intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đào tạo giáo viên dạy trẻ tự kỉ trong tình hình hiện nay

Chia sẻ: Abcdef_9 Abcdef_9 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

150
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đặt vấn đề: Tự kỷ đang ngày càng trở thành vấn đề nóng bỏng trong giáo dục đặc biệt, bởi trong những năm gần đây, số ca chẩn đoán tự kỷ ngày càng tăng. Từ trước những năm 1990, tỷ lệ trẻ tự kỷ trên thế giới được chẩn đoán tự kỷ vào khoảng 1/10.000 trẻ. Tuy vậy, cho tới giữa những năm 2000, con số

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đào tạo giáo viên dạy trẻ tự kỉ trong tình hình hiện nay

  1. Đào tạo giáo viên dạy trẻ tự kỉ trong tình hình hiện nay Đặt vấn đề: Tự kỷ đang ngày càng trở thành vấn đề nóng bỏng trong giáo dục đặc biệt, bởi trong những năm gần đây, số ca chẩn đoán tự kỷ ngày càng tăng. Từ trước những năm 1990, tỷ lệ trẻ tự kỷ trên thế giới được chẩn đoán tự kỷ vào khoảng 1/10.000 trẻ. Tuy vậy, cho tới giữa những năm 2000, con số này tăng gấp nhiều lần. Cụ thể, tại một số bang của Mỹ như West Virginia or New Jersey, cứ trong 1000 trẻ 8 tuổi, có tới 4.5-9.9 trẻ trong phổ tự kỷ [1] . Tại các bang khác như California, số trẻ tự kỷ tăng từ 250%- 500%, tần xuất suất hiện 1/100 [3,4]. Ở Hà Lan, tỷ lệ trẻ tự kỷ khoảng 1/1000, trong khi những trẻ trong phổ tự kỷ là 1/333. Ở Việt Nam chưa có số liệu thống kê, nhưng nếu ước tính con số đó so với xấp xỉ 3.5 triệu trẻ em trong độ tuổi mầm non (số liệu Bộ Giáo dục năm 2009), con số trẻ trong phổ tự kỷ chắc chắn rất lớn. Đây là thách thức với xã hội nói chung và ngành giáo dục đặc biệt nói riêng.
  2. Đào tạo giáo viên giáo dục đặc biệt ở Việt Nam Từ giữa những năm 1990 tới nay, giáo dục đặc biệt ở Việt Nam bắt đầu được quan tâm hơn, chủ yếu với sự hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ, với mục tiêu đưa trẻ khuyết tật, trong đó có trẻ tự kỷ, ra lớp. Chương trình hành động của Ban chỉ đạo Giáo dục trẻ khuyết tật giai đoạn 2001- 2015 đề ra mục tiêu đưa 75% số trẻ khuyết tật ra lớp vào năm 2010 và 90% vào năm 2015. Từ năm 1999, khóa đào tạo giáo viên giáo dục đặc biệt được tổ chức lần đầu tiên, với sự hỗ trợ của UB2 Hà Lan. Năm 2001, khoa Giáo dục đặc biệt đầu tiên ở Việt Nam được thành lập. Cho tới nay, đã có 7 Cơ sở đào tạo/ bồi dưỡng giáo viên giáo dục đặc biệt trên cả nước, với số lượng sinh viên chính quy hàng năm tốt nghiệp khoảng trên 200 người. Theo ước tính, số lượng giáo viên giáo dục đặc biệt ở Việt Nam hiện nay cần khoảng 200.000 người cho các cấp học [2]. Tuy vậy, số lượng người được đào tạo còn rất hạn chế chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế.
  3. Nguyên nhân:  Vấn đề giáo dục đặc biệt còn chưa được quan tâm một cách đúng mức.  Nguồn giảng viên trong đào tạo giáo viên tại các trường Đại học và Cao đẳng còn thiếu và yếu.  Nhiều sinh viên được đào tạo nhưng không kiếm được việc làm đúng ngành nghề sau khi tốt nghiệp.  Chương trình đào tạo còn nặng nề, nhiều lí thuyết, ít thực hành.  Chính sách của nhà nước về giáo viên giáo dục đặc biệt chưa rõ ràng.  Lương thấp Số lượng đơn đăng kí thi tuyển sinh đầu vào giảm theo từng năm. Đào tạo giáo viên giáo dục đặc biệt tại trường CĐSPTW-TPHCM Khoa Giáo dục đặc biệt trực thuộc Trường CĐSPTW TPHCM được thành lập năm 2003 với nhiệm vụ cung cấp nguồn giáo viên giáo dục đặc biệt bậc mầm non cho các trường Mầm non hòa nhập và chuyên biệt cho các tỉnh phía Nam. Khoa có 3 tổ bộ môn: Giáo dục trẻ khiếm thính,
  4. giáo dục trẻ khiếm thị, Giáo dục trẻ chậm phát triển trí tuệ. Phần Giáo dục trẻ tự kỷ do tổ giáo dục trẻ chậm phát triển trí tuệ phụ trách. Phần Giáo dục trẻ tự kỷ chỉ chiếm một phần nhỏ trong chương trình đào tạo (2 tín chỉ, tương đương 30 giờ), thời lượng làm việc thực tế trên trẻ còn ít. Hơn nữa, số lượng giảng viên có kinh nghiệm về dạy trẻ tự kỷ còn rất hạn chế. Cho tới nay, khoa đã đào tạo được 4 khóa với tổng số sinh viên đã tốt nghiệp hệ chính quy trên 300 em, số sinh viên không chính quy: 300 em. Tuy nhiên, khoảng 60% số sinh viên đó làm việc đúng ngành nghề đào tạo. Nhiều em đi dạy mầm non, làm cho các đơn vị ngoài giáo dục. Một trong những nguyên nhân quan trọng là Giáo dục đặc biệt chưa có mã nghề cho giáo viên, dẫn đến việc nhiều đơn vị không thể tuyển vào biên chế, gặp khó khăn trong khâu chi trả lương. Ngoài ra, lương thấp cũng là nguyên nhân gây nên tình trạng này. Kết luận: Rõ ràng, nhu cầu giáo viên, trường lớp giáo dục cho trẻ tự kỷ đang ngày càng trở nên bức thiết, nhưng trên thực tế ngành giáo dục chưa đáp ứng được nhu cầu này. Điều cần làm hiện nay là nên có một diễn đàn trao
  5. đổi giữa giáo viên giáo dục đặc biệt và cha mẹ để chia sẻ kiến thức kỹ năng dạy trẻ tự kỷ, nhằm tận dụng vốn kiến thức lí thuyết của giáo viên và kỹ năng của cha mẹ trẻ tự kỷ. Tham khảo: 1. Prevalence of Autism Spectrum Disorders --- Autism and Developmental Disabilities Monitoring Network, Six Sites, United States, 2000 2. Nguyễn Thị Hoàng Yến (2008). Development of Special Education in Vietnam and International Cooperation in Teacher Preparation, Fulbright Association 31th Anniversary Conference . 3. http://www.childdevelopmentmedia.com/blog/?p=77 4. http://www.talkaboutcuringautism.org/autism/latest_autism_statistics.ht m
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2