Công cuộc đổi mới ở Việt Nam – Kết quả và những bài học kinh nghiệm sau 35 năm nhìn lại
lượt xem 7
download
Bài viết "Công cuộc đổi mới ở Việt Nam – Kết quả và những bài học kinh nghiệm sau 35 năm nhìn lại" đi vào đánh giá kết quả của công cuộc đổi mới đất nước, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm sau 35 năm nhìn lại. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Công cuộc đổi mới ở Việt Nam – Kết quả và những bài học kinh nghiệm sau 35 năm nhìn lại
- CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM – KẾT QUẢ VÀ NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM SAU 35 NĂM NHÌN LẠI Lê Tuấn Anh1 1. Khoa Sư phạm. Email: anhlt@tdmu.edu.vn TÓM TẮT Công cuộc đổi mới đất nước 35 năm qua là một chặng đường lịch sử có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của đất nước và dân tộc Việt Nam. Khát vọng vì một Việt Nam thịnh vượng, ý chí tự lực, tự cường luôn là sức mạnh nội sinh cho đất nước đạt được những thành tựu vô cùng ấn tượng về mọi mặt trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Bài viết sẽ đi vào đánh giá kết quả của công cuộc đổi mới đất nước, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm sau 35 năm nhìn lại. Từ khóa: Bài học kinh nghiệm, đổi mới, kết quả, Việt Nam. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (năm 1975) là thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp giải phóng dân tộc do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, đánh dấu bước ngoặt quyết định cho dân tộc Việt Nam tiến vào kỉ nguyên mới - kỉ nguyên độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội. Sau 35 năm đổi mới, dân tộc Việt Nam đang tiếp tục tiến lên phía trước trên con đường đã được Đảng lựa chọn từ sau Đại hội lần thứ VI (12-1986). Nhìn tổng thể, công cuộc đổi mới đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong thời gian tới. Đồng thời, cũng phải thấy còn nhiều vấn đề lớn, nhiều hạn chế, bất cập trong quá trình phát triển đất nước. Do đó, việc nghiên cứu, đánh giá kết quả của công cuộc đổi mới đất nước sau 35 năm, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm để đưa Việt Nam phát triển hơn trong giai đoạn hiện nay có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Phương pháp nghiên cứu chủ yếu để để tác giả thực hiện bài viết này là phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Sử dụng phương pháp lịch sử nhằm tái hiện quá trình đổi mới ở Việt Nam. Từ bức tranh về công cuộc đổi mới đất nước, phương pháp logic được sử dụng để làm rõ những kết quả và rút ra những bài học kinh nghiệm sau 35 năm đổi mới ở Việt Nam. 3. NỘI DUNG 3.1. Đổi mới toàn diện đất nước – Một quyết sách chiến lược của Đảng mở ra bước ngoặt trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta Cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam năm 1975 thắng lợi đã kết thúc công cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc kéo dài 30 năm. Cách mạng Việt Nam chuyển 601
- sang một giai đoạn mới, giai đoạn xây dựng và phát triển đất nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong 10 năm (1975 - 1985), cách mạng Việt Nam tiếp tục vượt qua những trở ngại lớn, giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh biên giới bảo vệ độc lập chủ quyền dân tộc. Trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội, nhân dân ta đã có những cố gắng to lớn trong công cuộc khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, bước đầu bình ổn định sản xuất và đời sống nhân dân. Tuy nhiên, do đất nước bị tàn phá nặng nề vì chiến tranh và những khó khăn phức tạp mới nảy sinh sau chiến tranh cùng với những khuyết điểm, sai lầm trong trong chỉ đạo thực hiện đường lối, trong chủ trương, chính sách đã làm cho nước ta lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Vì vậy, đổi mới là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn sau một thời kỳ duy trì quá lâu cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp. Với quyết tâm đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12-1986), Đảng đã nghiêm khắc kiểm điểm sự lãnh đạo của mình, với thái độ “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, từ đó thẳng thắn vạch ra sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh tế, trong phân phối lưu thông, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa và cả trong cơ chế quản lý nền kinh tế. Muốn đất nước thoát khỏi khủng hoảng thì không có con đường nào khác là phải đổi mới toàn diện đất nước - từ đổi mới tư duy đến đổi mới tổ chức, cán bộ và phong cách lãnh đạo của Đảng; từ đổi mới kinh tế đến đổi mới hệ thống chính trị