Đề bài: Có thể xem bài thơ Lai Tân là bức tranh thu nhỏ của cái chế độ xã hội <br />
Tưởng Giới Thạch được không? phân tích bài thơ để làm sáng tỏ luận điểm trên<br />
Bài làm<br />
Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh được kết hợp từ hai yếu tố "trữ tình" và "hiện thực". <br />
Lai Tân là một trong những bài thơ thể hiện rõ những yếu tố đó. Nó là một thành công <br />
của Bác trong việc kết hợp bút pháp tả thực và trào phúng vẽ nên bức tranh thời sự về <br />
chế độ xã hội Tưởng Giới Thạch.<br />
Với tư cách là người thư kí trung thành của thời đại, Bác đã ghi lại một cách khách quan <br />
những cảnh:<br />
Giam phòng ban trưởng thiên thiên đố<br />
Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền<br />
Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự<br />
Khác với Tú Xương trong hoàn cảnh tự do nên có thể thẳng tay độp vào mặt bọn thống trị <br />
những cái tát giáng trời:<br />
Ở phố Hàng Song thật lắm quan<br />
Thành thì đen kịt, Đốc thì lang<br />
Chồng chung vợ chạ kìa cô Bố<br />
Dậu lạy quan xin nọ chú Hàn<br />
(Lắm quan)<br />
Hồ Chí Minh chỉ có thể mỉa mai, châm biếm sâu cay bọn thống trị bằng ngòi bút trong <br />
hoàn cảnh tù đày, gông xiềng. Từ cái mặt bên ngoài đến tận cùng những ngóc ngách bên <br />
trong của bộ máy thống trị Trung Hoa quốc dân đảng đã chứa đầy những mâu thuẫn. Tác <br />
giả Lai Tân đưa ra ba gương mặt điển hình của bộ máy chính quyền Tưởng Giới Thạch <br />
đó là: "Ban trưởng", "cảnh trưởng", "huyện trưởng". Cái chức "trưởng" của họ khá oai <br />
vệ, đầy uy lực, nhưng việc làm của họ đầy khuất tất, bất chính. Khuôn khổ bài thơ rất <br />
ngắn gọn nhưng lại được đặt liên tiếp ba chữ "trưởng" trong ba câu thơ đầu là sự "cố <br />
tình" dùng phép lặp của Bác trong việc dựng lên những chân dung tiêu biểu của giai cấp <br />
thống trị. Ba câu thơ mỗi câu là một bức tranh sống động mang tính thời sự nóng hổi, <br />
chân thật đến từng chi tiết được vẽ bằng nét bút bình thản, lạnh lùng. Bức thứ nhất bày <br />
ra trước mắt mọi người là hình ảnh một "ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc". Bức thứ <br />
hai là hình ảnh "cảnh trưởng tham lam ăn tiền phạm nhân bị giải". Cả ban trưởng và cảnh <br />
trưởng đều là những công cụ thi hành pháp luật rất đắc lực của cái xã hội đầy rẫy những <br />
bỉ lậu, xấu xa. Chúng khoác trên mình chiếc áo "công lí" để làm những việc "bất công lí" <br />
một cách thường xuyên hết ngày này đến ngày khác. Chức "trưởng" của chúng đã to, sự <br />
phạm pháp của chúng còn lớn hơn ngàn vạn lần. Tiếng cười trào lộng bật lên từ nghịch <br />
cảnh đó. Thoạt tiên, mới nhắc đến "ban trưởng", "cảnh trưởng" thiết tưởng đó là những <br />
người cầm cân nẩy mực chắc hẳn phải công minh, trong sạch nhưng ta thực sự bất ngờ <br />
khi biết chúng chẳng qua là những con mọt dân, gây rối, bắt bớ dân để mà tham nhũng, cờ <br />
bạc. Chúng mượn cái danh để tự đặt ra cho mình cái quyền thích làm gì thì làm. Đất Lai <br />
Tân có ban trưởng, cảnh trưởng tưởng chừng cuộc sống bình yên nhưng trớ trêu thay trật <br />
