dạy, Tổ chức các hình thức dạy và học chưa phong phú, chưa đạt được hiệu quả. Do vậy, chưa lôi cuốn được sự tập trung chú ý nghe giảng của học sinh, chưa kích thích được khả năng tư duy của học sinh. Từ đó dẫn đến tình trạng dạy học chưa trọng tâm, truyền đạt kiến thức còn mang tính áp đặt, giảng giải, đơn điệu. Nội dung mỗi bài học thường nằm ngay trong tiêu đề bài học. Giáo viên chưa chú ý đúng mức đến việc giúp HS hiểu nghĩa của các từ ngữ trong đầu bài, chưa chú ý đến ý nghĩa thực tế của bài toán. Quá trình dẫn dắt khai thác nội dung chưa logic, chưa tạo ra những tình huống có vấn đề để học sinh tự nhớ lại kiến thức cũ vận dụng làm bài, chủ động, sáng tạo trong tư duy để tìm ra kiến thức mới, vận dụng các hình thức dạy học còn mang tính hình thức. Trong thực hành giáo viên cũng chưa khai thác hết những đơn vị kiến thức cần củng cố, những kiến thức cần mở rộng hay chốt lại cách thực hiện. Về phía phụ huynh: Còn một số bộ phận phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến con cái, nhiều phụ huynh còn mải làm ăn lo cho kinh tế, con gửi lại với ông
- 6 bà, nên việc quan tâm tới con em trong quá trình học tập như con học tới đâu, học những kiến thức gì, khả năng của con mình nhận thức tới đâu còn nhiều hạn chế. một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến con em mình còn có quan điểm phó mặc cho giáo viên và nhà trường. Về phía học sinh: Trong quá trình học các em chưa thực sự tập trung nên khó khăn trong việc tiếp cận nội dung chương trình học tập. Học sinh chưa có tinh thần học hỏi, còn rụt rè, chưa chủ động, tích cực trong giờ học, chưa hăng hái phát biểu xây dựng bài. Ý thức tự giác trong học tập còn chưa cao, chưa có ý thức tự học, tự trau dồi kiến thức cho bản thân. Học sinh chưa chủ động tích cực trong học tập. Học sinh chưa hướng cách đọc vào việc phân tích đề bài tập, học sinh chưa cẩn thận thực hiện tính xong không thử lại. Ngoài ra các em chưa biết cách phát huy năng lực tự chiếm lĩnh tri thức mới thiết lập mối quan hệ giữa kiến thức mới và kiến thức đã học. * Thực trạng - Về phía giáo viên: Do giáo viên mới được tiếp cận với chương trình lớp 3 mới nên khả năng thiết kế bài giảng còn chưa đạt hiệu quả cao, lúng túng trong việc thiết kế được hệ thống câu hỏi phù hợp để hướng dẫn học sinh nên làm cho yêu cầu bài tập trở nên phức tạp, học sinh khó hiểu. Một số giáo viên còn ngại khi học hỏi kinh nghiệm soạn bài giảng của những đồng nghiệp có kinh nghiệm đi trước. Giáo viên còn chưa chuẩn bị đồ dùng chu đáo để phục vụ cho tiết dạy. Nhiều giáo viên xử lý các tình huống sư phạm còn chưa được khéo léo nên làm kéo dài thời gian tiết học. Nhiều giáo viên còn mang nặng tính áp đặt với học sinh, chưa có sự phân hóa đối tượng rõ ràng nên nhiều khi xử lý còn chưa được công bằng với học sinh. - Về phía học sinh: Khả năng nhận thức của học sinh không đồng đều, nhiều học sinh chưa thích, chưa yêu môn học Toán. Khi làm bài, các em chưa thực sự tìm hiểu kỹ đầu bài, chỉ đọc bài một cách qua loa, đọc không suy ngẫm bài tập đã cho biết gì? yêu cầu làm gì? Dữ kiện đầu bài đã có những thông tin gì liên quan đến yêu cầu cầu của bài và phải có hướng xử lý như thế nào? và khi 6
- 7 làm xong chưa biết cách kiểm tra lại bài, thử lại kết quả,…. Nhiều em chưa được bố mẹ quan tâm, ít chú ý đến việc học tập. - Về phía phụ huynh: Một số phụ huynh học sinh thiếu quan tâm đến việc học tập ở nhà của con em. Phó mặc mọi việc học cho nhà trường và thầy cô. Nhiều phụ huynh đi làm xa, để lại con cho ông bà ở nhà, vì vậy sự quan tâm đến các em vẫn chưa sát sao. Hơn nữa trình độ học vấn của nhiều bậc phụ huynh chưa tiếp cận được với phương pháp học tập theo chương trình đổi mới. Một số cha mẹ quá nuông chiều con cái, quá tin tưởng vào con nên học sinh lười học xin nghỉ để làm việc riêng (như đi chơi, đi du lịch, giả bệnh, đi dự đám cưới hỏi,...) cha mẹ cũng đồng ý cho phép nghỉ học, vô tình là đồng phạm góp phần làm học sinh lười học, mất dần kiến thức căn bản... và rồi ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập của các em tại trường. Bên cạnh đó nhiều gia đình cho con xem điện thoại, chơi điện tử trên máy tính quá nhiều nên đã ảnh hưởng rất lớn đến việc tập trung của học sinh trong quá trình học tập. Gia đình học sinh gặp nhiều khó khăn về kinh tế hoặc đời sống tình cảm khiến trẻ không có nền nếp, quậy phá không chú tâm vào học tập. 4.3. Biện pháp thực hiện. Biện pháp 1: Nghiên cứu nội dung chương trình môn Toán. Để thực hiện thành công việc đổi mới phương pháp dạy học Toán tiếp cận chương trình giáo dục phổ thông 2018 theo định hướng phát triển năng lực học sinh tiểu học người giáo viên phải hiểu về nội dung chương trình, về mục tiêu và các năng lực và phẩm chất cần đạt. Để làm được điều đó người giáo viên cần thực hiện như sau: Trước hết giáo viên phải dành thời gian đọc, nghiên cứu kĩ chương trình tổng thể và chương trình môn học, trong đó yêu cầu phải nắm vững mục tiêu môn Toán và các yêu cầu cần đạt về phẩm chất, năng lực học sinh. Nắm vững mục tiêu của môn Toán trong cả cấp học trước khi xác định mục tiêu bài học. Điều này giúp giáo viên nhận biết khả năng tư duy của trẻ, nhận biết khiếm khuyết ở một phần nào của nội dung để có biện pháp phù hợp.
