ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, CHẨN ĐOÁN<br />
VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BỆNH VIÊM NÃO TỦY HẬU NHIỄM<br />
Lê Thị Khánh Vân*<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Mục tiêu nghiên cứu: mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng; xác định tiêu chuẩn chẩn đoán và kết quả<br />
điều trị bệnh viêm não tủy hậu nhiễm.<br />
Phương pháp nghiên cứu: cắt ngang mô tả.<br />
Kết quả: viêm não tủy hậu nhiễm gặp ở 39 bệnh nhi trong mọi lứa tuổi, nhỏ nhất là 7 tháng và lớn nhất là<br />
14 tuổi với tần suất mắc như nhau ở hai giới và không chịu ảnh hưởng của phân bố địa dư. 71,8% có nhiễm<br />
trùng trước đó. Triệu chứng lâm sàng đa dạng trong đó 56,4% có rối loạn tri giác, 51,3% có co giật và 20,5% có<br />
tổn thương ngoại tháp phù hợp với chức năng giải phẫu của vùng bệnh lý trên MRI. 48,7% điều trị Corticoide<br />
đơn thuần và 51,3% điều trị phối hợp với Immunoglobulin. Đáp ứng tốt, phục hồi hoàn toàn sau sáu tháng là<br />
64,1% và 30,8% phục hồi một phần.<br />
Kết luận: Viêm não tủy hậu nhiễm là một bệnh viêm mất myelin cấp tính của hệ thần kinh trung ương<br />
thường xảy ra sau nhiễm trùng hay chủng ngừa. Biểu hiện tổn thương chất trắng dưới vỏ hay vài cấu trúc khác<br />
của hệ thần kinh trung ương xác định rõ trên MRI và có triệu chứng lâm sàng phù hợp chức năng vùng mô bệnh<br />
lý. Chẩn đoán sớm bằng thăm khám lâm sàng và chụp MRI. Điều trị đáp ứng tốt với Corticoides phối hợp hoặc<br />
không với Immunoglobulin.<br />
ABSTRACT<br />
<br />
INVESTIGATION THE CLINICAL, LABORATORY FEATURES, DIAGNOSIS<br />
AND TREATMENT OF POST-INFECTIOUS ENCEPHALOMYELITIS (PIEM)<br />
Le Thi Khanh Van * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 4 – 2008: 8 – 13<br />
Objective: The main aim of our study is to investigate the clinical and laboratory features of post-infectious<br />
encephalomyelitis (PIEM), as well as to get insight into the diagnosis and treatment of this disease.<br />
Methods: prospective, crossective, descriptive study.<br />
Result: PIEM was diagnosed in 39 patients with the age of onset ranging from 7 months to 14 years old.<br />
None of the gender or geographic factors considerably affected the disease incidence. PIEM followed an antecedent<br />
infection in 74.4% of patients. The clinical features of this disorder were well diversified. Consciousness<br />
disturbance, seizure and extra-pyramidal signs, which significantly correlated with the MRI lesions, were<br />
documented in 56.4%, 51.3% and 20.5% of patients, respectively. 48.7% were treated with Corticoid only and<br />
the rest received Corticoid + Immunoglobulin combine therapy. The disease fortunately associated with good<br />