tự an ninh không được đảm bảo, những vi phạm pháp luật vẫn diễn ra đầy rẫy mà những <br />
kẻ đứng đầu bộ máy thống trị ở Lai Tân cũng chính là những kẻ cầm đầu những chuyện <br />
phạm pháp đó. Nực cười thay, nhà tù là nơi giam giữ những kẻ phạm tội vậy mà lại chính <br />
là nơi để tội phạm có thể thịnh hành rộng rãi nhất, tiêu biểu hơn cả, nhiều hơn cả vẫn là <br />
tội phạm cờ bạc mà chính giai cấp thống trị nhà lao cũng là những "đỗ phạm". Cái nghịch <br />
cảnh "đánh bạc ở ngoài quan bắt tội, trong tù được đánh bạc công khai" là hiện thực thối <br />
nát của nhà tù Tưởng Giới Thạch không thể phủ nhận được.<br />
Cấp dưới sống và hành động bê tha, tàn ác như thế, vậy mà cấp trên huyện trưởng vẫn <br />
đêm đêm "chong đèn lo công việc". Mức độ mỉa mai, châm biếm của tác giả tăng dần. <br />
Kích thước của những bức tranh về sau to hơn, rộng hơn bức trước. Từ chân dung một <br />
ban trưởng trông coi một phạm vi nhà tù nhỏ hẹp tới một cảnh trưởng cai quản một địa <br />
phận lớn hơn đến một huyện trưởng cai trị một vùng rộng lớn và bao quát cả quyền của <br />
ban trưởng cảnh trưởng. Bức tranh thứ ba mở ra hình ảnh "Huyện trưởng thiêu đăng biện <br />
công sự' vẻ ngoài tưởng mẫu cách, sát sao với "công việc" nhưng thực ra lại là một kẻ <br />
quan liêu, vô trách nhiệm, không biết tay chân, cấp dưới làm những gì, phạm pháp những <br />
gì. Câu thơ phạm luật "nhị tứ lục phân minh" ở một chữ "công". Bao mỉa mai, đả kích sâu <br />
cay dồn nén vào một chữ "công" đó. Huyện trưởng "lo công việc" hay là mượn "việc <br />
công" để tạo một tấm bình phong che cho mình "lo việc riêng", "chong đèn" hút thuốc <br />
phiện? Tác giả đặt chữ "đăng" chính giữa câu thơ không nhằm mục đích tỏa sáng chân <br />
dung huyện trưởng mà nhằm đối lập, phản chiếu cái tối tăm của bộ máy thống trị Lai <br />
Tân (nói riêng), hệ thống chính quyền Tưởng Giới Thạch (nói chung).<br />
Giữa thực trạng ấy, thử hỏi bình yên ở đâu? Câu trả lời là: Bình yên vẫn ở chốn Lai Tân <br />
này!<br />
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình<br />
Câu trả lời bất ngờ đến mức khiến người đọc ngã ngửa người. Thì ra là thế! Lời bình giá <br />
đã đi ngược lại với tất cả những mục ruỗng, thối nát của chính quyền Tưởng Giới Thạch <br />
được phơi bày ở trên. Từ lời bình giá đó đã vút lên một lời đã kích mạnh mẽ. Tác giả Lai <br />
Tân đã kết luận đầy châm biếm, mỉa mai sắc sảo và rất hùng hồn về cái xã hội ấy. Thủ <br />
pháp nói ngược của Bác đã làm bật ra tiếng cười trào phúng. "Trời đất Lai Tân vẫn thái <br />
bình". Đúng vậy! Nhưng chỉ một chữ "vẫn" ("y") cũng đủ "điếng người". Một cái bĩu môi <br />
dài, một cái cười khẩy, một giọng mỉa kéo dài bắt đầu từ chữ "vẫn" ấy. Nghệ thuật nâng <br />
cao quật mạnh, nâng càng cao quật càng mạnh được Bác sử dụng rất công hiệu ở câu <br />
thơ cuối bài này đã lay tỉnh người đọc nhìn sâu vào xã hội ấy mà xem xét, đánh giá đúng <br />
thực chất của nó. Như con đà điểu thấy nguy hiểm là húc đầu vào sâu trong cát, giai cấp <br />
