intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Các hiệp định thương mại tự do và vấn đề tận dụng ưu đãi thuế quan của doanh nghiệp Việt Nam

Chia sẻ: ViSatori ViSatori | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

108
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết nghiên cứu thực trạng tận dụng ưu đãi thuế quan từ các Hiệp định thương mại tự do (FTA) của doanh nghiệp Việt Nam, hệ thống hóa, phân tích, tổng hợp các nguyên nhân khiến doanh nghiệp chưa thể tận dụng các ưu đãi thuế từ các FTA để từ đó đưa ra các gợi ý giúp nâng cao cơ hội sử dụng các Hiệp định thương mại tự do để tiếp cận thị trường thế giới và làm gia tăng sức cạnh tranh của hàng hóa Việt.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Các hiệp định thương mại tự do và vấn đề tận dụng ưu đãi thuế quan của doanh nghiệp Việt Nam

<br /> <br /> CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH- TIỀN TỆ <br /> <br /> Các hiệp định thương mại tự do và<br /> vấn đề tận dụng ưu đãi thuế quan của<br /> doanh nghiệp Việt Nam<br /> Nguyễn Hồng Hạnh<br /> Ngày nhận: 12/03/2018 <br /> <br /> Ngày nhận bản sửa: 07/04/2018 <br /> <br /> Ngày duyệt đăng: 18/06/2018<br /> <br /> Trong các năm qua, Chính phủ Việt Nam đã nỗ lực tham gia vào các<br /> hiệp định thương mại tự do (FTA) đa phương và song phương với<br /> mục đích gia tăng sức cạnh tranh cho hàng hóa Việt Nam, đồng thời<br /> tạo cơ hội đưa sản phẩm nước nhà đến nhiều thị trường ngoài nước<br /> hơn nữa. Tuy nhiên, thực tế cho thấy mức độ tối ưu hóa lợi ích thuế<br /> quan từ các FTA của các doanh nghiệp Việt lại chưa tương xứng<br /> với kỳ vọng được đặt ra. Bài viết nghiên cứu thực trạng tận dụng ưu<br /> đãi thuế quan từ các Hiệp định thương mại tự do (FTA) của doanh<br /> nghiệp Việt Nam, hệ thống hóa, phân tích, tổng hợp các nguyên nhân<br /> khiến doanh nghiệp chưa thể tận dụng các ưu đãi thuế từ các FTA để<br /> từ đó đưa ra các gợi ý giúp nâng cao cơ hội sử dụng các Hiệp định<br /> thương mại tự do để tiếp cận thị trường thế giới và làm gia tăng sức<br /> cạnh tranh của hàng hóa Việt. Các gợi ý bao gồm (i) doanh nghiệp,<br /> hiệp hội ngành và các cơ quan chức năng cần thiết lập sự hợp tác<br /> chặt chẽ hơn nhằm phổ biến, hỗ trợ, hướng dẫn doanh nghiệp các<br /> quy định trong FTA và những vấn đề liên quan đến tối ưu hóa lợi<br /> ích thuế quan từ FTA; (ii) doanh nghiệp cần tích cực, chủ động hơn<br /> trong việc tìm kiếm, cập nhật thông tin, kiến thức về FTA cũng như<br /> các ưu đãi được hưởng để sử dụng hiệu quả hơn; (iii) doanh nghiệp<br /> nên áp dụng những chiến lược kinh doanh phù hợp hơn để nâng cao<br /> khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn về quy tắc xuất xứ của từng FTA;<br /> (iv) cần có kế hoạch dài hạn phát triển các khu vực sản xuất nguyên<br /> phụ liệu trong nước nhằm đảm bảo khả năng được hưởng ưu đãi thuế<br /> quan từ các FTA trong tương lai của DN Việt Nam (đặc biệt là DN<br /> phụ thuộc nhiều vào nguyên phụ liệu nhập khẩu).