intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chuyên đề Lạm phát

Chia sẻ: Ngoc Duong | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:54

360
lượt xem
181
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong kinh tế học, lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung của nền kinh tế. Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá tiền tệ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chuyên đề Lạm phát

  1. Chuyên đề Lạm phát
  2. Mục lục [ẩn] 1 Đo lường 2 Các loại lạm phát phân theo mức độ o 2.1 Thiểu phát o 2.2 Lạm phát thấp o 2.3 Lạm phát cao (Lạm phát phi mã) o 2.4 Siêu lạm phát 3 Vai trò trong kinh tế o 3.1 Các hiệu ứng tích cực o 3.2 Các hiệu ứng tiêu cực  3.2.1 Đối với lạm phát dự kiến được  3.2.2 Đối với lạm phát không dự kiến được o 3.3 Chỉ số nghèo khổ 4 Chi phí xã hội của lạm phát o 4.1 Chi phí mòn giày o 4.2 chi phí thực đơn o 4.3 Giá cả tương đối biến động mạnh hơn o 4.4 Thay đổi gánh nặng thuế o 4.5 Sự nhầm lẫn và bất tiện o 4.6 Tái phân phối của cải một cách tùy tiện 5 Nguyên nhân o 5.1 Lạm phát do cầu kéo o 5.2 Lạm phát do cầu thay đổi o 5.3 Lạm phát do chi phí đẩy o 5.4 Lạm phát do cơ cấu o 5.5 Lạm phát do xuất khẩu o 5.6 Lạm phát do nhập khẩu o 5.7 Lạm phát tiền tệ o 5.8 Lạm phát đẻ ra lạm phát 6 Kiềm chế lạm phát
  3. 7 Xem thêm 8 Chú thích 9 Liên kết ngoài [sửa]Đo lường Lạm phát 1 được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả của một lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế (thông thường dựa trên dữ liệu được thu thập bởi các tổ chức Nhà nước, mặc dù các liên đoàn lao động và các tạp chí kinh doanh cũng làm việc này). Giá cả của các loại hàng hóa và dịch vụ được tổ hợp với nhau để đưa ra một "mức giá cả trung bình", gọi là mức giá trung bình của một tập hợp các sản phẩm. Chỉ số giá cả là tỷ lệ mức giá trung bình ở thời điểm hiện tại đối với mức giá trung bình của nhóm hàng tương ứng ở thời điểm gốc. Tỷ lệ lạm phát thể hiện qua chỉ số giá cả là tỷ lệ phần trăm mức tăng của mức giá trung bình hiện tại so với mức giá trung bình ở thời điểm gốc. Để dễ hình dung có thể coi mức giá cả như là phép đo kích thước của một quả cầu, lạm phát sẽ là độ tăng kích thước của nó. Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị của chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ số, cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện. Các phép đo phổ biến của chỉ số lạm phát bao gồm:  Chỉ số giá sinh hoạt (viết tắt tiếng Anh: CLI) là sự tăng trên lý thuyết giá cả sinh hoạt của một cá nhân so với thu nhập, trong đó các chỉ số giá tiêu dùng (CPI) được giả định một cách xấp xỉ. Các nhà kinh tế học tranh luận với nhau là có hay không việc một CPI có thể cao hơn hay thấp hơn so với CLI dự tính. Điều này được xem như là "sự thiên lệch" trong phạm vi CPI. CLI có thể được điều chỉnh bởi "sự ngang giá sức mua" để phản ánh những khác biệt trong giá cả của đất đai hay các hàng hóa khác trong khu vực (chúng dao động một cách rất lớn từ giá cả thế giới nói chung).  Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đo giá cả các hàng hóa hay được mua bởi "người tiêu dùng thông thường" một cách có lựa chọn. Trong nhiều quốc gia công nghiệp, những sự thay đổi theo phần trăm hàng năm trong các chỉ số này là con số lạm phát thông thường hay được nhắc tới. Các phép đo này thường được sử dụng trong việc chuyển trả lương, do những người lao động mong muốn có khoản chi trả (danh định) tăng ít nhất là bằng hoặc cao hơn tỷ lệ tăng của CPI. Đôi khi, các hợp đồng lao động có tính đến các điều chỉnh giá cả sinh hoạt, nó ngụ ý là khoản chi trả danh định sẽ tự động tăng lên theo sự tăng của CPI, thông thường với một tỷ lệ chậm hơn so với lạm phát thực tế (và cũng chỉ sau khi lạm phát đã xảy ra).  Chỉ số giá sản xuất (PPI) đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận được không tính đến giá bổ sung qua đại lý hoặc thuế doanh thu. Nó khác với CPI là sự trợ cấp giá, lợi nhuận và thuế
  4. có thể sinh ra một điều là giá trị nhận được bởi các nhà sản xuất là không bằng với những gì người tiêu dùng đã thanh toán. Ở đây cũng có một sự chậm trễ điển hình giữa sự tăng trong PPI và bất kỳ sự tăng phát sinh nào bởi nó trong CPI. Rất nhiều người tin rằng điều này cho phép một dự đoán gần đúng và có khuynh hướng của lạm phát CPI "ngày mai" dựa trên lạm phát PPI ngày "hôm nay", mặc dù thành phần của các chỉ số là khác nhau; một trong những sự khác biệt quan trọng phải tính đến là các dịch vụ.  Chỉ số giá bán buôn đo sự thay đổi trong giá cả các hàng hóa bán buôn (thông thường là trước khi bán có thuế) một cách có lựa chọn. Chỉ số này rất giống với PPI.  Chỉ số giá hàng hóa đo sự thay đổi trong giá cả của các hàng hóa một cách có lựa chọn. Trong trường hợp bản vị vàng thì hàng hóa duy nhất được sử dụng là vàng. Khi nước Mỹ sử dụng bản vị lưỡng kim thì chỉ số này bao gồm cả vàng và bạc.  Chỉ số giảm phát GDP dựa trên việc tính toán của tổng sản phẩm quốc nội: Nó là tỷ lệ của tổng giá trị GDP giá thực tế (GDP danh định) với tổng giá trị GDP của năm gốc, từ đó có thể xác định GDP của năm báo cáo theo giá so sánh hay GDP thực). (Xem thêm Thực và danh định trong kinh tế). Nó là phép đo mức giá cả được sử dụng rộng rãi nhất. Các phép khử lạm phát cũng tính toán các thành phần của GDP như chi phí tiêu dùng cá nhân. Tại Mỹ, Cục Dự trữ Liên bang đã chuyển sang sử dụng khử lạm phát tiêu dùng cá nhân và các phép khử lạm phát khác để tính toán các chính sách kiềm chế lạm phát của mình.  Chỉ số giá chi phí tiêu dùng cá nhân (PCEPI). Trong "Báo cáo chính sách tiền tệ cho Quốc hội" sáu tháng một lần ("Báo cáo Humphrey-Hawkins") ngày 17 tháng 2 năm 2000, Federal Open Market Committee (FOMC) nói rằng ủy ban này đã thay đổi thước đo cơ bản về lạm phát của mình từ CPI sang "chỉ số giá cả dạng chuỗi của các chi phí tiêu dùng cá nhân". [sửa]Các loại lạm phát phân theo mức độ Bài viết hoặc đoạn này cần thêm chú thích nguồn gốc để có thể kiểm chứng thông tin. Những nội dung không có nguồn có thể bị đặt vấn đề và xóa bỏ. Mời bạn bổ sung chú thích từ các nguồn đáng tin cậy để giúp cải thiện bài viết. Lạm phát thường được phân loại theo tính chất hoặc theo mức độ của tỷ lệ lạm phát. Nếu phân loại lạm phát theo mức độ của tỷ lệ lạm phát, các nhà kinh tế thường phân biệt 4 loại lạm phát: thiểu phát, lạm phát thấp, lạm phát cao (lạm phát phi mã) và siêu lạm phát. [sửa]Thiểu phát Bài chi tiết: Thiểu phát [sửa]Lạm phát thấp Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá từ 3.0 đến dưới 10 phần trăm một năm.