- 8 Nghiên cứu kĩ bài dạy (Yêu cầu cần đạt, câu lệnh,...) để trao đổi với các giáo viên trong khối điều chỉnh cho phù hợp; nắm chắc các bước giảng dạy và 10 bước học tập để tổ chức dạy học trên lớp đạt hiệu quả. Vì bài tập có những yêu cầu phức tạp, khó hiểu, không thực tế với tình hình của địa phương. Nhưng rất may mắn theo chương trình giáo dục phổ thông 2018 hiện nay thì giáo viên được chủ động thay đổi ngữ liệu, văn cảnh bài tập sao cho phù hợp, gần gũi, quen thuộc,... tạo sự hứng khởi cho học sinh. Ví dụ: Bài 3 (Sách giáo khoa Toán tập 2, lớp 3, trang 68). Một nhà máy sản xuất được 426 chiếc ô tô đồ chơi trong 3 ngày. Hỏi mỗi ngày nhà máy đó sản xuất được bao nhiêu chiếc ô tô đồ chơi? Biết mỗi ngày nhà máy sản xuất được số chiếc ô tô đồ chơi bằng nhau. Với bài tập này tôi có thể thay đổi ngữ liệu cho phù hợp hơn với học sinh nhưng vẫn giữ nguyên số liệu như sau Gia đình bạn Quyên sao được 426 kg chè trong 3 ngày. Hỏi mỗi ngày gia đình bạn Quyên sao được bao nhiêu ki-lô-gam chè? Biết mỗi ngày gia đình bạn Quyên sao được số ki-lô-gam chè là bằng nhau. Kết quả thu được: Từ việc nghiên cứu nội dung chương trình, mục tiêu cũng như tự nghiên cứu và trau dồi các kỹ năng, bản thân tôi đã hiểu rõ hơn về chương trình Giáo dục phổ thông 2018 đối với lớp 3 để tự tin, chủ động hơn trong công tác chuẩn bị bài, lên lớp, sử dụng các kỹ năng vào xử lý các tình huống sư phạm một cách tự tin và linh hoạt, sáng tạo hơn. Biện pháp 2: Thực hiện dạy học phân hóa đối tượng và nội dung học tập - Đối xử cá biệt ngay trong những tình huống dạy học đồng loạt. Do việc dạy học Toán lấy trình độ phát triển chung của học sinh trong lớp làm nền tảng nên những trường hợp cơ bản là những trường hợp dạy học đồng loạt. Tuy nhiên, dạy học đồng loạt không hoàn toàn tách biệt với dạy học phân hóa. Những yếu tố phân hoá luôn diễn ra trong dạy học đồng loạt. Trong giờ học, qua quan sát, theo dõi, hỏi đáp, kiểm tra, giáo viên nắm được tình trạng lĩnh hội 8
- 9 và trình độ phát triển của học sinh, thấy được sự chênh lệch về sức học giữa các em, từ đó có thể sử dụng các biện pháp phân hoá nhẹ như: + Lôi cuốn đông đảo học sinh có trình độ khác nhau vào quá trình dạy học bằng cách: giao nhiệm vụ phù hợp với từng đối tượng, chẳng hạn câu hỏi dễ, ở tầm nhận biết dành cho học sinh trung bình, yếu; câu hỏi khó, cần khả năng khái quát, tổng hợp dành cho học sinh khá, giỏi. Tận dụng những tri thức và kĩ năng riêng biệt của từng học sinh,… muốn đạt được điều này, dựa trên cơ sở những kiến thức và yêu cầu chung quy định trong chương trình, giáo viên cố gắng khai thác khả năng tiềm tàng của học sinh bằng cách đặt ra mức độ yêu cầu thích hợp với từng loại đối tượng thông qua việc thiết kế kế hoạch bài dạy cho phù hợp và tổ chức hợp lý các tiết dạy học phân hóa trên lớp. + Phân hoá việc giúp đỡ, kiểm tra và đánh giá học sinh. Học sinh yếu được hỗ trợ, giúp đỡ, gợi ý nhiều hơn học sinh giỏi. Kiểm tra, đánh giá học sinh cần bám sát những yêu cầu cơ bản và tính đến khả năng riêng của từng em. Giúp học sinh thấy được điểm mạnh, điểm yếu của mình, những sai sót và nguyên nhân, cách khắc phục những sai sót đó. Chú trọng sự tiến bộ của học sinh, động viên, khuyến khích các em vươn lên trong học tập. Như vậy, từ việc xử lý tình huống phân hóa đối tượng trong dạy học đồng loạt, bằng cách chuẩn bị những câu hỏi phù hợp với nhiều đối tượng để hỗ trợ gợi ý cho học sinh yếu nhiều hơn trong phần khai thác kiến thức của bài mới làm cho học sinh có năng lực nhận thức chậm có cơ hội nắm tốt hơn kiến thức bài mới - Tổ chức dạy phân hoá trên lớp. Trong quá trình dạy học, có thể thực hiện những tình huống phân hoá tạm thời, tổ chức cho học sinh hoạt động một cách phân hoá. Biện pháp này được áp dụng khi trình độ HS có sự sai khác lớn, có nguy cơ yêu cầu quá cao hoặc quá thấp nếu cứ dạy học đồng loạt. Giáo viên tổ chức những pha phân hoá trên lớp bằng cách giao cho học sinh những nhiệm vụ phân hoá - thường là những bài tập phân hoá, điều khiển quá trình giải những bài tập này một cách phân hoá và tạo điều kiện cho học sinh
- 10 tương tác với nhau. Sơ đồ dưới đây minh hoạ cách tổ chức những pha phân hoá trên lớp. Như vậy, những khả năng phân hoá biểu thị trong sơ đồ còn có thể được tổ hợp với nhau và như vậy chúng khá đa dạng. Chúng có thể được áp dụng ở tất cả các chức năng điều hành quá trình dạy học nhưng thuận lợi nhất là ở chức năng củng cố và chức năng đảm bảo trình độ xuất phát. - Ra bài tập phân hoá. Mục đích: Ra bài tập phân hoá nhằm giúp những học sinh khác nhau có thể tiến hành những hoạt động khác nhau phù hợp với trình độ khác nhau của họ. Cách thức: + Sử dụng những bài tập phân bậc: học sinh đồng thời thực hiện những hoạt động cùng nội dung nhưng trải qua hoặc ở những mức độ yêu cầu khác nhau. + Phân hoá về số lượng bài tập: để nắm được kiến thức hay đạt được một kỹ năng nào đó, những học sinh thuộc trình độ này có thể cần nhiều bài tập cùng loại hơn những học sinh thuộc trình độ kia. Học sinh nào còn thời gian thì làm thêm bài tập nâng cao. - Điều khiển phân hoá của giáo viên. + Phân hóa mức độ hoạt động độc lập của học sinh: khả năng và trình độ của từng học sinh là căn cứ để giáo viên định ra yêu cầu về mức độ độc lập của học sinh khi làm bài tập. Với học sinh này thì giáo viên hướng dẫn nhiều, với học sinh khác thì hướng dẫn ít hoặc không hướng dẫn. + Sự quan tâm cá biệt của giáo viên: động viên học sinh còn thiếu tự tin, lưu ý học sinh này thường tính toán nhầm lẫn, nhắc nhở học sinh kia đừng hấp tấp, chủ quan,… - Tác động qua lại giữa những người học. Trong giờ học, không chỉ có mối quan hệ thầy - trò mà còn có mối quan hệ trò - trò. Nếu học sinh được tạo điều kiện để trao đổi, học tập lẫn nhau sẽ kích thích được tính tích cực, chủ động của mỗi cá nhân, đồng thời hình thành và phát triển ở học sinh năng lực tổ chức, điều khiển, kĩ năng giao tiếp, hợp tác, giải quyết vấn đề,… 10
- 11 Các hình thức học tập tăng cường sự hợp tác giữa học sinh với nhau là thảo luận trong lớp, học theo cặp, học theo nhóm. Khi học sinh làm việc với nhau thì điểm mạnh của học sinh này sẽ giúp điều chỉnh nhận thức cho học sinh khác. Với học sinh giỏi, qua trao đổi, giúp đỡ bạn mà kiến thức càng thêm vững chắc. - Phân hoá bài tập về nhà. + Phân hoá về số lượng bài tập cùng loại phù hợp với từng loại đối tượng để cùng đạt một yêu cầu. + Phân hoá về nội dung bài tập để tránh đòi hỏi quá cao hoặc quá thấp đối với từng trình độ học sinh. + Phân hoá yêu cầu về mặt tính độc lập: Bài tập cho học sinh yếu kém chứa nhiều yếu tố dẫn dắt hơn bài tập cho học sinh khá, giỏi. + Ra riêng những bài tập nhằm đảm bảo trình độ xuất phát cho những học sinh yếu kém để chuẩn bị cho bài học sau. + Ra riêng những bài tập nâng cao cho học sinh giỏi. Biện pháp 3: Sử dụng linh hoạt nhiều kỹ thuật tổ chức hoạt động nhóm trong dạy học Toán. Trong quá trình dạy học, điểm tập trung là bản thân người học, tức là hoạt động dạy học cần dựa trên nhu cầu, hứng thú, thói quen và năng lực của người học mà trong một lớp học bao giờ cũng có đủ các nhóm đối tượng học sinh: giỏi, khá, trung bình, yếu (và có thể có đối tượng là học sinh khuyết tật học hòa nhập cộng đồng). Do đó nhu cầu, hứng thú, thói quen và năng lực của từng nhóm đối tượng học sinh là hoàn toàn khác nhau. Điều căn bản nhất là giáo viên tổ chức các hoạt động, tạo cơ hội và hướng dẫn các em tham gia tích cực, chủ động vào quá trình học tập, giúp các em thu nhận kiến thức kĩ năng một cách sâu sắc bằng chính nội lực của bản thân. Như vậy, khi đưa ra các hoạt động học tập làm việc nhóm đòi hỏi các yêu cầu, nhiệm vụ đối với mỗi nhóm đối tượng học sinh có mức độ khác nhau nhằm đáp ứng trình độ khác nhau của mỗi nhóm. Thông thường nên giao nhiệm vụ ở 3 mức: - Khó cho nhóm học sinh giỏi (nhóm 1). - Vừa phải cho nhóm học sinh khá, trung bình (nhóm2).