và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Đại hội nêu lên bốn bài học kinh nghiệm lớn: Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng lấy dân làm gốc, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan; phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới; Phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Có thể nói, đường lối đổi mới toàn diện đất nước của Đảng tại Đại hội VI đã đem lại luồng sinh khí mới, mở ra bước ngoặt trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Các kỳ Đại hội tiếp theo của Đảng đã tiếp tục bổ sung, hoàn thiện đường lối đổi mới đất nước. Đại hội VII của Đảng (6-1991) là một bước phát triển đặc biệt quan trọng của quá trình đổi mới, với việc thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh khẳng định Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động; khẳng định xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng Cộng sản lãnh đạo; khẳng định phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa; khẳng định xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một phương hướng chiến lược lớn. Cương lĩnh chủ trương hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị, xã hội khác nhau trên cơ sở những nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình với tuyên bố: “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Hội nghị giữa nhiệm kỳ khoá VII (1-1994) xác định mục tiêu tổng quát của quá trình đổi mới nói riêng và của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta nói chung là phấn đấu vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Đại hội VIII của Đảng (6-1996) đã nhận định công cuộc đổi mới trong 10 năm đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng, nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công 602
- nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại hội khẳng định tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Từ thực tiễn phong phú và những thành tựu đạt được qua 15 năm đổi mới, đã chứng minh tính đúng đắn của Đảng, Đại hội IX của Đảng (4-2001) xác định mục tiêu chung của nước ta là “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đại hội đánh giá sâu sắc hơn, đầy đủ hơn, toàn diện hơn vị trí, vai trò tư tưởng Hồ Chí Minh; Khẳng định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ; Coi việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc là một nhân tố rất cơ bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội phát triển đường lối đối ngoại lên mức cao hơn, toàn diện hơn với phương châm: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Đại hội X của Đảng (4-2006) diễn ra vào lúc toàn Đảng, toàn dân ta đã trải qua 20 năm đổi mới. Nhìn lại 20 năm đổi mới, căn cứ vào thực tiễn tình hình cách mạng Việt Nam, Đại hội đã đề ra nhiệm vụ hết sức quan trọng là nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Đại hội XI của Đảng (1-2011) nhận định những thành tựu, kinh nghiệm của 25 năm đổi mới đã tạo ra cho đất nước lực và thế, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước. Đại hội chỉ rõ mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm (2011 - 2015) là tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát triển kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; tăng cường hoạt động đối ngoại; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” được Đại hội nêu ra thể hiện tầm nhìn chiến lược toàn diện của Đảng. Đây không chỉ là sự chủ động, tích cực hội nhập riêng ở lĩnh vực kinh tế và một số lĩnh vực khác, mà là sự tích cực mở rộng hội nhập với qui mô toàn diện, trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, quốc phòng - an ninh... Bước phát triển này trong nhận thức và tư duy đối ngoại của Đảng, phản ánh những nhu cầu cấp thiết đối với sự nghiệp cách mạng nước ta trong bối cảnh quốc tế mới. Đại hội XII của Đảng (1-2016), trên cơ sở đánh giá thành tựu và hạn chế sau 30 năm đổi mới đề ra mục tiêu đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát huy mọi nguồn lực và động lực để phát triển đất nước nhanh, bền vững. Với việc xem dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội Đại hội lần này đặc biệt nhấn mạnh đến vấn đề dân chủ, đưa tinh thần dân chủ lên tầm cao mới. Việc đưa nội dung phát huy “dân chủ xã hội chủ nghĩa” thành một nội dung cốt lõi là một nhận thức rất lớn của Đảng về vấn đề dân chủ. Tại Đại hội, qua tổng kết, phân tích, dự báo, cho thấy nhiều tiêu chí để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại dự kiến không đạt được, Đảng đã xác định lại mục tiêu phát triển công nghiệp là “phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Điều này thể hiện tinh thần khách quan, khoa học, đảm bảo cơ sở lý luận và thực tiễn khi hoạch định đường lối. 603