<br /> Từ khóa: FTA, quy tắc xuất xứ, tận dụng ưu đãi thuế quan<br /> <br /> © Học viện Ngân hàng<br /> ISSN 1859 - 011X<br /> <br /> 1<br /> <br /> Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng<br /> Số 193- Tháng 6. 2018<br /> <br /> CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ <br /> <br /> 1. Đặt vấn đề<br /> rong những<br /> năm gần đây, đã<br /> có nhiều FTA<br /> song phương<br /> và đa phương<br /> được Chính phủ Việt Nam<br /> đàm phán và ký kết với kỳ<br /> vọng tạo điều kiện và cơ hội<br /> mới cho doanh nghiệp (DN)<br /> Việt tiếp cận và mở rộng thị<br /> trường quốc tế. Ví dụ như<br /> FTA Việt Nam- Hàn Quốc<br /> với việc Chính phủ Hàn Quốc<br /> cam kết tự do hóa đến 97,2%<br /> giá trị nhập khẩu, chiếm<br /> 95,4% số dòng thuế, đặc biệt<br /> trong đó có nhiều nhóm hàng<br /> nông, thủy sản là chủ lực<br /> xuất khẩu của Việt Nam như<br /> tôm, cua, cá, hoa quả nhiệt<br /> đới, và hàng công nghiệp như<br /> dệt may, đồ gỗ, sản phẩm cơ<br /> khí… Hay FTA giữa Việt<br /> Nam và Liên minh kinh tế<br /> Á- Âu (VN- EAEU FTA)<br /> gồm Nga, Armenia, Belarus,<br /> Kazakhstan và Kyrgyzstan<br /> cũng đã tạo thêm nhiều cơ hội<br /> xuất khẩu quan trọng đối với<br /> các nhóm hàng mà DN Việt<br /> Nam có thế mạnh như nông<br /> sản và hàng công nghiệp. Về<br /> tổng thể, khoảng 90% số dòng<br /> thuế đã được hai bên cam kết<br /> cắt giảm, tương đương vào<br /> khoảng trên 90% kim ngạch<br /> thương mại song phương.<br /> Ngoài ra, FTA Việt Nam- EU<br /> (EVFTA) đã tuyên bố kết<br /> thúc hoàn toàn đàm phán và<br /> các bên dự kiến sẽ sớm hoàn<br /> thành việc ký kết trong thời<br /> gian tới. Ngay khi hiệp định<br /> này có hiệu lực, 27 quốc gia<br /> thành viên EU sẽ mở cửa thị<br /> trường đối với hàng hóa Việt<br /> <br /> 2<br /> <br /> Số 193- Tháng 6. 2018<br /> <br /> Nam bằng việc xóa bỏ thuế<br /> nhập khẩu đối với khoảng<br /> 85,6% số dòng thuế, tương<br /> đương 70,3% kim ngạch xuất<br /> khẩu của Việt Nam sang EU<br /> đối với các mặt hàng như dệt<br /> may, giày dép, chế biến thực<br /> phẩm… Một số chuyên gia<br /> kinh tế đã đưa ra nhận định<br /> rằng EVFTA sau khi được ký<br /> kết sẽ giúp tăng xuất khẩu của<br /> Việt Nam sang EU từ 30-40%.<br /> Nếu việc đàm phán và ký kết<br /> thành công FTA giống như<br /> mở ra những cánh cửa, bước<br /> vào năm 2018, Chính phủ và<br /> DN Việt Nam đã mở được<br /> cánh cửa giao thương với trên<br /> 50 thị trường đối tác, đem lại<br /> vô số cơ hội cho các DN khai<br /> thác và tận dụng.<br /> Tuy nhiên, trên thực tế, thật<br /> đáng tiếc khi nhiều DN Việt<br /> chưa tận dụng mức ưu đãi<br /> thuế quan lý tưởng của các<br /> FTA, thậm chí bỏ qua, trong<br /> quá trình tiếp cận thị trường<br /> mới và mở rộng thị trường<br /> đang có. Cụ thể, hàng hóa<br /> xuất nhập khẩu muốn hưởng<br /> mức thuế suất ưu đãi (thường<br /> trong khoảng 0-5%) của FTA<br /> nào thì bắt buộc phải đáp ứng<br /> quy tắc xuất xứ được thiết kế<br /> riêng cho FTA đó. Chỉ khi<br /> áp dụng đúng, chính xác quy<br /> tắc xuất xứ, nhà sản xuất,<br /> xuất khẩu mới có được giấy<br /> chứng nhận xuất xứ (C/O) ưu<br /> đãi để được hưởng thuế quan<br /> ưu đãi khi xuất khẩu tới các<br /> nước thành viên FTA. Nói<br /> cách khác, tận dụng ưu đãi<br /> thuế quan đối với DN chính là<br /> làm sao chứng minh hàng hóa<br /> xuất khẩu đã đáp ứng được bộ<br /> quy tắc xuất xứ để lấy được<br /> C/O ưu đãi giúp cho lô hàng<br /> <br /> hưởng mức thuế suất có lợi<br /> khi nhập khẩu vào thị trường<br /> đối tác; từ đó, tạo lợi thế cạnh<br /> tranh cho hàng hóa Việt. C/O<br /> ưu đãi có thể được ví như<br /> “cuốn hộ chiếu” của hàng<br /> hóa xuất nhập khẩu, là căn cứ<br /> pháp lý quan trọng nhất trong<br /> quá trình xem xét cho hưởng<br /> ưu đãi thuế quan FTA của cơ<br /> quan hải quan nước thành viên<br /> nhập khẩu. Thế nhưng, số liệu<br /> của Bộ Công thương về tỷ lệ<br /> tận dụng các ưu đãi thuế quan<br /> theo các hiệp định FTA đối<br /> với hàng xuất khẩu đã chỉ ra<br /> rằng, sau nhiều năm, tỷ lệ tận<br /> dụng này dừng ở mức thấp,<br /> trung bình khoảng 35%. Điều<br /> này có nghĩa số hàng hóa còn<br /> lại mặc dù có xuất xứ từ Việt<br /> Nam nhưng khi được xuất<br /> sang thị trường đối tác có ký<br /> kết FTA song phương hoặc<br /> đa phương với Việt Nam vẫn<br /> phải chịu mức thuế suất thông<br /> thường hoặc mức thuế đãi ngộ<br /> tối huệ quốc (MFN) cao hơn<br /> nhiều so với mức thuế FTA,<br /> và vì vậy, gặp phải bất lợi khi<br /> cạnh tranh với những hàng<br /> hóa nội địa hoặc có xuất xứ từ<br /> các quốc gia khác. Ví dụ, một<br /> chiếc áo khoác có mũ sẽ chịu<br /> thuế suất nhập khẩu thông<br /> thường là 45% nhưng thuế<br /> suất nhập khẩu WTO (thuế<br /> suất MFN) là 30%; nếu chiếc<br /> áo này có thể đáp ứng các yêu<br /> cầu để hưởng ưu đãi FTA thì<br /> FTA ASEAN- New Zealand<br /> thuế suất chỉ ở mức 10%, ở thị<br /> trường Liên minh kinh tế ÁÂu thuế suất mặt hàng này là<br /> 0% (Thùy Dương, 2017).<br /> Như vậy, vấn đề tối ưu hóa<br /> lợi ích có được từ ưu đãi thuế<br /> quan trong các FTA đối với<br /> <br /> Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng<br /> <br /> CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ <br /> <br /> các DN Việt vẫn luôn là chủ<br /> đề cần được thảo luận và<br /> tìm ra giải pháp để những nỗ<br /> lực đàm phán của Chính phủ<br /> nhằm tạo điều kiện thuận lợi<br /> hóa thương mại cho DN Việt<br /> thực sự mang lại lợi ích cho<br /> đối tượng được hướng đến.<br /> 2. Thực trạng tận dụng ưu<br /> đãi thuế quan từ các FTA<br /> của doanh nghiệp Việt Nam<br /> Tính đến những tháng cuối<br /> năm 2017, Việt Nam đã “có<br /> được” số FTA đáng kể lên tới<br /> 16 hiệp định. Nhưng đằng sau<br /> con số ấn tượng này, thực tế<br /> DN Việt đã tối ưu hóa lợi ích<br /> thuế quan tới đâu sau khi các<br /> FTA này được ký kết và có<br /> hiệu lực? Có thể điểm qua tỷ<br /> lệ tận dụng ưu đãi thuế quan<br /> từ một số FTA như sau.<br /> Trong các FTA mà Việt Nam<br /> đang thực hiện, hàng hóa xuất<br /> khẩu hưởng ưu đãi thuế quan<br /> từ FTA giữa Việt Nam và Chi<br /> Lê (VCFTA) có tỷ lệ tận dụng<br /> ưu đãi cao nhất năm 2016,<br /> đạt mức 64%. Tuy nhiên, đây<br /> là con số đáng mơ ước của<br /> nhiều FTA mà Việt Nam là<br /> thành viên hoặc là đối tác. Ví<br /> dụ như, tỷ lệ hàng hóa XNK<br /> được hưởng ưu đãi thuế quan<br /> từ FTA ASEAN- Trung Quốc<br /> (ACFTA) chỉ đạt 31% và là<br /> một trong những FTA có tỷ lệ<br /> tận dụng lợi ích thấp (Trung<br /> tâm WTO, 2017).<br /> Đối với Hiệp định Đối tác<br /> kinh tế Việt Nam- Nhật Bản<br /> (VJEPA), các DN Việt cũng<br /> chưa thể tận dụng nhiều ưu<br /> đãi. Cụ thể, chỉ khoảng 1/6<br /> trong số 29,3 tỷ USD tổng<br /> kim ngạch xuất khẩu tới Nhật<br /> <br /> Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng<br /> <br /> Bản, tương đương 5,1 tỷ USD<br /> năm 2016 được cấp C/O mẫu<br /> VJ (Hải Minh, 2017). Trong<br /> công bố của Cục Xuất nhập<br /> khẩu (Bộ Công thương) năm<br /> 2016, tỷ lệ tận dụng ưu đãi<br /> từ VJEPA và Hiệp định Đối<br /> tác kinh tế toàn diện ASEANNhật Bản (AJCEP) của DN<br /> Việt Nam mới đạt khoảng<br /> 35% (Phan Trang, 2017).<br /> Từ khi có hiệu lực vào tháng<br /> 10/2016, bên cạnh những<br /> dấu hiệu tăng trưởng tích cực<br /> trong kim ngạch xuất khẩu<br /> sang khu vực liên minh kinh<br /> tế Á- Âu, tỷ lệ tận dụng C/O<br /> để được hưởng ưu đãi của<br /> FTA Việt Nam- EAEU tính<br /> đến cuối tháng 7/2017 mới<br /> chỉ đạt khoảng 20%. Các<br /> mặt hàng có tỷ lệ tận dụng<br /> C/O mẫu EAV cao để xuất<br /> khẩu sang EAEU bao gồm:<br /> giày dép (54,3%), rau quả<br /> (59,2%), thủy sản (69,1%),<br /> gạo (69,3%), hạt tiêu (75,5%)<br /> và dệt may (76,1%) (Lê Thúy,<br /> 2017). So với mức tận dụng<br /> ưu đãi từ các FTA khác mà<br /> Việt Nam đang thực hiện, tỷ<br /> lệ này có thể nói là khá khiêm<br /> tốn.<br /> Hiệp định AANZFTA có vai<br /> trò rất quan trọng trong việc<br /> thúc đẩy quan hệ kinh tế,<br /> thương mại và đầu tư giữa<br /> ASEAN và Australia, New<br /> ZeaLand. Hai quốc gia thuộc<br /> châu Đại Dương này đều là<br /> thị trường xuất khẩu tiềm<br /> năng cho nhiều mặt hàng thế<br /> mạnh của DN Việt Nam như<br /> nông sản, thủy sản, cà phê, hạt<br /> điều, máy vi tính, điện thoại,<br /> sản phẩm điện tử, dệt may,<br /> giày dép... Quan trọng hơn,<br /> thuế quan phần lớn những mặt<br /> <br /> hàng này đều được cắt giảm<br /> về 0%. Từ năm 2014-2016,<br /> tỉ trọng hàng xuất khẩu của<br /> Việt Nam vào Australia trung<br /> bình đạt khoảng 18% tổng<br /> kim ngạch xuất khẩu từ các<br /> nước trong khối ASEAN. Tuy<br /> nhiên, chỉ 21,4% lượng hàng<br /> hóa nhập khẩu vào Australia<br /> từ Việt Nam có thể tận dụng<br /> được ưu đãi thuế quan từ Hiệp<br /> định AANZFTA (Lê Anh,<br /> 2017).<br /> FTA Việt Nam- Hàn Quốc<br /> (VKFTA) và FTA ASEANHàn Quốc (AKFTA) là những<br /> hiệp định có mức cắt, giảm<br /> sâu về thuế quan đối với nhiều<br /> nhóm hàng DN Việt có thế<br /> mạnh xuất khẩu. Tuy nhiên,<br /> cho đến nay, DN Việt Nam<br /> vẫn chưa sử dụng được hết<br /> những ưu đãi từ những FTA<br /> này. Theo Anh Hoa (2017),<br /> tỷ lệ doanh nghiệp Việt Nam<br /> xuất khẩu sang Hàn Quốc sử<br /> dụng C/O để hưởng ưu đãi từ<br /> VKFTA chỉ ở mức 15% và từ<br /> AKFTA là 40% .<br /> Đối với hàng hóa xuất sang<br /> các nước thành viên ASEAN,<br /> để được hưởng ưu đãi thuế<br /> quan, DN Việt Nam phải<br /> có giấy chứng nhận xuất xứ<br /> ASEAN mẫu D (C/O mẫu D).<br /> Hiện tỷ lệ sử dụng C/O mẫu<br /> D dao động trong khoảng từ<br /> 30-50%, tùy từng nước và<br /> từng mặt hàng. Ví dụ, khi xuất<br /> sang thị trường Thái Lan, tỷ<br /> lệ tận dụng là rất cao, đạt trên<br /> 90% đối với các mặt hàng như<br /> cà phê, giày dép, hạt điều, gỗ<br /> và sản phẩm gỗ. Trong khi đó,<br /> máy móc thiết bị, dụng cụ chỉ<br /> đạt tỷ lệ tận dụng dưới 30%.<br /> Còn với sản phẩm dệt may, tỷ<br /> lệ này là dưới 40% (Lê Anh,<br /> <br /> Số 193- Tháng 6. 2018<br /> <br /> 3<br /> <br /> CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ <br /> Hình 1. Tỷ lệ tận dụng C/O ưu đãi theo các Hiệp định thương mại của Việt Nam qua các năm<br /> <br /> *Chưa có số liệu giai đoạn 2012- 2014<br /> <br /> 2017).<br /> Đối với FTA Việt NamLào và FTA Việt NamCampuchia, tỷ lệ tận dụng<br /> là rất thấp, lần lượt là 10%<br /> và 0,03% (Trung tâm WTO,<br /> 2017).<br /> 3. Nguyên nhân của hạn chế<br /> trong tỷ lệ tận dụng ưu đãi<br /> thuế quan của DN Việt Nam<br /> 3.1. Thiếu thông tin và sự hỗ<br /> trợ cần thiết<br /> Một trong những nguyên nhân<br /> dẫn đến việc DN Việt tận<br /> dụng chưa hiệu quả ưu đãi<br /> thuế quan trong các FTA là<br /> việc DN chưa được cung cấp<br /> đầy đủ thông tin và những hỗ<br /> trợ cần thiết trong quá trình<br /> tìm hiểu cũng như thực hiện<br /> <br /> 4<br /> <br /> Số 193- Tháng 6. 2018<br /> <br /> các nội dung trong các Hiệp<br /> định.<br /> Trước hết, không thể phủ<br /> nhận những nỗ lực của các<br /> cơ quan chức năng, tổ chức<br /> chính phủ và phi chính phủ<br /> trong việc cung cấp thông tin<br /> và hỗ trợ DN tận dụng các ưu<br /> đãi từ FTA trong thời gian<br /> qua. Tuy nhiên, theo Tiến sỹ<br /> Đậu Anh Tuấn (2016), những<br /> thông tin về các FTA và hội<br /> nhập mà DN cần biết vẫn<br /> thiếu bởi các nguyên nhân<br /> như: (i) Toàn văn các cam<br /> kết FTA giữa Việt Nam và<br /> các đối tác hay FTA mà Việt<br /> Nam là thành viên dù đã được<br /> đăng tải trên website của các<br /> cơ quan bộ, ngành nhưng<br /> nội dung quá phức tạp, quá<br /> hàn lâm với