- 12 - Dễ cho nhóm học sinh yếu (nhóm 3). Hoặc: - Những yêu cầu đơn giản cho nhóm 2, nhóm 3. - Những yêu cầu phức tạp hơn cho nhóm 1. Khi kiểm tra, đánh giá giáo viên cần đòi hỏi cao ở nhóm đối tượng học sinh giỏi; đúng chuẩn đối với học sinh còn lại; nếu có nâng yêu cầu cũng chỉ nên ở mức khuyến khích học sinh. Việc đưa ra yêu cầu, tiếp nhận thông tin hay kiểm tra đánh giá học sinh, thái độ giáo viên cũng cần đúng mực: khen, tuyên dương khi các em nhóm 1 làm tốt; khuyến khích, động viên đối với nhóm 2 và đặc biệt là nhóm 3. Đặc biệt, khi nêu một câu hỏi, giao một bài tập có thể đối với học sinh khá, giỏi các em tự làm bài mà không cần hướng dẫn thêm nhưng đối với học sinh trung bình-yếu đừng cắt ngang khi các em ấp úng, giáo viên có thể gợi ý bằng một số câu hỏi nhỏ. - Hình thức dạy học theo nhóm gồm các bước + Bước 1: Hình thành các nhóm + Bước 2: Phân công nhiệm vụ (theo trình độ học sinh) + Bước 3: Các nhóm làm việc + Bước 4: Các nhóm trình bày kết quả thảo luận nhóm + Bước 5: Tổng hợp và kết luận Đối với phần khám phá thành kiến thức mới Chia theo nhóm trình độ (nhóm học sinh giỏi; nhóm học sinh trung bình; nhóm học sinh yếu kém) nếu có sự chênh lệch khá lớn giữa trình độ các nhóm. nhóm này làm việc với phiếu giao việc hoặc phiếu bài tập toán phù hợp với năng lực của từng đối tượng học sinh. Các bài tập khác nhau nhằm tác động đến từng đối tượng học sinh, giúp cho các em được học tập đúng với sức của mình. Lớp học sẽ trở nên sinh động, mọi học sinh đều có thể hoạt động một cách tích cực, tự giác theo sự tổ chức điều khiển của giáo viên. 12
- 13 Ví dụ về cách xây dựng một bài trong tiết hình thành kiến thức mới Ví dụ: Đoạn thẳng AB dài 2cm, đoạn thẳng CD dài gấp 3 lần đoạn thẳng AB. Hỏi đoạn thẳng CD dài bao nhiêu xăng-ti-mét. Giáo viên hướng dẫn cho học sinh hoạt động theo nhóm trước bằng các câu hỏi gợi mở, học sinh sẽ tự khám phá và đưa ra cách giải quyết theo hướng riêng của mình sau đó giáo viên mới mờ học sinh thực hiện trước lớp để tìm ra cách thực hiện hay và hợp lý nhất: - Bài cho biết gi? (Đoạn thẳng AB dài 2cm, đoạn thẳng CD dài gấp 3 lần đoạn thẳng AB) - Bài yêu cầu tìm gì? (đoạn thẳng CD dài bao nhiêu xăng-ti-mét.) - Bài này thuộc dạng toán nào? (gấp một số lên một số lần) - Nhắc lại các bước làm. + Tăng số lượng bài tập cùng thể loại và vừa mức độ ở từng dạng toán để các em hiểu sâu và nhớ lâu kiến thức. + Động viên, khích lệ thường xuyên và kịp thời: Giáo viên cần chú ý lắng nghe ý kiến của học sinh chưa hoàn thành với thái độ chăm chú và tôn trọng. Đồng thời, giáo viên cần chú ý tạo cơ hội cho những học sinh yếu được “tỏa sáng” và đánh giá cao khi các em có ý kiến hay. Chính sự động viên, khích lệ của giáo viên sẽ là nguồn động lực lớn thúc đẩy sự tiến bộ của các em. Đối với tiết luyện tập Giáo viên chia nhóm ngẫu nhiên, cử nhóm trưởng và phát phiếu học tập cho các nhóm. Trong phiếu học tập giáo viên chuẩn bị có các dạng bài tập khác nhau (có cả bài dễ và cả bài khó), các nhóm sẽ phân công từng thành viên của nhóm đều phải làm việc để hoàn thành những nhiệm vụ được giao. Sau khi từng thành viên của nhóm hoàn thành xong phần việc của mình cả nhóm tập trung lại và thống nhất bài làm của cả nhóm; giáo viên theo dõi, giúp đỡ các nhóm và giải đáp thắc mắc của các nhóm nếu có. Với hình thức dạy này giáo viên phải có phần quy định từ trước với các nhóm để những học sinh yếu hơn vẫn hoàn thành được các nhiệm vụ được giao (tức là giao bài dễ cho các bạn yếu hơn). Trong quá trình học