  5. [sửa]Lạm phát cao (Lạm phát phi mã) Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá trong phạm vi hai hoặc ba chữ số một năm thường được gọi là lạm phát phi mã, nhưng vẫn thấp hơn siêu lạm phát. Việt Nam và hầu hết các nước chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường đều phải đối mặt với lạm phát phi mã trong những năm đầu thực hiện cải cách. Nhìn chung lạm phát thì phi mã được duy trì trong thời gian dài sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng. Trong bối cảnh đó, đồng tiền sẽ bị mất giá nhanh, cho nên mọi người chỉ giữ lượng tiền tối thiểu vừa đủ cho các giao dịch hàng ngày. Mọi người có xu hướng tích trữ hàng hóa, mua bất động sản và chuyển sang sử dụng vàng hoặc các ngoại tệ mạnh để làm phương tiện thanh toán cho các giao dịch có giá trị lớn và tích lũy của cải. [sửa]Siêu lạm phát Bài chi tiết: Siêu lạm phát Siêu lạm phát là lạm phát "mất kiểm soát", một tình trạng giá cả tăng nhanh chóng khi tiền tệ mất giá trị. Không có định nghĩa chính xác về siêu lạm phát được chấp nhận phổ quát. Một định nghĩa cổ điển về siêu lạm phát do nhà kinh tế ngưười Mỹ Phillip Cagan đưa ra là mức lạm phát hàng tháng từ 50% trở lên (nghĩa là cứ 31 ngày thì giá cả lại tăng gấp đôi). Theo định nghĩa này thì cho đến nay thế giới mới trải qua 15 cuộc siêu lạm phát. Một trường hợp được ghi nhận chi tiết về siêu lạm phát là nước Đức sau Thế chiến thứ nhất. Giá một tờ báo đã tăng từ 0,3 mark vào tháng 1 năm 1922 lên đến 70.000.000 mark chỉ trong chưa đầy hai năm sau. Giá cả của các thứ khác cũng tăng tương tự. Từ tháng 1 năm 1922 đến tháng 11 năm 1923, chỉ số giá đã tăng từ 1 lên 10.000.000.000. Cuộc siêu lạm phát ở Đức có tác động tiêu cực tới nền kinh tế Đức đến mức nó thường được coi là một trong những nguyên nhân làm nảy sinh chủ nghĩa Đức quốc xã và Thế chiến thứ hai. Có một số điều kiện cơ bản gây ra siêu lạm phát. Thứ nhất, các hiện tượng này chỉ xuất hiện trong các hệ thống sử dụng tiền pháp định. Thứ hai, nhiều cuộc siêu lạm phát có xu hướng xuất hiện trong thời gian sau chiến tranh, nội chiến hoặc cách mạng, do sự căng thẳng về ngân sách chính phủ. Vào thập niên 1980, các cú sốc bên ngoài và cuộc khủng hoảng nợ của Thế giới thứ ba đã đóng vai trò quan trọng trong việc gây ra siêu lạm phát ở một số nước Mỹ La-tinh. Theo Tiêu chuẩn Kế toán Quốc tế 29, có bốn tiêu chí để xác định siêu lạm phát, đó là: (1) người dân không muốn giữ tài sản của mình ở dạng tiền; (2) giá cả hàng hóa trong nước không còn tính bằng nội tệ nữa mà bằng một ngoại tệ ổn định; (3) các khoản tín dụng sẽ tính cả mức mất giá cho dù thời gian tín dụng là rất ngắn; và (4) lãi suất, tiền
  6. công và giá cả được gắn với chỉ số giá và tỷ lệ lạm phát cộng dồn trong ba năm lên tới 100 phần trăm. [sửa]Vai trò trong kinh tế [sửa] Nhà kinh tế đoạt giải Nobel James Tobin nhận định rằng lạm phát (tỷ lệ tăng giá mang giá trị dương) vừa phải sẽ có lợi cho nền kinh tế. Ông dùng từ "dầu bôi trơn" để miêu tả tác động tích cực của lạm phát. Mức lạm phát vừa phải làm cho chi phí thực tế mà nhà sản xuất phải chịu để mua đầu vào lao động giảm đi. Điều này khuyến khích nhà sản xuất đầu tư mở rộng sản xuất. Việc làm được tạo thêm. Tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm. [sửa]Các hiệu ứng tiêu cực [sửa]Đối với lạm phát dự kiến được Trong trường hợp lạm phát có thể được dự kiến trước thì các thực thể tham gia vào nền kinh tế có thể chủ động ứng phó với nó, tuy vậy nó vẫn gây ra những tổn thất cho xã hội:  Chi phí mòn giày: lạm phát giống như một thứ thuế đánh vào người giữ tiền và lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát nên lạm phát làm cho người ta giữ ít tiền hay làm giảm cầu về tiền. Khi đó họ cần phải thường xuyên đến ngân hàng để rút tiền hơn. Các nhà kinh tế đã dùng thuật ngữ "chi phí mòn giày" để chỉ những tổn thất phát sinh do sự bất tiện cũng như thời gian tiêu tốn mà người ta phải hứng chịu nhiều hơn so với không có lạm phát.  Chi phí thực đơn: lạm phát thường sẽ dẫn đến giá cả tăng lên, các doanh nghiệp sẽ mất thêm chi phí để in ấn, phát hành bảng giá sản phẩm.  Làm thay đổi giá tương đối một cách không mong muốn: trong trường hợp do lạm phát doanh nghiệp này tăng giá (và đương nhiên phát sinh chi phí thực đơn) còn doanh nghiệp khác lại không tăng giá do không muốn phát sinh chi phí thực đơn thì giá cả của doanh nghiệp giữ nguyên giá sẽ trở nên rẻ tương đối so với doanh nghiệp tăng giá. Do nền kinh tế thị trường phân bổ nguồn lực dựa trên giá tương đối nên lạm phát đã dẫn đến tình trạng kém hiệu quả xét trên góc độ vi mô.  Lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân trái với ý muốn của người làm luật do một số luật thuế không tính đến ảnh hưởng của lạm phát. Ví dụ: trong trường hợp thu nhập thực tế của cá nhân không thay đổi nhưng thu nhập danh nghĩa tăng do lạm phát thì cá nhân phải nộp thuế thu nhập trên cả phần chênh lệch giữa thu nhập danh nghĩa và thu nhập thực tế.
  7.  Lạm phát gây ra sự nhầm lẫn, bất tiện: đồng tiền được sử dụng để làm thước đo trong tính toán các giao dịch kinh tế, khi có lạm phát cái thước này co giãn và vì vậy các cá nhân khó khăn hơn trong việc ra các quyết định của mình. [sửa]Đối với lạm phát không dự kiến được Đây là loại lạm phát gây ra nhiều tổn thất nhất vì nó phân phối lại của cải giữa các cá nhân một cách độc đoán. Các hợp đồng, cam kết tín dụng thường được lập trên lãi suất danh nghĩa khi lạm phát cao hơn dự kiến người đi vay được hưởng lợi còn người cho vay bị thiệt hại, khi lạm phát thấp hơn dự kiến người cho vay sẽ được lợi còn người đi vay chịu thiệt hại. Lạm phát không dự kiến thường ở mức cao hoặc siêu lạm phát nên tác động của nó rất lớn. Các nhà kinh tế có quan điểm rất khác nhau về quy mô của các tác động tiêu cực của lạm phát, thậm chí nhiều nhà kinh tế cho rằng tổn thất do lạm phát gây ra là không đáng kể và điều này được coi là đúng khi tỷ lệ lạm phát ổn định và ở mức vừa phải. Khi lạm phát biến động mạnh, tác động xã hội của nó thông qua việc phân phối lại của cải giữa các cá nhân một cách độc đoán rõ ràng là rất lớn và do vậy chính phủ của tất cả các nước đều tìm cách chống lại loại lạm phát này. [sửa]Chỉ số nghèo khổ [sửa]Chi phí xã hội của lạm phát Lạm phát có thể gây ra một số tác hại mà chúng ta không dễ phát hiện được. [sửa]Chi phí mòn giày chi phí mòn dép [sửa]chi phí thực đơn [sửa]Giá cả tương đối biến động mạnh hơn [sửa]Thay đổi gánh nặng thuế [sửa]Sự nhầm lẫn và bất tiện [sửa]Tái phân phối của cải một cách tùy tiện [sửa]Nguyên nhân [sửa]Lạm phát do cầu kéo Kinh tế học Keynes cho rằng nếu tổng cầu cao hơn tổng cung ở mức toàn dụng lao động, thì sẽ sinh ra lạm phát. Điều này có thể giải thích qua sơ đồ AD-AS. Đường AD dịch sang phải trong khi đường AS giữ nguyên sẽ khiến cho mức giá và sản lượng cùng tăng.
  8. Trong khi đó, chủ nghĩa tiền tệ giải thích rằng do tổng cầu cao hơn tổng cung, người ta có cầu về tiền mặt cao hơn, dẫn tới cung tiền phải tăng lên để đáp ứng. Do đó có lạm phát. [sửa]Lạm phát do cầu thay đổi Giả dụ lượng cầu về một mặt hàng giảm đi, trong khi lượng cầu về một mặt hàng khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền và giá cả có tính chất cứng nhắc phía dưới (chỉ có thể tăng mà không thể giảm), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn không giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng lên, nghĩa là lạm phát. [sửa]Lạm phát do chi phí đẩy Nếu tiền công danh nghĩa tăng lên, thì chi phí sản xuất của các xí nghiệp tăng. Các xí nghiệp vì muốn bảo toàn mức lợi nhuận của mình sẽ tăng giá thành sản phẩm. Mức giá chung của toàn thể nền kinh tế cũng tăng. [sửa]Lạm phát do cơ cấu Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh nghĩa cho người lao động. Ngành kinh doanh không hiệu quả, vì thế, không thể không tăng tiền công cho người lao động trong ngành mình. Nhưng để đảm bảo mức lợi nhuận, ngành kinh doanh kém hiệu quả sẽ tăng giá thành sản phẩm. Lạm phát nảy sinh vì điều đó. [sửa]Lạm phát do xuất khẩu Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung, hoặc sản phẩm được huy động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị trường trong nước giảm khiến tổng cung thấp hơn tổng cầu. Lạm phát nảy sinh do tổng cung và tổng cầu mất cân bằng. [sửa]Lạm phát do nhập khẩu Sản phẩm không tự sản xuất trong nước được mà phải nhập khẩu. Khi giá nhập khẩu tăng (do nhà cung cấp nước ngoài tăng giá như trong trường OPEC quyết định tăng giá dầu, hay do đồng tiền trong nước xuống giá) thì giá bán sản phẩm đó trong nước cũng tăng. Lạm phát hình thành khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên. [sửa]Lạm phát tiền tệ Cung tiền tăng (chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền ngoại tệ khỏi mất giá so với trong nước; hay chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua công trái theo yêu cầu của nhà nước) khiến cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên là nguyên nhân gây ra lạm phát.
  9. [sửa]Lạm phát đẻ ra lạm phát Khi nhận thấy có lạm phát, cá nhân với dự tính duy lý sẽ cho rằng tới đây giá cả hàng hóa sẽ còn tăng, nên đẩy mạnh tiêu dùng hiện tại. Tổng cầu trở nên cao hơn tổng cung, gây ra lạm phát. [sửa]Kiềm chế lạm phát Kiềm chế lạm phát còn gọi là giảm lạm phát. Có một loạt các phương thức để kiềm chế lạm phát. Các ngân hàng trung ương nhưCục dự trữ liên bang Mỹ có thể tác động đến lạm phát ở một mức độ đáng kể thông qua việc thiết lập các lãi suất và thông qua các hoạt động khác (ví dụ: sử dụng các chính sách tiền tệ). Các lãi suất cao (và sự tăng chậm của cung ứng tiền tệ) là cách thức truyền thống để các ngân hàng trung ương kiềm chế lạm phát, sử dụng thất nghiệp và suy giảm sản xuất để hạn chế tăng giá. Tuy nhiên, các ngân hàng trung ương xem xét các phương thức kiểm soát lạm phát rất khác nhau. Ví dụ, một số ngân hàng theo dõi chỉ tiêu lạm phát một cách cân xứng trong khi các ngân hàng khác chỉ kiểm soát lạm phát khi nó ở mức cao. Những người theo chủ nghĩa tiền tệ nhấn mạnh việc tăng lãi suất bằng cách giảm cung tiền thông qua các chính sách tiền tệ để kiềm chế lạm phát. Những người theo học thuyết Keynes nhấn mạnh việc giảm cầu nói chung, thông thường là thông qua cácchính sách tài chính để giảm nhu cầu. Họ cũng lưu ý đến vai trò của chính sách tiền tệ, cụ thể là đối với lạm phát của các hàng hóa cơ bản từ các công trình nghiên cứu của Robert Solow. Các nhà kinh tế học trọng cung chủ trương kiềm chế lạm phát bằng cách ấn định tỷ giá hối đoái giữa tiền tệ và một số đơn vị tiền tệ tham chiếu ổn định như vàng, hay bằng cách giảm thuế suất giới hạn trong chế độ tỷ giá thả nổi để khuyến khích tích lũy vốn. Tất cả các chính sách này đã được thực hiện trong thực tế thông qua các tiến trình. Một phương pháp khác đã thử là chỉ đơn giản thiết lập lương và kiểm soát giá cả (xem thêm "Các chính sách thu nhập"). Ví dụ, nó đã được thử tại Mỹ trong những năm đầu thập niên 1970 (dưới thời tổng thống Nixon). Một trong những vấn đề chính với việc kiểm soát này là nó được sử dụng vào thời gian mà các biện pháp kích "cầu" được áp dụng, vì thế các giới hạn phía cung (sự kiểm soát, sản xuất tiềm năng) đã mâu thuẫn với sự tăng trưởng của "cầu". Nói chung, phần lớn các nhà kinh tế coi việc kiểm soát giá là phản tác dụng khi nó có xu hướng làm lệch lạc các hoạt động của nền kinh tế vì nó làm gia tăng thiếu thốn, giảm chất lượng sản phẩm v.v. Tuy nhiên, cái giá phải trả này có thể là "đáng giá" nếu nó ngăn chặn được sự đình đốn sản xuất
  10. nghiêm trọng, là điều có thể có đắt giá hơn, hay trong trường hợp để kiểm soát lạm phát trong thời gian chiến tranh. Trên thực tế, việc kiểm soát có thể bổ sung cho đình đốn sản xuất như là một cách để kiềm chế lạm phát: Việc kiểm soát làm cho đình đốn sản xuất có hiệu quả hơn như là một cách chống lạm phát (làm giảm sự cần thiết phải tăng thất nghiệp), trong khi sự đình đốn sản xuất ngăn cản các loại hình lệch lạc mà việc kiểm soát gây ra khi "cầu" là cao. Lạm phát 2010: “Mức nào phụ thuộc vào Chính phủ” E-mail Bản để in Cỡ chữ Chia sẻ: Ý kiến (0) "Nếu Chính phủ tiếp tục chọn ưu tiên cho ổn định vĩ mô thì tác động đến giá cả thị trường sẽ theo hướng ổn định hơn..." - Ảnh: Anh Quân. ▪ ANH QUÂN 10:45 (GMT+7) - Thứ Ba, 5/1/2010 Liên quan đến đà tăng của lạm phát trong năm 2010, cũng như nhiều năm gần đây, yếu tố khó đoán nhất là mức độ tác động của các chính sách vĩ mô được ban hành trong năm đến biến động của chỉ số giá. Nói về vấn đề này, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu Thị trường Giá cả (Bộ Tài chính), TS. Vũ Đình Ánh, thẳng thắn: - Theo tôi, lạm phát năm 2010 nhiều khả năng sẽ cao hơn năm 2009. Thế còn nó cao đến mức nào thì phụ thuộc vào việc điều hành chính sách của Chính phủ, chứ không phải phụ thuộc vào tác động bên ngoài. Lý do gì khiến ông cho rằng lạm phát năm nay lại phụ thuộc vào điều hành chính sách? Xét đến mục tiêu tăng GDP 6,5% trong năm nay, tôi chưa thấy có yếu tố nào là động lực cho tăng trưởng cả. Đầu tư thì chắc là không thể thêm nữa vì đã tăng cao quá rồi, bởi nếu ICOR (hệ số sinh lời từ đồng vốn đầu tư - PV) tạm tính là 8 thì đầu tư ít nhất phải tăng 45%!
  11. Bội chi năm tới là 6,2% GDP, theo tôi là hơi cao, nên chắc cũng phải thắt chặt chi tiêu. Còn tín dụng năm nay đã cao, nếu năm tới khống chế mức 25% thì rất khó có thể đáp ứng đủ nguồn lực để đảm bảo tăng trưởng 6,5%. Thêm nữa là xuất nhập khẩu, trong thời gian ngắn tới đây cũng khó mà cải thiện đáng kể được. Hy vọng 2010 xuất khẩu tốt lên, kiểm soát được nhập khẩu thì còn có đóng góp cho tăng trưởng. Soát lại các yếu tố để đảm bảo tăng trưởng, tôi không thấy khả năng nào có thể đảm bảo mức tăng trưởng 6,5% cả. Cho nên, nếu Chính phủ mở một yếu tố nào đó, mà mở quá mức đến không kiểm soát được thì sẽ tạo ra lạm phát. Đó là cái đáng ngại của năm 2010, mà tôi nói phụ thuộc vào chính sách là vì thế. Nhưng gần đây, Chính phủ đã thắt chặt chính sách rồi? Năm 2010, Chính phủ đã đặt mục tiêu ổn định vĩ mô lên trên rồi. Trước đó, trong năm 2009 thì mục tiêu vẫn là làm sao để tăng trưởng không quá thấp, nhưng sau đó thì yếu tố ổn định đã được đảo lên trên. Liên quan đến họat động xuất nhập khẩu, năm tới chúng ta sẽ phải đặt mục tiêu kiềm chế nhập siêu, thông qua đó thì phải kiềm chế nhập khẩu. Như vậy thì tác động từ giá cả thế giới đến mặt bằng giá trong nước sẽ đỡ hơn. Ngoài ra, năm 2009 đã có điều chỉnh mạnh tỷ giá hối đoái rồi thì năm tới sẽ không có điều chỉnh tỷ giá kiểu như thế nữa. Mà tác động của giá cả thế giới vào Việt Nam liên quan rất nhiều đến tỷ giá hối đoái. Ngân hàng Nhà nước mới đây cũng tăng lãi suất cơ bản, cũng nhằm rút bớt tiền trong lưu thông về. Hơn nữa, năm 2010, một trong những bài toán lớn của Việt Nam là tập trung vào chuyển dịch cơ cấu. Nếu Chính phủ tiếp tục chọn ưu tiên cho ổn định vĩ mô thì tác động đến giá cả thị trường sẽ theo hướng ổn định hơn... Ngại tín dụng tăng Tức là theo ông, việc kinh tế thế giới hồi phục và giá cả thế giới có xu hướng tăng lên không tác động nhiều đến giá cả trong nước? Tôi cho rằng giá cả trên thế giới năm nay có tăng, nhưng sẽ không tạo ra yếu tố gây sốc lớn, tất nhiên là nếu không có gì quá bất thường. Vì năm 2010, nói kinh tế thế giới phục hồi và nhập khẩu đầu vào sẽ tăng giá là nói thế thôi, chứ có phục hồi nhưng cũng không nhanh được. Nhiều phân tích cho rằng tác động lớn nhất lên lạm phát năm 2010 là từ chính sách tiền tệ đã nới lỏng khá nhiều trong năm qua. Tổng phương tiện thanh toán, tăng trưởng tín dụng đều cao so với tăng trưởng GDP... Theo các con số được công bố thì tổng phương tiện thanh toán M2 là trên 28%; tăng
  12. trưởng tín dụng là 37,7%. Riêng với M2 thì không vấn đề gì. So với tăng trưởng GDP thực tế, xưa nay tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán bao giờ cũng cao hơn. Bình thường, M2 tăng khoảng 25%. Năm 2008 thì không nói, vì năm đó thắt chặt tín dụng và tiền tệ để chống lạm phát. Ngại là tốc độ tăng tín dụng, vì như vậy là lượng tiền trong lưu thông tăng. Nhưng sau khi tín dụng tăng đến 35%, cuối năm 2009 chúng ta đã có biện pháp thắt chặt tiền tệ rồi. Cho vay hệ thống ngân hàng tăng cao hơn huy động trong năm 2009. Trong khi đó, vòng quay của tiền tệ được dự báo có thể tăng cao hơn trong năm 2010, khi kinh tế bước vào giai đoạn phục hồi. Như vậy, cân đối M2 và GDP có thể còn lệch lạc hơn? Tiền ở ngoài hệ thống ngân hàng không được công bố nên không tính được vòng quay tiền tệ. Mà hiện nay cái người ta quan tâm là vòng quay của tiền ấy. Tiền trong lưu thông càng quay nhanh thì càng lạm phát, và càng lạm phát thì càng quay nhanh. Vì ai cũng muốn “buông” tiền ra cả. Nhưng theo tôi, vòng quay tiền tệ trong năm 2010 có tăng nhưng sẽ không tăng đột biến được. Hai kịch bản cho năm 2010 Vậy theo ông, có những kịch bản nào cho lạm phát năm 2010? Hiện cũng đã có nhiều kịch bản lạm phát cho năm 2010. Thứ nhất, theo dự báo của Chính phủ là 7%. Kịch bản thứ hai là của một số tổ chức quốc tế, họ cho rằng lạm phát có thể lên đến 10%. Cá nhân tôi cho rằng có hai kịch bản lớn. Thứ nhất, nếu năm tới chúng ta điều hành chính sách tốt, ứng phó tốt với tình hình biến động của kinh tế thế giới và cân nhắc giữa ổn định và tăng trưởng thì sẽ giữ được lạm phát ở mức 1 con số, khoảng từ 7% đến dưới 10%. Thứ hai, nếu ưu tiên tăng trưởng hơn, hoặc có một số sai lầm chính sách nào đó, thì lạm phát có thể đến 12%, thậm chí cao hơn. Khi ấy, kịch bản lạm phát năm 2010 có thể lặp lại của năm 2007, lạm phát khi đó ở mức 12,63% do Chính phủ ưu tiên tăng trưởng quá mức để cố đạt mức tăng GDP 8,5%. Tuy nhiên, căn cứ những yếu tố bên trong và bên ngoài, tôi cho rằng khả năng giữ ở mức 1 con số là cao. Lạm phát Việt Nam 2010 có thể ở mức 2 con số (Dân trí) - Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự báo: Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm 2010 ở mức 6% nhưng lạm phát có thể lên 2 con số do tăng trưởng tín dụng mạnh. Giá hàng hóa thế giới cao trở lại cũng sẽ tác động đến giá cả trong nước.
  13. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng: "Việt Nam luôn trân trọng từng đồng vốn ODA" (ảnh: Việt Hưng). Sáng nay 3/12, Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ năm 2009 (CG 2009) với chủ đề “Phục hồi tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững” đã diễn ra tại Hà Nội. Hội nghị thu hút gần 500 đại biểu từ cơ quan Chính phủ, các nhà tài trợ, các tổ chức quốc tế, khối doanh nghiệp, cơ quan thông tin đại chúng. Phát biểu tại hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng khẳng định: "Việt Nam luôn trân trọng từng đồng vốn ODA và đảm bảo thực hiện các cam kết với trách nhiệm cao với các nhà tài trợ. Việt Nam sẽ tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh để thu hút các nguồn vốn đầu tư, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu và mở rộng thị trường trong nước”. Theo bà Vitoria Kwakwa, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng thế giới (WB) tại Việt Nam: WB đánh giá cao năng lực điều hành của Chính phủ Việt Nam trong thời gian qua và Việt Nam một lần nữa chứng minh khả năng của mình vượt qua những thách thức, khó khăn về mặt kinh tế để giành được những thắng lợi nhất định. Việt Nam đã tránh được một cuộc suy thoái trong bối cảnh suy thoái kinh tế tài chính toàn cầu đang rất nghiêm trọng. "Những ngày qua, Chính phủ công bố những điều hành về kinh tế mà tôi cho là đúng hướng nhằm duy trì ổn định kinh tế vĩ mô. Sự thành công này đã được các đối tác phát triển và đặc biệt là cộng đồng quốc tế công nhận. Tôi xin chúc mừng Thủ tướng cùng nhân dân Việt Nam về những thành tựu to lớn này" - bà Kwakwa nói. Đại diện Liên Hợp Quốc tại Việt Nam cũng cho biết: Cách đây một năm, Việt Nam được cho là một trong các quốc gia trên thế giới chịu tác động mạnh nhất của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Nhưng đến
  14. hôm nay, Việt Nam lại nổi lên như một trong những nền kinh tế mạnh nhất trong khu vực. Tác động của cuộc khủng hoảng đối với việc làm và khu vực doanh nghiệp Việt Nam đã ít trầm trọng hơn so với lo ngại của một năm trước đây. Lạm phát khiến giá cả hàng hóa tăng luôn là nỗi lo của các nhà quản lý vĩ mô (ảnh minh họa). Tuy nhiên, theo ông Shogo Ishii, Trợ lý Vụ trưởng Vụ châu Á - Thái Bình Dương của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), bên cạnh những thành tựu đạt được, Việt Nam cần giải quyết vấn đề trước mắt là áp lực đối với cán cân thanh toán. Sự nới lỏng chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa theo chương trình kích thích kinh tế đã đẩy mạnh nhập khẩu, góp phần làm thâm hụt cán cân thương mại lớn quay trở lại, gây ảnh hưởng tiêu cực đến niềm tin của các nhà đầu tư về Việt Nam. Dự báo mới nhất của tổ chức này cho thấy, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm 2010 ở mức 6%. Lạm phát có thể tăng từ 7% trong năm 2009 lên mức hai con số do tăng trưởng tín dụng mạnh trong thời gian gần đây. Giá hàng hóa thế giới cao trở lại cũng sẽ tác động đến giá cả trong nước. Bên cạnh nguy cơ lạm phát lên 2 con số, các đại diện quốc tế còn nhấn mạnh tới những thách thức đối với Việt Nam trong năm tới. Đó là bẫy thu nhập trung bình và vấn đề biến đổi khí hậu, nước biển dâng. Đại diện cơ quan liên hợp quốc (UNDP) cảnh báo Việt Nam có thể rơi vào bẫy thu nhập trung bình, nếu hài lòng với những kết quả đã đạt được. Về vấn đề biến đổi khí hậu, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho rằng, Việt Nam là một trong số ít quốc gia chịu tác động nặng nề nhất của biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Là nước sản xuất 1/5 lượng gạo xuất khẩu của thế giới; nếu không đối phó hiệu quả với vấn đề này sẽ gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng không những cho Việt Nam mà còn ảnh hưởng tới an ninh lương thực thế giới. Do đó, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng kêu gọi sự ủng hộ, hỗ trợ hiệu quả của cộng đồng quốc tế, các nhà tài trợ dành cho Việt Nam trong đối phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Kiềm chế lạm phát 2010: Cần ưu tiên chính sách tài khóa Xem tin gốc
  15. Đầu tư CK - 7 tháng trước 1518 lượt xem 3 tin đăng lại (ĐTCK-online) Nguy cơ tái lạm phát (LP) cao vẫn luôn được cảnh báo trong thời gian gần đây, theo các chuyên gia kinh tế, LP là một trong những mối lo chính của nền kinh tế trong năm 2010. Bởi vậy, việc chủ động kiềm chế LP nên được coi là ưu tiên số một trong nỗ lực ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp (DN). Facebook Twitter 0 bình chọn Viết bình luận Lưu bài này "Phòng ngừa LP cao tái xuất hiện là công việc khó khăn nhất trong năm 2010 nếu muốn ổn định kinh tế vĩ mô", TS. Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam nhận định. Theo ông Thiên, có nhiều lý do để đưa ra nhận định này, đó là kết thúc năm 2009, tăng trưởng tín lên tới 38 - 39%; cung tiền cũng ở mức khá cao khi ngân sách chi tới 42- 43% GDP cho đầu tư; thâm hụt ngân sách ở mức cao nhất trong vòng 10 năm trở lại đây, lên đến 6,9%. Ngoài ra, theo lộ trình, trong năm 2010 sẽ tăng lương, cộng với tình hình kinh tế thế giới ấm lên sẽ làm giá cả các mặt hàng tăng… Cùng quan điểm lo ngại LP cao có thể tái xuất hiện, TS. Vũ Thành Tự Anh, Giám đốc nghiên cứu Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright làm rõ thêm, nếu nhìn vào chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của năm 2009 là 6,88% thì dường như không có cơ sở để lo lắng về nguy cơ tái LP cao tái xuất hiện. Tuy nhiên, nếu nhìn vào động thái chính sách vĩ mô thời gian qua, đồng thời đặt nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh chung của kinh tế thế giới, thì có những lý do chính đáng để lo ngại LP có thể quay trở lại trong năm 2010. Điểm quan trọng theo ông Anh, nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu, vì vậy việc giảm giá VND trong tháng 11/2009 cùng với sức ép tiếp tục giảm giá VND trong năm 2010 chắc chắn ảnh hưởng tới mặt bằng giá chung. Hơn nữa, kỳ vọng về LP của thị trường vẫn đang duy trì, thể hiện qua lãi suất trong các phiên đấu thầu trái phiếu chính phủ ở tất cả các kỳ hạn. Nhiều nhà đầu tư tin rằng, LP trong những năm tới sẽ cao trở lại, do đó đòi hỏi mức lãi suất cao tương ứng. Trên thị trường tín dụng, các ngân hàng thương mại vẫn đứng trước sức ép tăng lãi suất huy động, để vừa chuẩn bị thanh khoản cho nhu cầu tín dụng thời gian tới, vừa đáp ứng yêu cầu của người gửi tiền khi kỳ vọng LP của họ gia tăng. Theo ông Anh, sự giằng co giữa mục tiêu khống chế CPI 7% và tăng trưởng GDP 6,5% trong năm 2010 có thể dẫn tới một số thay đổi đột ngột trong quỹ đạo chính sách. Khác với 5 - 7 năm trước đây, thực tiễn cho thấy đang có sự đánh đổi khá đắt giữa một bên là bất ổn kinh tế vĩ mô đi liền với tăng trưởng cao và ngược lại. Mỗi khi có bất ổn kinh tế vĩ mô thì cái giá phải trả cho sự tăng trưởng không rẻ. Bởi vậy, việc chủ động kiềm chế LP nên được coi là ưu tiên số một trong nỗ lực ổn định kinh tế vĩ mô trong năm 2010. Để đạt mục tiêu này, theo ông Anh, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cần thực hiện chính sách tiền tệ thận trọng, nhằm kiềm chế tốc độ tăng trưởng tín dụng và cung tiền. Nếu Chính phủ vẫn muốn duy trì một mức tăng trưởng GDP khả dĩ, thì nên sử dụng chính sách tài khóa. Thực tế cho thấy, trong một nền kinh tế có chế độ tỷ giá gần như cố định như Việt Nam, chính sách tài khóa tỏ ra hiệu quả hơn trong giúp tăng trưởng GDP, đồng thời không gây sức ép quá lớn tới mặt bằng giá. Tuy nhiên, điều này chỉ đúng nếu như ngân sách được sử dụng thực sự hiệu quả, đồng thời hạn chế hiệu ứng chèn lấn đối với khu vực dân doanh. NHNN cũng cần điều chỉnh chính sách chính sách theo hướng giảm tâm lý găm giữ USD, chẳng hạn như thông qua việc duy trì chênh lệch lãi suất USD và vàng so với VND ở mức hợp lý, để khuyến khích người dân giữ VND, thay vì găm giữ USD và vàng. Việc chủ động kiềm chế LP chỉ mang lại hiệu quả cao khi các biện pháp tiền tệ được thực thi đồng thời với các giải pháp về tài khóa. Theo GS.TS Nguyễn Thanh Tuyền, Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế - Tài chính TP. HCM, cần đổi mới chính sách tài khóa theo hướng công khai, loại bỏ yếu tố “xin - cho”, để bảo đảm công bằng trong phân bổ
  16. ngân sách. Cùng với thắt thắt chặt hợp lý, nên tăng hiệu quả của chi ngân sách, nhất là chi cho đầu tư công nhằm giảm sức ép đối với CPI và giảm rủi ro khi có những biến động từ bên ngoài. Hạn chế khởi công các dự án lớn, mà thay vào đó tập trung vốn cho hoàn thành các dự án có thể đưa vào sử dụng trong năm 2010 và 2011. Với lập luận để đạt mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô trong năm 2010, đồng thời tạo tiền đề thuận lợi cho nền kinh tế tăng trưởng bền vững trong dài hạn, ông Thiên cho rằng, cùng với triển khai các giải pháp cấp bách, cần tái cấu trúc nền kinh tế, mà bản chất là tạo ra hành lang pháp lý để đảm bảo việc phân bổ các nguồn lực đầu tư hiệu quả. Muốn vậy, cần tạo bước đột phá về cổ phần hóa DN nhà nước và tạo ra môi trường kinh doanh tiết kiệm chi phí hơn cho DN. Tuy môi trường kinh doanh đã có nhiều cải thiện, nhưng chỉ cần nhìn vào chỉ số ICOR liên tục tăng trong những năm gần đây (năm 2007 là 5,2, năm 2008 là 6,6, năm 2009 lên đến 8), rõ ràng không gian cho cải thiện môi trường kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư còn khá rộng. NHÌN NHẬN LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ HỘI NHẬP VÀ TOÀN CẦU HOÁ Posted on 30/10/2008 by Civillawinfor TS. DƯƠNG HỒNG PHƯƠNG Lạm phát cơ bản – Một số kinh nghiệm trong áp dụng thực tiễn ở các nước Xu hướng hiện nay trên thế giới, đặc biệt ở các nước công nghiệp tiên tiến như Mỹ, Canađa, Ôxtrâylia, Niu Dilân hay các nước thuộc Liên minh Châu Âu EU, bên cạnh chỉsố CPI thông thường, Ngân hàng Trung ương (NHTW) luôn công bố cả lạm phát cơ bản của nền kinh tế. “Lạm phát cơ bản” được hiểu là lạm phát đã được điều hòa (điều chỉnh một cách đều đặn) theo các yếu tố sức ép bên cầu và những trông chờ kỳ vọng vào tương lai có loại bỏ những biến động lớn gây sốc bên cung (ví dụ các biến động thời vụ hoặc các cú sốc đột biến). Mặc cho sự tồn tại của nhiều cách đo lường khác nhau nhưng các định nghĩa về lạm phát cơ bản không phải là tùy tiện. ở đâu cũng vậy, ý tưởng chính đằng sau khái niệm lạm phát cơ bản là việc loại trừ những biến động nhất định về giá cả một số hàng hóa, làm méo mó việc đo lường xu hướng lạm phát của một nước. Đặc biệt đối với một số loại giá được coi là có biến động lớn, khá ngẫu nhiên, mang tính nhất thời và không theo bất cứ một xu hướng nào. Tất cả những loại giá đó chỉ gây ra sự thay đổi tạm thời mặt bằng giá nói chung và sẽ lại biến mất ngay sau đó. Những biến động bất thường này sẽ xảy ra, ví dụ trong trường hợp của các loại lương thực thực phẩm tươi sống theo thời vụ và chủ yếu phụ thuộc vào sự biến động của chất lượng mùa màng do tác động của thiên tai hay những sự cố bệnh dịch như bệnh dịch bò điên hay dịch cúm gà… gây ra. Sự biến động cho tới những cơn sốc của giá dầu thô trên thị trường thế giới từ trước đến nay cũng thường xuyên chịu tác động của các nhân tố tạm thời như chiến tranh, bệnh dịch, thời tiết… Trên thực tế, vấn đề khó khăn trong việc xác định xu hướng giá cả với sự trợ giúp của phương pháp loại bỏ này là rất khó dự tính được liệu những biến động bất thường đó về giá cả chỉ là tạm thời trong ngắn hạn hay sẽ còn kéo dài một khoảng thời gian khá lâu nữa. Chẳng hạn như khi xác định giá cả dầu thô: sự tăng giá của dầu thô một mặt, phụ thuộc chủ yếu vào nhu cầu trung hạn về dầu thô trên thị trường quốc tế và do đó, lại phụ thuộc vào các nhân tố tăng trưởng kinh tế; mặt khác, còn phụ thuộc vào sản lượng khai thác và cung cấp dầu trên thị trường dưới tác động của một loạt các yếu tố như an ninh, chính trị, quân sự, thời tiết… Theo quan điểm của các nước nhập khẩu dầu, những thay đổi về các điều kiện thương mại cũng như tỷ giá của đồng bản tệ so với đồng USD cũng đóng một vai trò quan trọng đối với sự biến động giá dầu nhập khẩu về. Đối với các loại thực phẩm theo thời vụ lại còn có vấn đề là: trong khi có những biến động lớn, giá cả các mặt hàng này vẫn biến động theo xu hướng giá cả chung. Do lạm phát cơ bản được coi là phản ánh xu hướng của lạm phát nên khi tính toán tỷ lệ này phải chú ý cả những biến động giá cả có liên quan đến xu hướng chung. Điều này đặc biệt quan trọng trong trường hợp các loại giá cả thực phẩm thời vụ tách khỏi xu hướng chung và do đó, sẽ làm thay đổi phần nào xu hướng lạm phát. Bởi phải loại bỏ hoàn toàn và thường
  17. xuyên các cấu phần giá cả nhiên liệu và thực phẩm thời vụ nên xu hướng lạm phát nhìn chung sẽ không bao giờ được phản ánh đầy đủ một cách tuyệt đối cả. Để khắc phục được một phần nhược điểm này, nhiều NHTW các nước đang tăng cường sử dụng mô hình hóa lạm phát cơ bản ở nước mình theo hai cách với sự hỗ trợ của các phương pháp thống kê nhất định. Một là, xác định các thành phần giá cả dễ biến động và quy định một quyền số thấp trong tính toán giá của rổ hàng hóa; như vậy, những thông tin về các loại giá cả này sẽ không hoàn toàn bị mất đi. Hai là, chia tách sự biến động chỉ số giá tiêu dùng, hoặc các bộ phận cấu thành riêng lẻ của nó thành những phần mang tính tạm thời và phần mang tính thường xuyên và lâu dài; trong đó, phần có tính lâu dài sẽ biểu thị xu hướng lạm phát và lạm phát khi đó sẽ được xác định tương ứng cho kỳ hạn dài hơn một năm. Cách xác định lạm phát cơ bản cho thấy vào thời điểm hiện nay những thông tin về xu hướng giá rất quan trọng vẫn đang còn bị bỏ qua. Do vậy, chỉ số lạm phát cơ bản phải thường xuyên được xem xét và điều chỉnh lại cách tính toán cho phù hợp tình hình thực tế ở từng nước, từng khu vực. Trong báo cáo tháng 1/2004, ECB đã rà soát lại tác động của thuế gián thu và chi phí hành chính lên lạm phát ở khu vực Euro: kết quả phân tích cho thấy phần chi phí thuốc lá chiếm tỷ trọng 2,3% trong cấu thành chỉ số giá tiêu dùng đã điều hòa (HICP), nên khi thuế thuốc lá bắt đầu gia tăng đáng kể từ quý IV/2003 ở cả Pháp và Đức, là 2 nền kinh tế hàng đầu khu vực, khiến cho giá thuốc lá ở Châu Âu dự tính sẽ gia tăng ít nhất 8% trong năm 2004 so với 2003, dẫn tới chỉ số lạm phát chung của cả khu vực sẽ gia tăng ít nhất 0,2% trong cùng kỳ. Tương tự như vậy đối với phần chi phí quản lý hành chính công cộng: cuộc cải cách y tế ở Đức cũng sẽ làm tăng thêm 0,2% lạm phát của toàn khu vực trong năm 2004. Tổng hợp lại, cả thuế thuốc lá và chi phí hành chính đang chiếm tỷ trọng khoảng 8% HICP sẽ làm gia tăng lạm phát ở khu vực Euro ít nhất thêm 0,5% trong năm 2004. Nếu loại bỏ tác động của các yếu tố thuế và chi phí hành chính nói chung thì lạm phát bình quân khu vực này sẽ chỉ còn ở mức thấp xấp xỉ 1% thay vì 2% trong cả 2 năm 2004 và 2005. Đây là điều cần cân nhắc kỹ trong phân tích, đánh giá chính sách tiền tệ của ECB để có thể kiềm chế hiệu quả lạm phát ở khu vực Euro ở mức xấp xỉ dưới 2% như mục tiêu đã đề ra trong trung hạn. Nếu nhìn nhận một cách tổng quát, lạm phát cơ bản phản ánh xu hướng lạm phát tốt hơn so với lạm phát. Đường đồ thị lạm phát cơ bản nhìn chung bằng phẳng hơn đã cho thấy như vậy. Lạm phát cơ bản cho biết liệu giá cả có thay đổi không hoặc thay đổi khi nào với mức độ ra sao. Tuy nhiên, lạm phát cơ bản không phải là 1 chỉ số hàng đầu về sự thay đổi xu hướng giá cả. So với lạm phát, lạm phát cơ bản phản ánh tương đối trễ các thời điểm thay đổi xu hướng lạm phát. ở đây phải lưu ý rằng các tác động của chính sách tiền tệ cũng phải sau một độ trễ nhất định mới có hiệu lực; do đó, sẽ là quá muộn nếu các NHTW cứ khoanh tay đợi cho đến khi lạm phát cơ bản bắt đầu tăng lên trước khi cố gắng làm giảm sức ép lạm phát. Do cả lạm phát và lạm phát cơ bản đều có những lợi ích và các mặt hạn chế, tốt nhất nên theo dõi phân tích cả 2 chỉ số này trong điều hành chính sách kinh tế tài chính vĩ mô. Xem xét phản ứng của các NHTW hàng đầu thế giới như Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) hay ECB từ trước đến nay cho thấy các NHTW này đã phải tăng lãi suất định hướng đáng kể và đúng lúc để chống lại sự tăng giá tạm thời và để đảm bảo cho sự ổn định giá cả lâu dài trong nước, khu vực. Ví dụ trường hợp tăng lãi suất định hướng liên ngân hàng mới đây nhất (30/6/2004) của Fed từ mức 1%/năm lên 1,25%/năm cho dù lạm phát ở Mỹ nhìn chung vẫn còn ở mức thấp chưa đáng lo ngại (cuối tháng 5/2004 lạm phát chung của Mỹ là 3,1%/năm còn lạm phát cơ bản là 1,7%/năm) nhưng diễn biến gia tăng giá cả đã phát những tín hiệu rõ rệt về xu hướng tăng giá ở Mỹ nếu so sánh với các mức lạm phát chung là 2,3%/năm và lạm phát cơ bản chỉ vào khoảng 1,1%/năm vào cuối năm 2003. Như vậy, để đánh giá đầy đủ về tình hình lạm phát, các NHTW cần phải có một cách nhìn nhận sáng suốt về vấn đề này, nhất là ở những nền kinh tế còn yếu kém và bất ổn định của các nước đang phát triển. Ngay tại cuộc Hội thảo trong tháng 7/2000 về đề tài “Lạm phát cơ bản và cách dự báo lạm phát” do Trung tâm Đào tạo và Nghiên cứu của các NHTW Đông Nam á (SEACEN) tổ chức cho các quan chức NHTW tại các nước Châu á (chủ yếu là các nước đang phát triển như Inđônêxia, Malaixia, Mông Cổ, Nê pan, Philippin, Thái Lan, Trung Quốc, Việt Nam và Xrilanca), các thành viên tham dự Hội thảo đã nhận thức được sự cần thiết và tầm quan trọng của chỉ số lạm phát cơ bản, cách xác định chỉ số này rất có ý nghĩa phục vụ cho các mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ của các nước trên 3 phương diện: đề ra chính sách, trách nhiệm bảo
  18. đảm thực hiện chính sách đã đề ra và xúc tiến công tác dự báo và ước tính theo mô hình kinh tế lượng. Cơ sở quan trọng để tính toán lạm phát cơ bản chính là chất lượng chuẩn xác và tính kịp thời của các số liệu thống kê giá cả và tiền tệ được tập hợp và xử lý trong tính toán. Đây là vấn đề trọng tâm thu hút sự quan tâm chú ý của hầu hết NHTW các nước, các khu vực có sử dụng chỉ số lạm phát cơ bản trong điều hành chính sách. Từ tháng 8/2000, ECB cũng đã kêu gọi các nước thành viên trong khu vực Euro cần có sự cải cách về cách thức thu thập và tính toán các chỉ số kinh tế trong khu vực vì số liệu mà ECB nhận được từ các nước thành viên chưa đạt các chuẩn mực cần thiết. Trong đó, ECB nêu rõ số liệu về khu vực dịch vụ là đặc biệt cần thiết phải quan tâm để có được đầy đủ và chính xác hơn. ECB còn yêu cầu các thành viên phải cung cấp và công bố số liệu kịp thời hơn vì nếu so sánh thì các nhà quản lý và hoạch định chính sách của ECB thường có thông tin, số liệu quan trọng về GDP hay về thị trường lao động… chậm hơn nhiều so với các đồng nghiệp ở Mỹ. Chỉ số giá tiêu dùng ở Việt Nam trong xu hướng giá cả trên thế giới gia tăng Cho đến nay, Việt Nam mới chỉ tính toán và công bố chính thức chỉ số giá tiêu dùng CPI, chưa tính toán lạm phát cơ bản. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) hiện nay của Việt Nam được tính trên cơ sở chỉ số giá tiêu dùng của các tỉnh, thành phố trong cả nước. Chỉ số giá của từng tỉnh, thành phố được tính theo phương pháp bình quân số học gia quyền giữa chỉ số giá tiêu dùng nhóm cấp III, cấp II rồi cấp I với quyền số cố định tương ứng trên cơ sở cơ cấu chi tiêu hộ gia đình tổng hợp từ kết quả điều tra do Tổng cục Thống kê tiến hành năm 2000. Danh mục thu thập giá gồm khoảng 396 mặt hàng, chia theo 10 nhóm tiêu dùng cấp I, lại được phân tiếp thành 34 nhóm cấp II, 86 nhóm cấp III và 75 nhóm cấp IV. Sự phân nhóm được tiến hành theo hình tháp, càng xuống thấp số lượng nhóm càng lớn (trong mỗi nhóm đều bao gồm hàng hóa và dịch vụ cho từng loại nhu cầu tiêu dùng). Ví dụ trong nhóm tiêu dùng cấp I, lương thực – thực phẩm lại được phân tiếp thành 3 nhóm cấp II và 20 nhóm cấp III… Phương pháp xác định chỉ số CPI của Việt Nam được diễn tả ở trên cho thấy: Nhìn chung, các mức quyền số cố định có tác động chi phối đáng kể đến xu hướng và mức độ biến động chỉ số giá tiêu dùng ở Việt Nam. Tổng cộng có 10 nhóm hàng hóa và dịch vụ của rổ hàng hóa dịch vụ tham gia kết cấu quyền số tính chỉ số giá tiêu dùng CPI; các mức quyền số này đã được Tổng cục Thống kê tính toán xác định trên cơ sở cơ cấu chi tiêu thực tế ở các hộ gia đình đã được điều tra khảo sát theo định kỳ khoảng 5 năm một lần (gần đây là các năm 1995, 2000 được lấy làm năm gốc điều tra). Trong đó, quyền số cố định của nhóm hàng cấp I lương thực – thực phẩm vẫn đứng ở vị trí cao nhất với mức 47,9% (đã giảm đáng kể so với mức 60,86% ở năm 1995); còn quyền số cố định của 9 nhóm cấp I còn lại thấp hơn rất nhiều. Như vậy, xu hướng biến động chỉ số giá tiêu dùng ở Việt Nam từ trước đến nay, nhất là kể từ khi tính toán và công bố chính thức chỉ số CPI, chủ yếu chịu ảnh hưởng của sự biến động giá lương thực thực phẩm là mức giá hay thay đổi mạnh do phải chịu nhiều yếu tố tác động khác nhau ở trong và ngoài nước. Điều này đã được minh chứng qua số liệu thống kê thực tiễn về chỉ số giá tiêu dùng trong một số thời kỳ phát triển điển hình của nền kinh tế Việt Nam: ví dụ trong năm 1999, là năm chỉ số giá tiêu dùng Việt Nam đã liên tục giảm xuống mức âm trong 8 tháng liền với mức bình quân – 0,55%/tháng chủ yếu là do chỉ số giá lương thực – thực phẩm giảm mạnh lần lượt ở các mức bình quân – 1,85%/tháng và -0,58%/tháng trong khi chỉ số giá bình quân của 9 nhóm hàng hóa dịch vụ còn lại trong thời kỳ này hầu như không đổi, thậm chí còn tăng nhẹ (1 hoặc 2 trường hợp cũng có giảm nhưng chỉ giảm ở mức bình quân trên dưới -0,1%/tháng). Hay như trường hợp gần đây, nhất là giai đoạn 7 tháng đầu năm 2004: so với cuối năm năm 2003, chỉ số CPI của cả nước tăng 7,7%, trung bình mỗi tháng tăng 1,1%, chủ yếu do giá lương thực – thực phẩm tăng tới 13,7% (trong đó, giá lương thực tăng 11,2% và giá thực phẩm tăng 15,4%), trong khi chỉ số giá bình quân của 9 nhóm hàng tiêu dùng còn lại trong cùng kỳ hầu như chỉ tăng nhẹ ở mức 1 chữ số, không cao quá mức 5% (riêng giá hàng hóa dịch vụ nhóm dược phẩm y tế tăng 7,7% do phải nhập khẩu tới 60% nguyên liệu sản xuất thuốc chữa bệnh; trong khi chỉ số giá nhóm giáo dục lại giảm nhẹ 2,7%). Nếu so với cùng kỳ năm 2003 thì chỉ số giá tiêu dùng CPI của Việt Nam trong tháng 7/2004 đã tăng 9,1%/năm – mức tăng cao nhất trong hơn 5 năm qua (lần cuối gần đây nhất CPI của Việt Nam cũng đã tăng 9,1%/năm là vào tháng 1/1999) chủ yếu do giá lương thực –
  19. thực phẩm tăng mạnh với mức 15,5% trong cùng kỳ. Theo dự báo của Bộ Tài chính Việt Nam, chỉ số lạm phát chung của Việt Nam trong cả năm 2004 sẽ là 9%. Giá tiêu dùng tăng cao có ảnh hưởng không tốt đến thu nhập và đời sống của đại bộ phận dân cư. Đó là chưa kể đến giá các loại nguyên vật liệu thiết yếu cho sản xuất công nghiệp và nông nghiệp ở Việt Nam đều đã tăng rất cao từ đầu năm 2004 đến nay do phải phụ thuộc nặng nề vào nguồn nhập khẩu như xăng và các sản phẩm dầu phải nhập khẩu 100%, phân đạm 90%, phôi thép 75% và thép thành phẩm 65%… Hệ quả là khi giá các mặt hàng nguyên vật liệu này trên thị trường thế giới tăng cao thì giá nhập khẩu chúng vào Việt Nam cũng phải tăng theo rất mạnh nếu ngân sách nhà nước không đủ khả năng bù lỗ. Tính ra trong 6 tháng đầu năm 2004, giá cả của hầu hết nguyên nhiên liệu thiết yếu cho sản xuất công – nông nghiệp như xăng dầu, sắt thép… đều tăng nhanh đột biến lần lượt với các mức 23,6% và 48% so với cùng kỳ năm trước chủ yếu do nhu cầu tiêu thụ rất mạnh của 2 nền kinh tế khổng lồ trên thế giới là Mỹ và Trung Quốc, còn giá phân bón thì tăng 5,7% so với cuối năm 2003. Giá cả trên thị trường thế giới tăng cao đã gây tác động trở lại làm gia tăng đáng kể lạm phát ở ngày càng nhiều nước trên thế giới từ các nước công nghiệp tiên tiến như Mỹ (chỉ số giá tiêu dùng đã tăng từ 1,7%/năm trong tháng 2/2004 lên tới 5,1%/năm trong tháng 5/2004), các nước khu vực Euro (chỉ số CPI từ tháng 2-5/2004 đã tăng từ 1,6%/năm lên 2,5%/năm – cao vượt mức trần mục tiêu 2%/năm), rồi Nhật Bản (CPI đã tăng 1,1%/năm trong tháng 5/2004 – mức tăng CPI cao nhất kể từ năm 1997) cho đến các nước đang phát triển như Trung Quốc (trong tháng 6/2004 chỉ số giá sản xuất tăng 6,4%/năm còn CPI đã tăng lên gần 5%/năm – mức tăng cao nhất trong vòng 7 năm qua; CPI của cả năm 2003 chỉ vào khoảng 1%). Mức độ tăng giá nguyên vật liệu sản xuất và giá hàng tiêu dùng trong 7 tháng đầu năm 2004 ở Việt Nam như vậy là khá cao và như Bộ Tài chính Việt Nam đã thừa nhận có gây tác động không nhỏ đến nền kinh tế, đời sống xã hội: “tác động xấu đến sản xuất kinh doanh, đến chính sách kinh tế vĩ mô, giá đầu ra, ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ” (Báo cáo của Bộ Tài chính tại Hội nghị triển khai các giải pháp thực hiện thắng lợi nhiệm vụ tài chính – ngân sách 2004 và xây dựng dự toán ngân sách 2005 ngày 23/6/2004 tại Hà Nội). Cũng tại Hội nghị này, Phó Thủ tướng Vũ Khoan đã khẳng định mặt bằng giá cả ở Việt Nam cũng phải tăng lên theo xu hướng tăng giá trên thị trường thế giới trong bối cảnh hội nhập toàn cầu hóa hiện nay: “Vấn đề giá cả theo tôi là vấn đề nóng bỏng nhất hiện nay. Trong hoàn cảnh hiện tại, giá cả của nước ta phụ thuộc hầu như hoàn toàn vào giá thế giới, nhất là một số mặt hàng thiết yếu như sắt thép, dầu xăng, xi măng… nên theo tôi, không thể điều khiển hoàn toàn được giá cả. Nếu không nhận thức phù hợp về vấn đề này sẽ không giải quyết được vấn đề giá cả chứ không phải cứ thắt chặt giá cả là đúng… Chúng ta nên hướng dẫn người dân quen dần với tình hình mới, đó cũng là đặc điểm của môi trường hội nhập”. Cũng theo đánh giá của Phó Thủ tướng Vũ Khoan tại Hội nghị nói trên, giá cả trong nước thời gian qua gia tăng mạnh, vượt xa mức mục tiêu Quốc hội đã đặt ra là lạm phát 5% cho cả năm 2004, là do nhiều nguyên nhân mà một phần trong đó là do công tác dự báo của chúng ta “chưa tốt, chưa dự báo được ở mức tối đa”. Trong thực tế, chúng ta chưa tính toán lạm phát cơ bản nên chưa thể xác định được rõ ràng và đầy đủ xu hướng lạm phát ở Việt Nam. Hơn thế nữa, chỉ số giá tiêu dùng CPI hiện nay đang được tính trên cơ sở rổ hàng hóa dịch vụ cùng với các quyền số tương ứng cơ cấu chi tiêu tiêu dùng của các hộ gia đình Việt Nam đã được Tổng cục Thống kê khảo sát điều tra từ trước năm 2000. Đã hơn 3 năm trôi qua, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân ta đã có nhiều đổi thay đáng kể và một điều tương đối chắc chắn là các mức quyền số đó sẽ không thể còn duy trì được mãi ở mức đã cố định từ năm gốc 2000. Nếu theo đúng định kỳ 5 năm thì rổ hàng hóa dịch vụ cùng các mức quyền số kết cấu nên chỉ số giá tiêu dùng CPI của Việt Nam sẽ phải được xác định lại trong năm 2005. Đồng thời, trong xu hướng hội nhập vào thị trường tài chính – tiền tệ khuvực và quốc tế, cùng với Tổng cục Thống kê, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ sớm xác định, tính toán lạm phát cơ bản bên cạnh lạm phát thông thường để đưa vào áp dụng trong công tác dự báo xu hướng lạm phát và điều hành chính sách tiền tệ nhằm ổn định giá cả và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Phương pháp xác định lạm phát cơ bản ban đầu có thể dựa vào nguyên lý tính xác suất thống kê theo mô hình kinh tế lượng trên cơ sở các dãy số lịch sử vì các nguyên nhân sau:
  20. - Cũng giống như nhiều nước đang phát triển, Việt Nam chỉ có thể dùng một số lượng hạn chế các nguồn lực con người và vật chất vào việc điều tra, khảo sát để tạo dựng các chỉ số giá cả chính thức, cho nên các quyền số và các mức giá cả đã được tính toán, xác định kém chính xác hơn nhiều so với hầu hết các nước công nghiệp tiên tiến. - Cùng với tốc độ phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, các mô hình chi tiêu tiêu dùng cũng sẽ nhanh chóng thay đổi theo nhu cầu vật chất tinh thần của người dân cho nên các quyền số dù có được xác định lại khá chính xác thì rồi cũng sẽ rất nhanh chóng bị lỗi thời theo thời gian. - Cũng như phần lớn các nước đang phát triển khác, chỉ số CPI của Việt Nam từ trước đến nay chủ yếu phải chịu sự chi phối của mức giá lương thực – thực phẩm là mức giá hay biến đổi mạnh đột biến, mang tính nhất thời trong ngắn hạn. Khi tính toán lạm phát cơ bản ta có thể dùng phương pháp loại trừ có chọn lọc chỉ số một số loại giá lương thực thực phẩm nhất định ở các nhóm cấp thấp (nhóm cấp II hoặc / và cấp III) để không gây ảnh hưởng đáng kể tốc độ xác thực trong dự báo xu hướng lạm phát chung của nền kinh tế. - Cùng với sự gia tăng phí điều tiết giá cả cũng như tăng cường cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước và phát triển kinh tế tư nhân thì cả mặt bằng giá lẫn các hoạt động sản xuất kinh doanh ở khu vực tư nhân và trong cả nền kinh tế sẽ nhanh chóng thay đổi trong điều kiện cạnh tranh ngày càng bình đẳng và lành mạnh hơn. Tỷ lệ lạm phát của 5 thành viên chính của G8 từ 1950 tới1994 Tỷ lệ lạm phát ở các nước trên thế giới Lạm phát !!! ( Bình chọn: 14 -- Thảo luận: 12 -- Số lần đọc: 25146) Trong kinh tế học, lạm phát là hiện tượng giảm mãi lực của đồng tiền. Điều này cũng đồng nghĩa với “vật giá leo thang”, giá cả hàng hóa,dịch vụ tăng cao khiến với cùng một số lượng tiền, người tiêu thụ mua được ít hàng hóa hơn hoặc phải trả một giá cao hơn để hưởng cùng một dịch vụ. Một khái niệm khác về lạm phát là khối lượng tiền được lưu hành trong dân chúng tăng lên do nhà nước in và phát hành thêm tiền vì những nhu cầu cấp thiết (chiến tranh, nội chiến, thâm thủng ngân sách v.v...). Trong khi đó, số lượng hàng hoá không tăng khiến dân chúng cầm trong tay nhiều tiền quá sẽ tranh mua khiến giá cả tăng vọt có khi đưa đến siêu lạm phát. Những ví dụ cùng cực nhất của siêu lạm phát đã xảy ra tại Đức trong những năm đầu thập niên 1920 khi tỉ lệ lạm phát lên tới 3.25 x 106 mỗi tháng, có nghĩa là giá cả tăng gấp đôi mỗi 49 tiếng đồng hồ hoặc tại Hungary sau Thế chiến thứ hai với tỉ lệ lạm phát 4.19 x 1016 (giá cả tăng gấp đôi mỗi 15 giờ đồng hồ). Để đo lường tỉ lệ lạm phát, người ta thường dùng hai chỉ số:  Chỉ số giá cả sản xuất PPI (Producer Price Index). Đây là chỉ số giá thành sản xuất của một số mặt hàng và dịch vụ tiêu biểu. Mang so sánh với thời kỳ trước để tính ra tỉ lệ tăng giảm như thế nào. Chỉ số PPI tuy có thể là dấu báo hiệu hiện tượng lạm phát nhưng chưa hẳn lạm phát sẽ bắt buộc phải xảy ra.  Chỉ số giá cả tiêu thụ CPI (Consumer Price Index). Chỉ số giá cả của một số nhu yếu phẩm và dịch vụ tiêu biểu. Chỉ số CPI cho biết tỉ lệ lạm phát thật sự đang xảy ra khi so sánh với thời kỳ trước đó. Ảnh hưởng của lạm phát đối với nền kinh tế
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2