intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Các quy định pháp luật hiện hành

Chia sẻ: In The End | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:7

93
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Định nghĩa công ty cổ phần, cổ phần hóa, tại sao phải cổ phần hóa, các văn bản pháp luật hiện hành về xử lý tài chính và xác định giá trị tài sản doanh nghiệp cổ phần hóa,... là những nội dung chính trong tài liệu "Các quy định pháp luật hiện hành". Mời các bạn cùng tham khảo nội dung tài liệu để nắm bắt nội dung tài liệu để nắm bắt nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Các quy định pháp luật hiện hành

  1. 1.1. Định nghĩa công ty cổ phần, cổ phần hóa 1.1.1. Công ty cổ phần Theo điều 110 Luật Doanh nghiệp 2015 (của Việt Nam), công ty cổ phần được định  nghĩa như sau: Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó:  Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;  Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là 03 và  không hạn chế số lượng tối đa;  Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác  của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;  Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người  khác, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 119 và khoản 1 Điều  126 của Luật này. Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận  đăng ký doanh nghiệp. Công ty cổ phần có quyền phát hành cổ phần các loại để huy động vốn. 1.1.2. Cổ phần hóa Cổ phần hóa là cách gọi tắt của việc chuyển đổi các doanh nghiệp nhà nước thành  công ty cổ phần ở Việt Nam. Chương trình cổ phần hóa bắt đầu được Việt Nam thử  nghiệm trong các năm 1990­1991 và chính thức được thực hiện từ năm 1992, được đẩy  mạnh từ năm 1996. a. Bối cảnh Đổi mới tư duy quản lý kinh tế bắt đầu diễn ra mạnh sau Đại hội đại biểu toàn  quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra vào tháng 12 năm 1986.  Một trong những tư duy quản lý đã thay đổi đó là cải cách khu vực doanh nghiệp  nhà nước, bao gồm tăng quyền tự chủ cho các doanh nghiệp, yêu cầu phải chuyển  sang hình thức kinh doanh hạch toán kinh tế, lời ăn lỗ chịu.
  2. Để có thể tiến hành cải cách kinh tế bắt đầu từ nửa sau của thập kỷ 1990, Việt  Nam đã đề nghị sự giúp đỡ về tài chính và kỹ thuật của các thể chế tài chính toàn  cầu như Nhóm Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Phát triển  châu Á và các nhà tài trợ mà hầu hết là những nước có nền kinh tế thị trường phát  triển. Một trong những cái giá Việt Nam phải trả là phải tiến hành một số cải cách  theo đề nghị của những tổ chức và nhà tài trợ ­ những cải cách mà vào thời điểm  đầu thập niên 1990 Việt Nam còn chưa nhận thức đầy đủ sự cần thiết và do đó rất  miễn cưỡng thực hiện. Trong số những cải cách miễn cưỡng này có tư nhân hóa  các doanh nghiệp nhà nước. Để tránh gây ra mâu thuẫn sâu sắc với bộ phận cán bộ  và nhân dân lo ngại về sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân, Chính phủ Việt  Nam đã quyết định sẽ không bán đứt các doanh nghiệp của mình cho các cá nhân,  thay vì đó tiến hành chuyển các doanh nghiệp nhà nước thành doanh nghiệp cổ  phần. Tài sản của doanh nghiệp được chia thành các cổ phần bán cho cán bộ công  nhân trong doanh nghiệp và phần còn lại do nhà nước sở hữu. Tùy từng doanh  nghiệp, phần cổ phần do nhà nước sở hữu có thể nhiều hay ít, từ 0% tới 100%. b. Quá trình cổ phần hóa Giai đoạn thí điểm rụt rè Cổ phần hóa ở Việt Nam được thực hiện theo đường lối thử và sửa (try  and fix). Năm 1990, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ra Quyết định số  143/HĐBT ngày 10 tháng 5 năm 1990 lựa chọn một số doanh nghiệp nhỏ và  vừa để thử chuyển đổi thành công ty cổ phần. Kết quả là có 2 doanh nghiệp  trong năm 1990­1991 được cổ phần hóa. Năm 1991, Chủ tịch Hội đồng Bộ  trưởng lại ra Quyết định số 202 ngày 8 tháng 6 năm 1992 yêu cầu mỗi bộ ngành  trung ương và mỗi tỉnh thành chọn ra từ 1­2 doanh nghiệp nhà nước để thử cổ  phần hóa. Kết quả là đến tháng 4 năm 1996, có 3 doanh nghiệp nhà nước do trung  ương quản lý và 2 doanh nghiệp nhà nước do địa phương quản lý được cổ  phần hóa. Trừ Công ty dịch vụ vận tải mà Nhà nước chỉ còn giữ 18% tổng số  cổ phần, 4 công ty khác Nhà nước đều giữ khoảng 30% tổng số cổ phần. Các 
  3. nhà đầu tư bên ngoài chỉ mua được cao nhất là gần 35% tổng số cổ phần trong  trường hợp Công ty cổ phần Giày Hiệp An, còn lại đều ở khoảng 20%. Giai đoạn thí điểm mở rộng Từ kinh nghiệm của 7 trường hợp cổ phần hóa nói trên, năm 1996 Chính  phủ quyết định tiến hành thử cổ phần hóa ở quy mô rộng hơn. Nghị định 28/CP  được Chính phủ ban hành ngày 7 tháng 5 năm 1996 yêu cầu các bộ, ngành trung  ương và các chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương lập danh sách  doanh nghiệp nhà nước do mình quản lý sẽ được cổ phần hóa cho đến năm  1997. Tinh thần của Nghị định 28/CP là chọn những doanh nghiệp mà Nhà  nước thấy không còn cần thiết phải nắm giữ 100% vốn nữa làm đối tượng.  Nghị định số 25/CP ngày 26 tháng 3 năm 1997 của Chính phủ cho phép các lãnh  đạo bộ, ngành, địa phương có thêm quyền hạn trong việc tiến hành cổ phần  hóa các doanh nghiệp được chọn làm thử. Theo đó, đối với doanh nghiệp có  vốn từ 10 tỷ đồng trở xuống thì lãnh đạo bộ, ngành, địa phương có quyền tự tổ  chức thực hiện cổ phần hóa trên cơ sở Nghị định số 28/CP. Kết quả của giai đoạn thí điểm cổ phần hóa mở rộng này là có 25  doanh nghiệp nhà nước đã được chuyển thành công ty cổ phần.  Giai đoạn đẩy mạnh Sau hai giai đoạn cổ phần hóa thí điểm trên, Chính phủ Việt Nam quyết  định chính thức thực hiện chương trình cổ phần hóa. Ngày 29 tháng 6 năm  1998, Chính phủ ban hành Nghị định số 44/1998/NĐ­CP về chuyển doanh  nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Nghị định này quy định rằng đối với  cổ phần phát hành lần đầu của doanh nghiệp được chuyển đổi nhưng Nhà  nước vẫn muốn nắm quyền chi phối, cá nhân không được phép mua quá 5% và  pháp nhân không được phép mua quá 10%. Đối với doanh nghiệp mà Nhà nước  không cần nắm quyền chi phối, cá nhân được phép mua tới 10% và pháp nhân  được phép mua tới 20% tổng cổ phần phát hành lần đầu. Riêng đối với các  doanh nghiệp mà Nhà nước hoàn toàn không còn muốn sở hữu, cá nhân và pháp  nhân được phép mua không hạn chế. Tiền thu được từ bán cổ phần sẽ được sử 
  4. dụng để đào tạo lại lao động, sắp xếp việc làm cho lao động dư thừa, bổ sung  vốn cho các doanh nghiệp nhà nước khác. Sau khi Nghị định 44/1998/NĐ­CP được áp dụng cho đến ngày 31 tháng  12 năm 2001, có 548 doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa.  Giai đoạn tiến hành ồ ạt Tháng 8 năm 2001, Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng  Cộng sản Việt Nam khóa IX họp về doanh nghiệp nhà nước và ra nghị quyết  của Trung ương Đảng về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao  hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Để triển khai Nghị quyết trung ương này,  Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị số 04/2002/CT­TTg ngày 08 tháng 02 năm 2002  về việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh  nghiệp nhà nước, và Chính phủ ra Nghị định số 64/2002/NĐ­CP ngày 19 tháng  6 năm 2002 về chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Các văn  kiện pháp lý này đã mở ra một giai đoạn mới của cổ phần hóa ­ giai đoạn tiến  hành ồ ạt. Theo Nghị định số 64/2002/NĐ­CP có một số hình thức cổ phần hóa  sau: 1. Giữ nguyên vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành  cổ phiếu thu hút thêm vốn. 2. Bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp. 3. Bán toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp. 4. Thực hiện các hình thức 2 hoặc 3 kết hợp với phát hành cổ  phiếu thu hút thêm vốn. Đối với cổ phần phát hành lần đầu, các nhà đầu tư trong nước được  phép mua không hạn chế. Các nhà đầu tư nước ngoài không được phép mua  quá 30%. Tháng 1 năm 2004, Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt  Nam khóa IX họp phiên thứ IX, tại đó có thảo luận và quyết định đẩy mạnh cổ  phần hóa doanh nghiệp nhà nước.[3] Cuối năm 2004, Chính phủ ra Nghị định số  187/2004/NĐ­CP về chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần, theo đó 
  5. cả các công ty thành viên của các tổng công ty nhà nước và ngay cả chính tổng  công ty nhà nước nào mà Nhà nước không muốn chi phối đều có thể trở thành  đối tượng cổ phần hóa. Điểm mới quan trọng nữa trong Nghị định này là quy  định việc bán cổ phần lần đầu phải được thực hiện bằng hình thức đấu giá tại  các trung tâm giao dịch chứng khoán nếu là công ty có số vốn trên 10 tỷ đồng,  tại các trung tâm tài chính nếu là công ty có số vốn trên 1 tỷ đồng, và tại công  ty nếu công ty có số vốn không quá 1 tỷ đồng. Bán đấu giá khiến cho giá cổ  phiếu phát hành lần đầu của nhiều công ty nhà nước được đẩy vọt lên, đem lại  những nguồn thu rất lớn cho Nhà nước. Chẳng hạn, đợt đấu giá cổ phần của 5  công ty nhà nước được cổ phần hóa là Công ty cổ phần kỹ nghệ thực phẩm,  Nhà máy thiết bị bưu điện, Nhà máy thủy điện Vĩnh Sơn ­ Sông Hinh, Công ty  điện lực Khánh Hòa, Công ty sữa Việt Nam, Nhà nước đã thu vượt dự kiến 450  tỷ đồng.[1] Mặt khác, bán đấu giá cổ phần của các doanh nghiệp cổ phần hóa  còn trở thành một động lực cho sự phát triển của thị trường cổ phiếu niêm yết  ở Việt Nam. Trong số 30 công ty niêm yết cổ phiếu tại Trung tâm Giao dịch  chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh (nay là Sở Giao dịch chứng khoán Thành  phố Hồ Chí Minh) vào ngày 31 tháng 10 năm 2005, có 29 công ty là doanh  nghiệp nhà nước cổ phần hóa.[4] Quá trình cổ phần hóa kiểu này đến 2008, đã thực hiện ở khoảng trên  3.000 doanh nghiệp nhà nước vừa và nhỏ được cổ phần hóa. Còn khoảng 2.000  doanh nghiệp nhà nước vừa và lớn như BIDV, Vietinbank, VMS­ MobiFone, Vinaphone,... dự trù sẽ cổ phần hóa đến năm 2010. Chính phủ Việt Nam cũng khẳng định quyết tâm cổ phần hóa các  trường đại học[5]. Các cơ sở giáo dục ở Việt Nam muốn tránh nguy cơ bị biến  dạng do đưa các hoạt động giáo dục thành các dịch vụ đơn thuần, mang nặng  tính thương mại, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sứ mệnh và mục tiêu của  trường nên sẽ có quá trình tách bạch và phân định rõ các bộ phận thương mại  hay phi thương mại hóa. 1.2. Tại sao phải cổ phần hóa
  6. Một thực tế cho thấy rằng kinh nghiệm trên thế giới các nước có thành phần kinh tế  công càng lớn thì tốc độ tăng trưởng cao cần có sự cơ cấu lại thành phần kinh tế này ta muốn   duy trì tốc độ  tăng trưởng cao cần có sự cơ  cấu lại thành phần kinh tế này. Cổ  phần hóa sẽ  giúp sàng lọc doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh   giữa các doanh nghiệp đã có những người chủ  thực sự. Việc cổ  phần hóa cũng giảm gánh   nặng cho Ngân sách Nhà nước một con số  đáng kể. Mặt khác, thông qua cổ  phần hóa Nhà  nước thu lại được phần giá trị tài sản Nhà nước trước đây đã giao cho các doanh nghiệp quản   lý nhưng sử dụng kém hiệu quả. Tất cả các khoản tiền này sẽ  được dùng để  tài trợ  cho các   dự  án mang tầm quốc gia phục vụ lợi ích cho toàn dân tộc như: giáo dục, y tế, xây dựng cơ  sở hạ tầng. Tác động gián tiếp của việc cổ phần hóa cũng có mặt hạn chế của nó chẳng hạn;  cổ phần hóa là tiềm ẩn của sự gia tăng thất nghiệp tăng áp lực về số lượng lao động dư thừa   trong xây dựng. Vậy việc cổ phần hóa cần có chính sách cụ thể  rõ ràng cho người lao động   trong tình trạng thất nghiệp. Bên cạnh những lý do đã nêu, thì hiện nay thị  trường chứng khoán hay thị  trường tài  chính phát triển ngày càng lớn và nhu cầu có nguồn hàng cung cấp cho thị  trường thứ  cấp   đang khan hiếm chính vì thế, cổ phần hóa là cách giúp cho thị  trường giải quyết lượng hàng  khan hiếm này, tránh gây ra hiện tượng cổ phiếu thiếu gây ra tình trạng làm giảm giá trên thị  trường gây rối loạn thị trường đang trỗi dậy trong khoảng  mấy năm trở lại đây. Một cái nhìn khách quan hơn cho thấy công cuộc cổ  phần hóa là một giải pháp tích  cực để  hạn chế  tình trạng tham nhũng, nâng cao dân chủ  và công bằng xã hội. Các doanh   nghiệp sau  khi cổ phần hóa hoạt động theo Luật doanh nghiệp khi đó có mọi hoạt động theo   cơ  chế  thị  trường chi phối bởi quy luật cung cầu và pháp luật, và chủ  doanh nghiệp là toàn  thể  cổ đông không còn hiện tượng tham nhũng, mọi hoạt động của doanh nghiệp đều được   công khai đối với cổ đông. Công ty cổ phần có: ­ Khả năng huy động vốn lớn nhờ phát hành cổ phiếu và trái phiếu. ­ Được tổ chức quản lý chặt chẽ ­ Gắn người lao động với kết quả cuối cùng
  7. ­ Để mở rộng tầm hoạt động sản xuất kinh doanh bằng cách gọi thêm vốn dưới dạng   cổ phiếu và trái phiếu. 1.3. Các văn bản pháp luật hiện hành về xử lý tài chính và xác định giá trị tài sản doanh  nghiệp cổ phần hóa. Nghị định số 189/2013/NĐ­CP ngày 20/11/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ  sung một số điều của Nghị định số 59/2011/NĐ­CP ngày 18/7/2011 của Chính phủ về  chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần”. Thông tư số 127/2014/TT­BTC hướng dẫn xử lý tài chính và xác định giá trị  doanh nghiệp khi thực hiện chuyển doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước thành công ty  cổ phần, trong đó, đáng chú ý là quy định về các nguyên tắc khi thực hiện cổ phần hóa  doanh nghiệp. Luật Doanh nghiệp ngày 29 tháng 11 năm 2005. Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001; Luật Doanh nghiệp ngày 29 tháng 11 năm 2005; Luật Chứng khoán ngày 29 tháng 6 năm 2006; Ở đây mình nêu luật hiện hành hay luật cũ vậy Na, cả những văn bản nữa?
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0