- 14 sinh thảo luận, giáo viên quan sát theo dõi sự nỗ lực làm việc của từng cá nhân. Giáo viên chỉ định ngẫu nhiên học sinh thay mặt nhóm lớn trình bày kết quả thảo luận và đặt câu hỏi kiểm tra sự hiểu bài của học sinh sao cho phù hợp với đối tượng. Ví dụ: Dạy bài. Luyện tập (SGK lớp 3 trang 30) Khi dạy bài này giáo viên cho học sinh này làm bài tập 1 để đảm bảo tính vừa sức cho học sinh. Hướng dẫn kỹ năng tìm hiểu đề bài: Giáo viên cần rèn cho các em thói quen đọc kỹ đầu bài để xác định yếu tố đã cho, yếu tố cần tìm và xác định đúng dạng toán. Đồng thời nhắc các em cần làm nháp trước để đảm bảo độ chính xác về kết quả. Học sinh làm xong trước có thể đọc tiếp yêu cầu của ý b để thành lập các phép tính nhân. Vận dụng dạy học phân hóa cũng giúp cho các em có kỹ năng làm việc độc lập và làm việc theo nhóm. Các em được tham gia tổ chức cho nhóm làm việc, được nhận xét, cùng nhau thống nhất kết quả làm việc của nhóm và nhận xét nhóm bạn đồng thời được nghe nhóm bạn nhận xét nhóm mình giúp HS có thêm tự tin, khẳng định mình góp phần nâng cao sự tham gia của trẻ trong cuộc sống hàng ngày. Biện pháp 4: Kết hợp nhiều hình thức kiểm tra môn Toán để phân loại đối tượng và nâng cao nhận thức cho học sinh theo nhóm năng lực. Phần kiểm tra đánh giá giúp giáo viên có được những nhận xét chính xác về mức độ nắm vững kiến thức, kỹ năng của môn Toán ở từng giai đoạn của quá trình dạy học. Từ đó có kế hoạch bổ sung, củng cố những kiến thức, kỹ năng chưa nắm vững hoặc chuẩn bị cho việc học tập ở các giai đoạn tiếp theo. Phần kiểm tra đánh giá giúp cho học sinh phải không ngừng cố gắng trong học tập, khuyến khích các em quyết tâm học tập để đạt kết quả cao hơn. Đối với phần kiểm tra đánh giá, sự chuẩn bị của giáo viên phải rất cẩn thận và có sự cân nhắc kỹ khi ra đề kiểm tra. Yêu cầu của đề kiểm tra phải đảm bảo kiến thức cơ bản ngoài ra còn một số kiến thức nâng cao đối với các em khá giỏi. Định kiểm tra nội dung kiến thức nào, giáo viên ra đề theo trình độ của học sinh. Đề kiểm tra bao gồm các bài từ dễ đến khó, yêu cầu cao hơn với các em khá, giỏi 14
- 15 và thấp hơn với các em trung bình và yếu kém. Học sinh lĩnh hội được tri thức trong quá trình học tập có vận dụng dạy học phân hóa sẽ dễ dàng thực hiện được tối đa những yêu cầu mà đề kiểm tra đưa ra. Nội dung kiểm tra phải đề cập được một cách toàn diện về việc lĩnh hội kiến thức và phương pháp nắm kiến thức, về kỹ năng sử dụng ngôn ngữ; về tinh thần thái độ học tập. Tiết kiểm tra đánh giá có nhiều hình thức kiểm tra như kiểm tra thường xuyên trong mỗi tiết học hoặc trong mỗi bài thực hành; kiểm tra khảo sát chất lượng một tiết cuối chương trình hoặc sau khi học xong một chủ đề trọn vẹn; kiểm tra trực tiếp từng học sinh cần làm thường xuyên thông qua các tiết học hoặc qua các buổi tiếp xúc riêng, hoặc thông qua các tiết ôn tập các dạng toán đã học vào giờ hướng dẫn học của buổi chiều. Có thể được tiến hành theo các cách sau: - Kiểm tra theo nhóm học sinh: Thường vận dụng trong các tiết thực hành. Ví dụ tổ chức trò chơi học tập về gấp một số lên một số lần. + Phát cho từng nhóm học sinh (nhóm hỗn hợp) một số phiếu học tập ghi sẵn các số lần khác nhau. + Giáo viên yêu cầu giơ số lần mà mình thích theo nhóm, sau đó giáo viên nói một số bất kì để học sinh thực hiện gấp số lần con số thầy giáo vừa nói theo phiếu số lần nhóm mình đã giơ + Học sinh trong nhóm viết nhanh vào bảng con sau đó đánh giá nhận xét kết quả của từng bạn (đánh giá chéo lẫn nhau). + Cuối cùng giáo viên kết luận. Hoặc có thể tổ chức trò chơi với yêu cầu cao hơn (với tư duy ngược lại) như sau: + Cho trước các mảnh giấy đã ghi các số và…. lần gấp lên để học sinh tự điền: giáo viên giao cho mỗi nhóm một số mảnh giấy khác nhau + Học sinh lấy ra một cách ngẫu nhiên theo yêu cầu của giáo viên.
- 16 + Yêu cầu học sinh đọc lên các kết quả của phiếu đó sau khi học sinh tự viết gấp lên bao nhiêu lần. + Học sinh trong nhóm nhận xét kết quả của từng bạn. + GV kết luận. - Kiểm tra từng cá nhân học sinh: Giáo viên chuẩn bị đề kiểm tra có các mức độ khó dễ khác nhau. Yêu cầu của đề kiểm tra là học sinh khá - giỏi phải hoàn thành tất cả các bài tập; học sinh trung bình và yếu - kém hoàn thành phần dễ hơn của đề. Việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên và liên tục theo từng nội dung kiến thức, từng thời gian học cụ thể (theo tuần, theo tháng). Từ đó, xây dựng đề kiểm tra để nâng bậc chất lượng đối với học sinh: từ nhóm 2 có thể vươn lên nhóm 1, từ nhóm 3 có thể vươn lên nhóm 2 giúp học sinh mạnh dạn, tự tin hơn vào chính năng lực học tập của mình. Việc kiểm tra đánh giá có ý nghĩa rất lớn, như vào cuối mỗi tuần học sẽ có những bài test kiến thức toán trong một tuần và giáo viên sẽ gửi bài test đó về cho gia đình nắm được, cũng như có ký xác nhận gửi lại giáo viên để lưu lại, đây cũng là căn cứ để đánh giá khả năng nhận thức, sự tiến bộ của học sinh trong việc đánh giá học sinh cũng là cơ sở để gia đình và nhà trường cùng nắm được nhằm phục vụ cho việc phối hợp giữa phụ huynh và nhà trường được thắt chặt hơn. Tóm lại. Hoạt động kiểm tra, đánh giá thường xuyên sẽ giúp giáo viên nắm được học sinh mình học đến đâu, khả năng tiếp thu đến tầm nào để giáo viên có những biện pháp hỗ trợ phù hợp, kịp thời. Phối hợp với gia đình trong việc đôn đốc, giáo dục con em tại nhà… Biện pháp 5: Tổ chức các ho ạt động tr ải nghi ệm toán h ọc cho h ọc sinh tham gia. Hoạt động trải nghiệm thực tiễn rất cần thiết cho việc thực hành luyện tập và vận dụng ở các môn học đặc biệt với môn học Toán. Học sinh được trải nghiệm, được bày tỏ quan điểm, ý tưởng, được đánh giá và lựa chọn ý tưởng hoạt động, được thể hiện, tự khẳng định bản thân. 16
- 17 Ví dụ: Sau khi thực hiện Bài Luyện tập chung (Sách giáo khoa Toán lớp 3- trang 90-Tiết 2) về kiến thức Diện tích hình chữ nhật. Diện tích hình vuông. Giáo viên sẽ tổ chức cho học sinh đi đo và tính diện tích một số khu vực ngoài vườn trường. Giáo viên phân công học sinh thực hiện theo nhóm tổ như sau: Tổ 1: Đo và tính diện tích vườn rau đầu hồi lớp 3D và lớp 4D. Tổ 2. Đo và tính diện tích khuôn viên cây xanh trước cửa phòng hội đồng. Tổ 3. Đo và tính diện tích sân tập thể dục. Sau khi hoạt động xong ngoài thực địa, giáo viên cho học sinh về lớp và thực hiện báo cáo trước lớp kết quả tổ mình vừa thực hiện được. Ví dụ 2: Khi học xong bài Bảng số liệu thống kê (Sách giáo khoa Toán lớp 3-trang 94-Tiết 2). Giáo viên sẽ giao bài tập theo nhóm cho học sinh tự tìm hiểu theo tổ của mình số lượng dân tộc Kinh, Tày, Nùng,… - Kiểm kê thư viện cho cô cán bộ thư viện số lượng truyện theo mã màu trên một giá sách (Giáo viên chia theo nhóm 4 người, mỗi nhóm kiểm kê một giá sách). STT Mã màu Số lượng 1 2 …. Như vậy, thông qua bài tập không những học sinh được luyện tập, mà học sinh còn được tự tìm hiểu bạn của mình là dân tộc gì? Tạo sự gắn kết giữa các bạn bè trong lớp, đối xử công bằng với tất cả các dân tộc với nhau, tạo sự đoàn kết, gắn bó trong tập thể. Sau giờ học, giáo viên giao bài tập về nhà có thể giao nhiều bài thống kê như: - Thống kê số vật nuôi trong gia đình theo phiếu sau
- 18 STT Tên vật nuôi Số lượng 1 2 ….. Như vậy, từ các hoạt động gắn với thực tế đã hình thành và phát triển cho học sinh những giá trị sống và các năng lực tư duy, toán học cần thiết. Hoạt động trải nghiệm có nội dung đa dạng và mang tính tích hợp, tổng hợp kiến thức, kỹ năng của nhiều môn học, nhiều lĩnh vực học tập và giáo dục như: giáo dục đạo đức, giáo dục trí tuệ, giáo dục kỹ năng sống, giáo dục giá trị sống, giáo dục văn hóa, nghệ thuật, thẩm mỹ, giáo dục thể chất, giáo dục lao động, giáo dục an toàn giao thông, phòng chống tai nạn thương tích, giáo dục môi trường, giáo dục phòng chống các tệ nạn xã hội. Biện pháp 6: Khuyến khích học sinh tự lựa chọn tham gia các câu lạc bộ mà em yêu