prognosis, with complete recovery in 64.1% and marked improvement in 30.8% six months after discharge.<br />
Conclusion: Post-infectious encephalomyelitis (PIEM) is an acute demyelinating disorder of the central<br />
nervous system, which is commonly triggered by an infection or vaccination. MRI scans would reveal the lesions<br />
in the central nervous system with typical clinical manifestations. Early diagnosis can be achieved by clinical<br />
examination, together with MRI scanning. In general, the response to Corticoid with/without Immunoglobulin<br />
treatment was good.<br />
trùng (vi trùng hoặc siêu vi trùng) hay chủng<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
ngừa trước đó. Nhiều nghiên cứu đã chứng<br />
Viêm não tủy hậu nhiễm là một bệnh viêm<br />
minh vai trò của phản ứng miễn dịch trong tổn<br />
mất myelin cấp tính của hệ thần kinh trung<br />
thương mô thần kinh. Bệnh thường gặp với tần<br />
ương gây tổn thương chất trắng nhiều ổ tại não<br />
suất cao hơn ở trẻ em và người lớn tuổi.<br />
và tủy sống. Bệnh thường xảy ra sau nhiễm<br />
Bệnh cảnh lâm sàng đa dạng, thường có<br />
* Bệnh viện Nhi Đồng 2<br />
<br />
Chuyên đề Nhi Khoa<br />
<br />
1<br />
<br />
nhiễm trùng (hô hấp, tiêu hóa …) trước đó.<br />
Triệu chứng thần kinh xảy ra 1-2 tuần sau đó,<br />
gồm: rối loạn tri giác, co giật, thất điều, rối loạn<br />
vận động, yếu liệt vận động, liệt thần kinh sọ…<br />
Chẩn đoán dựa vào bệnh cảnh lâm sàng và<br />
hình ảnh học (MRI). Điều trị gồm có điều trị hỗ<br />
trợ và điều trị đặc hiệu với Corticoide liều cao<br />
phối hợp hoặc không với Immunoglobulin giúp<br />
tăng tỷ lệ và mức độ hồi phục một cách đáng kể.<br />
Nghiên cứu về hiệu quả điều trị của<br />
Corticoide và Immunoglobulin trong viêm não<br />
tủy hậu nhiễm đã được nhiều nước thực hiện và<br />
báo cáo với tỷ lệ thành công đáng khích lệ. Ở<br />
Việt Nam chưa có báo cáo chính thức về điều trị<br />
bệnh lý này.<br />
Đề tài này được thực hiện nhằm xác định<br />
khả năng chẩn đoán chính xác nhóm bệnh viêm<br />
não tủy hậu nhiễm, đánh giá khả năng và hiệu<br />
quả điều trị để hạn chế thấp nhất tỷ lệ tử vong<br />
và di chứng nặng nề ảnh hưởng đến chất lượng<br />
cuộc sống bệnh nhân.<br />
<br />
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
Thiết kế nghiên cứu<br />
Cắt ngang mô tả<br />
<br />
Dân số nghiên cứu<br />
Bệnh nhân điều trị tại khoa thần kinh bệnh<br />
viện Nhi Đồng II từ 12/2006 đến 07/2008 được<br />
chẩn đoán Viêm não tủy hậu nhiễm.<br />
<br />
Tiêu chuẩn chọn bệnh<br />
Dựa vào 2 tiêu chuẩn chính:<br />
- Có biểu hiện tổn thương thần kinh tại não<br />
hoặc tủy sống.<br />
- Tổn thương não - tủy xác định trên MRI<br />
hoặc CT Scanner.<br />
Tiêu chuẩn loại trừ<br />
- Bất thường thần kinh trước đó (bại não, dị<br />
tật não, chậm phát triển).<br />
– Bệnh cảnh viêm não cấp do siêu vi như<br />
viêm não Nhật Bản, Enterovirus hay Herpes.<br />
Cở mẫu<br />
39<br />
<br />
Chuyên đề Nhi Khoa<br />
2<br />
<br />
Thu thập số liệu<br />
Lập phiếu thu thập dữ liệu (đính kèm) cho<br />
mỗi bệnh nhân<br />
<br />
KẾT LUẬN<br />
Dịch tễ<br />
Bảng 1: Đặc điểm dịch tễ học<br />
Đặc tính<br />
Tuổi<br />
< 3 tuổi<br />
4 – 10 tuổi<br />
> 10 tuổi<br />
Giới<br />
Nam<br />
Nữ<br />
Địa phương cư trú<br />
Thành phố Hồ Chí Minh<br />
Tỉnh<br />
<br />
Tần số<br />
<br />
%<br />
<br />
19<br />
14<br />
6<br />
<br />
48,7<br />
35,9<br />
15,4<br />
<br />
19<br />
20<br />
<br />
48,7<br />
51,3<br />
<br />
17<br />
22<br />
<br />
43,6<br />
56,4<br />
<br />
Tổng cộng<br />
<br />
39<br />
<br />
100<br />
<br />
Trong nhóm nghiên cứu ghi nhận bệnh lý<br />
viêm não tủy hậu nhiễm gặp ở mọi lứa tuổi,<br />
nhỏ nhất là 7 tháng và lớn nhất là 14 tuổi.<br />
Nhóm tuổi có tần suất gặp cao nhất là nhỏ hơn<br />
3 tuổi (19/39 = 48,8%) (Bảng 1). Điều này phù<br />
hợp với báo cáo của Weng và cộng sự (2006) ở<br />
Thái Lan trên 20 trẻ em với tuổi khởi phát từ 4<br />
tháng đến 15 tuổi. Trong khi đó 132 trẻ em mắc<br />
bệnh ở một trung tâm nhi ở Pháp trong báo cáo<br />
của Mikaeloff và cộng sự (2007) có độ tuổi<br />
trung bình là 6±3,3 tuổi. Số liệu này tương đối<br />
giống với báo cáo của Singhi và cộng sự (2006)<br />
tại Bắc Ấn trên 52 trẻ, với độ tuổi trung bình là<br />
6,14±3,17 tuổi và với báo cáo của Tenembaum<br />
và cộng sự (2002) tại Argentina trên 84 trẻ, với<br />
độ tuổi trung bình là 5,3±3,9 tuổi. Nghiên cứu<br />
của Samile và Hassan (2007) ở hai bệnh viện tại<br />
Iran lại cho thấy đa số bệnh nhân mắc bệnh từ 9<br />
-14 tuổi (trên 50%), và viêm não tủy hậu nhiễm<br />
hiếm gặp ở trẻ từ 1 – 5 tuổi.<br />
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tần suất<br />
mắc ở hai giới không khác nhau (nam: nữ = 19:<br />
20) (Bảng 1). Điều này phù hợp với Y Văn (Theo<br />
Y Văn, tuổi lớn tần suất gặp ở nữ cao hơn). Tỷ lệ<br />
mắc bệnh như nhau ở hai giới cũng được quan<br />
sát thấy ở Iran trong báo cáo của Samile và<br />
Hassan (2007), ở Thái Lan trong báo cáo của<br />
<br />
Weng và cộng sự (2006) và ở USA trong báo cáo<br />
của Leake và cộng sự (2004). Tuy nhiên, theo<br />
Singhi và cộng sự (2006), ở Bắc Ấn và theo<br />
Tenembaum và cộng sự (2002), ở Argentina, hầu<br />
hết trẻ mắc bệnh là nam.<br />
Sự phân bố về địa dư không có ý nghĩa với<br />
tỷ lệ trẻ mắc bệnh ở thành phố Hồ Chí Minh<br />
và địa phương tương đương nhau (17:22)<br />
(Bảng 1). Nghiên cứu của Leake và cộng sự<br />
(2004) ở USA cũng kết luận yếu tố địa lý,<br />
chủng tộc không ảnh hưởng đến bệnh cảnh<br />
viêm não tủy hậu nhiễm. Theo báo cáo của<br />
Singhi và cộng sự (2006), ở Ấn Độ, biểu hiện<br />
lâm sàng của bệnh này không khác nhau giữa<br />
các nước phát triển và đang phát triển.<br />
<br />
Tiền căn<br />
Nhieã m truø n g hoâ haá p<br />
28%<br />
Nhieã m truø n g hoâ haá p +<br />
tieâ u hoù a<br />
5%<br />
3%<br />
<br />
Nhieã m truø n g tieâ u hoù a<br />
64%<br />
Khoâ ng coù nhieã m truø ng<br />
<br />
Hình 1: Tiền căn nhiễm trùng trước khi phát bệnh<br />
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy có 29/39<br />
trẻ (74,4%) có nhiễm trùng trước đó. Loại nhiễm<br />
trùng thường gặp nhất là đường hô hấp (26/39 =<br />
66,7%) với những biểu hiện lâm sàng như sốt,<br />
ho, sổ mũi. Do điều kiện tại chỗ, chúng tôi<br />
không thể xác nhận chính xác loại tác nhân gây<br />
bệnh lý nhiễm trùng này. Nhiễm trùng đường<br />
tiêu hóa gặp trong 3 ca và chỉ một trẻ mắc cả<br />
nhiễm trùng tiêu hóa và nhiễm trùng hô hấp<br />
(Hình 1). Chỉ một ca duy nhất xuất hiện triệu<br />
chứng ngay trong giai đoạn lui bệnh quai bị. Tuy<br />
nhiên, chúng tôi không ghi nhận ca nào mắc<br />
viêm não tủy hậu nhiễm sau chích ngừa.<br />
Tỷ lệ trẻ em bị nhiễm trùng mới đây của<br />
chúng tôi (74,4%) gần giống với nghiên cứu<br />
của Tenembaum và cộng sự (2002) ở Argentina<br />
(74%). Ở Thái Lan, trong báo cáo của Weng và<br />
cộng sự (2006), 85% trẻ có nhiễm trùng trước<br />
đó. Tuy nhiên, báo cáo của Singhi và cộng sự<br />
(2006) ở Bắc Ấn lại chỉ ghi nhận được 17/52 trẻ<br />
<br />
Chuyên đề Nhi Khoa<br />
<br />
(32,7%) có tiền căn nhiễm trùng hay chích<br />
ngừa. Bên cạnh đó, trong khi nhiễm trùng hô<br />
hấp chiếm đa số trong nghiên cứu của chúng<br />
tôi, Samile và Hassan (2007) ở Iran báo cáo có<br />
tỷ lệ trẻ em có tiền căn nhiễm trùng đường hô<br />
hấp thấp hơn (46,4%). Tiền căn nhiễm trùng<br />
phong phú hơn trong báo cáo của hai tác giả<br />
này với nhiễm thủy đậu (Varicella Zoster<br />
Virus) và nhiễm trùng đường tiểu. Tiền căn<br />
chích ngừa cũng được ghi nhận.<br />
<br />
Đặc điểm lâm sàng<br />
Triệu chứng toàn thân gồm sốt nhẹ, nhức<br />
đầu, ói được ghi nhận trong 30/39 bệnh nhi<br />
(76,9%).<br />
22/39 trẻ (56,4%) có biểu hiện rối loạn tri giác<br />
(Hình 2). Biểu hiện rối loạn tri giác thường thấy,<br />
xuất hiện sớm và là lý do khiến trẻ được nhập<br />
viện sớm. Biểu hiện của rối loạn tri giác gồm ngủ<br />
nhiều, lơ mơ, bứt rứt, nói nhảm và hôn mê. Số<br />
liệu của chúng tôi giống với trong báo cáo của<br />
Singhi và cộng sự (2006) ở Bắc Ấn, với 55,8% trẻ<br />
bị rối loạn tri giác. Tuy nhiên, tỷ lệ này lại cao<br />
hơn ở Thái Lan và Argentina: lần lượt là 70% và<br />
69% trong nghiên cứu của Weng và cộng sự<br />
(2006) và Tenembaum và cộng sự (2002).<br />
Co giật gặp trong 20/39 bệnh nhi (51,3%)<br />
(Hình 2). Co giật là biểu hiện của tổn thương não<br />
cấp, thường giật nhiều cơn liên tiếp, sau cơn trẻ<br />
không tỉnh táo hoàn toàn và thường phải cắt cơn<br />
bằng thuốc đường tĩnh mạch hay hậu môn. Tuy<br />
nhiên, tỷ lệ trở thành bệnh động kinh thấp, chỉ<br />
có 3 trẻ (7,7%) phải điều trị động kinh sau đó. Tỷ<br />
lệ co giật của chúng tôi trùng khớp với nghiên<br />
cứu ở Thái Lan, theo Weng và cộng sự (2006)<br />
(50%). Trong nghiên cứu này, cũng chỉ có một<br />
bệnh nhi tiến triển thành bệnh động kinh. Trong<br />
khi đó, Singhi và cộng sự (2006) ở Bắc Ấn báo<br />
cáo tỷ lệ co giật tương đối thấp hơn (36,5%).<br />
<br />
3<br />
<br />
100%<br />
17<br />
<br />
80%<br />
<br />
- Hình ảnh tổn thương đặc trưng là tăng<br />
tín hiệu trên T2W, Flair, có hoặc không có bắt cản<br />
từ<br />
<br />
6<br />
<br />
9<br />
<br />
19<br />
<br />
60%<br />
40%<br />
<br />
33<br />
<br />
30<br />
22<br />
<br />
18.9%<br />
<br />
Khoâ ng<br />
<br />
20<br />
<br />
Nhaâ m xaù m<br />
37.8%<br />
<br />
5.4%<br />
<br />
Coù<br />
<br />
20%<br />
<br />
Chaá t traé ng döôù i voû<br />
<br />
5.4%<br />
<br />
Ñoà i thò<br />
<br />
10.8%<br />
<br />
0%<br />
<br />
21.6%<br />
<br />
Trieä u Roá i loaï n Trieä u Co giaä t<br />
chöù ng tri giaù c chöù ng<br />
toaø n thaâ n<br />
thaà n kinh<br />
ñònh vò<br />
<br />
Biểu hiện tổn thương thần kinh: Vị trí tổn<br />
thương đa dạng gồm:<br />
- Tổn thương tháp<br />
<br />
16/39 = 41,0%<br />
<br />
- Tiểu não<br />
<br />
4/39 = 10,3%<br />
<br />
- Dấu hiệu ngoại tháp<br />
<br />
8/39 = 20,5%<br />
<br />
- Tổn thương tủy<br />
<br />
4/39<br />
<br />
=<br />
<br />
7/39 = 17,9%<br />
<br />
Đặc điểm cận lâm sàng<br />
Huyết thanh chẩn đoán viêm não (Nhật Bản,<br />
Herpes, Enterovirus) làm trong 30/39 ca, trong<br />
đó 21/30 âm tính, 9 ca dương tính nhưng hầu hết<br />
đều là IgG.<br />
Có 25/39 được chọc dò dịch não tủy. Kết quả<br />
bình thường trong 22/25. 3 bất thường dịch não<br />
tủy với tăng bạch cầu trong dịch não tủy mức độ<br />
vừa, từ 30 → 200, trong đó 90% lympho, sinh<br />
hóa bình thường.<br />
Biểu hiện tổn thương trên MRI: Có 37/39 ca<br />
được chỉ định MRI<br />
<br />
Vị trí tổn thương ghi nhận<br />
Chất trắng dưới vỏ (đỉnh, trán) 14/37 = 37,8%<br />
Nhâm xám<br />
8/37 = 21,7%<br />
Thân não<br />
4/37 = 10,8%<br />
Đồi thị<br />
2/37 = 5,4%<br />
Tủy<br />
7/37 = 18,9%<br />
Chất xám vỏ<br />
2/37 = 5,4%<br />
Kết quả xác định tổn thương trên MRI phù<br />
hợp với vị trí giải phẫu chức năng và triệu<br />
chứng trên lâm sàng của mỗi bệnh nhân (Hình<br />
3)<br />
<br />
Chuyên đề Nhi Khoa<br />
4<br />
<br />
Tuû y<br />
Chaá t xaù m voû<br />
<br />
Hình 3: Vị trí tổn thương trên MRI<br />
<br />
Hình 2: Đặc điểm lâm sàng<br />
<br />
- Tổn thương dây sọ<br />
10,3%<br />
<br />
Thaâ n naõ o<br />
<br />
Theo Singhi và cộng sự (2006), ở Bắc Ấn, tỷ<br />
lệ tổn thương ở đồi thị, nhâm xám đáy sọ và thể<br />
chai lần lượt là 30,76%, 17,3% và 13,46%. Weng<br />
và cộng sự (2006), ở Thái Lan, ghi nhận được tổn<br />
thương thường ở chất trắng dưới vỏ (80%), tiểu<br />
não (45%), đồi thị (40%), và chất trắng ven não<br />
thất (35%). Báo cáo này phù hợp với nghiên cứu<br />
của chúng tôi: kết quả MRI tổn thương thường ở<br />
chất trắng dưới vỏ, đa số vùng đỉnh và trán.<br />
Nghiên cứu của Tenembaum và cộng sự (2002) ở<br />
Argentina lại chia tổn thương MRI thành 4<br />
nhóm: tổn thương nhỏ (62%), tổn thương lớn<br />
(24%), tổn thương ảnh hưởng đến đồi thị hai bên<br />
(12%) và tổn thương chảy máu cấp tính (2%).<br />
CT Scanner được chúng tôi chỉ định trên 8/39<br />
ca, trong đó có 4 ca bình thường, 2 ca giảm đậm<br />
độ khu trú và 2 ca vôi hóa tuyến tùng.<br />
<br />
Điều trị<br />
Với những bệnh nhân đã được chẩn đoán là<br />
viêm não tủy hậu nhiễm, chúng tôi chỉ định điều<br />
trị đầu tiên với Corticoides: Solumedrol (Methyl<br />
Prednisolone) liều 30/mg/kg/ngày x 5 ngày liên<br />
tiếp (liều tối đa 1g/ngày). Sau đó chuyển<br />
prednison uống liều 1 mg/kg/ngày trong 2 đến 4<br />
tuần. Giảm liều trong 2 tuần.<br />
Bệnh<br />
nhân<br />
được<br />
điều<br />
trị<br />
với<br />
Immunoglobulin là bệnh nhân không đáp ứng<br />
hoàn toàn với điều trị corticodes (trong nghiên<br />
cứu này chúng tôi không gặp bệnh nhân chống<br />
chỉ định điều trị Corticodes). Có 19/39 bệnh nhân<br />
(48,7%) được chỉ định với Immunoglobulin<br />
(Hình 4). Tỷ lệ này tương đương với báo cáo của<br />
Khurana và cộng sự (2005), ở USA, với 50% trẻ<br />
em không đáp ứng với methylprednisolone và<br />
<br />
phải chỉ định Immunoglobulin. Trong khi đó, ở<br />
Argentina, Tenembaum và cộng sự (2002) ghi<br />
nhận hầu hết trẻ em đáp ứng tốt với điều trị<br />
corticoide và chỉ định Immunoglobulin với tỷ lệ<br />
thấp hơn.<br />
Corticoide<br />
51.3%<br />
<br />
48.7%<br />
<br />
Corticoide +<br />
Immunoglobulin<br />
<br />
Hình 4: Điều trị đặc hiệu với Corticoide và<br />
Immunoglobulin<br />
Liều Immunoglobulin dùng có 2 cách :<br />
- 0,4g/kg/ngày trong 2 ngày liên tiếp, nếu<br />
đáp ứng tốt dùng liều thứ 3 vào tuần thứ 2.<br />
Dùng tiếp liều thứ 4, sau 1 tháng khi bệnh nhân<br />
cải thiện triệu chứng không hoàn toàn.<br />
- 0,4g/kg/ngày trong 5 ngày liên tiếp trong<br />
trường hợp bệnh nặng, đáp ứng kém trong 1-2<br />
ngày đầu.<br />
<br />
Kết quả điều trị<br />
Lúc ra viện<br />
+ Phục hồi hoàn toàn<br />
+ Phục hồi một phần<br />
+ Không phục hồi<br />
Sau 1 tháng<br />
+ Phục hồi hoàn toàn<br />
+ Phục hồi một phần<br />
+ Không phục hồi<br />
<br />
18/39<br />
19/39<br />
2/39<br />
20/39<br />
17/39<br />
2/39<br />
<br />
Sau 6 tháng<br />
+ Phục hồi hoàn toàn 25/39<br />
+ Phục hồi một phần 12/39<br />
+ Không phục hồi<br />
2/39<br />
Lúc ra viện, tỷ lệ phục hồi hoàn toàn là 18/39<br />
(46,15%) và phục hồi một phần là 19/39 (48,7%).<br />
Sau sáu tháng tỷ lệ phục hồi hoàn toàn là 25/39<br />
(64,1%) và phục hồi một phần là 12/39 (30,8%).<br />
Số ca thất bại là 2/39 chiến 5,1% (Hình 5). Trong<br />
đó một trường hợp tái phát sau 2 tháng, diễn<br />
tiến xấu dần. Không có tử vong trừ một trường<br />
hợp xin về trong tình trạng xấu khi đang điều trị.<br />
<br />
Chuyên đề Nhi Khoa<br />
<br />
25<br />
<br />
25<br />
20<br />
<br />
18<br />
<br />
Hoaøn toø an<br />
<br />
20<br />
<br />
19<br />
<br />
Khoâng hoaøn toaø n<br />
<br />
17<br />
<br />
Khoâng thay ñoåi<br />
<br />
15<br />
<br />
12<br />
<br />
10<br />
5<br />
<br />
2<br />
<br />
2<br />
<br />
2<br />
<br />
0<br />
Luùc ra vieän<br />
<br />
Sau 1 thaùng<br />
<br />
Sau 6 thaùng<br />
<br />
Hình 5: Kết quả điều trị<br />
Nhìn chung, viêm não tủy hậu nhiễm là một<br />
bệnh có tiên lương tốt. Tỷ lệ tử vong thường là<br />
thấp. Ở Iran, theo Samile và Hassan (2007), tỷ lệ<br />
này là 6,6%. Singhi và cộng sự (2006) ở Bắc Ấn<br />
báo cáo 26,9% trẻ hồi phục hoàn toàn và 51,9%<br />
trẻ hồi phục một phần khi xuất viện. Theo dõi 6<br />
tháng sau, các tác giả trên ghi nhận có 61,3%<br />
bệnh nhi không có bất thường nào. 15,9% xuất<br />
hiện bất thường vận động và 9% có nhiều bất<br />
thường. Như vậy, kết quả điều trị của chúng tôi<br />
cũng tương đối phù hợp so với các nghiên cứu ở<br />
nhiều nơi trên thế giới.<br />
Việc điều trị với Corticoide liều cao sau đó có<br />
hoặc không dùng Immunoglobulin tùy đáp ứng<br />
lâm sàng mang lại kết quả khả quan cho bệnh<br />
nhân viêm não tủy hậu nhiễm. Theo nghiên cứu<br />
của Ravaglia và cộng sự (2007), ở Ý, hiệu quả của<br />
Immunoglobulin đáng kể nhất ở những rối loạn<br />
về vận động. Những trẻ không phục hồi vận<br />
động hoàn toàn được chỉ định tập vật lý trị liệu<br />
phối hợp sau đó.<br />
Do điều kiện kinh tế, chỉ 2 bệnh nhân làm lại<br />
MRI sau 6 tháng. Ở nhóm trẻ phục hồi hoàn toàn<br />
thì MRI biến mất hoàn toàn tổn thương. Trong 2<br />
ca không đáp ứng, sang thương không thay đổi<br />
trên MRI.<br />
Do điều kiện thời gian chưa đủ, chúng tôi<br />
chưa thể tiến hành theo dõi và nghiên cứu tỷ lệ<br />
tái phát của bệnh này. Viêm não tủy hậu<br />
nhiễm được ghi nhận là có tái phát trong một<br />
số công trình nghiên cứu. Mikaeloff và cộng sự<br />
(2007) báo cáo có 18% bệnh nhi bị tái phát,<br />
trong đó có những yếu tố nguy cơ như viêm<br />
tủy thị thần kinh (optic neuritis), tiền sử gia<br />
đình có bệnh viêm nhiễm mất myelin ở hệ<br />
<br />
5<br />
<br />