thống trị ở Lai Tân thấy trời đất thái bình là tưởng thấy yên ổn chúng bằng lòng với cách <br />
thái bình đó mà không ngờ rằng đó chỉ là cảnh thái bình giả dối, trong đó chất chứa rất <br />
nhiều sóng gió, hiểm nguy. Điều ấy cũng thể hiện sự ngu dốt, vô trách nhiệm hết sức <br />
của bọn chúng. Ba bức tranh ba chân dung của ba kẻ đại diện cho giai cấp thống trị chế <br />
độ Tưởng Giới Thạch ghép lại với nhau thành một bức tranh lớn một chân dung lớn đầy <br />
đủ, trọn vẹn về xã hội Trung Hoa quốc dân đảng. Với "nghệ thuật vẽ đường tròn đồng <br />
tâm", tác giả Lai Tân đã vẽ được một bức tranh sinh động mỗi lúc một toàn diện hơn chế <br />
độ xã hội Tưởng Giới Thạch. Nhà "dột từ nóc dột xuống" chỉ qua một huyện Lai Tân mà <br />
cả bộ mặt thối nát, bỉ lậu của xã hội Tưởng được phơi bày. Tác giả đã phủ định triệt để <br />
tận gốc giai cấp thống trị ấy. Cái "loạn" của mảnh đất Lai Tân được tô đậm bằng màu <br />
xám, màu tối của những bê tha, xấu xa, vô trách nhiệm, rất quan liêu của văn võ bá quan. <br />
Và hơn thế, nó được "trang trí" bằng sự "thái bình" nhưng ai cũng hiểu trời đất Lai Tân <br />
"thái bình" như thế nào. Cách kết thúc bài thơ của Hồ Chí Minh giống lối thơ trào phúng <br />
truyền thống của các nhà thơ trào phúng Việt Nam như Tú Xương, Nguyễn Công Trứ, Hồ <br />
Xuân Hương... đồng thời đậm chất humour (gây cười) của phương Tây. Hai chữ Lai Tân <br />
dường như không chỉ là một tên huyện đơn thuần mà tự bản thân nó đã mang một lớp <br />
nghĩa là mảnh đất mới, sáng sủa, bình yên. Và quả thật, huyện Lai Tân rất bình yên bình <br />
yên "như xưa". Nhưng "như xưa" ở đây nghĩa là sự trì trệ, là chậm chạp không phát triển <br />
đã thành truyền thống; "như xưa" là không hề đổi thay, là duy trì những cái xấu xa, bỉ lậu <br />
của ngày trước. Hồ Chí Minh đã đả kích trực tiếp và khách quan chế độ Tưởng, do đó sức <br />
tố cáo, châm biếm của nó rất mạnh mẽ, quyết liệt. Bác đã giáng những đòn liên tiếp, <br />
chính xác vào xã hội ấy khiến nó phải "quăn lên" ở nhát đòn quyết định có tên là "thái <br />
bình".<br />
Không phải chỉ ở Lai Tân mà ở rất nhiều bài thơ khác của Nhật kí trong tù, Bác cũng đã <br />
đả kích châm biếm sâu sắc xã hội Tưởng Giới Thạch như Trảng binh gia quyến, Đổ, Đổ <br />
phạm... Đó là "những ngón đòn trào phúng thâm thúy mà Bác đã đánh thẳng vào kẻ thù, <br />
vạch trần cái vô lí, tàn tệ" của chế độ ấy khiến "ta cười ra nước mắt". Tiếng cười trào <br />
lộng cất lên vừa trữ tình, vừa đậm chất trí tuệ khiến ta thoải mái, hả hê.<br />
Ta chợt nhớ tới Tú Xương ngày trước cũng từng có một tiếng cười trào lộng như thế:<br />
Tri phủ Xuân Trường được mấy niên<br />
Nhờ trời hạt ấy cũng bình yên<br />
(Đùa ông phủ)<br />
Tiếng cười dân tộc đã thấm nhuần trong thơ hiện thực trào phúng của Hồ Chí Minh mà <br />
càng đọc ta càng thấy nó sâu cay. Lai Tân là một bài thơ cũng nằm trong số đó. Vừa có ý <br />
nghĩa hiện thực chân xác, vừa mang tính chiến đấu sắc sảo; tố cáo châm biếm cao độ, bài <br />
thơ đã giúp ta hiểu thêm về xã hội Tưởng Giới Thạch và hiểu hơn tâm hồn tài năng của <br />
Bác .<br />