thích. Nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của cá em học sinh đặc biệt là tạo một sân chơi bổ ích cho các em học sinh ham thích học các môn như: Toán (Violympic, Vioedu, Tiếng Anh (IOE, Edupia-Vì một Thái Nguyên giỏi Tiếng Anh), Tiếng Việt, văn nghệ, Dẫn chương trình song ngữ,…. Từ những câu lạc bộ trên đã phát hiện ra được rất nhiều em có năng khiếu để giúp học sinh phát triển theo năng lực. Đối với môn Toán năm nay, có thêm sân chơi mới Vioedu- Đấu trường Toán học đã thu hút được hầu hết các học sinh tham gia, mặc dù nhiều em học còn ở mức chưa được tốt nhưng cũng tham gia rất nhiệt tình bởi ở đây có hệ thống câu hỏi dành cho nhiều đối tượng học sinh,... nên đã thu hút, lôi cuốn được nhiều học sinh tham gia cũng như sự vào cuộc của các bậc phụ huynh. Phần Violympic Toán năm 2022-2023 phần tổ chức thi cấp huyện là tự nguyện đăng ký nhưng đây cũng vẫn là một sân chơi trí tuệ ý nghĩa nên học sinh của lớp 3B của tôi vẫn khuyến khích vào phần này để luyện tập và củng cố kiến thức. Ngoài các phần mềm có sẵn trên mạng Internet và các ứng dụng. Bản thân tôi cùng với đồng nghiệp đã cùng nhau xây dựng các Câu lạc bộ với mong muốn 18
- 19 sẽ thu hút các em học tốt và phát triển những môn là thế mạnh của bản thân mỗi học sinh. Như câu lạc bộ dẫn chương trình song ngữ, ngoài việc đào tạo, rèn cho các em những kỹ năng đứng trước đông người mà còn giúp các em phát triển thêm vốn từ, phục vụ cho việc giải toán bằng Tiếng Anh thuận lợi hơn,... Tại câu lạc bộ chúng tôi sẽ chuẩn bị các hệ thống bài tập ở các mức độ khác nhau phù hợp với sự phân hóa theo đối tượng học sinh khác nhau, hoặc hệ thống các câu hỏi để hệ thống lại các kiến thức đã học để giúp các em tự lựa chọn mức độ và thử sức bản thân mình, khi các em tự hoàn thành bài tập của mình nếu không nhớ kiến thức các em sẽ trao đổi với bạn và thầy cô để giải quyết thắc mắc. Từ việc các em tự trao đổi diễn đạt vấn đề mình đang khúc mắc đó sẽ khiến các em ham thích học môn học mình thích hơn,… Ngoài ra các em còn chia sẻ thêm những kiến thức của bản thân, học được thêm kinh nghiệm, kiến thức từ các bạn trong câu lạc bộ mình tham gia. Như vậy, từ việc tham gia các Câu lạc bộ mình yêu thích các em đã chủ động hơn trong học tập như tự tìm thêm các dạng bài tập trong các tài liệu khác nhau, chủ động hỏi, trao đổi với bạn bè và thầy cô nên khả năng diễn đạt, chia sẻ lưu loát hơn, có sức thuyết phục hơn, tích cực giúp đỡ các bạn học yếu hơn ở trong lớp như hướng dẫn các bạn trong đôi bạn cùng tiến, nhóm bạn cùng tiến trong lớp mình cách làm bài tập và các bạn cũng dễ hiểu hơn. Và tôi thấy các em tham gia câu lạc bộ có tiến bộ về nhiều mặt như kĩ năng chia sẻ tốt hơn, giúp đỡ được các bạn học yếu tốt hơn. Biện pháp 7: Sử dụng các đồ dùng dạy trực quan và áp dụng công nghệ thông tin vào việc dạy học toán Mục đích của biện pháp này giúp các em hào hứng, chủ động và sáng tạo trong giờ học. Một trong những định hướng đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực là ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học, điển hình là sử dụng giáo án điện tử. Ngày nay, giáo án điện tử được sử dụng rất phổ biến bởi những tiện ích mà nó đem lại nhưng làm thế nào để mỗi giáo án điện tử có chất lượng, thực sự phát huy được hiệu quả, góp phần tạo hứng thú cho học sinh trong mỗi giờ học mà không gây sự nhàm chán thì cần sự sáng tạo, sự đầu tư nghiêm
- 20 túc của giáo viên. Bởi vậy, tôi luôn đầu tư thời gian, công sức, trí tuệ cho mỗi bài soạn, sử dụng linh hoạt và phong phú các hiệu ứng. Hoặc khi tóm tắt bài toán có thể dùng hình ảnh phù hợp để minh họa cho đề bài. Khi tổ chức trò chơi có thể thêm âm thanh như tiếng chuông, tiếng vỗ tay…để thu hút sự chú ý của học sinh. Ngoài ra, tôi thường xuyên vào các trang violet, kinhnghiemdayhoc.net. Hành trang số… để tham khảo cách thiết kế giáo án điện tử của đồng nghiệp. Bên cạnh đó, tôi còn ứng dụng CNTT vào việc hỗ trợ cho các em còn hạn chế về nhận thức. Tôi lập nhóm học trực tuyến để bổ trợ kiến thức toán cho các em theo hình thức nhẹ nhàng, học mà chơi, chơi mà học. Đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay, với những áp lực từ công việc, từ cuộc sống đã khiến nhiều phụ huynh rất ít thời gian ở bên con, nhiều đứa trẻ có thể bị rơi vào trạng thái cô đơn trong chính ngôi nhà của mình nên việc tạo sân chơi lành mạnh cho trẻ là vô cùng cần thiết, trong đó có một phần trách nhiệm của các thầy cô. Bởi vậy, tôi thường tạo những sân chơi cho các em thông qua việc ứng dụng công nghệ thông tin và đặc biệt là những trò chơi toán học. Việc ứng dụng CNTT không chỉ góp phần tạo được hứng thú cho học sinh mà còn làm cho tình cảm giữa cô với trò, trò với trò ngày thêm gắn kết. Không chỉ những thời gian trên lớp mà ngay cả khi ở nhà tôi đã thực sự trở thành người người mẹ hiền của các em học sinh. Ngoài ra còn sử dựng những đồ dùng trực quan như thẻ số, que thẻ nhân chia, bộ ong tìm hoa, thỏ tìm nhà, hoa nam châm gắn bảng sử dụng trong các bài hình thành phép nhân 3. Như vậy, thông qua việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy vừa tiết kiệm được thời gian chuẩn bị đồ dùng đi in, làm tranh, sưu tầm được nhiều tư liệu thực tế nhanh chóng, ngoài ra việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy còn linh hoạt với các trò chơi khởi động, khám phá; thực hành, luyện tập; củng cố; vận dụng,… Giáo viên có nhiều thời gian hơn để quan tâm tới các đối tượng học sinh. Biện pháp 8: Nêu gương, khen thưởng kịp thời. Được người khác khen ngợi điều đó làm con người ta thích thú. Ở lứa tuổi tiểu học rất thích được khen cho nên mỗi khi các em có thành tích nhỏ trong học 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Cách hướng dẫn giải toán tìm X ở bậc Tiểu học
30 p | 2237 | 370
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý sự thay đổi trường Tiểu học Krông Ana
18 p | 434 | 67
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp dạy giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 2
21 p | 216 | 30
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hiệu quả hoạt động trải nghiệm ở trường tiểu học
17 p | 187 | 20
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hoạt động của thư viện trường học nhằm xây dựng thói quen đọc sách cho học sinh trường Tiểu học Ngọc Lâm
18 p | 163 | 17
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Tập đọc
15 p | 148 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Thiết kế một số trò chơi học tập trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1
17 p | 174 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 trong môn Tiếng Việt
49 p | 122 | 15
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nhằm nâng cao kĩ năng đọc cho học sinh lớp 5
20 p | 167 | 13
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao chất lượng sử dụng sơ đồ đoạn thẳng trong giải toán có lời văn
27 p | 126 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao chất lượng học toán cho học sinh lớp 1A2, lớp 1a4, lớp 1A6 trường Tiểu học Thị Trấn
33 p | 163 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Kinh nghiệm rèn chữ viết cho học sinh lớp 3 ở trường tiểu học Mỹ Thuỷ
12 p | 101 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Làm thế nào để đẩy mạnh hoạt động thư viện
23 p | 133 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Phương pháp phát triển các bài hát nhằm mục đích gây hứng thú học Tiếng Anh cho học sinh Tiểu học
17 p | 127 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Xây dựng đội ngũ, hoạt động phù hợp mang lại hiệu quả và thiết thực trong dạy và học ở Trường tiểu học An Lộc A
14 p | 55 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt bài thể dục phát triển chung
24 p | 188 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Giáo dục thể chất theo định hướng tích hợp các môn học nhằm phát huy năng lực học sinh tiểu học
23 p | 145 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Hướng dẫn giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1
27 p | 65 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn