intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Ảnh hưởng của một số nhân tố dinh dưỡng đến khả năng sinh trưởng phát triển hệ sợi của giống nấm sò Pleurotus ostreatus

Chia sẻ: Cao Tuyet | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:28

99
lượt xem
25
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ở Việt Nam, nghề nuôi trồng nấm sò đã chứng minh được hiệu quả trong thực tiễn. Hiện nay, nghề nuôi trồng nấm cũng đã được các Sở Nông nghiệp, Trung tâm ứng dụng khoa học và công nghệ của các tỉnh như Thái Nguyên, Nam Định, Hải Phòng, Hưng Yên,... Tuy nhiên, một trong những công việc mà người nuôi trồng nấm sò hiện nay chưa chủ động thực hiện được hoặc thực hiện chưa hiệu quả là công tác nhân giống nấm.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Ảnh hưởng của một số nhân tố dinh dưỡng đến khả năng sinh trưởng phát triển hệ sợi của giống nấm sò Pleurotus ostreatus

  1. PHẦN I. MỞ ĐẦU 1.1. Tính cấp thiết của đề tài Vấn đề an toàn thực phẩm, sức khỏe và bảo vệ môi trường luôn được   coi trọng ở tất cả các quốc gia trên thế giới. Để giải quyết vấn đề thực phẩm  sạch và giàu dinh dưỡng, việc tăng cường sử  dụng nấm ăn trong khẩu phần   ăn hàng ngày của con người đang là một giải pháp hữu hiệu.  Sản phẩm nấm  ăn đặc biệt tốt với sức khoẻ người sử dụng, an toàn và chứa đầy đủ các chất   dinh dưỡng cần thiết cho con người. Đặc biệt, nghề nuôi trồng nấm đã mang   lại hiệu quả kinh tế cao cho người lao động, tận dụng lao động phổ thông lúc  nông nhàn, sử dụng nguồn phế phụ phẩm nông lâm nghiệp góp phần bảo vệ  môi trường sống, phế  liệu sau nuôi trồng nấm có khả  năng tái tạo đất, làm   phân bón rất tốt cho cây trồng [4]. Một trong những nấm ăn đã được nuôi  trồng  ở  nhiều nước trên thế  giới từ lâu là nấm sò(Pleurotus ostreatus). Nấm  sò chứa nhiều protein, vitamin và các axit amin có nguồn gốc thực vật, để hấp   thụ cho cơ thể con người. Đặc biệt với hàm lượng protein  chiếm tới 33­43%.  Nấm sò hoàn toàn có thể thay thế lượng đạm từ thịt, cá có nguồn gốc từ động  vật. Do đó, nấm sò còn được gọi là thịt chay hay thịt sạch khi được sử dụng  như nguồn cung cấp protein chủ yếu qua các bữa ăn.  Ở  Việt Nam, nghề  nuôi trồng nấm sò đã chứng minh được hiệu quả  trong thực tiễn. Hiện nay, nghề  nuôi trồng nấm cũng đã được các Sở  Nông   nghiệp, Trung tâm  ứng dụng khoa học và công nghệ  của các tỉnh như  Thái  Nguyên,   Nam   Định,   Hải   Phòng,   Hưng   Yên,   Quảng   Ninh,   Lào   Cai,   Tuyên  Quang, Phú Thọ…, một số  tỉnh phía nam chú trọng phát triển, phổ  biến và   nhân rộng cho người dân từ  khoảng 15 năm trở  lại đây [3], [15]. Tuy nhiên,   một trong những công việc mà người nuôi trồng nấm sò hiện nay chưa chủ  động thực hiện được hoặc thực hiện chưa hiệu quả  là công tác nhân giống   nấm. Vì vậy, để góp phần thuận lợi cho công tác nhân giống nấm sò cấp I tại  Phòng thí nghiệm Công nghệ  Sinh học, Khoa Nông Lâm Ngư, Trường Đại  1
  2. học Hùng Vương, đề  tài:  “Ảnh hưởng của một số  nhân tố  dinh dưỡng   đến khả  năng sinh trưởng phát triển hệ sợi của giống nấm sò Pleurotus   ostreatus” đã được lựa chọn thực hiện. 1.2. Mục tiêu nghiên cứu          Xác định được  ảnh hưởng của một số  nhân tố  dinh dưỡng như  nguồn  cacbon, nguồn nitơ và nguồn khoáng đến khả  năng sinh trưởng phát triển hệ  sợi của giống nấm sò  P. ostreatus  trong điều kiện hiện tại của  PTN Công  nghệ  Sinh học, Khoa Nông Lâm Ngư, Trường Đại học Hùng Vương, từ  đó  lựa chọn được điều kiện dinh dưỡng thích hợp nhất sử  dụng trong nhân  giống nấm sò cấp I. 1.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 1.3.1. Ý nghĩa khoa học Kết quả nghiên cứu của đề  tài là tài liệu tham khảo có giá trị khoa học   trong việc thực hiện nhân giống nấm sò cấp I bằng hệ  sợi, giúp cho người   dân và các cơ sở sản xuất có nhu cầu sản xuất giống nấm sò cấp I có được   các căn cứ khoa học để thực hiện công tác nhân giống nấm sò cấp I tại cơ sở  đạt hiệu quả cao. 1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài Kết quả nghiên cứu của đề  tài sẽ góp phần cung cấp chủ động nguồn   giống nấm sò cấp I phục vụ cho việc nhân giống nấm sò cấp II và cấp III, từ  đó cung cấp chủ động nguồn giống trong nuôi trồng nấm sò đại trà. 2
  3. PHẦN II. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 2.1. Sơ lược về nuôi trồng nấm ăn, nấm dược liệu và nấm sò 2.1.1. Nghiên cứu nghề nuôi trồng nấm ăn, nấm dược liệu và nấm sò trên   thế giới Từ  xa xưa, con người đã biết dùng nấm làm thức ăn và làm thuốc. Từ  thời hoàng đế  La Mã cổ  đại, nấm đã được sử  dụng trong các buổi yến tiệc  của nhà vua. Ở Châu Âu việc nuôi trồng nấm ăn đã được mô tả từ thế kỷ thứ  III. Nấm phần  lớn có ý nghĩa và vai trò rất quan trọng trong đời sống, cũng   như trong nền kinh tế và trong nghiên cứu khoa học. Trên thế giới đã xác định  được gần 2000 loài nấm ăn và nấm dược liệu. Trong số đó, trên 80 loài nấm   đã được nghiên cứu công nghệ nuôi trồng nhân tạo.  Nấm sò (P. ostreatus) là một loài nấm ăn được trồng lần đầu ở Đức để  ăn trong thế chiến lần thứ nhất. Năm 1970, nấm sò mới được nuôi trồng đại  trà phổ biến trên thế giới. Cho đến nay, nghề nuôi trồng nấm ăn và nấm dược  liệu đã lan rộng sang nhiều nước và mang lại hiệu quả kinh tế cao, đóng góp  tỷ  lệ  không nhỏ  vào nền kinh tế  của các nước như: Mỹ, Pháp,... đặc biệt là  các nước khu vực Bắc Mỹ  và Châu Á như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan,  Ấn Độ... Ngày nay, nhiều nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ... đã tự động hoá  hầu hết các khâu trong sản xuất nấm và sản phẩm nấm tạo ra được xuất  khẩu ra các nước khác trên thế  giới hàng triệu tấn nấm mỗi năm như  nấm   hương, nấm linh chi, nấm mỡ, nấm bào ngư  (nấm sò)... Thông thường nấm   xuất khẩu được bảo quản tươi, hoặc  ở  dạng sản phẩm chế  biến hoặc bào   3
  4. chế  thành trà và các loại thuốc quý... đã mang về một nguồn ngoại tệ khổng   lồ cho các nước này. Nấm sò mọc trên các thân cây khô hoặc suy yếu tạo thành những tai   nấm xen kẽ  nhau như  hình bậc thang. Nấm sò được xem là một  nấm dược  liệu do   nó   có   chứa   các  hoạt   chất   sinh   học như   lovastatin   có   tác   dụng  giảm cholesterol. Ngoài ra, đã có một số đề tài nghiên cứu về khả năng chống  ung thư của nấm sò do có sự hiện diện của lovastatin trong tai nấm, tập trung   ở  phiến nấm và đặc biệt  ở  bào tử  nấm. Nấm sò có hương thơm của hồi do   sự  hiện diện của benzaldehyde. Nấm sò là một trong những loài nấm hoang  dã có thể nuôi trồng dễ dàng trên rơm rạ  và các loại vật liệu khác. Trong số  các loài nấm ăn, nấm sò được nuôi trồng phổ  biến, rộng rãi, sớm nhất và  thường có nhiều loại. Chúng thường mọc hoang trên thân gỗ, mọc đơn độc  hay mọc chồng lên nhau và nhiều loại khác nhau về màu sắc, hình dạng, khả  năng thích nghi với các điều kiện nhiệt độ, ít bệnh và rất dễ  trồng. Nấm có  dạng phễu lệch, mọc đơn lẻ hay mọc thành cụm tập trung, bao gồm 3 phần:   mũ, phiến, cuống. 2.1.2. Nghiên cứu nghề nuôi trồng nấm ăn, nấm dược liệu và nấm sò ở  Việt Nam Ở  Việt Nam từ  xưa nhân dân ta đã biết thu hái nấm tự  nhiên như  mộc nhĩ, nấm hương,… để  làm thức ăn. Tuy nhiên mãi đến năm 1970 việc   nghiên cứu và phát triển sản xuất nấm ăn mới bắt đầu được thực hiện. Hơn  10 năm trở lại đây nghề trồng nấm mới được phổ biến ở các vùng nông thôn  và được xem là nghề  mang lại hiệu quả  kinh tế  cao. Một số  tỉnh miền bắc  như  Nam Định, Hà Nam, Hải Dương, Ninh Bình, Hà Nội, Bắc Giang, Thái  Nguyên,… đã có nhiều trang trại sản xuất và chế  biến nhiều nơi hình thành  hợp tác xã nấm, sản phẩm nấm tiêu thụ  và xuất khẩu đều có giá trị  kinh tế  cao [12], [14]. 4
  5. Thái Nguyên là một tỉnh miền núi phía Bắc, việc sản xuất nấm ăn và  nấm dược liệu được phát triển từ năm 2000 trở lại đây, nhất là sau khi triển   khai dự án “Xây dựng mô hình sản xuất nấm hàng hóa” thuộc “Chương trình  nông thôn miềm núi giai đoạn 2005­2010”, trong đó Bộ  Khoa học và Công  nghệ đầu tư với tổng kinh phí 4 tỷ đồng cho giai đoạn 2005­2007 [12]. Thực hiện chương trình phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa,  Bắc Giang đã xây dựng “Đề án phát triển sản xuất nấm giai đoạn 2007­2010”  với tổng kinh phí hơn 43,7 tỷ đồng , trong đó ngân sách tỉnh hỗ trợ 6 tỷ đồng,  còn lại là vốn đối ứng của nhân dân. Riêng trong năm 2007, ngân sách tỉnh hỗ  trợ các địa phương trong vùng quy hoạch 1,35 tỷ đồng xây dựng 30 lán trại, 2  cơ  sở  chế  biến nấm, đồng thời hỗ  trợ  giống cho hơn 1500 tấn nguyên liệu.   Đây là đề  án có quy mô, mức hỗ  trợ lớn nhất từ trước tới nay về phát triển   nghề trồng nấm trên địa bàn [6], [7], [15].   Hiện nay, nghề nuôi trồng nấm sò tại Tỉnh Phú Phọ  đang được phát  triển mạnh. Đặc biệt năm  2011 tại xã Đồng Cam ­ huyện Cẩm Khê ­ Tỉnh  Phú Thọ  đã thành lập nên hợp tác xã nuôi trồng nấm với quy mô lớn. Theo   chủ nhiệm hợp tác xã cho biết với diện tích hơn 2000  quy hoạch nuôi trồng  nấm sò và nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương rất thuận lợi cho nuôi  trồng nấm sò, trung bình mỗi tấn nguyên liệu cho thu từ 7­8 tạ nấm tươi cho   thu nhập từ 20­25 triệu đồng. Đây là hướng phát triển mang lại hiệu quả kép.  Không những tận dụng được nguồn phế thải lớn từ nông nghiệp như rơm rạ,   mùn cưa… mà còn tạo ra một nguồn thực phẩm sạch, giàu dinh dưỡng, mang   lại lợi ích kinh tế  cao, giải quyết việc làm tại chỗ  cho lao động nhàn rỗi  ở  nông thôn, góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Hiện nay việc phát triển sản xuất nấm  ở  Việt Nam nói riêng, trên   thế  giới nói chung đã và đang phát triển ngày càng mạnh mẽ, đem lại nhiều   lợi nhuận cho người sản xuất, đồng thời giữ vai trò quan trọng trong nền kinh  tế quốc dân. 2.2. Giá trị dinh dưỡng và giá trị dược liệu của nấm sò P. ostrearus 5
  6. 2.2.1. Giá trị dinh dưỡng Nấm ăn là nguồn thực phẩm quý, vừa thơm ngon vừa có giá trị  dinh  dưỡng cao, hàm lượng protein trong nấm nhiều hơn trong sữa, chiếm 8,41­ 47,42% trọng lượng khô với nhiều axit amin quan trọng, trong đó có 25­35% là   axit amin tự do. Protein của nấm không giống protein của động vật, nó không   gây sơ cứng động mạch và không làm tăng cholesterol trong máu [9]. Bảng 2.1. Giá trị dinh dưỡng của một số nấm ăn phổ biến và nấm sò so  với trứng gà (Tỷ lệ % so với chất khô) [15] Thành phần/ Độ   ẩm  Protêin Lipi Hydratcacbon Tr Calo sản phẩm (W) t o Trứng 72 13 11 1 0 156 Nấm mỡ 89 24 8 60 8 381 Nấm hương 92 13 5 78 7 392 Nấm sò 91 30 2 58 9 345 Nấm rơm 90 21 10 59 11 369 Bảng 2.2. Hàm lượng vitamin và chất khoáng của một số nấm ăn phổ  biến và nấm sò so với trứng gà (mg/100g khô) [15] Thành phần/ Axit  Rbofl Thia Axit  Iron Canx Phos­ sản phẩm nicotinic avin min ascobic i phorus Trứng 0,1 0,31 0,4 0 2,5 50 210 6
  7. Nấm mỡ 42,5 3,7 8,9 26,5 8,8 71 912 Nấm hương 54,9 4,9 7,8 0 4,5 12 171 Nấm sò 108,7 4,7 4,8 0 15,2 33 1348 Nấm rơm 91,9 3,3 1,2 20,2 17,2 71 677 Bên cạnh đó nấm ăn còn chứa nhiều vitamin, axit amin, chất xơ, chất   khoáng,  không   chứa   chất   béo,   hàm   lượng   calo   thấp.   Ngoài   các   chất   dinh  dưỡng, một số  loài nấm còn chứa hàng loạt các chất thơm có hoạt tính sinh   học, chính các chất này đã tạo nên hương vị đặc biệt của nấm, làm cho chúng  không chỉ là nguồn thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, mà còn trở thành loại   gia vị  không thể  thiếu trong nghệ  thuật  ẩm thực [15], [12]. Do đặc tính sinh  học, các chất dinh dưỡng và vi chất có lợi cho sức khỏe con người dễ  dàng   được chuyển hóa thành năng lượng cho cơ thể, phù hợp với các giải pháp “ăn  kiêng” dành cho các bệnh nhân tiểu đường, gút, mỡ máu… cũng như người có  thói quen ăn chay. Đối với người suy nhược cơ  thể, các món ăn chế  biến từ  nấm giúp phục hồi sinh lực nhanh chóng. Việc chế  biến các món ăn cũng   không đòi hỏi cầu kì mà vẫn rất ngon miệng như  nấu cháo, xào, nấu canh,   luộc… vừa có tác dụng bổ  dưỡng, vừa có tác dụng trị  bệnh. Cũng trong một  bữa   ăn gia  đình, nấm  sò có  thể  xuất hiện trong nhiều món khác nhau mà  không gây nhàm chán về khẩu vị, phù hợp với mọi người trong gia đình. 2.2.2. Giá trị dược liệu Trước đây nhiều người còn nghi ngờ  về  khả  năng chữa bệnh của   nấm vì sợ  độc tính và các chất gây chết người của các loài nấm độc, nhưng   gần đây với sự phát triển của khoa học kỹ thuật hiện đại người ta đã chứng  minh được tác dụng thần kì của các loài nấm dược liệu. 7
  8.         Nấm Linh Chi nổi tiếng và được biết đến với nhiều tác dụng chữ  bệnh trong y học như: tăng cường khả  năng miễn dịch, ngăn ngừa các bệnh   tim mạch, hô hấp, các bệnh cao huyết áp, suy nhược thần kinh. Linh Chi cũng  hỗ  trợ  trong việc điều trị  ung thư, thấp khớp,  đau thận, đau dạ  dày, tiểu   đường…[12]. Những người dùng Linh Chi sẽ  chống được lão hóa, kéo dài  tuổi thọ, tăng trí nhớ, ngăn ngừa và chống khối u [8].         Nấm hương chứa chất Lentinan có tác dụng nâng cao tính miễn dịch  của cơ thể, chống ung thư không chỉ trong tế bào chủ phát sinh mà còn là chất   ức chế  những phát sinh ung thư  gây nên do virut [6], [7]. Gần đây người ta   còn phát hiện được một loại glycoprotein chiết từ  nấm hương có hiệu quả  chống virut HIV còn mạnh hơn cả thuốc AZT [11]. Ngoài ra nấm hương còn  có tác dụng chống đông máu, bảo vệ gan, giảm lượng cholesterol trong máu… Qua nghiên cứu, các nhà khoa học đã chỉ ra rằng mộc nhĩ có khả năng  chữa các bệnh như bướu cổ, máu xấu, nóng trong, tóc bạc sớm, có tác dụng   chống ung thư  tới 42% [12]. Ngoài ba loại nấm điển hình trên còn có nhiều  loại nấm có tính dược liệu cao như  nấm đầu khỉ, đông trùng hạ  thảo, nấm   đồng tiền, nấm búp, nấm sò…               Trong  y học,   các nhà khoa học đã phân tích thành phần có trong  nấm  sò tươi : Protein 4%, gluxit 3,4%, vitamin C, vitamin PP, axit fotoric, các axit  béo   không   no…   Khi nấm   sò dưới   dạng   sinh   khối   khô,   hàm   lượng   protein  chiếm   tới   33–43%,   ngoài   ra   còn   thấy   các   axit   amin   như   glutamic,   valin,  isoluxin…   Các   nghiên   cứu   khác   có   tác   dụng   làm   giảm   thiểu   đối   với  cholesterol và đường máu cho kết quả khả  quan. Đối với Đông y, nấm sò có  vị  ngọt, tính  ấm, công năng tán hàn và thư  cân…  Nấm sò còn có nhiều đặc  tính   của   biệt   dược:  Có khả  năng phòng và chữa các bệnh như  làm hạ  huyết áp, chống béo phì,  chữa bệnh đường ruột, tẩy máu xấu, hỗ  trợ  người bị  bệnh gút trong chế  độ  dinh dưỡng. Đặc biệt là đã có một số công trình nghiên cứu còn cho rằng nấm  sò có khả năng chống bệnh ung thư. Tác dụng chống ung thư của  nấm sò do  8
  9. sự hiện diện của lovastatin trong tai nấm, tập trung  ở phiến n ấm và ở bào tử  nấm,  hạ  huyết áp, làm tan cholesterol trong máu kể  cả   ở  dạng kết tinh, có  khả  năng giảm nguy cơ  mắc bệnh tim   mạch. Bên  cạnh đó, chất Pleurotin  trong nấm sò  có  khả  năng  ức chế  vi khuẩn gây bệnh Gram  âm và Gram  dương, ức chế sự phát triển của tế bào khối u... [2], [9]. 2.3. Phân loại và đặc điểm sinh học của hệ nấm sò P. ostreatus 2.3.1. Phân loại học Nấm sò trắng tên khoa học là  Pleurotus ostreatus  hay còn gọi là nấm  bào ngư, về mặt phân loại học thuộc:  Họ              : Pleurotaceae Bộ              : Agaricales Lớp phụ     : Hymenomycetidae Lớp            : Holobasidiomycetes Ngành phụ : Basidiomycotina Ngành        : Nấm thật (Eumycota) [1] Giới            : Nấm (Mycota hay Fungi) [1], [4] 2.3.2. Đặc điểm hình thái, cấu tạo của hệ nấm sò P. ostreatus  Hệ sợi nấm gồm hệ sợi nguyên có vách ngăn và sợi cứng không vách  ngăn ngang, màng dày, đường kính sợi khoảng 3,5­6,5 nm [13].             Quả thể vừa hoặc lớn, mũ nấm có đường kính khoảng 5­21 cm, khi   nhiệt độ cao mũ nấm có màu gần trắng, khi nhiệt độ thấp mũ nấm có màu tro   hay màu nâu tro. Phiến nấm màu trắng, xếp khít nhau, men dài xuống cuống  và có thể  dính lại thành dạng phân nhánh. Cuống nấm màu trắng, có khi có  sắc thái nâu nhạt [8]. Khi nuôi ở nhiệt độ thích hợp và thoáng khí, cuống nấm   ngắn, khi gặp điều kiện lạnh và kém thoáng khí, cuống nấm dài, phần gốc có  phủ  lông ngắn hay mọc dính liền với các cuống khác, kích thước  1­3 x 2­3  cm. Thịt nấm màu trắng, lúc đầu mềm, sau đó khi già sẽ hơi dai. Khi phơi khô  có mùi rơm. Bào tử hình elip dài, không màu, kích thước 3­4,5 x 7­9 nm. 9
  10. 2.4. Đặc điểm nuôi cấy và nhân giống nấm sò P. ostreatus Nấm sò mọc tốt trên môi trường giàu xenlullo, ưa lạnh hoặc ưa ấm, sợi   nấm sinh trưởng mạnh  ở  nhiệt độ  tối  ưu 20­25oC,  ở  giai đoạn ra quả  thể  nhiệt độ thích hợp từ 17­20oC. Nuôi trồng nấm sò thích hợp nhất ở điều kiện   độ   ẩm môi trường nguyên liệu nuôi cấy 60­65%, độ   ẩm không khí khi nuôi  sợi 70­80%, khi ra quả thể cần độ ẩm 85­95%, pH 5,0­7,5 và cần có độ thông  thoáng trong nhà nuôi do nấm sò là hiếu khí, ánh sáng 200­1000 lux [5,6]. Trong kỹ thuật nhân giống nấm sò được chia ra giống nấm cấp I, cấp  II và giống nấm cấp III. Giống nấm cấp I là giống mới được tách từ  giống  ban đầu, được nhân trên môi trường thạch trong  ống nghiệm hoặc đĩa petri.   Giống  nấm  cấp  II  là  giống  được  tiếp  tục  nhân  lên từ  giống nấm  cấp I,   thường được nhân trên môi trường sử  dụng nguyên liệu hạt hoặc phế  phụ  phẩm nông nghiệp. Giống nấm cấp I, II thường được lưu giữ  trong phòng  nhân giống của các cơ  sở  nhân giống nấm để  làm nguồn giống chủ  động và  do người có kỹ thuật phụ trách. Giống nấm cấp III là giống được cấy chuyển  tiếp từ  giống nấm cấp II trên môi trường tương tự  về  nguồn nguyên liệu  nhằm cung cấp giống nấm cho thị trường và người dân nuôi trồng sản xuất  nấm phục vụ cho việc nuôi trồng nấm đại trà. Trong nhân giống nấm sò, hai phương pháp thường được sử  dụng là  phương pháp nhân giống bằng hệ  sợi và nhân giống dịch thể. Mỗi phương  pháp có  ưu nhược điểm riêng. Tuy nhiên phương pháp nhân giống nấm sò  bằng hệ  sợi được sử  dụng phổ  biến hơn cả  do có  ưu điểm nuôi cấy đơn  giản, phù hợp với các quy mô vừa và nhỏ, chi phí thấp [10].  PHẦN III. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG, NGUYÊN  VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng nghiên cứu 10
  11. Chủng nấm sò P. ostreatus thuần chủng, quả thể màu trắng được mua  tại Trung tâm Công nghệ  Sinh học Thực vật ­ Viện Di truyền Nông nghiệp   Việt Nam, Hà Nội. 3.2. Phạm vi và nội dung nghiên cứu + Nghiên cứu  ảnh hưởng của ba nguồn cacbon là tinh bột, saccaroza,  maltoza đến khả năng sinh trưởng phát triển của hệ sợi nấm sò P. ostreatus. +   Nghiên   cứu   ảnh   hưởng   của   ba   nguồn   nitơ   là   pepton,   (NH4)2SO4,  NaNO3  đến   khả   năng   sinh   trưởng   và   phát   triển   của   hệ   sợi   nấm   sò  P.  ostreatus.  + Nghiên cứu ảnh hưởng của ba nguồn khoáng là CaCl2, FeSO4, MgCl2  đến khả năng sinh trưởng và phát triển của hệ sợi nấm sò P. ostreatus.  Lựa chọn ra nguồn dinh dưỡng phù hợp nhất sử dụng trong nhân giống  nấm sò cấp I.  3.3. Nguyên vật liệu sử dụng trong nghiên cứu Nguyên vật liệu: Khoai tây, giá đỗ. Hóa chất sử dụng: Glucoza, tinh bột, maltoza, saccaroza, cồn 70­95 độ,  pepton,  (NH4)2SO4, NaNO3, CaCl2, FeSO4, MgCl2, cao nấm men, thạch(Agar). Thiết bị: Tủ  ấm, tủ  lạnh, tủ  sấy, nồi thanh trùng, box cấy, lò vi sóng,   máy đo pH.  Dụng cụ: Bình tam giác, ống nghiệm, đĩa petri, que cấy, ống đong, cốc  đong, cân điện, bếp điện và các dụng cụ thông thường khác. 3.4. Phương pháp nghiên cứu 3.4.1. Phương pháp giữ giống trên môi trường đối chứng   Môi   trường   đối   chứng(môi   trường   chuẩn   nhân   và   môi   trường   giữ   giống nấm sò) gồm các thành phần(g/l):  + Khoai tây: 250 + Glucoza   : 20           + Thạch      : 20 11
  12. Khoai tây rửa sạch, gọt vỏ, cắt nhỏ, đun sôi trong nước sau 30 phút lọc  qua vải màn, bổ  sung nước và các thành phần khác của môi trường đủ  1 lít,   khuấy tan thạch, đun sôi, phân môi trường vào các ống nghiệm, bình tam giác  và đĩa petri. Môi trường được khử  trùng  ở  0,8 atm trong 30 phút. Để  môi   trường nguội, cấy chuyển giống và nuôi giữ giống cấp I ở điều kiện 25oC.   3.4.2. Phương pháp xác định ảnh hưởng của nguồn cacbon Sử  dụng môi trường nuôi giữ  giống cấp I nhưng nguồn glucoza  đã  được   thay   thế   bằng   các   nguồn   cacbon   thí   nghiệm   là   tinh   bột,   saccaroza,  maltoza ở nồng độ 1%, 2%, 3%, 4% và 5%. Phân môi trường vào đĩa petri/ống nghiệm có cùng kích thước, mỗi đĩa   5ml, khử trùng môi trường ở 0,8 atm trong 30 phút, khi môi trường nguội tiến  hành cấy 1% giống gốc. Nuôi nấm ở nhiệt độ 25oC, trong vòng một tuần. Sau  đó quan sát và đo sự sinh trưởng phát triển của hệ sợi nấm trong 5 ngày liên   tiếp, 24 giờ đo 1 lần. 3.4.3. Phương pháp xác định ảnh hưởng của nguồn nitơ Sử  dụng môi trường nuôi giữ  giống cấp I có bổ  sung thêm các nguồn   nitơ là pepton, (NH4)2SO4, NaNO3 ở nồng độ 0,1%, 0,2%, 0,3%, 0,4% và 0,5%. Phân môi trường vào đĩa petri/ống nghiệm có cùng kích thước, mỗi đĩa   5ml, khử trùng môi trường ở 0,8 atm trong 30 phút, khi môi trường nguội tiến  hành cấy 1% giống gốc. Nuôi nấm ở nhiệt độ 25oC, trong vòng một tuần. Sau  đó quan sát và đo sự sinh trưởng phát triển của hệ sợi nấm trong 5 ngày liên   tiếp, 24 giờ đo 1 lần. 3.4.4. Phương pháp xác định ảnh hưởng của nguồn khoáng Sử  dụng môi trường nuôi giữ  giống cấp I có bổ  sung thêm các nguồn   khoáng thí nghiệm là CaCl2, MgCl2, FeSO4  ở  nồng độ  0,05%, 0,1%, 0,15%,  0,2% và 0,25%.  Phân môi trường vào đĩa petri/ống nghiệm có cùng kích thước, mỗi đĩa   5ml, khử trùng môi trường ở 0,8 atm trong 30 phút, khi môi trường nguội tiến  12
  13. hành cấy 1% giống gốc. Nuôi nấm ở nhiệt độ 25oC, trong vòng một tuần. Sau  đó quan sát và đo sự sinh trưởng phát triển của hệ sợi nấm trong 5 ngày liên   tiếp, 24 giờ đo 1 lần. 3.4.5. Phương pháp xử lý số liệu Kết quả nghiên cứu thể hiện trong đề tài sử dụng giá trị trung bình của   ba lần lặp lại thí nghiệm. Số  liệu được xử  lý trên máy tính với  ứng dụng   chương trình Excel. Dùng hàm AVERAGE để tính trung bình và hàm STDEV  để phân tích sai số với ba lần lặp lại thí nghiệm. 13
  14. PHẦN IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU  4.1. Ảnh hưởng của các nguồn cacbon đến sự sinh trưởng phát triển của  hệ sợi nấm P. ostreatus Nguồn cacbon là nhân tố  có ý nghĩa hàng đầu đối với sự  sống của tất  cả vi sinh vi vật nói chung và nấm nói riêng. Trong đó, mỗi loại nấm lại thích  hợp nhất với một nguồn cacbon khác nhau và ở một nồng độ nhất định.  Để  xác định nguồn cacbon phù hợp nhất cho giữ  giống và nhân giống   nấm chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên nguồn cacbon là tinh bột, sacaroza,  maltoza. Nấm P. ostreatus được nuôi cấy trên môi trường chuẩn đã được thay  đổi lần lượt chỉ chứa một trong ba nguồn cacbon nói trên ở  các nồng độ  1%,  2%, 3%, 4%, 5%. 4.1.1. Ảnh hưởng của nồng độ tinh bột đến sự sinh trưởng phát triển của   hệ sợi nấm P. ostreatus:    Kết quả  nghiên cứu  ảnh hưởng của nồng độ  tinh bột đến sự  sinh   trưởng và phát triển hệ  sợi nấm P. ostreatus được thể hiện  ở bảng 4.1, hình  4.1và ở phụ lục 4.1: Bảng 4.1. Ảnh hưởng của nồng độ tinh bột đến sự sinh trưởng  phát triển của hệ sợi nấm P. ostreatus Sự sinh trưởng và phát triển của hệ sợi nấm Ngày ( m, mm) MTC 1% 2% 3% 4% 5%        1 23 ± 1 18 ± 1 20 ± 1 23 ± 1 25 ± 1 30 ± 2        2 34 ± 1 27 ± 0 30 ± 1 33 ± 1 35 ± 2 41 ± 2        3 45 ± 1 37 ± 0 41 ± 2 45 ± 2 45 ± 2 53 ± 1        4 57 ± 1 48 ± 2 52 ± 2 58 ± 2 59 ± 2 66 ± 1        5 70 ± 1 59 ± 1 61 ± 2 69 ± 1 70 ± 2 77 ± 2 14
  15. Hình 4.1. Sự sinh trưởng và phát triển của hệ sợi nấm P. ostreatus   trên môi trường khác nhau Kết quả   ở  bảng 4.1, hình 4.1 và  ở  phụ  lục 4.1 cho thấy khi nuôi cấy  nấm P. ostreatus trên môi trường chứa nguồn tinh bột ở nồng độ khác nhau có  ảnh hưởng rõ rệt đến sự  sinh trưởng và phát triển của hệ  sợi nấm. Các kết  quả  cũng cho thấy nồng độ  tinh bột càng tăng thì nấm sò phát triển càng  mạnh.  Ở  nồng độ  tinh bột 5% nấm sò phát triển mạnh nhất (77 mm), nấm  phát triển tốt hơn trên môi trường chuẩn và phát triển kém dần ở nồng độ 4%  trở xuống. Ở nồng độ tinh bột 1% phát triển kém nhất (59 mm). Nồng độ 5%  hệ sợi dày, bện kết chặt chẽ với nhau và ăn sâu vào cơ chất.Vì vậy, khi nhân  giống nấm này có thể  thay thế  nguồn glucoza bằng nguồn tinh bột từ 4, 5%   vào môi trường. 4.1.2. Ảnh hưởng của nồng độ saccaroza đến sự sinh trưởng và phát triển   của hệ sợi nấm P. ostreatus Kết quả  nghiên cứu  ảnh hưởng của nồng độ  saccaroza đến sự  sinh   trưởng và phát triển hệ sợi nấm P. ostreatus được thể hiện  ở bảng 4.2, hình  4.2 và ở phụ lục 4.2: 15
  16. Bảng 4.2. Ảnh hưởng của nồng độ saccaroza đến sự sinh trưởng  phát triển của hệ sợi nấm P. ostreatus    Saccar Sự sinh trưởng và phát triển của hệ sợi nấm oza ( m, mm) Ngày MTC 1% 2% 3% 4% 5%        1 23 ± 1 31 ± 2 32 ± 1 22 ± 1 20 ± 1 21 ± 1        2 34 ± 1 41 ± 1 44 ± 2 32 ± 2 30 ± 2 31 ± 1        3 45 ± 1 52 ± 1 54 ± 2 44 ± 2 41 ± 2 40 ± 1        4 57 ± 1 62 ± 2 65 ± 2 54 ± 2 52 ± 1 50 ± 1        5 70 ± 1 73 ± 2 70 ± 1 65 ± 1 62 ± 2 59 ± 2 Hình 4.2. Sự sinh trưởng và phát triển của hệ sợi nấm P. ostreatus  trên môi trường khác nhau Kết quả   ở  bảng 4.2, hình 4.2 và  ở  phụ  lục 4.2 cho thấy khi nuôi nấm  trên môi trường chứa nồng độ  saccaroza khác nhau đã có  ảnh hưởng khác   nhau đến sự phát triển của hệ sợi nấm  P. ostreatus. Nồng  độ saccaroza càng  cao thì sợi nấm phát triển càng kém. Sợi nấm  P. ostreatus  phát triển mạnh  nhất trên môi trường chứa saccaroza 1% với (73 mm), tốt hơn môi trường   chuẩn (70 mm),  ở nồng độ  1% hệ  sợi dày, bện kết chặt chẽ  với nhau và ăn  sâu vào cơ chất. Hệ sợi phát triển kém dần ở nồng độ 5% chỉ còn (59 mm).Vì  vậy, khi nhân giống nấm này có thể  thay thế  bằng nguồn saccaroza 1% vào  môi trường. 4.1.3.  Ảnh hưởng của nồng độ  maltoza đến sự  sinh trưởng và phát triển   của hệ sợi nấm P. ostreatus Kết   quả   nghiên   cứu   ảnh   hưởng   của   nồng   độ   maltoza   đến   sự   sinh   trưởng và phát triển hệ  sơi nấm P. ostreatus được thể  hiện trong bảng 4.3,  hình 4.3 và ở phụ lục 4.3: 16
  17. Bảng 4.3. Ảnh hưởng của nồng độ maltoza đến sự sinh trưởng và  phát triển của hệ sợi nấm P. ostreatus          Ma Sự sinh trưởng và phát triển của hệ sợi nấm ltoza ( m, mm) Ngày MTC        1%       2%      3%      4%      5%        1 23 ± 1 32 ± 2 31 ± 1 23 ± 1 20 ± 1 21 ± 1        2 34 ± 1 42 ± 2 41 ± 1 34 ± 1 32 ± 2 31 ± 1        3 45 ± 1 53 ± 1 52 ± 2 45 ± 1 43 ± 2 44 ± 1        4 57 ± 1 64 ± 2 63 ± 2 55 ± 1 53 ± 1 50 ± 2        5 70 ± 1 74 ± 1 73 ± 2 66 ± 1 65 ± 2 59 ± 2 17
  18. Hình 4.3. Sự sinh trưởng và phát triển của hệ sợi nấm P. ostreatus  trên môi trường khác nhau Kết quả   ở  bảng 4.3, hình 4.3 và  ở  phụ  lục 4.3 cho thấy khi nuôi nấm  trên môi trường chứa nồng độ maltoza khác nhau đã có ảnh hưởng  rõ rệt đến   sự  phát triển của hệ sợi nấm   P. ostreatus. Nồng độ maltoza càng cao thì sợi  nấm phát triển càng kém. Sợi nấm P. ostreatus phát triển mạnh nhất trên môi  trường chứa maltoza 1% và 2% với (74 mm) và (73 mm), tốt hơn môi trường  chuẩn (70 mm),  ở  nồng độ  này hê sợi dày, bện kết chặt chẽ  với nhau và ăn  sâu vào cơ  chất. Hệ  sợi nấm phát triển kém dần  ở  nồng độ  5% chỉ  còn ( 59  mm). Vì vậy, khi nhân giống nấm này có thể  thay thế  bằng nguồn maltoza  1%, 2% vào môi trường. Qua kết quả  nghiên cứu  ảnh hưởng của nguồn cacbon gồm: tinh bột,   saccaroza, maltoza cho thấy khi sử dụng nguồn tinh bột nồng độ 5% thì hệ sợi  của giống nấm sò cấp I có khả năng sinh trưởng phát triển mạnh nhất và đạt  (77 mm). Vì vậy, nồng độ  tinh bột 5% được lựa chọn là nguồn cacbon sử  dụng trong nhân giống nấm sò cấp I. 4.2. Ảnh hưởng của nguồn nitơ đến sự sinh trưởng và phát triển của hệ  sợi nấm P. ostreatus Nguồn nitơ  trong cơ  chất có vai trò rất quan trọng quyết định  tốc độ  phát triển của hệ  sợi nấm. Các nguồn nitơ  khác nhau  ở  các nồng độ  khác  nhau thì có tác động khác nhau đến sự phát triển sợi nấm. Để xác định nguồn   18
  19. nitơ  phù  hợp nhất cho giữ  giống và nhân giống nấm chúng tôi tiến hành  nghiên cứu trên ba nguồn nitơ  là pepton, (NH4)2SO4, NaNO3  ở  các nồng độ  0,1%, 0,2%, 0,3%, 0,4%, 0,5% và thu được kết quả như sau: 4.2.1 Ảnh hưởng của nguồn pepton đến sự sinh trưởng và phát triển của   hệ sợi nấm P. ostreatus Bảng 4.4 Ảnh hưởng của nồng độ pepton đến sự sinh trưởng và  phát triển của hệ sợi nấm P. ostreatus              P Sự sinh trưởng và phát triển của hệ sợi nấm epton ( m, mm) Ngày MTC 0,1% 0,2% 0,3% 0,4% 0,5%        1 23 ± 1 30 ± 1 31 ± 1 22 ± 1 22 ± 1 15 ± 1        2 34 ± 1 41 ± 1 41 ± 1 31 ± 2 30 ± 1 24 ± 2        3 45 ± 1 51 ± 1 52 ± 1 41 ± 1 42 ± 2 35 ± 2        4 57 ± 1 62 ± 1 60 ± 2 52 ± 2 51 ± 2 46 ± 2        5 70 ± 1 72 ± 2 69 ± 1 63 ± 1 61 ± 1 56 ± 2 Hình 4.4. Sự sinh trưởng và phát triển của hệ sợi nấm P. ostreatus trên   môi trường khác nhau Kết quả   ở  bảng 4.4, hình 4.4 và  ở  phụ  lục 4.4 cho thấy khi nuôi nấm  trên môi trường chứa nồng độ  pepton  khác nhau đã có ảnh hưởng khác nhau  đến sự phát triển của sợi nấm   P. ostreatus. Nồng  độ pepton càng cao thì sợi   nấm phát triển càng kém. Sợi nấm P. ostreatus phát triển mạnh nhất trên môi  trường chứa pepton 0,1% (72 mm), tốt hơn cả môi trường chuẩn (70 mm),  ở  nồng độ này hệ sợi dày, bện kết chặt chẽ với nhau và ăn sâu vào cơ chất. Hệ  19
  20. sợi nấm phát triển kém dần  ở  nồng độ  0,5% chỉ  còn (56 mm). Vì vậy, khi   nhân giống nấm này có thể thay thế bằng nguồn pepton 0,1% vào môi trường. 4.2.2.  Ảnh hưởng của nồng  độ  (NH4)2SO4  đến sự  sinh trưởng và phát   triển của hệ sợi nấm P. ostreatus Bảng 4.5. Ảnh hưởng của nồng độ (NH4)2SO4 đến sự sinh trưởng  và phát triển của hệ sợi nấm P. ostreatus          (N Sự sinh trưởng và phát triển của hệ sợi nấm H4)2SO4 ( m, mm) Ngày MTC 0,1% 0,2% 0,3% 0,4% 0,5%        1 23 ± 1 19 ± 1 28 ± 1 31 ± 1 25 ± 1 22 ± 1        2 34 ± 1 27 ± 2 38 ± 1 42 ± 2 35 ± 1 34 ± 1        3 45 ± 1 37 ± 2 49 ± 2 53 ± 2 47 ± 1 44 ± 2        4 57 ± 1 48 ± 2 59 ± 1 63 ± 1 57 ± 1 55 ± 2        5 70 ± 1 59 ± 1 68 ± 1 75 ± 2 68 ± 1 65 ± 1 Hình 4.5. Sự sinh trưởng và phát triển của hệ sợi nấm P. ostreatus   trên môi trường khác nhau 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
9=>0