Đề bài: Chất văn chương trong Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân<br />
<br />
Bài làm<br />
<br />
Nhốt cả sông Đà vào một quyển sách, công việc trị thủy ấy của văn chương thật khó <br />
thay. Vậy mà Nguyễn Tuân làm được. Nhưng phải là cật lực. Phải bám những người lái <br />
đò sông Đà (kể cả ông đò hay cởi truồng) để trôi dài theo bờ sông hoang dại như một bờ <br />
tiền sử, phải tìm một lối riêng, lặn sâu xuống hút nước để từ cái rốn sông ấy mà thấy <br />
bụng nước như một cái thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh <br />
khối đúc dày, phải bay lên thật sự, nâng con người tới tầm cao có thể nhìn con sông năm <br />
trăm cây số dài chỉ còn là một áng tóc trữ tỉnh, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mấy trời <br />
Tây Bắc... Phải đi đến cùng từng trải, tài năng, khổ công... thâu tóm lấy con sông hung tợn <br />
để rồi chính nó ngoan ngoãn theo đầu ngọn bút mà bền bỉ bồi đắp đầy ắp những trang <br />
Sông Đà ta đang có trên tay.<br />
<br />
Một con sông văn như thế viết ra được đã khó, đọc nó cũng không phải dễ. Đã đành phải <br />
theo Nguyễn Tuân xuôi đến trang cuối của tác phẩm nhưng nhiều khi phải thoát ra sự hạn <br />
chế của dòng văn, trang văn để tìm ra cái đẹp toàn bài văn. Thoát ra rồi nhìn lại toàn bài <br />
Người lái dò sông Đà mới hay, cho mãi đến dòng cuối của bài viết, cái bến đò màu cờ <br />
mới được xuất hiện khi đoàn thuyền khoa học gắn quốc kì đã ghé vào và thả neo như hạ <br />
một quyết tâm đỏ, trị con sông dữ tợn này, bắt nó phải phục vụ cuộc sống, nhưng cứ <br />
nghĩ, cái bến đỏ cờ ấy chính là cái bến xa nào đó trong sương mù mà người lái đò Sông <br />
Đà ngay khi bước vào trang văn đã hướng nhỡn giới vòi vọi mong chờ, đã mong chờ từ <br />
ngay thượng nguồn của bài tùy bút này.<br />
<br />
Mối liên hệ nghệ thuật giữa nhỡn giới của ông lái đò và bến đậu của ngọn quốc kì có thể <br />
xem như phép kết cấu đầu cuối tương ứng, xem như chuyện phục bút kịp thời ở đoạn <br />
đầu để thuận đà mà hạ bút đắc địa nơi phần cuối. Nhưng tất cả các kĩ thuật kĩ xảo đó, ở <br />
văn tài Nguyễn Tuân đã diễn ra tự nhiên như một sáng tạo ngẫu hứng. Sau khi đã mở <br />
được nhỡn giới cho nhân vật và xác định cái bến sẽ cắm cột cờ trị thủy, định hướng cho <br />
dòng cảm hứng của chính mình, Nguyễn Tuân thả sức viết, viết như cày xới vốn sống, <br />
như tỉa tót chữ nghĩa. Ngòi bút không ngại bới sâu vào lịch sử đời Trần, đời Lí, đời Lê, <br />
đào ngang khơi tắt vào địa mạo, địa danh, quyết bắt cho được thần thái con sông với <br />
thượng lưu, hạ lưu nước cuốn,, với tả ngạn hữu ngạn đất trụ, với ngọn nguồn tích tụ sự <br />
cuốn đi cùng trụ lại kia... Và trên một dòng sông chở nặng thông tin về chính nó, một <br />
dòng văn ăm ắp những biện pháp nghệ thuật, Nguyễn Tuân khắc họa hình tượng hiên <br />
ngang một người lái đò sông Đà.<br />
<br />
Nguyễn Tuân khéo đưa vào thiên tùy bút một ông và một cô đò để dễ bề thể hiện cả sự <br />
hiên ngang và sự đằm thắm của những khách thương hồ ấy. Đằm thắm như câu chuyện <br />
kể nơi đuôi én thuyền then của cô đò người Thái, thỏ thẻ, thật thà không nói chuyện vượt <br />
thác, vận chuyển quân lương qua những khúc sông chưa giải phóng ban ngày mà cũng tối <br />
sầm như ban đêm, dành lời để tri ân chú gà trống đè sóng, giữ nhịp thời gian cho con <br />
người chèo chống: "Đi đường xa qua bờ này bến khác, có tiếng gà gáy đem theo, nó đỡ <br />
nhớ nương ruộng, bản mường".<br />
<br />
Đỡ nhớ đất để mà nhớ đóng đinh vào lòng tất cả những nguồn nước của tất cả những <br />
con thác hiểm trở. Nhưng kiểu nhớ đóng đanh này là nhớ của những ông đò hiên ngang <br />
với giọng nói ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, với thân hình cao to và gọn <br />
quánh như sừng như mun, với vẻ phớt đời có lần vượt thác vừa xuôi vừa dám ngủ gật <br />
nữa kia nhưng sẵn sàng chỗ bằng thì chèo, chỗ dựng vách đá thì chống, vượt thác mà bờ <br />
bằng thì kéo. Sẵn sàng, chỉ với ba tiếng chống, chèo, kéo đơn giản như ba phách mạnh <br />
của một nhịp hò dô vậy thôi, người lái đò đã vào cuộc thì chỉ có lao đi chứ không lùi lại.<br />
<br />
Bằng ấy chi tiết cho một nhân vật cũng đã là nhiều, nhưng với Nguyễn Tuân, ngần ấy <br />
chưa đủ, ông cho họ lao vào trùng vi thạch trận để từ trận thủy chiến giáp lá cà quyết liệt <br />
này mà cực tả, mà khắc họa sắc nét hơn khí phách hiên ngang của ông lái đò sông Đà.<br />
<br />
Tả cuộc đối đầu giữa con người với sức nước tàn phá, trước Nguyễn Tuân hàng ngàn <br />
năm đã có truyện Sơn Tinh Thủy Tinh. Nhưng đó là thần thoại, với phép thần thông, chỉ <br />
cần một câu thôi "nước dâng bao nhiêu núi lại cao bấy nhiêu" thế là phân thắng bại, cái <br />
hiện thực chống lũ chỉ còn như chút bóng nhòe đổ xuống từ câu chuyện. Sau Nguyễn <br />
Tuân, cuộc đối đầu ấy được thể hiện trong chương kể chuyện giữ đê biển trước gió to <br />
sóng lớn của Bão biển (Chu Văn). Nhưng Bão biển là tiểu thuyết hiện thực, cho nên sóng <br />
gió vẫn chỉ là sóng gió mù quáng tàn phá và con người dù phải xả thân chống lại thì vẫn <br />
chỉ là xả thân trong một công trường, cái mà một thời người ta thuận miệng gọi là cuộc <br />
chiến đấu chống thiên nhiên lại chưa ra một chiến trường. Với Nguyễn Tuân thì khác, <br />
ngay từ đầu, ông đã xác định cuộc đối đầu ấy là một chiến trường, một mặt trận. Và để <br />
dựng cho ra chiến trường, mặt trận ấy, Nguyễn Tuân đã hà hơi, đã ban phép nhân hóa <br />
khiến nước sông, đá thác sống dậy làm tướng dữ, quân tợn.<br />
<br />
Nhờ phép ấy, nước xiết thành lời; "Tiếng nước thác nghe như lời oán trách gì, rồi lại như <br />
là van xin, rồi như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo". Chỉ trong một câu mà nước <br />
dữ đã lật lọng đổi giọng đến bốn lần. Mới van xin đã khiêu khích, oán trách chưa xong đã <br />
chế nhạo. Khi cái hòa âm nghịch bốn giọng ấy, hình tượng thính giác ấy được tăng cấp <br />
rống lên, gầm thét bằng tiếng một ngàn con trâu da cháy bùng bùng thì sự lật lọng đã <br />
thành điên loạn.<br />
<br />
Nhưng chưa hết, hãy nhìn đồng bọn của lũ lật lọng điên loạn này, hãy cùng Nguyễn Tuân <br />
điểm mặt đá. Đá mai phục ngàn năm để chờ dịp nhổm cả dậy vồ lấy thuyền. Chưa vồ <br />
được thì dụ, thì hất hàm thách thức, lừa đối phương vào thế đá trái, thúc gối của nước <br />
dữ, để nước túm chặt lưng ông đò rồi ra đòn hiểm độc nhất, bóp chặt lấy hạ bộ. Nguyên <br />
Tuân đã đá thì mạnh tay bút như khắc để tạo cái cằm sắc nhọn đưa ra như mũi dao của đá <br />
tảng hất hàm, tả nước lại nhanh tay như nghệ sĩ nhiếp ảnh, bấm máy kịp lúc bàn tay <br />
nước chộp vào chỗ hiểm để ghi lại được cái tích tắc kinh hoàng, mặt ông đò méo bệch vì <br />
hạt sinh dục vụt muốn thọt lên cổ.<br />
<br />
Đọc tới đây, từ cận cảnh bàn tay nước chộp, trung cảnh hàm đá hất, mà nhớ ngược lên <br />
toàn cảnh trắng xóa cả một chân trời đá ngàn năm mai phục, người đọc như được xem <br />
mọt chiến trận trên màn ảnh. Trên đó thế toàn rồi trung, rồi cận chiến tưởng đã hất ông <br />
lái và những người bạn chèo khỏi chiến cuộc như hất cái hột giống nòi nhỏ xíu kia. <br />
Nhưng ngay trong phút nghẹt thở ấy, ông lái vẫn lừng lững giữa dòng.<br />
Trước ồn ào, ầm ĩ kiểu võ mồm của một mặt sông sùi bọt mép mà thở, kêu, ằng ặc, réo, <br />
rống, oán trách, van xin, khiêu khích, chế nhạo, gầm thét, reo hò... ông lái như không thèm <br />
chấp, chỉ ngắn gọn chỉ huy, để còn dành nội lực nắm chắc binh pháp của thần sông, thần <br />
đá, để thuộc quy luật phục kích. Ông lái dụng trí chứ không lạm ngôn, không bẻm mép. <br />
Khi đã có trí thì dù cho thế lực hung ác kia lấy hai chọi một, dù cho chúng tiểu nhân đến <br />
mức phải dụ, phải lừa, võ biền đến liều mạng, thúc gối đá trái thì cũng đến lúc con <br />
người nắm chặt, đè sấn, chặt đôi, giành lấy chiến thắng, mở đường sống cho mình.<br />
<br />
Đó là con đường anh chiến binh trở lại làm nhà đò, làm người chân sào, với khúc hò dô <br />
chống, chèo, kéo đã vang lên ở đoạn trên. Nguyễn Tuân thôi không để chữ nghĩa của mình <br />
hừng hực nộ khí xung thiên nữa. Nộ khí ấy đã làm xong cái việc bổ sung kịch tính cho <br />
thiên tùy bút, nó xèo xèo tan hòa trong chất trữ tình lai láng một tấm lòng muốn để thơ vào <br />
sông nước, thơ hoài cổ một thời bi tráng Tây Bắc chống Pháp xâm lược, thơ cảm thán về <br />
một non sông đang ngày một đẹp lên để có được một cái gì khang khác, chưa từng thấy <br />
trên sông này, có được ngọn cờ đỏ chấm dấu son lãng mạn vào câu kết của tác phẩm. <br />
Bằng sự chuyển đổi giọng điệu ấy, Nguyễn Tuân muốn ta hiểu ba thế võ "nắm chặt, đè <br />
sấn, chặt đôi" mà ông lái mới xuống tay kia cũng chỉ là cách điệu, thăng hoa, biến tấu của <br />
ba ngón nghề đưa đò chống, chèo, kéo mà thôi. Muôn đời ông lái vẫn là bạn của dòng <br />
sông. Một người bạn cao thượng sớm quên đi những tướng dữ quân tợn để nhớ về một <br />
con sông Đà của cá anh vũ đầm xanh. Một sông Đà đã vặn mình thay đổi.<br />
<br />
"Thế là hết thác. Dòng sông vặn mình..." Chữ vặn có lẽ Nguyễn Tuân mượn của Tản Đà, <br />
mượn trong câu thơ ngày ấy Tản Đà lên chơi tỉnh Hòa Bình "Sông Đà ai vặn một dòng <br />
quanh". Mượn chữ vặn chỉ là để có câu hỏi "ai vặn" kia cho cả cuốn Sông Đà trả lời <br />
rằng, những chủ nhân của một nước Việt Nam mới đã vặn, đã nắn, đã dẫn dòng sông <br />
chảy đúng vào tuốc bin thủy điện sông Đà, để dòng nước hung hăng một thời, hóa thân <br />
thành ánh sáng, về việc hóa thân này, Nguyễn Tuân, băng văn chương của mình đã có <br />
công dự báo. Còn công đầu của việc nắn lại dòng sông thì thuộc về những Người lái đò <br />
Sông Đà.<br />
<br />