các DN; (ii) Tuy<br /> hàng trăm các hội thảo, đào<br /> <br /> Nguồn: Trung tâm WTO và Hội nhập<br /> <br /> tạo được tổ chức cùng nhiều<br /> bài báo, chương trình truyền<br /> hình, ấn phẩm phát hành rộng<br /> rãi trên khắp cả nước… nhằm<br /> tuyên truyền, phổ biến tới DN<br /> những cam kết trong các FTA<br /> nhưng thông tin cung cấp tại<br /> các khóa đào tạo, hội thảo,<br /> các phương tiện thông tin đại<br /> chúng còn giản đơn, sơ sài,<br /> chưa cụ thể vào từng lĩnh vực,<br /> khía cạnh mà DN quan tâm.<br /> Hiện nay, các DN cũng gần<br /> như không thể tìm được một<br /> đội ngũ luật sư tư vấn chuyên<br /> nghiệp về nội dung các FTA,<br /> nên họ thường không biết phải<br /> xử lý các vấn đề kỹ thuật phức<br /> tạp như quy tắc xuất xứ như<br /> thế nào và trong nhiều trường<br /> hợp phải bỏ qua những ưu<br /> đãi thuế quan đáng lẽ được<br /> hưởng. Ngoài ra, nếu ở nhiều<br /> <br /> Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng<br /> <br /> CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ <br /> <br /> nước, các hiệp hội ngành sẽ<br /> là những yếu tố quan trọng<br /> và then chốt giúp phổ biến<br /> và diễn giải các thông tin<br /> dạng này cho DN thì ở Việt<br /> Nam chức năng này đang<br /> được những chuyên gia của<br /> Bộ Công thương đảm nhiệm.<br /> Tuy nhiên, nguồn lực của Bộ<br /> Công thương là có hạn, nên<br /> số lượng DN thực sự được<br /> phổ biến, được hiểu đúng và<br /> chính xác về các quy tắc kỹ<br /> thuật phức tạp, và vận dụng<br /> phù hợp cho sản phẩm của<br /> mình nhằm đạt được mục đích<br /> hưởng ưu đãi thuế quan từ các<br /> FTA là không nhiều.<br /> 3.2. Thiếu kiến thức, kinh<br /> nghiệm và chiến lược kinh<br /> doanh hợp lý<br /> Để được hưởng ưu đãi thuế<br /> quan, DN cần chứng minh<br /> hàng hóa của mình đáp ứng<br /> các quy tắc xuất xứ trong<br /> FTA mà DN đang xin hưởng.<br /> Tuy nhiên, phần lớn các DN<br /> chưa hiểu rõ và chưa có khả<br /> năng vận dụng linh hoạt các<br /> quy tắc xuất xứ. Ví dụ, theo<br /> quy tắc xuất xứ Hiệp định<br /> thương mại hàng hóa ASEAN<br /> (ATIGA), hàng hóa áp dụng<br /> tiêu chí xuất xứ chuyển đổi<br /> mã số HS (CTC) nhưng không<br /> đạt được sự chuyển đổi mã<br /> số HS thì vẫn được coi là có<br /> xuất xứ nếu giá trị của tất cả<br /> các nguyên vật liệu không có<br /> xuất xứ dùng để sản xuất ra<br /> sản phẩm đó không vượt quá<br /> 10% của tổng giá trị hàng hoá<br /> đó tính theo giá FOB. Ngưỡng<br /> 10% được gọi là ngưỡng De<br /> minimis. Như vậy, nếu hàng<br /> hóa xuất khẩu của DN không<br /> <br /> Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng<br /> <br /> thể áp dụng tiêu chí CTC thì<br /> DN có thể xem xét có thỏa<br /> mãn ngưỡng De minimis hay<br /> không khi xin C/O ưu đãi. Thế<br /> nhưng, theo chia sẻ từ chuyên<br /> gia của Bộ Công thương trong<br /> nhiều hội thảo, một lượng lớn<br /> DN Việt Nam vì không hiểu<br /> nên không áp dụng được quy<br /> tắc De minimis và bỏ qua ưu<br /> đãi thuế quan một cách đáng<br /> tiếc.<br /> Ngoài ra, trong khi làm<br /> thủ tục xin C/O ưu đãi, DN<br /> do thiếu kiến thức và kinh<br /> nghiệm nên trong nhiều<br /> trường hợp không được cơ<br /> quan hải quan xét hưởng thuế<br /> suất ưu đãi. Đó là câu chuyện<br /> một DN làm C/O cho sản<br /> phẩm “vôi sống” với mã HS<br /> là 25, nhưng DN này ghi tiếng<br /> Việt của hàng hóa lại không<br /> bỏ dấu nên C/O được cấp cho<br /> sản phẩm “voi sống” theo mã<br /> HS 01 là động vật sống. Kết<br /> quả là, hàng “vôi sống” xuất<br /> sang Malaysia bị từ chối ưu<br /> đãi thuế quan. Nhìn chung,<br /> khi làm thủ tục xin hưởng ưu<br /> đãi, DN thường gặp vấn đề<br /> với mã HS, ngôn ngữ khai<br /> báo, mẫu chữ ký và con dấu…<br /> Trong một hồ sơ C/O mà màu<br /> mực con dấu khác nhau cũng<br /> có khả năng bị cơ quan hải<br /> quan nước khác từ chối. Đặc<br /> biệt, hải quan một số quốc gia<br /> luôn tìm mọi cách để bác C/O<br /> ưu đãi, áp thuế suất cao hơn<br /> cho hàng hóa nhập khẩu vào<br /> đất nước họ. Thư đề nghị xác<br /> minh lại xuất xứ của hải quan<br /> những nước này được viết với<br /> văn phong của một bức thư từ<br /> chối. Vì thế, thông thường DN<br /> Việt Nam không tỉnh táo, bản<br /> lĩnh và có kinh nghiệm đấu<br /> <br /> tranh thì sẽ dễ dàng từ bỏ các<br /> ưu đãi thuế quan.<br /> Chiến lược kinh doanh thiếu<br /> bài bản và không phù hợp<br /> cũng là lý do khiến DN không<br /> thể chủ động trong việc xin<br /> C/O ưu đãi. Chẳng hạn, DN<br /> Việt Nam nhập khẩu hàng<br /> hóa, nguyên phụ liệu từ một<br /> nước thành viên ASEAN sẽ<br /> có C/O mẫu D. Tại thời điểm<br /> nhập DN chưa tìm được đầu<br /> ra, chưa biết xuất đi đâu. Sau<br /> đó khi DN tìm được đối tác và<br /> muốn xuất hàng sang Trung<br /> Quốc thì không thể được<br /> hưởng ưu đãi vì khi đó phải<br /> xuất trình C/O mẫu E.<br /> 3.3. Sự phức tạp và ngặt<br /> nghèo của các quy tắc xuất<br /> xứ<br /> Bên cạnh nguyên nhân đã nêu<br /> ở trên, thì một nguyên nhân<br /> nữa là sự ngần ngại của DN<br /> trước tính phức tạp và chặt<br /> chẽ của một số lượng lớn các<br /> quy tắc trong các FTA mà họ<br /> phải tuân thủ.<br /> Đơn cử như đối với ngành dệt<br /> may, sản phẩm sẽ được coi có<br /> xuất xứ và được hưởng thuế<br /> quan ưu đãi khi xuất khẩu<br /> sang phần lớn đối tác FTA của<br /> Việt Nam (ASEAN, Trung<br /> Quốc, Hàn Quốc, Chi-lê)<br /> khi chứng minh được công<br /> đoạn cắt, may, khâu thành<br /> sản phẩm diễn ra tại Việt<br /> Nam dù nguyên liệu đầu vào<br /> có thể nhập khẩu từ bất cứ<br /> đâu. Trong khi đó, tiêu chuẩn<br /> quy tắc xuất xứ chặt chẽ hơn<br /> đối với AANZFTA và FTA<br /> ASEAN- Ấn Độ (AIFTA),<br /> khi yêu cầu ngoài công đoạn<br /> gia công cuối cùng diễn ra<br /> <br /> Số 193- Tháng 6. 2018<br /> <br /> 5<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2