- Đại hội XIII của Đảng (1-2021) diễn ra trong bối cảnh đại dịch COVID-19 đang lan rộng khắp nơi, tác động xấu đến hầu hết kinh tế cũng như xã hội của hầu hết các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Đại hội đề ra nhiệm vụ tập trung kiểm soát đại dịch COVID-19, tiêm chủng đại trà vắc-xin COVID-19 cho cộng đồng; phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển phù hợp với nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập. Để đẩy mạnh quá trình Đổi mới, cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, môi trường,...; Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội; ưu tiên phát triển một số công trình trọng điểm quốc gia về giao thông, thích ứng với biến đổi khí hậu. Có thể nói, Đại hội XIII là dấu mốc quan trọng trong quá trình phát triển của Việt Nam, có ý nghĩa định hướng và tầm nhìn chiến lược cho tương lai, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế và phát triển đất nước nhanh và bền vững hơn. Đặc biệt, những chỉ đạo quyết liệt của của Đại hội có tác động tích cực đến công cuộc phòng, chống COVID-19, giúp Việt Nam sớm phục hồi kinh tế, ổn định xã hội để thực hiện những mục tiêu trong nhiệm kỳ cũng như chiến lược đến năm 2030 là cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại và có thu nhập trung bình cao. 3.2. Những kết quả đạt được sau 35 năm đổi mới ở Việt Nam Sau 35 năm đổi mới đất nước, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong thời gian tới: - Sau 35 năm đổi mới, với mô hình kinh tế tổng quát là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo được những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trải qua giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới với chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế nước ta dần dần khắc phục được những yếu kém và có những bước phát triển. Trong những năm 1991 - 1995, đất nước ta dần dần ra khỏi tình trạng trì trệ, suy thoái, Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài nhiều năm, khắc phục được nạn lạm phát có lúc trên 700% (năm 1986) xuống mức lạm phát 12% (năm 1995) và từ đó đến nay lạm phát chỉ còn một con số. Kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn sản xuất với thị trường. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của 10 năm (1990 - 2000) đạt 7,5% năm. Mặc dù do tác tác động của khủng hoảng tài chính, suy giảm kinh tế toàn cầu nhưng tốc độ tăng trưởng bình quân của 10 năm (2000 - 2010) đạt 7,2% năm. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 gấp 4 lần so với năm 1990 và GDP bình quân đầu người đạt 1.160 USD, nước ta đã ra khỏi nhóm nước đang phát triển có thu nhập thấp. Năm 2014, tổng sản phẩm trong nước (GDP) của Việt Nam đạt 3.937.856 tỷ đồng, tương đương 184 tỷ USD và GDP bình quân đầu người của Việt Nam năm 2014 đạt 2.028 USD. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, tỷ trọng công nghiệp trong GDP tăng từ 22,7% năm 1990 lên 36,8% năm 2000 và 38,5% năm 2014; tỷ trọng dịch vụ từ 38,6% năm 1990 lên 39,1% năm 2000 và 43,4% năm 2014 (Tổng cục Thống kê, 2014). Nông nghiệp có sự biến đổi quan 604
- trọng, đã chuyển từ độc canh lúa, năng suất thấp và thiếu hụt lớn, sang không những đủ dùng trong nước mà còn xuất khẩu gạo với khối lượng lớn, đứng thứ hai thế giới, góp phần vào an ninh lương thực quốc tế; xuất khẩu cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu, thủy sản với khối lượng lớn đứng thứ hạng cao trên thế giới. Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống: ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển với tốc độ nhanh; các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý... có bước phát triển theo hướng tiến bộ, hiệu quả. Năm 2020, trong bối cảnh đại dịch Covid-19, Việt Nam vẫn là một điểm đến tin cậy cho các nhà đầu tư với tổng vốn FDI đạt 28,5 tỷ USD. Vốn đầu tư của khu vực ngoài nhà nước tăng nhanh từ 36% năm 2010 lên 46% năm 2020. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người giai đoạn 2016 – 2020 đạt khoảng 6%/năm (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, tr.61). Nhiều tập đoàn, doanh nghiệp tư nhân đã tham gia đầu tư, hoàn thành nhiều công trình có ý nghĩa to lớn, nâng cao năng lực cạnh tranh. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng mạnh với nhiều dự án quy mô lớn, công nghệ cao, đem lại nhiều cơ hội hợp tác sản xuất, kinh doanh và chuyển giao công nghệ cho khu vực kinh tế trong nước. Ngoài ra, tại Việt Nam đã hình thành các vùng kinh tế trọng điểm để làm động lực cho phát triển kinh tế vùng, miền và cả nước; phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp tập trung nhằm thu hút vốn đầu tư phát triển, đồng thời hình thành các vùng chuyên môn hóa cây trồng, vật nuôi gắn với chế biến công nghiệp. Việt Nam đã thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, phát huy ngày càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế. Kinh tế nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tập trung hơn vào những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế. Cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước được đổi mới một bước quan trọng theo hướng xóa bao cấp, thực hiện mô hình công ty, phát huy quyền tự chủ và trách nhiệm của doanh nghiệp trong kinh doanh. Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, huy động ngày càng tốt hơn các nguồn lực và tiềm năng trong nhân dân, là một động lực rất quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân; là cầu nối quan trọng với thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thông quốc tế, đóng góp vào ngân sách nhà nước và tạo việc làm cho nhiều người dân. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần được hình thành, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định. Trải qua 35 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương đối đồng bộ. Hoạt động của các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều thành phần và bộ máy quản lý của Nhà nước được đổi mới một bước quan trọng. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện; chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể chế hóa thành luật pháp, cơ chế, chính sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn; môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện; các yếu tố thị trường và các loại thị trường tiếp tục hình thành, phát triển; nền kinh tế nhiều thành phần có bước phát triển mạnh. Trong thời gian tới, Việt Nam đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm mục tiêu đến năm 2030, cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại và có thu nhập trung bình cao. - Cùng với tăng trưởng kinh tế, văn hóa, xã hội đã đạt được những thành tựu quan trọng; Việt Nam đã chú ý đến việc thực hiện chính sách công bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện một bước đáng kể sau 35 năm đổi mới. 605
- Thành công nổi bật qua 35 năm thực hiện đổi mới phải kể đến việc chúng ta đã giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; các cơ hội phát triển được mở rộng cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư, khuyến khích, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân. GDP bình quân đầu người tính bằng USD của Việt Nam năm 1988 chỉ đạt 86 USD/người/năm - là một trong những nước thấp nhất thế giới, nhưng đã tăng gần như liên tục ở những năm sau đó, năm 2010 đạt 1.168 USD/người/năm, nước ta đã ra khỏi nhóm nước thu thập thấp để trở thành nước có thu nhập trung bình và năm 2015, GDP bình quân đầu người khoảng 2.300 USD. Sau 35 năm đổi mới, năm 2020 GDP bình quân đầu người của Việt Nam khoảng 2.786 USD. Trong lĩnh vực lao động và việc làm, những năm 1991 - 2000, trung bình mỗi năm cả nước đã giải quyết cho khoảng 1 - 1,2 triệu người lao động có công ăn việc làm; những năm 2001 - 2005, mức giải quyết việc làm trung bình hằng năm đạt khoảng 1,4 - 1,5 triệu người; những năm gần đây, con số đó lại tăng lên đến 1,6 triệu người. Công tác dạy nghề từng bước phát triển, góp phần đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo từ dưới 10% năm 1990 lên khoảng 40% năm 2014 (Tổng cục Thống kê, 2014). Công tác xóa đói giảm nghèo đạt được kết quả đầy ấn tượng. Tỷ lệ hộ đói nghèo đã giảm từ 30% năm 1992 xuống khoảng 9,5% năm 2010. Việt Nam đã hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch toàn cầu: giảm một nửa tỷ lệ nghèo vào năm 2015, mà Mục tiêu Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc đã đề ra. Việt Nam được đánh giá là nước có tốc độ giảm nghèo nhanh nhất khu vực Đông Nam Á. Thu nhập bình quân hộ nghèo đến cuối năm 2020 tăng gấp 1,6 lần so với năm 2015. Diện mạo nghèo đói ở tất cả các vùng miền trên cả nước đã cải thiện đáng kể. Việt Nam đã hoàn thành, về đích trước 10 năm so với Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDG) về giảm nghèo, được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giảm còn dưới 3% (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, tr.65). Giáo dục và đào tạo được coi là quốc sách hàng đầu, được toàn xã hội quan tâm và có bước phát triển đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu học tập của nhân dân, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước. Sự nghiệp giáo dục có bước phát triển mới về quy mô, đa dạng hóa về loại hình trường lớp từ mầm non, tiểu học đến cao đẳng, đại học. Năm 2000, cả nước đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học và hiện nay đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tỷ lệ người lớn (từ 15 tuổi trở lên biết chữ đã tăng từ 84% cuối những năm 1980 lên 90,3% năm 2007. Từ năm 2006 đến nay, trung bình hằng năm quy mô đào tạo trung học chuyên nghiệp tăng 10%; cao đẳng và đại học tăng 7,4%. Năm 2009, trên 1,3 triệu sinh viên nghèo được Ngân hàng chính sách xã hội cho vay với lãi suất ưu đãi để theo học. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ. Bảo hiểm y tế được mở rộng đến khoảng gần 60% dân số, các chỉ số sức khỏe cộng đồng được nâng lên. Tỷ lệ tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm từ 81% năm 1990 xuống còn khoảng 28% năm 2014; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng đã giảm tương ứng từ 50% xuống còn khoảng 20% (Tổng cục Thống kê, 2014). Công tác tiêm chủng mở rộng được thực hiện, nhiều dịch bệnh hiểm nghèo trước đây đã được thanh toán hoặc khống chế. Tuổi thọ trung bình của người dân từ 63 tuổi năm 1990 tăng lên 73 tuổi. Chỉ số phát triển con người (HDI) tăng đều đặn và liên tục suốt mấy thập kỷ qua…Tỷ lệ bảo hiểm y tế đạt trên 90% (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, tr.65). - Hệ thống chính trị không ngừng được đổi mới và hoàn thiện từ chế độ tập trung quan liêu, với phương thức quản lý kinh tế hành chính mệnh lệnh sang dân chủ hóa các lĩnh vực của 606
- đời sống xã hội, thực hiện dân chủ gắn liền với tôn trọng luật pháp, kỷ cương xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Thành tựu đạt được trong việc thực hiện đổi mới hệ thống chính trị là đáng kể. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa không ngừng được xây dựng nà hoàn thiện; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân được xây dựng và ngày càng hoàn thiện; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có nhiều đổi mới cả về nội dung và phương thức hoạt động; Công tác đổi mới, chỉnh đốn Đảng luôn được coi là nhiệm vụ then chốt trong suốt thời kỳ đổi mới. Đổi mới hệ thống chính trị đã tạo ra bầu không khí dân chủ và cởi mở trong xã hội, đã thiết lập được các cơ chế và chính sách để thực hiện quyền dân chủ của nhân dân, góp phần quan trọng vào việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước. - Quốc phòng, an ninh được tăng cường; quan hệ đối ngoại được mở rộng, vị thế Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao, tạo môi trường thuận lợi để phát triển đất nước. Sau 35 năm đổi mới, nước ta đã giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, sự lãnh đạo của Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa, an ninh quốc gia, ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Tiềm lực của nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân tiếp tiếp tục được tăng cường và điều chỉnh phù hợp với quá trình mở cửa, hội nhập quốc tế, tạo sức mạnh tổng hợp góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để bảo vệ và xây dựng đất nước. Trong lĩnh vực đối ngoại, Việt Nam thực hiện chính sách mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập quốc tế. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển. Trên cơ sở đường lối đó, Việt Nam đã kiên trì phấn đấu đẩy lùi và làm thất bại chính sách bao vây cấm vận, cô lập Việt Nam của các thế lực thù địch, tạo được môi trường quốc tế, khu vực thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Với chủ trương tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ đối ngoại của Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế ngày càng được mở rộng. Việt Nam đã tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), thực hiện các cam kết về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO),... Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao, thương mại với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ, ký hơn 90 hiệp định thương mại song phương với các nước, tạo ra một bước phát triển mới rất quan trọng về kinh tế đối ngoại. Đặc biệt, năm 2020, Việt Nam cùng lúc đảm nhận 3 trọng trách: Ủy viên không Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch ASEAN và Chủ tịch AIPA (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2020). Trong bối cảnh vô cùng khó khăn của đại dịch Covid-19 và những thiệt hại nặng nề do thiên tai bão lũ... song Việt Nam đã hoàn thành tốt cả ba trọng trách, góp phần nâng cao uy tín, vị thế Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Quá trình hội nhập quốc tế đã tạo ra cơ hội để Việt Nam tiếp cận với những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới. Đồng thời, thông qua các dự án hợp tác với nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam đã tiếp nhận được nhiều kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Những thành tựu của công cuộc đổi mới ngày càng khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của đổi mới, khích lệ, động viên nhân dân tiếp tục hưởng ứng, góp phần quan trọng vào việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước với những bước tiến cao hơn. Tuy nhiên, bên cạnh những 607
- thành tựu đạt được, công cuộc đổi mới ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập cần tiếp tục nghiên cứu, tập trung giải quyết để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững hơn: Nước ta mới bắt đầu ra khỏi nước kém phát triển. Kinh tế còn tụt hậu so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu và thực tế nguồn lực được huy động. Trong những năm gần đây, kinh tế vĩ mô thiếu ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm, phục hồi chậm. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh quốc gia của nền kinh tế còn thấp. Tình trạng đầu tư kém hiệu quả, tình trạng phát triển chủ yếu theo chiều rộng dựa vào lợi thế tài nguyên thiên nhiên, lao động rẻ và vốn, chưa chú trọng tăng năng suất lao động xã hội chủ yếu bằng việc áp dụng công nghệ cao và sử dụng nguồn lực được đào tạo. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chậm được hoàn thiện. Sự bình đẳng theo pháp luật giữa các thành phần kinh tế vẫn chưa được xác lập thực sự, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa được đổi mới thực chất, một bộ phận không nhỏ vẫn tiếp tục làm ăn thua lỗ, trong khi các thế mạnh của khu vực doanh nghiệp tư nhân vẫn chưa được khai thác ở mức cần thiết… Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị còn nhiều bất cập. Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý xã hội chưa được nhận thức đầy đủ và giải quyết có hiệu quả. Việc huy động và sử dụng các nguồn lực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước chưa tương xứng với tiềm năng. Chế độ phân phối còn nhiều bất hợp lý, phân hoá giàu nghèo tăng lên. Những hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, văn hoá, xã hội, bảo vệ môi trường chậm được khắc phục; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tội phạm, tệ nạn xã hội, suy thoái đạo đức, lối sống chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng, chế độ có mặt bị giảm sút. Còn tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định chính trị - xã hội… Những hạn chế, bất cập trên của công cuộc đổi mới xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan: mô hình chủ nghĩa xã hôi mà chúng ta đang xây dựng còn mới mẻ, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu; thiên tai, dịch bệnh; sự chống phá của các thế lực thù địch; công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; việc tổ chức thực hiện công cuộc đổi mới còn nhiều bất cập, yếu kém chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.… 3.3. Những bài học kinh nghiệm rút ra để tiếp tục đổi mới, phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa Từ thực tiễn qua gần 35 năm đổi mới, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm để tiếp tục đổi mới, phát triển đất nước trong thời gian tới: Một là, trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã khẳng định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội và trong 90 năm qua, Đảng ta luôn kiên trì mục tiêu đó. Trong những năm đổi mới, Đảng ta đã có sự nhận thức sâu sắc hơn, đúng đắn hơn đối với chủ nghĩa Mác - Lênin. Đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Thực tiễn cách mạng nước ta đã khẳng định giá trị, sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới không phải là xa rời mà là nhận thức, 608
- vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới vô cùng phức tạp của tình hình thế giới. Hai là, đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân. Sự nghiệp đổi mới về bản chất mang tính nhân dân sâu sắc thể hiện ở chỗ nó bắt nguồn từ nhân dân, vì lợi ích của nhân dân và do nhân dân thực hiện. Chính những sáng kiến của nhân dân, của cơ sở nảy sinh từ cuộc sống thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc để hình thành chủ trương đổi mới của Đảng. Đường lối đổi mới phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, thể hiện ý Đảng lòng dân nên được toàn dân ủng hộ và thực hiện một cách sáng tạo đã giải phóng được mọi tiềm năng của lực lượng sản xuất - nhân tố quyết định sự phát triển xã hội, khơi dậy được tài sức của nhân dân để xây dựng và bảo vệ đất nước. Do tác động mặt trái của kinh tế thị trường, nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí đang tiếp tục diễn ra ở một số cán bộ và một số cơ quan quan trọng làm cho quan hệ giữa Đảng và nhân dân có mặt bị giảm sút. Vì vậy, phải củng cố và tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng và nhân dân. Lợi ích chính đáng của nhân dân phải là cơ sở để hoạch định chính sách của Đảng và Nhà nước. Có như vậy những sáng kiến, kinh nghiệm của quần chúng, tiếng nói, nguyện vọng của nhân dân mới có thể được biến thành những quyết sách chính trị trong quá trình đổi mới. Ba là, đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; phải xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Đổi mới là một sự nghiệp có tính chất cách mạng, toàn diện, tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đổi mới toàn diện phải tiến hành đồng bộ trên tất cả các mặt, tuy nhiên phải xác định trọng tâm, trọng điểm và phải có các bước đi, hình thức, cách làm phù hợp, phải nắm lấy khâu then chốt trong mỗi thời kỳ, phải nắm vững các mối quan hệ biện chứng chủ yếu trong đời sống xã hội, đó là quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa kinh tế và chính trị, giữa kinh tế và quốc phòng - an ninh, trong đó xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị có ý nghĩa hết sức quan trọng. Để đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, nước ta đã bảo đảm tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt với phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội. Gắn kết chặt chẽ kinh tế với văn hóa và bảo đảm môi trường sinh thái. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện công bằng xã hội trong từng bước phát triển, gắn kết phát triển kinh tế với nhiệm vụ quốc phòng - an ninh và đối ngoại. Phải xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Bốn là, kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Trong quá trình đổi mới, Đảng ta luôn coi trọng việc phát huy sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước nhanh và bền vững, trong đó phát huy nội lực là nhân tố quyết định, khai thác nhân tố ngoại lực là quan trọng, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại. Sự khai thác ngoại lực làm tăng lên sức mạnh của nội lực. Việc phát huy nội lực tạo cơ sở cho việc sử dụng ngoại lực có hiệu quả hơn. Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, sử dụng sức mạnh của thời đại phải đứng vững trên các nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, 609
- không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, giữ vững độc lập dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ và phát triển nền văn hóa dân tộc. Năm là, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị xã hội và của cả hệ thống chính trị; tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân. Thực tiễn công cuộc đổi mới đã khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của đổi mới. Trong quy trình đổi mới, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ then chốt, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong điều kiện mới là nhiệm vụ sống còn trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là yêu cầu bức thiết của xã hội. Để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa phải nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị xã hội; đổi mới cơ chế, chính sách, tổ chức bộ máy, kiện toàn nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đổi mới phương thức công tác, lề lối làm việc, cải cách hành chính, chống tệ quan liêu, lãng phí, tham nhũng gây phiền hà cho dân, tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân nằm phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở lợi ích chung của đất nước, vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Những thành tựu trong phòng, chống đại dịch COVID-19 trong thời gian gần đây đã khẳng định vai trò của hệ thông chính trị và các tổ chức chính trị xã hội dưới sự ủng hộ của toàn dân. Qua giai đoạn đầy khó khăn này, nhiều bài học kinh nghiệm cũng được thể hiện. Đó là bài học về sự vào cuộc quyết liệt của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân; huy động toàn bộ hệ thống chính trị, nhất là hệ thống chính trị tại cơ sở phải tham gia trực tiếp, đóng vai trò quan trọng trong phòng, chống dịch; bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các cấp, các ngành, các lực lượng. Bài học về công tác lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, kịp thời, đúng hướng, toàn diện, hiệu quả đồng thời chủ động, linh hoạt, phù hợp với tình hình thực tế. Đồng thời, là bài học về “lấy dân làm gốc”, gắn kết mỗi người dân Việt Nam lại với nhau để cùng đất nước vượt qua khủng hoảng. 4. KẾT LUẬN Công cuộc 35 năm đổi mới là một chặng đường dài, đầy nỗ lực của toàn thể dân tộc Việt Nam trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng. Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, nền kinh tế Việt Nam đã có bước phát triển nhanh theo hướng thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu và tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đất nước không những thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội mà còn vượt qua được những tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính tiền tệ ở khu vực và cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu. Vị thế Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp. Đó là sự nỗ lực lớn của toàn thể nhân dân, của Đảng, Nhà nước ta. Từ thực tiễn phong phú và sáng tạo của công cuộc đổi mới, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản. Tự hào về những kết quả đã đạt được trong 610
- 35 năm qua, càng cần quyết tâm, kiên trì thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, đưa đất nước vượt qua đại dịch COVID-19, tiến bước vững vàng trong tiến trình xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hoàng Chí Bảo (2012). Từ thực tiễn đổi mới đến nhận thức lý luận mới về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (1986 – 2011. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. 2. Báo Nhân dân (2021). Kinh tế Việt Nam nhìn lại sau 35 năm đổi mới. https://nhandan.vn/cong-tac- chuan-bi-dai-hoi/kinh-te-viet-nam-nhin-lai-sau-35-nam-doi-moi-631604/. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X, XI, XII. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. 4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (tập 1). Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. 5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2015). Thông báo Hội nghị lần thứ 10 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X. http://www.tapchicongsan.org.vn. 6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2020). Đối ngoại Việt Nam 2020: Bản lĩnh và tâm thế mới. https://dangcongsan.vn/thoi-su/doi-ngoai-viet-nam-2020-ban-linh-va-tam-the-moi-572169.htm 7. Hội đồng Lý luận Trung ương (2011). Đảng Cộng sản Việt Nam – Trách nhiệm trước dân tộc và lịch sử. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. 8. Tổng cục Thống kê (2014). Thông cáo báo chí về tình hình kinh tế - xã hội năm 2014. https://gso.gov.vn/. 611
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tác động xã hội của hội nhập kinh tế quốc tế và gia nhập WTO ở Việt Nam
23 p | 666 | 383
-
CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: NHẬN DIỆN VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
29 p | 680 | 166
-
Hiện đại hóa quản lý nhà nước ở Việt Nam
21 p | 261 | 38
-
Những thành tựu về kinh tế Việt Nam sau 30 năm đổi mới
3 p | 250 | 20
-
Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
8 p | 131 | 17
-
Mấy ý kiến về đổi mới chính sách khoa học và công nghệ ở Việt Nam
4 p | 131 | 14
-
Vai trò của FDI Hàn Quốc đối với phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay
18 p | 91 | 11
-
Kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội trong tiến trình đổi mới ở Việt Nam
7 p | 156 | 8
-
Về sở hữu, sử dụng và sai phạm trong quản lý đất đai ở Việt Nam từ khi đổi mới
10 p | 47 | 7
-
Nhìn lại mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam sau gần ba mươi năm đổi mới
10 p | 111 | 6
-
Bước khai phá đổi mới tạo lập nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam (1979-1990)
16 p | 69 | 5
-
Chuyển đổi số ở Việt Nam trong điều kiện thích ứng với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư
12 p | 16 | 4
-
Hoàn thiện môi trường kinh tế ở Việt Nam trong quá trình hội nhập WTO
9 p | 77 | 3
-
Tái cấu trúc nền kinh tế từ góc độ động lực phát triển trong giai đoạn mới
17 p | 24 | 3
-
Chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin và sự vận dụng trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay
6 p | 40 | 3
-
Thực trạng của các doanh nghiệp logistics trong xu hướng chuyển đổi số ở Việt Nam
9 p | 9 | 3
-
Một số nguyên tắc phương pháp luận trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội ở Việt Nam
5 p | 10 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn