Đề tài: Các yếu tố quyết định đến phân cấp chi tiêu, dẫn chứng từ Trung Quốc
lượt xem 20
download
Đề tài "Các yếu tố quyết định đến phân cấp chi tiêu, dẫn chứng từ Trung Quốc" là nỗ lực đầu tiên để kiểm tra các yếu tố quyết định vấn đề phân cấp chi tiêu ở các cấp dưới cấp tỉnh tại Trung Quốc. Chính quyền trung ương Trung Quốc đưa ra hướng dẫn chi tiết đến các chính quyền địa phương trên phương diện tài chính công, nhưng việc phân bổ chi tiêu không đuợc kiểm soát tốt. Tham khảo nội dung đề tài để nắm bắt thông tin chi tiết.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đề tài: Các yếu tố quyết định đến phân cấp chi tiêu, dẫn chứng từ Trung Quốc
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM ĐỀ TÀI CÁC YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH ĐẾN PHÂN CẤP CHI TIÊU: DẪN CHỨNG TỪ TRUNG QUỐC GVHD: PGS. TS: Sử Đình Thành Nhóm 2 CH K24 – Lớp Chủ nhật – P309
- TPHCM, Tháng 08 / 2015 DANH SÁCH NHÓM (NHÓM 2) 1. LÊ THANH TUẤN( NT) 2. NGUYỄN THỊ THƠM 3. TRẦN THỊ THÚY 4. NGUYỄN THỊ THÙY VÂN 5. VÕ THỊ NGỌC HUYỀN 6. NGUYỄN ĐÌNH CƯỜNG 7. PHẠM HUYỀN TRÂN
- MỤC LỤC 2.1. Giải thích về sự ràng buộc giữa sự lệ thuộc chuyển giao và phân cấp tài khóa .................................................................................................................. 5 2.2. Các yếu tố tác động khác của sự phân cấp tài khóa .................................... 7 (i) Sự phát triển kinh tế .................................................................................... 7 (ii) Quy mô và mật độ dân số .......................................................................... 8 (iii) Mở rộng thương mại và FDI .................................................................... 8 3.1. Định nghĩa các biến ....................................................................................... 9 (i) Biến phụ thuộc .......................................................................................... 10 (ii) Biến độc lập ............................................................................................. 11 3.2. Phương pháp ước lượng ............................................................................. 13
- GVHD: PGS.TS Sử Đình Thành Tóm tắt: Nghiên cứu này là nỗ lực đầu tiên để kiểm tra các yếu tố quyết định vấn đềphân cấp chi tiêu ở các cấp dưới cấp tỉnh tại Trung Quốc. Chính quyền trung ương Trung Quốc đưa ra hướng dẫn chi tiết đến các chính quyền địa phương trên phương diện tài chính công, nhưng việc phân bổ chi tiêu không đuợc kiểm soát tốt. Sự khác biệt trong phân cấp tài khóa trên phương diện chi tiêu là rất lớn giữa các chính quyền địa phương. Sử dụng bảng dữ liệu từ 1995 2006, tác giả muốn cung cấp bằng chứng thực nghiệm rằng sự lệ thuộc chuyển giao có tác động âm đến phân cấp chi tiêu trong các chính quyền địa phương Trung Quốc. Điều này cho thấy chính quyền trung gian, tức là chính quyền cấp tỉnh, có thể "nắm lấy" nguồn tài trợ trung ương cho lợi ích riêng của nó. 1.GIỚI THIỆU Bài viết này nhằm mục đích khám phá những yếu tố quyết định phân cấp chi tiêu ở Trung Quốc, nước lớn thứ ba thế giới về tổng diện tích đất đai, và để kiểm tra những hệ quả chính sách của họ trên diện rộng. Mặc dù Trung Quốc là một quốc gia có hiến pháp thống nhất, sự phân cấp tài khóa ở các cấp dưới tỉnh khác nhau rất nhiều giữa các tỉnh, đặc biệt là về mảng chi tiêu. Trong khi có một hướng nghiên cứu đang hướng đến các yếu tố giải thích mức độ phân cấp tài khóa, nhưng chúng ta vẫn biết rất ít về những gì dẫn đến sự phân cấp tài khóa ở những nơi khác nhau (Bodman & Hodge, 2010). Tận dụng lợi thế về sự thay đổi đáng kể trong phân cấp chi tiêu các cấp dưới tỉnh ở Trung Quốc, bài nghiên cứu này sẽ kiểm tra các giả thuyết liên quan đến một số yếu tố tiềm năng quyết định của phân cấp tài khóa được báo cáo trong bài nghiên cứu. Điều tra các tác nhân của sự phân cấp phải có ý nghĩa như hầu hết các nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của sự phân cấp mà không cần nhìn vào sự phức tạp của nó. Nếu không có một sự hiểu biết sâu sắc về sự Nhóm 2 K24 – Chiều CN – Phòng 309 1
- GVHD: PGS.TS Sử Đình Thành phân cấp tài khóa thì có nguy cơ sẽ cường điệu hóa khi đưa ra kết luận về các lợi ích hoặc tác hại của phân cấp. Phân cấp "thường được xem như một sự chuyển giao về quyền hành đi từ trung ương đến chính quyền địa phương, với quyền hành tổng thể của cơ quan chính phủ đối với xã hội và nền kinh tế đã từng được hình dung là cố định" (Rodden, 2004, p. 482). Phân cấp tài khóa đề cập đến sự chuyển giao về trách nhiệm tài chính cho cấp dưới của chính phủ, đồng thời là cơ sở cho quản trị công trong thực tế. Các nghiên cứu về phân cấp tài khóa đã và đang được phát triển trong cộng đồng quốc tế; Tuy nhiên, các tác nhân điều khiển phân cấp tài khóa cho đến nay vẫn ít được biết đến. Các nghiên cứu trước đây về sự phân cấp tài khóa hầu như thường tập trung vào việc chuyển giao quyền lực trong khu vực công (Tiebout, 1956; Oates, 2005). Phần lớn các tài liệu trong những thập kỷ gần đây đã điều tra về tác động của phân cấp tài khóa trong quản trị công (Prud'homme,1995; Rodden & Wibbels, 2002; Uchimura & Jutting, 2009). Phần lớn các tác nhân điều khiển phân cấp đã bị bỏ qua, ngoại trừ một số nỗ lực gần đây như của Bodman và Hodge (2010) và Panizza (1999). So với các nghiên cứu về tác động của phân cấp tài khóa, việc khám phá những yếu tố làm cơ sở phân cấp tài khóa sẽ là công cụ trong việc tạo ra một sự hiểu biết tốt hơn về sự phức tạp và động lực của phân cấp trong các nền kinh tếchính trị khác nhau. Trong nhiều trường hợp, sự phân cấp tài khóa thực chất không phải là vấn đề, nhưng phân cấp có thể được thực hiện trong một môi trường không phù hợp. Khi tác nhân điều khiển phân cấp/tập trung được tìm ra, việc đánh giá phân cấp/tập trung sẽ trọng điểm hơn và sắc thái của mối quan hệ giữa trung ươngvà địa phương sẽ được tiết lộ nhiều hơn. Bài nghiên cứu này sẽ tìm hiểu sự thay đổi giữa các vùng miền của phân cấp tài khóa, đặc biệt về khía cạnh chi tiêu ở Trung Quốc. Phân cấp tài khóa ở Nhóm 2 K24 – Chiều CN – Phòng 309 2
- GVHD: PGS.TS Sử Đình Thành các cấp dưới tỉnh ở Trung Quốc sẽ được khảo sát một cách cận trọng trong nghiên cứu này. Mặc dù các tài liệu về tác động của phân cấp tài khóa dựa trên sự phát triển nền kinh tế và quản trị công đã phát sinh trong những năm gần đây (Ví dụ Uchimura & Jutting, 2009), nghiên cứu về các yếu tố quyết định phân cấp tài khóa là hiếm thấy. Vì khu vực địa lý nhiều tỉnh của Trung Quốc tương đương với của các nước châu Âu, nên sự đa dạng giữa các tỉnh về chính trị, kinh tế, và các khía cạnh xã hội là thật sự lớn. Sự phân cấp các cấp dưới tỉnh ở Trung Quốc đa dạng hơn so với nhiều quốc gia khác (Dollar & Hofman, 2008). Việc khám phá phân cấp tài khóa, phong cách người Trung Quốc, do đó, sẽ khả năng tạo ra những tác động lớn cho các nước khác. Chính quyền trung ương Trung Quốc không tạo ra một sự kiểm soát chặt chẽ về phân cấp chi tiêu ở cấp dưới tỉnh. Chính quyền cấp tỉnh ở Trung Quốc được hưởng quyền quyết định đáng kể trong vấn đề này. Theo Hiến pháp của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (PRC) và Niên giám thống kê Trung Quốc (2009), chính quyền địa phương gồm 31 chính quyền cấp tỉnh, 333 chính quyền địa khu (thành phố trực thuộc tỉnh), 2.859 chính quyền huyện, và 40.828 chính quyền xã (chính quyền cấp dưới tỉnh bao gồm chính quyền địa khu, huyện, và các xã). Chính quyền địa phương cung cấp số lượng lớn các dịch vụ công ở Trung Quốc trong đó 70% tài sản công đã được chi tiêu ở cấp địa phương với hơn 55% được chi tiêu cho chính quyền cấp dưới tỉnh (Ngân hàng Thế giới, 2002). Do những nỗ lực để xây dựng một chính phủ định hướng dịch vụ trong những năm gần đây, chính quyền địa phương sẽ tiếp nhận nhiều trách nhiệm hơn cho việc cung cấp các dịch vụ công theo thời gian ở Trung Quốc. Phân công chi tiêu cho chính quyền địa phương dù sao cũng không được kiểm soát chặt chẽ (xem thêm MartinezVazquez & Qiao, 2011). Quốc vụ viện (2002), cơ quan quản lý hàng đầu của chính quyền trung ương ở Trung Quốc – nơi cung cấp các quy định về phân cấp tài khóa ở địa phương quan tâm nhiều đến doanh Nhóm 2 K24 – Chiều CN – Phòng 309 3
- GVHD: PGS.TS Sử Đình Thành thu của phân cấp tài khóa trong khi các quy định về vấn đề chi tiêu gần như bị bỏ trống. Những thay đổi trong phân cấp tài khóa ở khía cạnh chi tiêu là rất lớn giữa các địa phương ở Trung Quốc. Ví dụ, chính quyền cấp dưới tỉnh đã chi tiêu 85,32% tài sản công ở tỉnh Quảng Đông trong khi chỉ có 53,72% đã được chi tiêu ở tỉnh Thanh Hải từ năm 1995 và 2006 (xem Bảng tóm tắt về Thống kê tài chính cho tất cả các quận, thành phố từ 19962007). Vì vậy, tác giả đặt ra lại câu hỏi để phân tích: tác nhân gì dẫn đến sự thay đổi trong phân cấp chi tiêu cấp dưới tỉnh ở Trung Quốc? Dựa trên kết quả thực nghiệm phân tích, tác giả đã cố gắng gợi ý chính sách cải thiện các hệ thống ngân sách liên chính phủ ở Trung Quốc. Nói chung, theo phân tích thực nghiệm của tác giả thì có một mối quan hệ âm giữa sự lệ thuộc chuyển giao (chuyển giao trung ương xem như là một phần của chi tiêu địaphương) và phân cấp tài khóa ở Trung Quốc. Các vùng có sự lệ thuộc chuyển giao càng lớn có xu hướng phân cấp chi tiêu càng cao trong phạm vi các tỉnh với các yếu tố khác không đổi. Vì những người quan sát từ lâu đã nghi ngờ rằng chính quyền địa phương chơi trò chơi ngân sách với các chính phủ để được trợ cấp nhiều hơn ở một số nước (Gimpelson & Treisman, 2002), kết quả phân tích của tác giả cũng cho thấy sự lợi dụng về quyền hành tài chính bởi chính quyền địa phương ở Trung Quốc. Ngoài ra, nghiên cứu của tác giả cung cấp bằng chứng rằng cả mật độ dân số và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có những mối quan hệ âm đối với phân cấp chi tiêu trong khi phát triển kinh tế hầu như không có ý nghĩa giải thích trong mô hình của tác giả cho việc phân cấp chi tiêu. Phần còn lại của bài nghiên cứu được cấu trúc như sau: Phần 2 thảo luận về các lý thuyết và bằng chứng thực nghiệm của các yếu tố tiềm năng quyết định phân cấp tài khóa với việc nhấn mạnh vào mối quan hệ giữa sự lệ thuộc chuyển giao và phân cấp chi tiêu. Phần 3 trình bày dữ liệu, mô hình cụ thể, và Nhóm 2 K24 – Chiều CN – Phòng 309 4
- GVHD: PGS.TS Sử Đình Thành phương pháp dự toán. Phần 4 cung cấp các kết quả thực nghiệm phân tích của tác giả trong khi Phần 5 đưa ra thảo luận. Phần 6 kết luận. 2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU Ở đây tác giả tổng hợp các nhân tố giải thích cho sự phân cấp tài khóa tronglý thuyết, phần lớn xuất phát từ các bằng chứng xuyên quốc gia. Các yếu tố quyết định đến sự phân cấp tài khóa trong lý thuyết sẽ được sử dụng làm khung lý thuyết cơ bản trong bài nghiên cứu này. 2.1. Giải thích về sự ràng buộc giữa sự lệ thuộc chuyển giao và phân cấp tài khóa Những tác động của sự chuyển giao ngân sách từ chính quyền liên bang (hay chính quyền trung ương ở các nước như Trung Quốc) đến chính quyền địa phương lên chi tiêu địa phương đã được tìm hiểu một cách rộng rãi (ví dụ như hiệu ứng giấy bẫy ruồi (flypaper); xem Bailey và Connolly (1998)). Tuy nhiên, phần lớn lý thuyết đều gắn liền với các giả thiết và giả định (chẳng hạn giả thiết cử tri trung dung)… Tác động của sự chuyển giao từ nơi có quyền lực cao hơn đối với sự phân cấp tài khóa vẫn chưa được tìm hiểu rộng rãi. Ở một vài nước, chính phủ không thể chuyển trợ cấp cho chính quyền cơ sở nhưng có thể thông qua các chính quyền trung gian theo Hiến Pháp (HernándezTrillo và JarilloRabling, 2008). Mặc dù điều này không nằm trong thể chế nhưng Chính phủ Trung Quốc đã dần chấp nhận một hệ thống (không chính thức) trong thực tế. Nghĩa là, trợ cấp trung ương đi qua chính quyền tỉnh trước khi đến chính quyền địa khu và huyện. Có một rủi ro là chính quyền tỉnh có thể giữ lại những chuyển giao liên chính phủ (the intergovernmental transfer) này cho lợi ích riêng của họ. Do đó, mối quan hệ giữa sự lệ thuộc chuyển giao và phân cấp chi tiêu có thể tiêu cực hay tích cực, phụ thuộc vào vai trò và chức Nhóm 2 K24 – Chiều CN – Phòng 309 5
- GVHD: PGS.TS Sử Đình Thành năng của chính quyền trung gian nơi có trách nhiệm chuyển giao trợ cấp trung ương đến chính quyền địa phương. Chính quyền cấp tỉnh ở Trung Quốc, theo Quốc vụ viện (2002), nên giữ lại phần chi tiêu của họ và mở rộng phần chuyển giao từ trung ương đến các cấp chính quyền thấp hơn. Tức là, các chính quyền cấp tỉnh không chỉ trao các chuyển giao từ trung ương cho các chính quyền cấp dưới mà còn cắt giảm một phần nguồn tài chính của mình cho các cấp chính quyền thấp hơn như là khoản cung cấp dịch vụ công cho công dân. Trong thực tế, không có bằng chứng cho thấy chính quyền cấp tỉnh chuyển giao nhiều tài nguyên của họ (bên cạnh các khoản chuyển giao từ chính quyền trung ương) cho chính quyền cấp dưới. Ngân hàng thế giới (2007) chỉ ra một cách rõ ràng là một tỉnh đóng góp rất ít trong việc chuyển giao liên chính phủ đến các cấp thấp hơn để cân bằng khả năng tài chính. Tệ hơn nữa, bằng chứng ở đây và nơi khác chỉ ra rằng chính quyền cấp tỉnh sẽ giữ lại một phần chuyển giao từ trung ương để sử dụng cho các dự án tại địa phương và cung cấp cho các dịch vụ công. Vì vậy, chúng ta cần chú ý đặc biệt đến vai trò của chính quyền cấp tỉnh trong hệ thống chuyển giao liên chính phủ. Giả định về mối quan hệ ngược chiều giữa sự lệ thuộc chuyển giao và sự phân cấp tài khóa được xác định trong nghiên cứu ở Nga. Freikman và Plekhanov (2009) nhận thấy rằng khi các điều kiện khác không đổi thì ở các khu vực lệ thuộc chuyển giao (transferdependent) có khuynh hướng phân cấp tài khóa cao hơn. Khi dòng trợ cấp từ trung tâm qua chính quyền khu vực, có thể họ sẽ sử dụng các chuyển giao này hơn là phân phối cho các cấp chính quyền thấp hơn. Khi kiểm soát tất cả các yếu tố khu vực khác, sự lệ thuộc chuyển giao càng cao thì sự phân cấp tài khóa càng thấp. Tuy nhiên, bằng chứng xuyên quốc gia cho thấy nhiều sự chuyển giao tài khóa có khuynh hướng khuyến khích chi tiêu địa phương nhiều hơn do sức ép Nhóm 2 K24 – Chiều CN – Phòng 309 6
- GVHD: PGS.TS Sử Đình Thành ngân sách mềm (soft budget) gia tăng (Bodman và Hodge, 2010; Letelier, 2005). Do đó, sự lệ thuộc chuyển giao càng lớn thì sự phân cấp tài khóa càng cao. Một sự suy luận khác cũng bổ trợ cho mối quan hệ cùng chiều giữa sự lệ thuộc chuyển giao và sự phân cấp tài khóa. Khi các chuyển giao trung gian được cung cấp từng phần để bù đắp cho chính quyền địa phương thực hiện các nhiệm vụ từ trung ương, việc mở rộng chuyển giao cho chính quyền địa phương nghĩa là chính quyền địa phương chịu nhiều trách nhiệm chi trả hơn; theo đó phần chi tiêu địa phương sẽ gia tăng. Tóm lại, mối quan hệ cùng chiều giữa sự lệ thuộc chuyển giao và sự phân cấp tài khóa được thực hiện trong các nghiên cứu xuyên quốc gia ở các nước phát triển (Kee, 1977; Letelier, 2005). 2.2. Các yếu tố tác động khác của sự phân cấp tài khóa Bên cạnh các giả thuyết ở trên, tác giả kiểm tra các nhân tố sau đây có ảnh hưởng đến các mức độ của sự phân cấp tài khóa. (i) Sự phát triển kinh tế Có 2 luồng ý kiến trái ngược nhau liên quan đến vai trò của sự phát triển kinh tế đối với sự phân cấp tài khóa. Một mặt, sự phát triển kinh tế có kỳ vọng dương(cùng chiều) đối với sự phân cấp tài khóa. Phần lớn các dịch vụ công căn bản đều được cung cấp bởi chính quyền địa phương ở các nước như Trung Quốc. Một vài ý kiến cho rằng chi tiêu ở cấp địa phương gia tăng như là một sự cung ứng các hàng hóa công cơ bản sẽ trở nên đắt hơn khi các công dân giàu có hơn đòi hỏi các dịch vụ công đa dạng và đắt đỏ hơn (MartinezVazquez và McNab, 2003; Tanzi, 2000; Wheare, 1964). Mặt khác, phát triển kinh tế có quan hệ ngược chiều với sự phân cấp tài khóa. Theo Letelier (2005), khi có sự gia tăng đáng kể sẽ dẫn tới tái phân phối lại thu nhập khi một địa phương hay quốc gia trở nên giàu có hơn; do đó, sự phối hợp và đầu tư trung ương sẽ dần dần được đòi hỏi nhiều hơn. Chi tiêu ở cấp chính quyền cao hơn sẽ tăng trưởng nhanh hơn so với các cấp thấp hơn. Nhóm 2 K24 – Chiều CN – Phòng 309 7
- GVHD: PGS.TS Sử Đình Thành Bằng chứng thực nghiệm về sự ảnh hưởng của phát triển kinh tế đến sự phân cấp tài khóa thì phức hợp. Nghiên cứu ban đầu về vấn đề này cho thấy thu nhập bình quân đầu người có tác động cùng chiều đáng kể đến sự phân cấp tài khóa (Kee, 1977; Panizza, 1999). Nghiên cứu gần đây tìm thấy nhiều bằng chứng về các tác động khác nhau của sự phát triển kinh tế ở các nước phát triển và đang phát triển (Bodman và Hodge, 2010; Letelier, 2005), nghĩa là có mối quan hệ cùng chiều ở các nước có thu nhập cao và mối quan hệ ngược chiều ở các nước có thu nhập thấp. (ii) Quy mô và mật độ dân số Litvack và Oates (1971) cho rằng sự tắc nghẽn xã hội sẽ gia tăng khi quy mô dân số tăng lên. Với điều kiện là chính quyền địa phương cung cấp phần lớn dịch vụ công cho công dân, chi phí tắc nghẽn tăng lên sẽ làm tăng phần chi tiêu địa phương trong tổng chi tiêu chính quyền (Bodman và Hodge, 2010). Mật độ dân số càng cao thì chi phí dịch vụ công thấp hơn do có sự gia tăng việc hoàn lại mức độ các khoản dịch vụ công. Mật độ dân số thấp gia tăng chi phí dịch vụ với điều kiện các yếu tố khác cố định. Các nghiên cứu trước đều chỉ có mối quan hệ cùng chiều giữa quy mô dân số với sự phân cấp tài khóa và mối quan hệ ngược chiều giữa mật độ dân số và sự phân cấp tài khóa (Bodman và Hodge, 2010; Cerniglia, 2003; Freinkman và Plekhanov, 2005).Vì vậy, tác giả kỳ vọng một quy mô dân số lớn hơn và mật độ thấp hơn sẽ liên quan đến mức độ phân cấp tài khóa cao hơn ở địa phương Trung Quốc. (iii) Mở rộng thương mại và FDI So với thu nhập và quy mô dân số thì cả yếu tố mở rộng thương mại lẫn FDI đều ít được chú ý trong các lý thuyết. Một vài nghiên cứu (Kimakova, 2009; Rodrik, 1998) cho thấy nền kinh tế định hướng theo thị trường bị ảnh hưởng bởi các cú sốc từ nền kinh tế bên ngoài; do đó sự hợp tác kinh tế giữa các chính Nhóm 2 K24 – Chiều CN – Phòng 309 8
- GVHD: PGS.TS Sử Đình Thành quyền trung ương trở nên cấp bách ở nền kinh tế mở. Hội nhập trên thị trường thế giới cải thiện sự phân cấp tài khóa khi tất cả các điều khác được giữ nguyên không đổi (Garrett và Rodden, 2003; Stegarescu, 2009). Mối quan hệ giữa mở rộng ngoại thương với sự phân cấp tài khóa được kiểm tra rộng rãi với dữ liệu xuyên quốc gia. Giả sử FDI đại diện cho sự mở cửa của một nền kinh tế. Vậy điều gì sẽ là sự tác động của cả mở rộng kinh tế và ngoại thương đến phân cấp tài khóa trong một quốc gia? Một học thuyết xác nhận rằng cả mở rộng ngoại thương và FDI có thể được dùng để cải thiện việc quản lý tốt hơn (xem Malesky, 2004; Wu và Lin, 2012). Người nước ngoài, đặc biệt là người ở các nước phát triển mua hàng hóa và đầu tư vào các nước đang phát triển, sẽ thúc đẩy các chính phủ tiếp nhận đầu tư cải thiện dịch vụ công của họ hoặc làm “rò rỉ” những gợi ý của chính sách công dự định cho thương mại và đầu tư. Khi quản lý tài khóa được sử dụng như là một công cụ hiệu quả để cải thiện quản lý công ở nhiều nước công nghiệp, giả định của tác giả là cả mở rộng ngoại thương và FDI có thể làm tăng phân cấp tài khóa ở các nước đang phát triển như Trung Quốc thông qua mô phỏng và khuếch tán chính sách. Do đó, tác giảgiả thiết rằng cả mở rộng ngoại thương và FDI có tác động dương đến phân cấp tài khóa ở Trung Quốc. 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU, MẪU VÀ DỮ LIỆU Tác giảtiến hành phân tích thực nghiệm bằng cách sử dụng một bộ dữ liệu bảng với 30 tỉnh của Trung Quốc từ năm 1995 đến năm 2006 (Tibet được loại ra vì dữ liệu không phù hợp). Dữ liệu được sử dụng trong phân tích này được lấy từ bảng trích yếu thống kê tài khóa cho tất cả các tỉnh, thành phố và quận huyện, Niên giám tài chính của Trung Quốc và Trích yếu thống kê Trung Quốc từ năm 19492008. 3.1. Định nghĩa các biến Nhóm 2 K24 – Chiều CN – Phòng 309 9
- GVHD: PGS.TS Sử Đình Thành Dựa vào tổng quan tài liệu ở phần trước, tác giảthiết lập mô hình nghiên cứu thực nghiệm bao gồm các biến phụ thuộc và các biến độc lập trong phân tích này. (i) Biến phụ thuộc Biến phụ thuộc biến phân cấp tài khóa được đo lường bởi tỷ lệ chi tiêu công dưới tỉnh trong tổng số chi tiêu công ở toàn bộ tỉnh và dưới tỉnh. Điều này nghĩa là các chi tiêu của địa khu, huyện, xã trong một tỉnh được tổng hợp lại và sau đó con số này được chia cho tổng số chi tiêu chính phủ trên toàn bộ tỉnh và dưới tỉnh. Đo lường phân cấp tài khóa là một thách thức lớn, thu hút phần lớn các cuộc tranh luận học thuật (xem Yeung, 2009). Bởi vì việc phân cấp tài khóa là đa chiều, nên một biến duy nhất khó có thể nắm bắt hết các động thái phân công quyền lực từ chính phủ. Nhận thức được sự không hoàn hảo khi đo lường phân cấp tài khóa bằng tỷ lệ chi tiêu, tuy nhiên tác giảcó một số lý do mạnh mẽ để sử dụng phân cấp tài khóa dưới tỉnh là biến phụ thuộc. Đầu tiên, các phép đo phân cấp tài khóa có xu hướng khó giải quyết hơn trong các nghiên cứu xuyên quốc gia bởi vì bối cảnh lịch sử và pháp lý của tài chính công là rất khác nhau giữa các nước khác nhau (Stegarescu, 2005). Việc so sánh trong phạm vi quốc gia dù sao cũng có thể tránh được vấn đề này. Mặc dù mức độ phân cấp chi tiêu khác nhau giữa các tỉnh, và các giai đoạn ở Trung Quốc nhưng việc phân cấp thường được điều chỉnh bởi cùng một bộ khung pháp lý. Thứ hai, các lỗi đo lường phân cấp tài khóa khá rắc rối trong các mô hình mà biến phân cấp được sử dụng như là một biến độc lập. Phân cấp tài khóa được sử dụng như là một biến phụ thuộc gây ra ít lo ngại hơn (Stegarescu, 2005). Tác giả hướng đến sự thay đổi về mặt chi tiêu và cho rằng phần chi tiêu ở cấp dưới tỉnh có thể đại diện hiệu quả cho phân cấp tài khóa ở địa phương Trung Quốc. Bởi vì chi tiêu công đại diện cho sự tham gia của chính phủ trong xã hội, dữ liệu chi tiêu này cho thấy những giải thích về sự thay đổi trong chính quyền Nhóm 2 K24 – Chiều CN – Phòng 309 10
- GVHD: PGS.TS Sử Đình Thành địa phương; Do đó các gợi ý chính sách được rút ra từ điều này sẽ trở nên hấp dẫn. Ngoài ra, phía doanh thu của phân cấp tài khóa cũng được kiểm tra, mặc dù kết quả thực nghiệm của nó không được báo cáo trong nghiên cứu này. Các hàm ý chính sách phân cấp doanh thu thì không rõ ràng vì chính quyền địa phương thực tế chưa được giao quyền vay mượn và xác lập cơ sở tính thuế và thuế suất của họ ở Trung Quốc. (ii) Biến độc lập Sự lệ thuộc chuyển giao đề cập đến mức độ chi tiêu của tỉnh được tài trợ bởi sự chuyển giao từ Trung ương. Tử số của biến là chuyển giao trung ương đến tỉnh, bao gồm cả các cấp tỉnh, địa khu, huyện, xã, trong khi mẫu đề cập đến tổng chi tiêu của bốn cấp chính quyền trong một tỉnh ở Trung Quốc. Đây là số tiền chuyển giao của Trung ương cho tất cả các cấp trong phạm vi tỉnh chia cho tổng chi tiêu của các cấp trong tỉnh. Phát triển kinh tế được đo lường bởi GDP thực tế bình quân đầu người ở cấp tỉnh, trong đó năm 1992 được sử dụng là năm cơ sở. GDP thực tế bình quân đầu người được tính bằng GDP danh nghĩa bình quân đầu người chia cho chỉ số khử lạm phát GDP của tỉnh (tính theo logarit tự nhiên). Mật độ dân số được đo bằng số lượng dân cư (Changzhu renkou) trên mỗi km vuông diện tích đất ở một tỉnh nhất định (tính theo logarit tự nhiên). Mở cửa thương mại được đo như tỷ lệ nhập khẩu cộng với xuất khẩu (nhân dân tệ) trên tổng GDP của tỉnh. FDI biểu thị khối lượng đầu tư trực tiếp nước ngoài (nhân dân tệ) như là một tỷ lệ trong GDP của tỉnh. Ngoài ra, cơ cấu ngành công nghiệp và kinh tế ở một tỉnh có thể có ảnh hưởng tiềm năng đến các mô hình chi tiêu của địa phương. Trong một số mô hình, chúng ta thêm việc làm ở các doanh nghiệp nhà nước và cơ cấu kinh tế như là biến điều khiển để cải thiện sự vững mạnh của các mô hình thực nghiệm. Việc làm ở doanh nghiệp nhà nước đề cập đến số lượng nhân viên doanh nghiệp nhà nước như là một tỷ lệ của tổng dân số. Cơ cấu kinh tế được đo Nhóm 2 K24 – Chiều CN – Phòng 309 11
- GVHD: PGS.TS Sử Đình Thành lường như khối lượng của khu vực thứ cấp trong GDP của địa phương. Bảng 1 cung cấp các nguồn dữ liệu và đo lường, và bảng 2 trình bày số liệu thống kê mô tả của tất cả các biến được sử dụng trong phân tích thực nghiệm này. Bảng 1: các nguồn dữ liệu và đo lường Biến Đo lường Nguồn dữ liệu Phân cấp tài khóa Tỷ lệ chi tiêu dưới tỉnh trên Bảng trích yếu thống kê tài tổng chi tiêu tỉnh và dưới tỉnh khóa cho tất cả các tỉnh, thành phố và quận huyện Sự phụ thuộc Tỷ lệ chuyển giao tài khóa Niên giám tài chính Trung chuyển giao Trung ương trên tổng chi tiêu Quốc tỉnh và dưới tỉnh Phát triển kinh tế GDP thực bình quân đầu Trích yếu thống kê Trung người (theo Logarit tự nhiên) Quốc 19492008 Mật độ dân số Cư dân trên 1 Km vuông Trích yếu thống kê Trung (theo Logarit tự nhiên) Quốc 19492008 Tỷ lệ FDI trong Tỷ lệ FDI trong GDP Trích yếu thống kê Trung GDP Quốc 19492008 Tỷ lệ thương mại Tỷ lệ của xuất nhập khẩu Trích yếu thống kê Trung trong GDP trong GDP Quốc 19492008 Tỷ lệ việc làm ở Tỷ lệ việc làm ở SOE trong Trích yếu thống kê Trung SOE trong dân số tổng dân số Quốc 19492008 Tỷ lệ khu vực thứ Thu nhập của khu vực thứ Trích yếu thống kê Trung cấp trong GDP cấp trong GDP Quốc 19492008 Bảng 2. Thống kê mô tả. Biến Trung bình Độ lệch Min Max Quan sát chuẩn Phân cấp tài khóa 0.71 0.10 0.44 0.89 360 Sự phụ thuộc chuyển giao 0.51 0.14 0.18 0.93 359 Phát triển kinh tế 8.18 0.49 7.32 9.65 360 Mật độ dân số 5.34 1.23 1.93 7.73 360 Tỷ lệ FDI trong GDP 0.04 0.04 0.00 0.24 360 Tỷ lệ thương mại trong 0.27 0.34 0.03 1.75 360 Nhóm 2 K24 – Chiều CN – Phòng 309 12
- GVHD: PGS.TS Sử Đình Thành GDP Tỷ lệ việc làm ở SOE trong 0.08 0.04 0.03 0.29 360 dân số Tỷ lệ khu vực thứ cấp 0.45 0.07 0.20 0.62 360 trong GDP 3.2. Phương pháp ước lượng Mô hình dữ liệu bảng thường được ước lượng hoặc với mô hình tác động cố định hoặc mô hình tác động ngẫu nhiên. Mô hình tác động ngẫu nhiên giả định rằng những tác động ngẫu nhiên là không tương quan với các sai số ngẫu nhiên. Nếu giả định này là sai, ước lượng của tác động ngẫu nhiên sẽ không phù hợp (Greene, 2002). Bởi vì tác động ngẫu nhiên là một ước lượng hiệu quả hơn so với tác động cố định, chúng ta nên chạy tác động ngẫu nhiên nếu nó có hợp lý về mặt thống kê. Tuy nhiên, kiểm định thống kê Hausman của tác giả có được cho ý nghĩa thống kê lớn, cho thấy một mô hình tác động cố định phải được thông qua. Để nghiên cứu các yếu tố quyết định phân cấp tài khóa ở Trung Quốc, trước hết, tác giả ước tính mô hình tác động cố định tuyến tính sau đây: Yit = α0 + Xitβ + αi + γt + εit (1) trong đó Y là biến phụ thuộc, phân cấp tài khóa, bằng tỷ trọng của chi tiêu cấp dưới tỉnh trong tổng chi tiêu địa phương cho tỉnh i trong năm t. Như đã thảo luận ở trên, X là một ma trận của các biến độc lập chính của chúng ta, bao gồm cả sự lệ thuộc chuyển giao, phát triển kinh tế, mật độ dân số, sự cởi mở thương mại và FDI. Trong mô hình, i đại diện cho các tác động cố định ở tỉnh và γt đại diện cho tác động cố định năm t, trong khi εitlà sai số ngẫu nhiên. Ngoài ra, để kiểm soát cho sự khác biệt trong cơ cấu kinh tế và công nghiệp ở mỗi tỉnh, tác giả cũng ước tính các mô hình thay thế bao gồm hai biến kiểm soát việc làm tại doanh nghiệp nhà nước và cơ cấu kinh tế. Nhóm 2 K24 – Chiều CN – Phòng 309 13
- GVHD: PGS.TS Sử Đình Thành Một thách thức lớn cần phải được giải quyết trong ước lượng mô hình thực nghiệm là tính nội sinh tiềm năng của biến phát triển kinh tế GDP thực tế bình quân đầu người. Bởi vì là biến phụ thuộc, phân cấp tài khóa, có thể có ảnh hưởng đến phát triển kinh tế của tỉnh, các quan hệ nhân quả có thể xảy ra trong mô hình. Nếu chúng ta bỏ qua các vấn đề trên trong ước lượng, các ước tính hệ số có thể bị thiên lệch và không phù hợp (Wooldrige, 2006). Để đối phó với những thách thức thực nghiệm, tác giả cũng chạy ước lượng bình phương tối thiểu hai giai đoạn (2SLS), sử dụng độ trễ một năm và hai năm của GDP thực tế bình quân đầu người như các biến công cụ. Một biến công cụ phải có hai thuộc tính sau: (1) nó phải không tương quan với sai số trong mô hình; (2) nó phải được tương quan một phần với các biến độc lập nội sinh. Để sử dụng độ trễ của GDP là biến công cụ, tác giả phải đảm bảo rằng thứ tự thời gian của các hiệu ứng lên biến phụ thuộc là chính xác và nó có tương quan với GDP thời điểm hiện tại. Tác giả cũng sử dụng thủ tục ước tính NeweyWest để đối phó với các vấn đề tương quan và phương sai thay đổi. Quá trình này ước tính bình phương tối thiểu thông thường (OLS) với phương sai thay đổi, sự nhất quán tương quan (HAC) và sai số chuẩn (Newey & West, 1987). Ngoài ra, vì biến phụ thuộc của tác giả, được đo lường bằng tỷ trọng của chi tiêu dưới tỉnh trong tổng chi tiêu cấp tỉnh nên sẽ có giới hạn giữa giá trị 0 và 1, vì vậy mô hình tuyến tính chuẩn có thể không cung cấp một bức tranh chính xác về tác động của một số biến độc lập đối với phân cấp tài khóa trong toàn bộ phân phối của chúng. Hơn nữa, mô hình như vậy không đảm bảo rằng giá trị dự kiến sẽ rơi vào giữa khoảng không và một. Trong những năm gần đây, đã có một nghiên cứu thực nghiệm mới nổi cố gắng để giải thích phản ứng phân đoạn (Papke & ooldrige, 1996, 2008). Theo cách tiếp cận đề xuất gần đây cho dữ liệu bảng trong Papke và Wooldrige (2008), tác giả sử dụng phương pháp ước tính Nhóm 2 K24 – Chiều CN – Phòng 309 14
- GVHD: PGS.TS Sử Đình Thành gộp khả năng xảy ra cao nhất MLE (QMLE) để ước tính một mô hình probit phân đoạn theo dạng sau đây: Trong đó là là hàm phân phối tích lũy (CDF) của một phân phối bình thường, và sự hiện diện của t cho thấy tác giả cho phép các hệ số chặn khác nhau trong mỗi năm. Tác giả cung cấp các ước tính về tác động từng phần trung bình trên dân số, hoặc "hiệu ứng từng phần trung bình" (APEs), được tính dựa trên hệ số tỷ lệ. APEs được so sánh với các ước tính trong mô hình tuyến tính. Tác giả sử dụng phương pháp bootstrapping để có được các sai số chuẩn bootstrap cho APEs. Cách tiếp cận này cho phép các hiệu ứng không quan sát được bất biến theo thời gian mà chúng có thể tương quan với biến giải thích. Mô hình này được ước tính với giả định rằng các biến giải thích là ngoại sinh. Sau đó tác giả nới lỏng các giả định giới hạn ngoại sinh và điều chỉnh biến phát triển kinh tế thành biến nội sinh. 4. KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM Bảng 3 trình bày các kết quả ước lượng của bốn mô hình tuyến tính và hai mô hình probit phân đoạn. Bốn mô hình tuyến tính bao gồm các mô hình cơ sở với tất cả các biến độc lập cơ bản, mô hình này đưa vào hai biến kiểm soát bổ sung và hai mô hình 2SLS với biến phát triển kinh tế được coi là biến nội sinh. Tác giả cũng ước tính hai mô hình probit phân đoạn có và không có biến phát triển kinh tế được coi là nội sinh. Nhóm 2 K24 – Chiều CN – Phòng 309 15
- GVHD: PGS.TS Sử Đình Thành Các mô hình cơ sở (mô hình 1) có một R2 bằng 0,52, chỉ ra rằng 52% của sự thay đổi trong biến phụ thuộc được giải thích trong mô hình thực nghiệm. Số liệu thống kê kiểm tra phương sai thay đổi và tự tương quan cho thấy sự hiện diện của chúng trong mô hình, vì vậy tác giả sử dụng phương pháp ước lượng NeweyWest để tính sai số chuẩn HAC. Các hệ số của lệ thuộc chuyển giao có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 5%; một phần trăm gia tăng trong tỷ lệ chuyển giao trung ương đến chi tiêu tỉnh thành làm giảm 0,164 % tỷ phần chi tiêu của các cấp dưới tỉnh trong tổng chi tiêu. Nói cách khác, trung bình một tỉnh với 50,69% trong lệ thuộc chuyển giao sẽ giảm 8,31% trong phân cấp chi tiêu, một mức giảm đáng kể 11,82% từ mức tỷ lệ trung bình 70,63%. Sự phát triển kinh tế, hoặc GDP thực bình quân đầu người, có hệ số là 6,421, nhưng không có ý nghĩa thống kê ở mức 10%. Mật độ dân số có mức ý nghĩa thống kê ở mức 10%, và sự gia tăng 1% trong mật độ dân số sẽ làm giảm 0,320% biến phụ thuộc. 1 % gia tăng trong tỷ lệ FDI trên GDP dẫn đến giảm 0,279 % biến phụ Nhóm 2 K24 – Chiều CN – Phòng 309 16
- GVHD: PGS.TS Sử Đình Thành thuộc, và hệ số có mức ý nghĩa thống kê ở mức 5%. Tỷ lệ của thương mại trên GDP có hệ số dương, nhưng nó không có ý nghĩa thống kê. Trong mô hình 2, tác giả bổ sung thêm hai biến kiểm soát tỷ lệ số người làm việc trong doanh nghiệp nhà nước (DNNN) trong tổng dân số và tỷ lệ sản lượng công nghiệp thứ cấp trong tổng GDP. Việc đưa hai biến số bổ sung không làm thay đổi đáng kể kết quả thực nghiệm của tác giả. Trong các mô hình 3 và 4, biến phát triển kinh tế được xem như là biến nội sinh, và kết quả cũng tương tự như trong các mô hình 1 và 2, không có sự thay đổi đáng kể nào trong dấu của các hệ số cũng như mức ý nghĩa. So sánh các kết quả trong mô hình 2 và 4, hệ số của phụ thuộc chuyển giao thay đổi từ 0,156 đến 0,169. Các hệ số mật độ dân số và tỷ lệ của FDI trên GDP lần lượt giảm tương ứng từ 0,316 xuống 0,203 và từ 0,270 xuống 0,203. Các hệ số của các biến khác không có ý nghĩa thống kê ở mức 10%. Các mô hình tuyến tính trình bày bên trên không đảm bảo rằng các giá trị kỳ vọng của biến phụ thuộc nằm trên khoảng đơn vị. Tác giả đã sử dụng ước lượng gộp khả năng xảy ra cao nhất (pool QMLE) để ước tính hai mô hình Probit phân đoạn; một mô hình (mô hình 5) giả định rằng tất cả các biến giải thích là ngoại sinh chặt chẽ, và mô hình khác (mô hình 6) cho rằng biến phát triển kinh tế là nội sinh. Trong cả hai mô hình, tác giả sử dụng 1.000 lần lặp bootstrap để có được sai số chuẩn bootstrap, để xác định tổng quát phương sai thay đổi và tự tương quan. Biến sự lệ thuộc chuyển giao đều có ý nghĩa thống kê cao trong cả hai mô hình. Ước tính APE trong mô hình 5 là 0,158; trong mô hình 6 là 0,159 trong mô hình 6, giống với mức độ ước lượng của mô hình hiệu ứng cố định và mô hình 2SLS. Vì vậy, ba phương pháp ước lượng đều cho thấy các kết quả phù hợp với nhau: sự phụ thuộc chuyển giao có tương quan ngược chiều và có ý nghĩa thống kê trong tác động đến sự phân cấp tài khóa. Nhóm 2 K24 – Chiều CN – Phòng 309 17
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đề tài nghiên cứu: Yếu tố quyết định chọn trường ĐHTG của học sinh Trung học phổ thông trên địa bàn tỉnh Tiền Giang - Nguyễn Thanh Phong
84 p | 495 | 38
-
Báo cáo tốt nghiệp: Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định mua bảo hiểm ôtô tại Công ty cổ phần bảo hiểm Viễn Đông – chi nhánh Bình Dương
84 p | 28 | 12
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Các yếu tố quyết định kết quả học tập của sinh viên trong giáo dục trực tuyến ở trường Đại học Sư Phạm Kỹ Thuật TP. Hồ Chí Minh
97 p | 22 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định mua sắm mặt hàng thời trang công sở nữ trên Facebook của khách hàng nữ trên địa bàn Hà Nội
120 p | 16 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định vay vốn tiêu dùng của khách hàng cá nhân tại ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương Việt Nam - Chi nhánh Sông Hàn
125 p | 24 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định nghỉ việc của nhân viên - Nghiên cứu tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn TP Đà Nẵng
102 p | 23 | 7
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: "Các yếu tố ảnh hưởng đến việc ra quyết định liên quan đến điểm giao nhận giữa các bà mẹ với một đứa trẻ dưới một năm tuổi trong ba tỉnh của Lào"
7 p | 122 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng tới quyết định chọn kênh siêu thị khi mua thực phẩm tươi sống của người tiêu dùng TP.HCM
136 p | 39 | 5
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định vay vốn tiêu dùng của khách hàng cá nhân tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam chi nhánh Sông Hàn
26 p | 19 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định thuê căn hộ dịch vụ tại Nha Trang - Khánh Hòa
84 p | 15 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định mua bất động sản của khách hàng cá nhân tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
117 p | 5 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Các yếu tố tác động đến quyết định sử dụng hóa đơn điện tử của doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Vũng Tàu
108 p | 5 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định mua ô tô Honda của người tiêu dùng tại Nha Trang
84 p | 11 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định sử dụng sản phẩm VCB Digibank của tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Đà Nẵng
181 p | 4 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Các yếu tố tác động đến quyết định mua hàng của người tiêu dùng tại cửa hàng Bách hóa xanh huyện Đức Linh, Bình Thuận
103 p | 8 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định sử dụng dịch vụ thể hình tại các phòng GYM trên địa bàn Thành phố Thủ Đức
131 p | 3 | 2
-
Khóa luận tốt nghiệp Tài chính ngân hàng: Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định sử dụng dịch vụ internet banking của khách hàng cá nhân tại các ngân hàng thương mại ở thành phố Hồ Chí Minh
98 p | 5 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn