intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Cách điều hành tỷ giá của chính phủ Việt Nam, hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu trong thời gian tới

Chia sẻ: Trịnh Phương Hoài | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:21

74
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài "Cách điều hành tỷ giá của chính phủ Việt Nam, hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu trong thời gian tới" trình bày sự điều hành tỷ giá của Chính phủ Việt Nam, hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt Nam trong thời gian tới. Đây là tài liệu tham khảo hữu ích cho các bạn chuyên ngành Tài chính - Ngân hàng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Cách điều hành tỷ giá của chính phủ Việt Nam, hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu trong thời gian tới

  1. GVHD: ThS. Trương Văn Khánh – ThS. Trẩm Bích Lộc MỤC LỤC Tiểu Luận Môn Kinh Doanh Xuất Nhập Khẩu Trang 1
  2. GVHD: ThS. Trương Văn Khánh – ThS. Trẩm Bích Lộc DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ Biểu đồ  1: Tình hình tỷ  giá USD/VND từ  năm 1990 đến năm 2014 (nguồn:  Tổng Cục Thống Kê). Biểu đồ 2: Diễn biến tỷ giá từ đầu năm 2015 đến nay (Nguồn: Biz Live) Biểu đồ 3: Các thị trường xuất nhập khẩu lớn nhất của Việt Năm năm 2014  (nguồn: Tổng Cục Hải Quan) Biểu đồ  4: Xuất nhập khẩu theo nhóm loại hình chính năm 2014 (nguồn:   Tổng Cục Hải Quan) Bảng 1: Các thị  trường xuất nhập khẩu lớn nhất của Việt Năm năm 2014  (nguồn: Tổng Cục Hải Quan) Bảng 2: Nhóm 10 hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam 2014 (ngu ồn: Tổng   Cục Hải Quan) Bảng 3: Xuất nhập khẩu theo nhóm loại hình chính của Việt Nam (nguồn:   Tổng Cục Hải Quan) Tiểu Luận Môn Kinh Doanh Xuất Nhập Khẩu Trang 2
  3. GVHD: ThS. Trương Văn Khánh – ThS. Trẩm Bích Lộc 1. Sự điều hành tỷ giá của Chính phủ Việt Nam 1. 1 Sự hình thành và vận động của tỷ giá cùng chính sách tỷ giá hối đoái trong   giai đoạn trước tháng 3/1989 thời kế hoạch hoá, tập trung kinh tế.  Năm 1950 được coi như  là một cái mốc khi mà Trung Quốc, Liên Xô và các  nước chủ  nghĩa xã hội Đông Âu thiết lập quan hệ  ngoại giao với Việt Nam, đặt  nền móng đầu tiên cho việc hình thành các quan hệ kinh tế ­ thương mại giữa Việt   Nam và các nước. Trong hai năm liên tiếp, 1952­1953, Việt Nam lần lượt kí hiệp  định thương mại và nghị  định thư  mậu dịch tiểu nghạch với Trung Quốc. Từ ngày   25 tháng 11 năm 1955, tỷ giá chính thức được quy định giữa đồng Việt Nam (VND)  và nhân dân tệ  Trung Quốc (CNY) là 1 CNY=1470 VND. Tỷ giá giá này được xác  định dựa trên việc so sánh giá bán lẻ của 34 mặt hàng tiêu dùng tại một số tỉnh lớn   của hai nước. Vào thời điểm này, tỷ giá Rúp của Liên Xô (SUR) và nhân dân tệ của  TrungQuốc (CNY) là 1 CNY = 2SUR. Từ  đó, tỷ  giá tính chéo tạm thời giữa đồng   Việt Nam và Rup của Liên Xô là 1 SUR = 735VND.  Sau đợt đổi tiền vào đầu năm 1959 (1 đồngViệt Nam mới bằng 1000 đồng   Việt Nam cũ) cũng đã có những điều chỉnh tỷ giá tương ứng với sự thay đổi mệnh   giá của đồng tiền (1SUR = 0,735VND). Đến đầu năm 1961 tỷ  giá giữa đồng Việt   Nam và Rup của Liên Xô được điều chỉnh lại là 1SUR=3,27VND, do hàm lượng   vàng trong đồng Rup được điều chỉnh tăng 4,44 lần. Năm 1977, các nước xã hội chủ  nghĩa thoả  thuận thanh toán với nhau bằng tiền Rup chuyển nhượng (là đồng tiền   ghi sổ dùng trong thanh toán mậu dịch giữa các nước trong khối với tỷ giá được quy  định sao cho tài khoản giữa các bên sau khi trao đổi ngoại thương theo khối lượng   đã được ghi trong hiệp định ký kết vào đầu năm thì cuối năm số dư phải bằng zero)  có hàm lượng vàng quy định là 0,98712 gam trên mỗi đồng Rup chuyển nhượng.  Bên   cạnh   tỷ   giá   Nhà   nước   còn   sử   dụng   tỷ   giá   kết   toán   nội   bộ  1SUR=5,64VND, được hình thành từ năm 1958 và được xác định trên cơ sở so sánh   giá cả hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam bằng đồng Rup nhân dân tệ với giá hàng  hoá đó bằng đồng Việt Nam trong 3 năm 1955, 1956, 1957. Tỷ  giá kết toán nội bộ  này dùng để  thanh toán giữa các tổ  chức và đơn vị  kinh tế  Nhà nước có thu chi   ngoại tệ với ngân hàng, tính thu chi với các đối tác ngoại thương. Tỷ  giá kết toán   nội bộ này được xác định cố định cho đến tận năm 1986 mới được điều chỉnh lại là   1SUR=18VND, năm 1987 điều chỉnh lại là 1SUR=150VND, cuối năm 1988 mới  được điều chỉnh lại là 1SUR=700VND và cho đến tháng 3 năm 1989 thì huỷ bỏ chế  độ kết toán nội bộ này.  Sau khi bắt đầu có chủ trương thu hút vốn đầu tư nước ngoài (1985) thì vấn  đề  luồng ngoại tệ  bằng Dola Mỹ  vào Việt Nam phải được tính đến (nhất là khi  Việt Nam thông qua luật đầu tư nước ngoài vào năm 1987). Và tỷ giá hối đoái chính  thức giữa đồng Việt Nam và Dola Mỹ đã được xác định một cách chủ  quan theo tỷ  giá hiện tại giữa đồng Việt Nam và đồng Rup (năm 1985: 1SUR=18VND và mối  tương quan Dola­Rup xem như tương đương 1:1. Do đó, tỷ  giá hối đoái chính thức  giữa đồng Việt Nam và Dola Mỹ vào năm 1985 là 1USD=18VND). Cũng bắt đầu từ  năm này, thị  trường ngoại tệ  chợ  đen mà chủ  yếu là thị  trường Dola Mỹ  bắt đầu   bột phát một cách mạnh mẽ với sự trợ lực của ba dòng chảy là: dòng kiều hối của   Tiểu Luận Môn Kinh Doanh Xuất Nhập Khẩu Trang 3
  4. GVHD: ThS. Trương Văn Khánh – ThS. Trẩm Bích Lộc kiều bào đổ về thay thế dân cho những kiện hàng quà biếu mà một phần đáng kể là  dưới hình thức bất hợp pháp. Những lượng lớn Dola Mỹ được cất trữ từ  khi miền   Nam được giải phóng bởi các tiểu tư  sản Sài Gòn cũ cũng bắt đầu được tung ra ít   nhiều. Thứ  ba, cùng với việc xoá bỏ  ngăn sông cấm chợ  thì dòng chảy hàng buôn  lậu qua biên giới cũng gia tăng theo. Mức tỷ  giá hối đoái trên thị  trường chợ  đen  được hình thành và vận động theo những tín hiệu quy luật thị trựờng đã có một sự  chệnh lệch lớn so với tỷ giá chính thức, sự bất hợp lý trong việc xác lập tỷ giá hối   đoái ở giai đoạn này thực chất không quan trọng đối với cả nền kinh tế nói chung vì  tỷ giá là một loại giá cả, mà bản thân phạm trù giá cả cơ bản là không tồn tại trong   nền kinh tế tập trung, bao cấp ngoại trừ việccó ảnh hưởng xấu đến ngân sách Nhà  nước.  Với việc thực hiện tỷ giá kết toán nội bộ, mức tỷ giá chính thức thường cố  định trong thời gian tương đối dài và thấp hơn rất nhiều so với mức tỷ giá trên thị  trường. VD: giai đoạn từ năm 1985 đến 1988, 1 Rup có giá vào khoảng 1500 VND,   1Dola có giá vào khoảng 3000 VND. Trong khi đó, tỷ giá kết toán nội bộ trong thanh   toán quan hệ  xuất nhập khẩu  ở mức khoảng 1SUR=150VND và 1USD=225VND.   Từ đó, 1 Rup nhập khẩu Nhà nước phải bù lỗ  một số tiền là 1350 đồng và 1 Dola   phải bù lỗ  2775 đồng. Như  vậy, nếu kim ngạch trong năm 1987 là 650 triệu SUR­ USD, trong đó khu vực đồng Rup là 500 triệu và khu vực Dola là 150 triệu thì số  tiền phải bù lỗ  lên đến 900 tỷ  VND. Tình hình này dẫn đến một thực trạng là  những địa phương, những ngành nghề  nào đó càng xuất khẩu nhiều thì ngân sách   Nhà nước càng phải bù lỗ nhiều. Nếu bù lỗ không đủ hay chậm trễ sẽ dẫn đến tình   trạng nợ chồng chất lẫn nhau và thiếu vốn kinh doanh.  Bên cạnh đó, do tỷ  giá chính thức quy định thấp, các tổ  chức kinh tế  và cá   nhân có ngoại tệ lại tìm cách không bán cho ngân hàng, các tổ chức đại diện nước   ngoài hoặc cá nhân nước ngoài cũng hạn chế việc chuyển tiền vào tài khoản ở ngân  hàng để chi tiêu mà thường đưa hàng từ nước ngoài vào hay sử dụng trực tiếp tiền   mặt trên thị  trường. Thực tế  này vừa gây thiệt hại về  kinh tế  cho Nhà nước vừa   làm phát sinh những tiêu cực trong đời sống kinh tế  xã hội, thúc đẩy mạnh mẽ  những hoạt động phi pháp và chính điều này tác động ngược trở lại làm tình hình tỷ  giá trong thị trường càng diễn biến phức tạp. Đối với nhập khẩu, Nhà nước thường  đứng ra phân phối nguyên vật liệu, trang thiết bị, máy móc nhập khẩu cho các  ngành đơn vị  trong nền kinh tế  với giá rẻ  (theo tỷ  giá chính thức). Như  vậy, các  ngànhh, các đơn vị được phân phối hàng nhập khẩu thì được chênh lệch giá. Do đó,   cách thức xây dựng và điều hành tỷ giá cùng cơ chế ngoại thương như vậy đã được  xem là một trong những nguyên nhân cơ  bản dẫn đến những thâm hụt trầm trọng  trong ngân sách Nhà nước ở giai đoạn này. Tóm lại, tỷ giá hối đoái được xác lập và  vận hành ở Việt Nam trong giai đoạn trước tháng 3/1989 là một hệ thống khá phức  tạp, được xác lập theo ý đồ phục vụ cho kế hoạch do Nhà nước quyết định, không   xuất phát từ luật thực tại trong nền kinh tế trong và ngoài nước mà hậu quả là làm  cho việc tính toán, phản ánh thu chi ngân sách Nhà nước bị  sai lệch, công tác điều   hành ngân sách Nhà nước gặp khó khăn, cản trở  các quan hệ  kinh tế  cả  trong và  ngoài nước. Đây cũng là vừa một biểu hiện và cũng vừa là kết quả  của một nền   kinh tế kế hoạch hoá tập trung.  Tiểu Luận Môn Kinh Doanh Xuất Nhập Khẩu Trang 4
  5. GVHD: ThS. Trương Văn Khánh – ThS. Trẩm Bích Lộc 1. 2 Sự  vận động của tỷ  giá và chính sách tỷ  giá hối đoái từ  tháng 3/1989 đến   nay, thời kì nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường với định hướng   xã hội chủ nghĩa.  1. 2.1 Giai đoạn từ 1989­1992 Giai đoạn này có thể  được coi là cái mốc quan trọng trong phát triển tỷ  giá   hối đoái  ở  nước ta khi quan hệ  ngoại thương  được bao cấp với các thị  trường  truyền thống Đông Âu và Liên Xô (cũ) bị  gián đoạn, khiến chúnh ta phải chuyển   sang buôn bán với khu vực thanh toán bằng dola Mỹ. Kể từ đó cơ chế tỷ giá ổn định   đã được thay thế dần bằng cơ chế Nhà nước điều tiết theo quan hệ thị trường. Để  đi tới một chính sách tỷ giá hối đoái tự chủ như ngày nay, cơ chế quản lý ngoại tệ  nói chung, quản lý hối đoái nói riêng đã trải qua những điều chỉnh lớn. Chính trong  giai đoạn này nền kinh tế  chịu tác động của chính sách thả  nổi tỷgiá. Tỷ  giá hối  đoái VND/USD biến động mạnh theo xu hướng giá trị  đồng dola Mỹ  tăng liên tục  kèm theo các cơn “sốt”, các đột biến với biên độ rất lớn (Từ cuối năm1990 trở đi).   Đỉnh cao của mức tăng tỷ giá USD là cuối năm 1991.  Ngày 4/12/1991 giá dola Mỹ trên thị trường tư nhân tại Hà nội và Thành phố  Hồ  Chí Minh là 14. 450VND/USD. Giá dola trong tháng 12/1990 đã tăng từ  60 đến  80% so với mức giá đầu năm. Mặc dù trong giai đoạn 1989­1992 chính sách quản lý   ngoại tệ của Nhà Nước đã có nhiều thay đổi, như chuyển từ hình thức quản lý theo   tỷ giá kết toán nội bộ bình quân cho tất cả các nhóm hàng hoá và duy trì tương đối   ổn định các tỷ giá này, hoặc nếu có thay đổi thì cũng chỉ ở mức nhỏ nhằm  ổn định  hệ thống giá vật tư và xuất khẩu, nhập khẩu, nên tỷ giá công bố  vẫn cách xa mức  giá hình thành trên thị trường.  Diễn biến tỷ  giá hối đoái từ  năm1989 đến năm 1992 không những nói nên  khoảng cách giữa tỷ giá của nhà nước với tỷ giá hình thành trên thị trường tự do mà   còn phản ánh xu hướng tăng nhanh của giá trị đồng dola ở cả khu vực nhà nước lẫn  thị  trường. Năm 1990, giá trị  đồng dola vào thời điểm cuối năm đã tăng tới 50% so  với đầu năm. Mức tăng giá USD trong 1991 còn cao hơn. Tình trạng leo thang của  giá đồng dola đã kích thích tâm lý nắm giữ đồng dola, nhằm đầu cơ  ăn chênh lệch   giá. Ngoại tệ  vốn đã khan hiếm lại không được dùng cho hoạt động xuất nhập   khẩu mà còn bị buôn bán vòng vèo giữa các tổ chức trong nước. Mọi cố gắng quản   lý ngoại tệ  của chính phủ  ít đem lại hiệu quả. Giai đoạn này Ngân hàng không  kiểm soát được lưu thông tiền tệ. Trong các năm 1991­1992 do  ảnh hưởng của sự  đổ vỡ các mối quan hệ ngoại thương với Liên Xô và Đông Âu, nhập khẩu giảm sút  một cách nghiêm trọng (năm 1991 là 357. 0 triệu USD đến năm 1992 chỉ  còn 91,1   triệuUSD ). Các doanh nghiệp tiến hành nhập khẩu theo hình thức trả chậm và phải  chịumột lãi suất cao do thiếu dola, dola đã thiếu lại càng thiếu dẫn đến các cơn sốt  dolatheo chu kỳ vào giai đoạn này. Đến đầu năm 1992 Chính phủ  đã có một số cải   cách trong việc điều chỉnh tỷ giá (như  buộc các doanh nghiệp có dola phải gửi vào   ngân hàng, bãi bỏ hình thức quyđịnh tỷ giá theo nhóm hàng…) làm cho giá dola bắt   đầu giảm (cuối năm 1991 tỷ giáVND/USD có lúc lên tới 14500 đến tháng 3/1992chỉ  còn 11550 VND/USD và tiếptục giảm cho đến cuối năm 1992.  Tiểu Luận Môn Kinh Doanh Xuất Nhập Khẩu Trang 5
  6. GVHD: ThS. Trương Văn Khánh – ThS. Trẩm Bích Lộc 1.2.2 Giai đoạn cố định tỷ giá 1993­1997 Vào thời điểm cuối năm 1992, do kết quả  sự  can thiệp của Ngân hàng Nhà  nước vào thị trường ngoại tệ, tỷ giá dần ổn định khiến cho lượng ngoại tệ đầu cơ  trong các doanh nghiệp được tung ra, hướng mạnh vào kinh doanh xuất nhập khẩu.  Động thời có một lượng ngoại tệ  được chuyển về  do người Việt Nam  ở  nước   ngoài gửi về cho người thân tăng lên khoảng 300­400 triệu USD làm cung ngoại tệ  lớn hơn cầu ngoại tệ và kéo theo tỷ giá VND/USD giảm mạnh. Lĩnh vực tài chính ­   tiền tệ  bắt đầu trở  ngại. Bên cạnh đó, cùng với việc quản lý các đại lý thu đổi  ngoại tệ  còn lỏng lẻo, sự  chênh lệch lớn giữa tỷ  giá hối đoái  ở  thị  trường chính   thức và thị  trường chợ  đen dẫn đến việc các đại lý lợi dụng danh nghĩa của Nhà   nước để buôn bán trục lợi, các ngân hàng không thu mua được lượng ngoại tệ đáng   kể  qua nguồn này. Một mặt tình trạng này làm hạn chế  khả  năng kiểm soát các   luồng ngoại tệ  lưu hành trong nước. Mặt khác làm gia tăng các giao dịch trên thị  trường chợ đen bất hợp pháp, tâm lý đầu cơ, găm giữ ngoại tệ tăng mạnh. Việc ngân hàng Nhà nước khống chế  chênh lệch giữa tỷ  giá mua và tỷ  giá  bán là cứng nhắc. Điều này làm cho tỷ giá vận hành thoát ly hoàn toàn quan hệ cung  cầu và không khuyến khích các tổ  chức tín dụng, các ngân hàng thương mại hoạt   động theo đúng quan hệ  nội tại của nó và thực tế  không ít các ngân hàng thương   mại đã phá rào. Cuối cùng sự  vận động của tỷ  giá trong giai đoạn này đã gợi nên   một số điểm cần lưu ý trong việc điều hành chính sách như sau: ­ Trước tiên, những vận động của tỷ  giá hối đoái trong giai đoạn này cho   thấy tỷ  giá hối đoái của Việt Nam phá nhạy cảm trước những thay đổi của tình  hình kinh tế từ bên ngoàivà yếu tố tâm lý, cán cân thương mại luôn là những yếu tố  có trọng số lớn đối với sự vận động của tỷ giá hối đoái. ­ Việc sử dụng các công cụ hành chính trong can thiệp vào tỷ giá là cần thiết   vào những lực cung cầu, ngoại tệ có những mất cân bằng nhưng phải đủ  mạnh để  yếu tố tâm lý không có khả năng phát huy tác động xấu.  Trước những tồn tại của việc”thả nổi” mất kiểm soát tỷ  giá, chính phủ  đã   thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá với những nội dung cụ thể sau: ­ Quy định biên độ giao động của tỷ giá với tỷ  giá chính thức được công bố  bởi Ngân hàng nhà nước (công bố tỷ giá chính thức mỗi ngày và xác định rõ biên độ  dao động); Tăng cường sức mạnh của các biện pháp hành chính mà cụ thể là buộc   các đơn vị kinh tế (trước hết là đơn vị kinh tế quốc doanh) có ngoại tệ phải bán cho  Ngân hàng theo tỷ giá nhất định. ­ Bãi bỏ  hoàn toàn hình thức quy định tỷ  giá nhóm hàng trong thanh toán   ngoại thương giữa ngân sách với các đơn vị  kinh tế  tham gia vào hoạt động ngoại  thương. Thay vào đó là việc áp dụng tỷ giá chính thức do Ngân hàng nhà nước công   bố.  Để hạn chế tác động của các yếu tố phi kinh tế, một mặt chính phủ đã tăng  cường công tác thông tin, cho công khai hoá một cách nhanh chóng và chính xác chỉ  số  kinh tế  quan trọng như  tỷ  giá chính thức, tỷ  giá thị  trường, chỉ  số  giá, sự  biến   động giá vàng… Nhờ vậy hạn chế được hoạt động đầu cơ, giải tâm lý hoang mang.  Tiểu Luận Môn Kinh Doanh Xuất Nhập Khẩu Trang 6
  7. GVHD: ThS. Trương Văn Khánh – ThS. Trẩm Bích Lộc Mặt khác, chính phủ cũng thông quan nhiều hình thức, tốc độ, mức can thiệp  để thể hiện rõ quyết tâm cải cách triệt để nền kinh tế nói chung và áp dập tắt nguy   cơ bùng nổ trở lại lạm phát nói riêng.  Mặt khác, chính phủ cũng cho thấy có sự chú trong tăng cường thực lực kinh   tế cho hoạt động can thiệp vào tỷ giá bằng cách gia tăng mạnh mẽ dự trữ ngoại tệ,   lập quỹ ổn giá. theo số liệu báo cáo thường niên của Ngân hàng nhà nước cho thấy,   chính phủ  thường dành một tỷ  trọng khá lớn trong tổng lượng tiền cung  ứng thêm  cho nền kinh tế  để  tăng tài sản có ngoại tệ. Những biện pháp can thiệp trên đã   phần nào xoá đi tâm lý gặm giữ  ngoại tệ, góp phần làm giảm Dola và tỷ  giá được   ổn định trong những năm tiếp theo. ­ Đẩy mạnh hoạt động của trung tâm giao dịch ngoại tệ (trung tâm giao dịch   ngoại tệ tại trực tiếp Hồ Chí Minh được mở  cửa từ  tháng 8 năm 1991) để  cho các  đơn vị kinh tế và các tổ chức tín dụng trao đổi, mua bán ngoại tệ với nhau theo giá   tự thoả thuận, tạo ra môi trường điều kiện để cung cầu thực sự gặp nhau. Sau đó,   tiến dần tới việc thành lập thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng tháng 9 năm 1994. Tính đến cuối năm 1992, đầu năm 1993, những biện pháp can thiệp đã đem  lại một kết quả như mong đợi, nạn đầu cơ  ngoại tệ  về  cơ  bản đã được giải toả,  những đồng ngoại tệ  đã được hướng mạnh và hoạt động kinh doanh xuất nhập   khẩu. Tình hình cung ­ cầu ngoại tệ  đã được cải thiện với cùng kỳ  trong những  năm trước đó, Dola có xu hướng giảm giá. Mức tỷ  giá trên thị  trường chợ  đen chỉ  giao động trong phạm vi từ 10.200 đến 10.400 đồng Việt Nam ăn 1 Đôla Mỹ. Thậm   chí có lúc tỷ giá tụt xuống ở mức 1USD = 9.750VND. Mặc dù có nhiều ý kiến cho  rằng tình hình này phần lớn là nhờ  vào lượng kiều hối vào nhiều (ước tính trong  tháng 1 năm 1993, nhân dịp tết nguyên đán, có trên 60.000 Việt kiều về thăm quê đã   đem theo một lượng ngoại tệ khoảng 400 triệu Dola Mỹ). Dĩ nhiên không thể  phủ  nhận đóng góp của lượng kiều hối này vào việc làm ra tăng cung ngoại tệ  trên thị  trường. Trên thực tế  cho thấy, lượng kiều hối này tăng giảm hoàn toàn không  ổn  định qua các năm và chỉ  tập trung vào những thời gian ngắn nhất định trong năm,  trong khi tình hình cung ­ cầu ngoại tệ và tỷ  giá hối đoái luôn được  ổn định trong   suốt thời gian dài từ năm 1993 đến đầu năm 1997.  Mức tỷ giá trên thị trường chính thức cũng không có sự chênh lệnh nhiều so   với tỷ giá trên thị trường chợ đen, là minh chứng cho thấy, mặc dù có sự  can thiệp   mạnh trở lại của nhà nước, nhưng tỷ giá vấn được xác định tương đối phù hợp với  quy luật của thị  trường. Điều này có thể  được chứng minh bằng thực tế  là tỷ  giá  của các Ngân hàng và tỷ  giá trên thị  trường chợ  đen biến động tương đối sát gần  nhau.  Một minh chứng nữa là tính từ  năm 1993 đến 1996, tình hình giá cả  đồng   Dola Mỹ trên thị trường tiền tệ quốc tế thường xuyên có sự biến động mạnh so với   hàng loạt các đồng tiền chủ  chốt khác như: Yên Nhật. Mác Đức, NDT của Trung   Quốc… Trong khi đó, đồng Dollar Mỹ lại có sự  ổn định trên thị  trường Việt Nam,   điều này cho thấy biện pháp can thiệp của chính phủ mà đặc biệt là Ngân hàng nhà  nước thật sự phát huy tác dụng một cách mạnh mẽ. Trong bối cảnh nến kinh tế thế  giới và thị  trường tiền tệ quốc tế đầy biến động mà nền kinh tế  xã hội Việt Nam  lại đạt được sự ổn định và tăng trưởng cao, điều này đã thể hiện tính hợp lý về cơ  Tiểu Luận Môn Kinh Doanh Xuất Nhập Khẩu Trang 7
  8. GVHD: ThS. Trương Văn Khánh – ThS. Trẩm Bích Lộc bản của các tỷ số kinh tế vĩ mô và tất yếu là có biến số tỷ giá hối đoái. Tuy nhiên,  khi đánh giá về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và ngoại thương của Việt Nam từ  cuối năm 1992 đến đầu năm 1997, tất cả các công trình nghiên cứu trong những năm   gần đây và cũng theo nhận định chung của các nhà kinh tế  thì đây là giai đoạn tăng  giá mạnh của đồng tiền Việt Nam. Các kết luận thường cho rằng: Chính điều này  là nguyên nhân gây ra tình trạng thâm hụt lớn trong ngoại thương của Việt Nam. Ví  dụ: Nếu ước tính một cách tương đối và lấy gốc là năm 1992 thì đầu năm 1997, chỉ  số  giá tiêu dùng của Việt Nam đã tăng 36.8% trong khi  ở  Mỹ  là 16,5% thì theo   thuyết ngang giá sức mua, nếu tỷ  giá chính thức vào đầu năm 1993, là 1 USD =   10.500   VND   thì   đầu   năm   1997   tỷ   giá   phải   là   1USD   =103.000(1+   16,5%)   =  12.095VND. Trong khi đó, tỷ  giá chính thức trên thị  trường Việt Nam thực tế  chỉ  khoảng 1USD = 1.100VND. Như  vậy theo ngang giá sức mua, đồngViệt Nam đã  tăng giá thực tế xấp xỉ 9%. và số liệu thực tế cho thấy nếu xét về giá trị  tuyệt đối   bằng tiền tệ thì thâm hụt trong cán cân thương mại của Việt Nam đã có sự tăng liên  tục qua các năm (1993 là 547, 1994 là 1170, 1995 là 2345, 1996 là 3150 triệu Dollar  Mỹ). Nếu so sánh mức thâm hụt này với tổng kim ngạch xuất khẩu thì con số cũng  có chiều hướng tăng lên (năm 1993 là 8,4% năm 1994 là 12,8%  năm1995 là 18,4% và  năm 1996 là 17,7%). Bên cạnh đó sự thâm hụt trong cán cân thương mại của Việt Nam phải đặc  biệt nghiêm trọng trong 3 năm liên tiếp 1994, 1995, 1996, có thể nói phần lớn là do   tác động trực tiếp của việc Trung Quốc phá giá mạnh của đồng CNY vào đầu năm  1994. Số  liệu thực tế  cho thấy, ngay sau cuộc phá giá kim ngạch nhập khẩu từ  Trung Quốc (chính ngạch) tăng lên rất nhanh. Nếu như trong năm 1992 kim ngạch   nhập khẩu từ Trung Quốc là 31,8% USD, chiếm 1,3% tổng kim ngạch xuất khẩu thì  trong các năm 1994, 1995, 1996, con số  này lần lượt là 144,2% triệu USD chiến   2,7%, 793,9 triệu USD chiếm 10,5% và 926,5% triệu USD chiếm 8,8%. Thực tế đó  cũng đã chỉ  ra rằng sự  điều hành chính sách tỷ  giá hối đoái và chính sách ngoại   thương của Việt Nam trong giai đoạn từ cuối năm 1993 đến đầu năm 1997 đôi khi  quá thụ  động. Sự  phá giá mạnh của đồng CNY vào cuối năm 1993 là một sự  kiện  không có tác động trực tiếp đến ngoại thương của Việt Nam nói riêng và nền kinh  tế  nói chung. Nhưng có thể  thấy rằng trong suốt những năm 1993 đến 1995, hoàn   toàn không có bất kỳ  một điều chỉnh nào trong chính sách tỷ  giá hối đoái nhằm  phản ánh hay đối phó tình hình này (điều này phản ánh tính tự chủ trong chính sách   tiền tệ nói chung và trong đó có chính sách tỷgiá hối đoái nói riêng là chưa cao). Tỷ  giá tính chế trực tiếp giữa NDT của Trung Quốc và Việt Nam cũng như hoạt động   buôn bán tiểu ngạch ở các tỉnh biên giới phíabắc hầu như vẫn được “thả nổi”. 1.2.3 Giai đoạn từ tháng 7/1997 đến ngày 26/2/1999  Ngày 2/7/1997 Thái lan phải “thả  nổi” tỷ  giá hối đoái kết thúc gần 14 năm  duy trì một chế độ cố định và cũng là ngày đánh dấu làm nổ  ra cuộc khủng hoảng   tài chính Đông Nam Á với một  ảnh hưởng rộng khắp trên phạm vi toàn thế  giới.  Việt Nam cũng không thể  tránh khỏi cuộc khủng hoảng. Theo đánh giá chung của  các nhà nghiên cứu cũng như  của các cơ quan thì cuộc khủng hoảng này hoàn toàn   có ảnh hưởng ít nhiều đối với nền kinh tế Việt Nam. Xét thêm góc độ vĩ mô, sự tác  Tiểu Luận Môn Kinh Doanh Xuất Nhập Khẩu Trang 8
  9. GVHD: ThS. Trương Văn Khánh – ThS. Trẩm Bích Lộc động của cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam Á đối với nền kinh tế  Việt Nam  tạo nên một cơn sốc rộng khắp thể hiện trên một số mặt sau:  ­ Thứ nhất, đối với lĩnh vực Tài chính Ngân hàng         + Tạo sức ép giảm giá đồng Việt Nam trên thị trường ngoại tệ         + Tác động xấu đến hoạt động giao dịch ngoại tệ         + Tăng gánh nặng nợ cho các doanh nghiệp         + Gây sức ép đối với lãi suất đồng tiền Việt Nam và đe doạ sự mất ổn định  của hệ thống Ngân hàng. + Tác động đến xuất khẩu: tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam sang khu vực   châu Á ­ Thái Bình Dương chiếm khoảng 70% tổng kim ngạch, riêng các nước   ASIAN chiếm 23% tổng kim ngạch trước khi xảy ra cuộc khủng ho ảng nên cuộc   khủng hoảng tất yếu sẽ làm giảm xuất khẩu của Việt Nam.         + Tác động đến nhập khẩu: Sự mất giá của đồng tiền trong khu vực đã kích  thích gia tăng nhập khẩu, trước hết là nhập khẩu tiểu ngạch từ  Thái lan và hàng  trung chuyển từ    Campuchia, Lào và Việt Nam. Thực tế  cho thấy, đến cuối năm  1997, hàng loạt các báo đi đều lên tiếng về tình trạng nhập lậu hàng gia tăng mạnh  ở các tỉnhbiên giới tây nam. ­ Thứ hai, đối với lĩnh vực đầu tư:   Do tỷ giá tăng, lãi suất tăng, thị trường hàng hoá diễn biến phức tạp cùng với  dự đoán không tốt trong tương lai tất yếu sẽ là các doanh nghiệp hạn chế đầu tư và   Ngân hàng cũng rất dè dặt khi cho vay. Đầu tư  nước ngoài vào Việt Nam đã có xu   hướng giảm ngay từ trước khi nổ ra cuộc khủng hoảng, sau khi cuộc khủng hoảng,   nhiều dự án đầu tư  dở dang bị đình lại, nhiều phương án đầu tư  mới tạm hoãn và   điều này cũng thật rễ  hiểu khi mà các quốc gia bị  khủng hoảng nặng nề  lại là   những quốc gia đang dẫn đầu danh sách những quốc gia đầu tư nhiều nhất vào Việt  Nam. ­ Thứ ba, đối với thu chi ngân sách nhà nước.  Gánh nặng nợ nần và chi phí nguyên liệu tăng lên cùng với sụt giảm của thị  trường tiêu dùng lẫn thị trường xuất khẩu đã làm nhiều doanh nghiệp bị thua lỗ từ  đó sẽ   ảnh hưởng xấu đến nguồn thu ngân sách. Bên cạnh đó, sự  xa sụt của nền   kinh tế tất yếu đòi hỏi phải ra tăng một số khoản chi. Báo cáo của Ngân hàng nhà  nước về hoạt động tiền tệ, tín dụng Ngân hàng trong 6 tháng đầu năm 1998 đã chỉ  rõ “Thu ngân sách 6 tháng thực hiện đạt 30% so với kế hoạch năm. Chi ngân sách   khó khăn hơn mức bội thu bội chi có xu hướng gia tăng”. ­ Thứ tư, Tăng trưởng kinh tế dự trữ quốc gia và nợ nước ngoài. Khủng hoảng khu vực đã gián tiếp ảnh hưởng đến cán cân vãng lai, đến đầu  tư của nước ngoài. Từ đó, gây ra khó khăn cho sự phát triển kinh tế nói chung (tốc   độ tăng trưởng 5,8% trong năm 1998 là mức tăng trưởng thấp nhất kể từ năm 1989).  Nền kinh tế  khó khăn sẽ  tác động suy giảm đến tổng cầu, giảm thu nhập và tiêu  dùng của cư  dân. Thị  trường suy yếu một phần sẽ tác động ngay lập tức đến các  Ngân hàng thương mại. Dự trữ quốc gia tất yếu sẽ phải chịu sức ép suy giảm một  phần do nguồn cung ngoại tệ  giảm bớt, một phần do đáp  ứng nhu cầu ngoại tệ  thiết yếu cho nền kinh tế  và hỗ  trợ  cho đồng Việt Nam vào những lúc cao điểm.   Trong bối cảnh đó, chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam về cơ bản không có gì   Tiểu Luận Môn Kinh Doanh Xuất Nhập Khẩu Trang 9
  10. GVHD: ThS. Trương Văn Khánh – ThS. Trẩm Bích Lộc khác so với giai đoạn từ năm 1993 đến khi nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính Đông  Nam Á. Nhưng là giai đoạn với những điều chỉnh nhỏ, liên tục trong chính sách tỷ  giá hối đoái, nói chung và công tác quản lý ngoại hối nói riêng nhằm hạn chế những  tác động của cuộc khủng hoảng. Nếu trong giai đoạn từ cuối năm 1992 đến tháng 7   năm 1997 chỉ có một lần duy nhất điều chỉnh biên độ  giao dịch từ  1% đến 5% vào   ngày 27/2/2997 thì từ tháng 7/ 1997 đến đầu năm 1999 có nhiều lần thay đổi với các   mốc chính như sau:  Ngày 13/10/1997 thống đốc Ngân hàng nhà nước quyết định mở rộng biên độ  giao dịch nên mức 10%. Ngày 16/2/1998 Ngân hàng nhà nước quyết định nấng tỷ giá   hính thức từ 1 USD = 11.175 VND nên mức 1 USD = 11.800 VND, tăng 5,6%, ngày   7/8/1998, Ngân hàng nhà nước quyết định thu hẹp biên độ  giao dịch xuống còn 7%   đồng thời nâng tỷ  giá chính thức lên 1USD = 12.998 là 1USD = 12.992 VND, ngày  6/11/98 là 1 USD = 12.989 VND ngày 26/11/98 là 1 USD = 12.987 VND… cho đến   ngày15/1/99 thì tỷ giá chính thức chỉ còm ở mức 1 USD = 12.980 VND. Việc Ngân hàng nhà nước điều chỉnh liên tục tỷ giá chính thức cùng biên độ  trong giai đoạn này có nhiều lý do, do gạt bỏ những lý do khác và chỉ đứng trên góc   độ lựa chọn chế độ tỷ giá thì có thể thấy. Nếu phân loại chế độ  tỷ giá gồm 3 chế  độ chính là chế độ tỷ giá cố định, chế độ tỷ giá thả  nổi thuần tuý và nằm giữa hai  thái cực này gọi chung là chế độ  tỷ giá bán thả nổi hay thả nổ có quản lý, thì việc  có nhiều những điều chỉnh trong tỷ giá chính thức cùng biên độ  tuy không làm thay  đổi về cơ bản mà hoàn toàn phù hợp với lý thuyết về lựa chọn chế độ tỷ giá: “Một   chế  độ  tỷ  giá thả  nổi sẽ  góp phần hạn chế  những cơn sốc và xuất phát từ  thị  trường thế giới (đơn khủng hoàngr tài chính Đông Nam Á)”. 1.2.4 Giai đoạn 26/2/1999 đến nay Trước ngày 26/2/99 tỷ  giá hối đoái được ngân hàng Nhà nước công bố  hàng   ngày và trên cơ  sở  đó các tổ  chức tín dụng được phép mua bán trong một biên độ  nhất định. Ngoài ra còn tồn tại một loại tỷ giá là tỷ giá chợ đen tạo ra một hệ thống  đa tỷ giá phức tạp tỷ giá chính thức của NHNN công bố  không được xác định theo  tín hiệu thị trường nên không có ý nghĩa kinh tế. Tuy vậy khi có sự thay đổi của tỷ  giá vẫn có những tác động đến nền kinh tế.  Đến nay khi nền kinh tế vận động mạnh theo cơ chế thị trường thì việc xác  định tỷ  giá như  trên không còn phù hợp với quan hệ  cung cầu trên thị  trường và  thông lệ quốc tế. Từ 26/2/99 tỷ giá hối đoái chính thức công bố hàng ngày được xác  định trên cơ  sở  bình quân mua bán thực tế  trên thị  trường ngoại tệ  liên ngân hàng  của ngày giao dịch gần nhất trước đó, đồng thời biên độ  giao dịch cũng được rút  xuống là 0,1% (Quyết định 64/1999 QĐ ­ NHNN7 và 65/1999/QĐ­NHNN7). Có thể nói đây là một bước đổi mới rất quan trọng không những trong quan  niệm, trong tư duy mà cả trong thực tiễn quản lý, với cơ chế này làm cho tỷ giá hối   đoái trên thị trường vận động một cách khách quan phản ảnh đúng hơn các quan hệ  cung cầu về  ngoại tệ   ở  trên thị  trường, đồng thời cũng phù hợp với cơ  chế  điều   hành tỷ giá của nhiều nước trên thế giới. Song song với việc thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá NHNN Việt Nam cũng  đã có quyết định thay đổi cơ  chế  điều hành lãi suất (QĐ số  241/2000/QD­NHNN   Tiểu Luận Môn Kinh Doanh Xuất Nhập Khẩu Trang 10
  11. GVHD: ThS. Trương Văn Khánh – ThS. Trẩm Bích Lộc ngày 2/8/2000 bằng việc bãi bỏ  cơ  chế  điều hành lãi suất cơ bản thay bằng và tổ  chức tài chính được quyền ấn định lãi suất cho vay đối với khách hàng nhưng không   được vượt qua mức lãi suất cơ bản và biên độ quy định trong từng thời kì. Trong năm 2007 và quý I/2008, VND lên giá do vốn nước ngoài vào nhiều, lãi  suất VND tăng cao, lãi suất USD giảm nên có hiện tượng chuyển dịch từ ngoại tệ  sang VND, tỷ trọng tiền gửi ngoại tệ/tổng tiền gửi giảm từ 25,9% năm 2006 xuống  21,5% vào tháng 4/2008, trong khi đó vay bằng ngoại tệ  lại tăng từ  21% lên 23%.  Nhưng từ  tháng 5/2008 đến nay, thị  trường ngoại tệ  có diễn biến ngược lại, huy  động ngoại tệ tăng nhanh, tín dụng ngoại tệ có xu hướng giảm mạnh, nguyên nhân   chính làdo vào thời điểm giữa tháng 5, tỷ  giá VND/USD đảo chiều (VND mất giá   mạnh). Những diễn biến bất thường trên thị  trường ngoại tệ  có thể  gây mất cân  đối nguồn vốn và sử dụng vốn của các ngân hàng thương mại, gây mất an toàn cho  hoạt độngcủa hệ thống ngân hàng, từ đó nền kinh tế Việt Nam bị chao đảo nghiêm  trọng. Theo các chuyên gia, VND đang được định giá cao hơn giá trị thực của nó do  lạm phát của Việt Nam cao hơn lạm phát của 17 đối tác thương mại chính. Nhiều   chuyên gia cho rằng, việc neo VND so với USD khiến nhập khẩu tăng mạnh, xuất   khẩu chịu thiệt, trong khi Việt Nam đang cần tập trung đẩy mạnh xuất khẩu, hạn  chế nhập khẩu. Tuy nhiên, thực tế hiện nay tại Việt Nam lại cho thấy, xuất nhập   khẩu đều tăng mạnh. Lấy tỷ  giá của đồng nội tệ/USD của các nước Việt Nam,   Philippines, Trung Quốc, Thái Lan và Malaysia  ở  mỗi thời điểm chia cho tỷ  giá  tương ứng ở tháng 1­2005 (để có điểm gốc là 1 cho tiện so sánh).  Trong thời gian này đồng USD đã mất giá đáng kể so với các đồng tiền khác   (như   Euro,   Yên   hay   Bảng   Anh)   và   cũng   mất   giá   so   với   các   đồng   tiền   của   Philippines, Trung Quốc, Thái Lan và Malaysia, nói cách khác các đồng tiền này đã   lên giá so với USD (Pillipines cỡ 27%, Trung Quốc cỡ 16%, Thái Lan và Malaysia cỡ  20% vào tháng 4 ­ 2008 so với tháng 1­2005). Ngược lại đồng ViệtNam vẫn bị neo   vào đồng USD (thậm chí còn mất giá so với USD).  Theo các chuyên gia của Dragon Capital, chính chế độ tỷ giá hối đoái này đã   khuếch đại tác động của sự  tăng giá thức ăn và năng lượng thế  giới lên giá cả   ở  Việt Nam và gây ra lạm phát tăng nhanh so với các nước đó. Hiện nay, để thực thi chế độ  neo tỷ giá có điều chỉnh, hàng ngày Ngân hàng  Nhà nước công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng về tỷ giá giao dịch liên  ngân hàng và biên độ dao động cho phép. Theo đó, định hướng của Ngân hàng Nhà   nước là: ­ Cơ bản giữ tỷ giá ổn định, song có xem xét diễn biến trên thị trường ngoại   hối thế giới (sự biến động của các ngoại tệ mạnh, đặc biệt là USD) để điều chỉnh  khi cần thiết.  ­ Cho phép tỷ giá được dao động trong một biên độ nhất định (có lúc cao nhất  lên đến ±5%, sau giảm còn ±3% và từ năm 2011 là ±1%, năm 2015: ±3%).  ­ Hàng năm, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đưa ra tuyên bố về giới hạn điều   chỉnh của tỷ  giá trong năm để  thị  trường biết trước (ví dụ  tuyên bố  điều chỉnh tỷ  giá không quá ±2% năm trong năm 2014 và 2015).  Tiểu Luận Môn Kinh Doanh Xuất Nhập Khẩu Trang 11
  12. GVHD: ThS. Trương Văn Khánh – ThS. Trẩm Bích Lộc Biểu đồ 1: Tình hình tỷ giá USD/VND từ năm 1990 đến năm 2014  (nguồn: Tổng Cục Thống Kê) ­ NHNN sẵn sàng can thiệp mỗi khi thị  trường tự  do có biến động mạnh.   Trước hết, bằng các tuyên bố  chính thức về   ổn định thị  trường. Sau đó, nếu thị  trường vẫn có biến động mạnh, thì áp dụng các nghiệp vụ mua vào, bán ra USD để  giữ tỷ giá ổn định.  ­ Nếu tỷ giá trên thị trường vẫn tiếp tục dao động mạnh trong một thời gian   dài, NHNN sẽ  có động thái điều chỉnh tỷ  giá, thường là với mức độ  nhỏ  vài phần   trăm. Lần điều chỉnh tỷ giá lớn nhất gần đây là tháng 2/2011 với mức tăng 9%, các  đợt điều chỉnh sau đó đều áp dụng mức độ giao động thấp hơn.  1.2.5 Sự điều chỉnh tỷ giá của Việt Nam năm 2015 Biểu đồ 2: Diễn biến tỷ giá từ đầu năm 2015 đến nay (Nguồn: Biz Live) Dưới sự  gia tăng giá trị  của đồng tiền USD nửa cuối năm 2014, khiến cho   NHNN phải điều chỉnh tỷ  giá 1%, và ngày 7/1, từ  21. 246 VND/USD lên 21. 458  VND/USD. Tiếp sau đó 4 tháng, ngày 7/5, NHNN lại tiếp tục tăng tỷ giá 1% lên 21.   673 VND/USD.  Ngay sau đó, dưới sự ảnh hưởng mạnh mẽ của lộ trình tăng lãi suất cơ bản   của Cục dự  trữ  liên bang Mỹ  (FED). Đồng thời, chịu tác động sâu sắc từ  những   thay đổi trong chính sách tiền tệ của Trung quốc trong thời gian gần đây như: giảm  tỷ  lệ  dự  trữ  bắt buộc, Ngân hàng trung  ương Trung quốc (PBOC) cắt giảm mạnh  lãi suất tiền gửi, tiền vay và việc phá giá đồng CNY 3 lần liên tiếp trong ba ngày 11,   12, 13/8/2015. PBOC đã giảm tỷ lệ tham chiếu CNY ngày 11/8 là 1. 9% và 4. 6% sau  ba lần. Vì Trung quốc là đối tác chiếm tỷ trọng thương mại lớn của Việt nam, nên   việc điều chỉnh tỷ giá đồng CNY sẽ  có tác động không ít bất lợi đến nền kinh tế  Việt nam, đặt biệt là kinh doanh xuất nhập khẩu.  NHNN đã điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng (BQLNH) 3 lần (biên độ  giao dịch tăng 1% ngày 7/1, tăng tiếp tục 1% ngày 7/5 và tăng 2% ngày 11/8) kể từ  đầu năm và sử dụng hết biên độ  tăng tỷ  giá 2% đã cam kết trong năm nay. Những  diễn biến trên thị  trường tiền tệ  thế  giới đã tạo áp lực lớn lên tỷ  giá trong nước   mặc dù NHNN thường xuyên đưa ra các tuyên bố và cam kết nhằm ổn định tâm lý  thị trường về việc duy trì mức biến động tỷ giá ở mức 2%.  Trước sức ép từ việc PBOC điều chỉnh tỷ giá tham chiếu, các đồng tiền khác   trên thế giới đặc biệt ở Châu Á đều điều chỉnh giảm. NHNN Việt Nam cũng đã nới   rộng biên độ giao dịch ngoại tệ VND/USD từ mức  ±1% lên ±2% trong ngày 11/8 và  lên  ±3%   ngày   19/8/2015,   đồng   thời   điều   chỉnh   tỷ   giá   BQLNH   từ   mức   21.   673  VND/USD lên 21. 890 VND/USD (mức điều chỉnh tăng 1%) nâng mức sàn và trần tỷ  giá giao dịch tương  ứng 21. 233 và 22. 547 VND/USD. Bên cạnh đó, ngày 13/8 để  đáp ứng nhu cầu thị trường, NHNN đã phải nâng tỷ giá bán ra cho các NHTM từ 21.   820 VND/USD lên 22. 085 VND/USD.  Tiểu Luận Môn Kinh Doanh Xuất Nhập Khẩu Trang 12
  13. GVHD: ThS. Trương Văn Khánh – ThS. Trẩm Bích Lộc Việc điều chỉnh lần này được cho là tất yếu để ứng phó với việc đồng CNY  mất giá và những diễn biến bất lợi khi FED điều chỉnh tăng lãi suất trong thời gian  tới nhằm tránh việc tâm lý thị trường bất ổn, tỷ giá giao dịch vượt trần và các hoạt   động tiêu cực khác trên thị trường chợ đen.  Tóm lượt chính sách điều chỉnh tỷ  giá 2015 của Ngân hàng Nhà nước như  sau: 1.3 Đánh giá chính sách điều chỉnh tỷ giá của NHNN 1.3.1 Tác dụng tích cực của chính sách neo tỷ giá có điều chỉnh:  Giữ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp được ổn định:  việc tỷ  giá được duy trì  ổn định giúp các doanh nghiệp liên quan đến hoạt động  xuất ­ nhập khẩu có thể  lập kế hoạch sản xuất, kinh doanh trong năm và thực thi   kế hoạch đó một cách ổn định.  Giữ  cho gánh nặng nợ  nước ngoài của từng doanh nghiệp nói riêng và toàn  bộ quốc gia nói chung không tăng lên.  Giảm áp lực lên lạm phát: việc giữ  cho đồng nội tệ  không bị  mất giá trong   một khoảng thời gian tương đối dài giúp giảm áp lực cả đối với lạm phát kỳ vọng   và lạm phát thực tế.  1.3.2 Những bất lợi của chính sách neo tỷ  giá có điều chỉnh đối với nền kinh   tế:  NHNN hiện theo đuổi chính sách neo tỷ giá có điều chỉnh bằng cách giữ  tỷ  giá  ổn định trong một thời gian khá dài và tuyên bố  mức dao động tỷ  giá thường   không quá 2% năm. Trong khi đó, trên cục diện chung của thị trường thế giới, đồng  USD hiện vẫn đang trong xu hướng lên giá mạnh so với hầu hết các đồng tiền chủ  chốt khác trên thế giới.  Neo giá trong lúc trên thế  giới giá USD tăng, khiến đồng VND tăng giá quá  cao so với USD cũng như so với các đồng tiền ngoại tệ khác, khiến năng lực cạnh   tranh của hàng hóa xuất khẩu Việt Nam bị giảm mạnh. Đồng VND tăng giá quá cao   không khuyến khích xuất khẩu, nhưng lại khuyến khích nhập khẩu, khiến xuất  khẩu có thể giảm và nhập khẩu tăng, do đó nhập siêu có khả năng tăng.  Việc đồng VND tăng giá quá cao so với USD còn gây ra tình trạng tỷ  giá   chính thức có thời điểm chênh lệch lớn so với tỷ  giá thị  trường tự  do. Điều đó   khiến hoạt động đầu cơ ngoại tệ vốn được giảm mạnh trong mấy năm qua có thể  sẽ  bùng quát quay trở lại. Hoạt động này nếu mạnh lên có thể  sẽ  gây bất lợi lớn   cho hoạt động của thị trường ngoại hối.  Việc USD liên tục tăng giá trong khi NHNN vẫn duy trì tỷ  giá ổn định trong  một thời gian dài, sẽ có lúc buộc phải điều chỉnh tỷ giá cho sát thực tế nếu để tích  tụ lâu ngày, chênh lệch tỷ giá quá cao so với thị trường tự do sẽ phải điều chỉnh với  biên độ lớn, gây ra cơn sốc, bất ổn lớn.  Tiểu Luận Môn Kinh Doanh Xuất Nhập Khẩu Trang 13
  14. GVHD: ThS. Trương Văn Khánh – ThS. Trẩm Bích Lộc 1.4 Một số kiến nghị Để  việc thực thi chính sách neo tỷ  giá có điều chỉnh đạt được hiệu quả  tốt  hơn, cần lưu ý những điều sau: ­ Thứ  nhất, không nên neo tỷ giá chỉ vào một ngoại tệ duy nhất là USD. Có  một thực tế  USD là đồng tiền có vai trò quan trọng hàng đầu trên thị  trường thế  giới, đồng thời phần lớn các giao dịch xuất ­ nhập khẩu của Việt Nam với nhiều   quốc gia khác nhau được thực hiện bằng USD. Song, nếu theo giá trị  kim ngạch  xuất – nhập khẩu sau thị trường Mỹ chúng ta vẫn có khối lượng giao dịch đáng kể  bằng các đồng tiền khác, chẳng hạn bằng Euro với EU và bằng Yen với Nhật Bản  (hai thị  trường này hiện chiếm khoảng 1/3 kim ngạch xuất ­ nhập khẩu của Việt   Nam) và Tệ với Trung Quốc. Ngoài ra, vay nợ bằng Euro và Yen cũng chiếm một tỷ  trọng đáng kể trong tổng nợ nước ngoài. Do vậy, nên có công thức neo tỷ  giá dựa  trên rổ ngoại tệ chủ chốt (USD, Euro, Yen và CNY) có tính đến quyền số của mỗi   ngoại tệ trong tổng kim ngạch xuất – nhập khẩu và tổng vay nợ của nước ta ­ Thứ hai, tránh đưa ra tuyên bố mức điều chỉnh tối đa của tỷ giá trong năm.   Việc tuyên bố  mức điều chỉnh tối đa cứng của tỷ  giá trong năm có tác dụng tốt là  thể  hiện quyết tâm và ý chí của Chính phủ  và NHNN muốn duy trì sự   ổn định thị  trường và sẵn sàng can thiệp khi cần để đảm bảo sự ổn định đó. Tuyên bố này cũng  là định hướng để doanh nghiệp yên tâm lên kế hoạch sản xuất, kinh doanh năm mà   không phải lo ngại sự biến động lớn của tỷ  giá. Tuy nhiên, việc đưa ra mức điều  chỉnh tối đa cứng của tỷ  giá trong năm sẽ  gặp bất lợi khi tỷ  giá trên thị  trường  ngoại hối quốc tế biến động mạnh.  ­ Thứ  ba, không nên để  quá lâu không điều chỉnh tỷ  giá. Việc USD liên tục  tăng giá trong khi NHNN vẫn duy trì tỷ  giá  ổn định trong một thời gian dài, khiến  khi buộc phải điều chỉnh tỷ giá cho sát thực tế sẽ phải điều chỉnh với biên độ  lớn,  gây ra cú sốc bất ổn lớn. Do vậy, nên điều chỉnh tỷ giá thường xuyên hơn, song mỗi  lần với biên độ điều chỉnh nhỏ để tránh gây sốc thị trường.  2. Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt Nam trong thời   gian tới: 2.1 Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt Nam trong ngắn hạn: Những tháng cuối năm 2015 và năm 2016, kim ngạch xuất khẩu có khả năng  giảm sâu do doanh nghiệp đang phải đối mặt với nhiều khó khăn trong việc cạnh  tranh và giữ vững thị phần tại các thị trường xuất khẩu.  Thống kê 9 tháng đầu năm 2015, kim ngạch xuất khẩu  ước  đạt 120,7 tỷ  USD, tăng 9,6% so với cùng kỳ  năm 2014, nhưng hoạt động xuất khẩu của Việt  Nam có nhiều nhóm ngành bị sụt giảm thị trường do sức ép về giá.  Đơn cử, nhóm hàng nhiên liệu,  khoáng sản,  ước  đạt 3,93 tỷ  USD, giảm   45,5%; nhóm ngành nông sản, thủy sản,  ước đạt 15,14 tỷ  USD, giảm 9,9% so với   cùng kỳ năm 2014…  Nguyên nhân dẫn đến sự  sụt giảm kim ngạch xuất khẩu của một số nhóm  ngành hàng là: do tác động suy yếu của một số  nền kinh tế; thị  trường tài chính   biến động, đặc biệt đồng USD lên giá so với nhiều đồng tiền khác trên thế  giới,   trong đó có những đối thủ cạnh tranh trong xuất khẩu với Việt Nam.  Tiểu Luận Môn Kinh Doanh Xuất Nhập Khẩu Trang 14
  15. GVHD: ThS. Trương Văn Khánh – ThS. Trẩm Bích Lộc Bên cạnh đó, giá hàng hóa trên thị  trường thế giới  ở  mức thấp, nguồn cung   các nước xuất khẩu dồi dào, tạo sự  cạnh tranh gay gắt trên thị  trường đã  ảnh   hưởng hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam.  Xuất khẩu ngành tôm 9 tháng đầu năm 2015 giảm 28,4% so với cùng kỳ là do  tác động của đồng VND có giá cao hơn một số đồng tiền khác trên thị trường, đặc   biệt là đối với các đối thủ cạnh tranh về xuất khẩu.  Cụ thể, từ đầu năm đến nay, Thái Lan phá giá đồng tiền 18%, Malaysia giảm  32%,  Ấn Độ  giảm 20%… nên có thời điểm mặt hàng tôm xuất khẩu Việt Nam có   giá đắt nhất trên thế giới. Ngoài ra, hiện tại giá thành tôm xuất khẩu Việt Nam đắt   hơn giá các đối thủ cạnh tranh tại những thị trường xuất khẩu khoảng 20%.  Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng cao su giảm. Mặc dù các doanh nghiệp đang  nỗ  lực đa dạng thị  trường, giảm sự  phụ  thuộc vào thị  trường Trung Quốc, đồng  thời chuyển sang các thị trường Ấn Độ, Indonesia. . . nhưng tình hình xuất khẩu của   ngành này đang gặp khó khăn do giá giảm sâu vì cung vượt cầu, dẫn đến lượng   hàng tồn kho tăng cao.  Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, khi hàng rào thuế  quan được cắt   giảm thì các nước có xu hướng áp dụng nhiều hàng rào kỹ thuật, biện pháp phòng   vệ  thương mại. Vì vậy, hiện nay hàng hóa Việt Nam không chỉ  bị  cạnh tranh gay   gắt về  giá, mà còn đối mặt với nguy cơ  mất thị  phần do các vụ  kiện phòng vệ  thương mại từ các thị trường xuất khẩu.  2. 2 Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt Nam trong dài hạn: 2.2.1 Cân bằng quan hệ thương mại với các nước ở khu vực Đông Á Việc gia nhập vào TPP và AEC sẽ  giúp Việt Nam cân bằng được quan hệ  thương mại với các khu vực thị  trường trọng điểm, tránh phụ  thuộc quá mức vào   một khu vực thị trường nhất định.  Biểu đồ 3: Các thị trường xuất nhập khẩu lớn nhất của Việt Năm năm 2014 Tiểu Luận Môn Kinh Doanh Xuất Nhập Khẩu Trang 15
  16. GVHD: ThS. Trương Văn Khánh – ThS. Trẩm Bích Lộc Bảng 1: Các thị trường xuất nhập khẩu lớn nhất của Việt Năm năm 2014 Số liệu thống kê cho thấy, khu vực Đông Á, bao gồm Trung Quốc, Đài Loan,   Hồng Kông, Nhật Bản và Hàn Quốc luôn chiếm tỷ  trọng rất lớn trong kim ngạch   xuất nhập khẩu của Việt Nam, thường xuyên ở mức trên 60%, nếu tính riêng nhập   khẩu thì lên tới trên 75%. Với sự  gần gũi về  vị  trí địa lý, việc Đông Á chiếm tỷ  trọng lớn trong quan hệ thương mại với Việt Nam là việc khó tránh. Tuy nhiên, tỷ  trọng trên là quá lớn, có thể tiềm ẩn rủi ro khi kinh tế Đông Á có biến động bất lợi.  Đàm phán và ký kết FTA với một số thị trường trọng điểm như Mỹ, EU có thể giúp  chúng ta khắc phục tình trạng mất cân đối này.  2.2.2  Hội nhập kinh tế  quốc tế  tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu của   Việt Nam Có thể  thấy trong thời gian qua, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế  đã đem   lại những kết quả  tích cực và có những tác động sâu đến kinh tế  và xã hội Việt  Nam. Quá trình này giúp cho các doanh nghiệp tiếp cận thị trường xuất nhập khẩu   dễ  dàng hơn, dòng vốn đầu tư  trực tiếp nước ngoài tăng nhanh, môi trường kinh  doanh được cải thiện và minh bạch hơn, thế và lực của Việt Nam trên trường thế  giới ngày càng được nâng cao.  Hòa chung với bối cảnh thương mại quốc tế, bên cạnh việc trở  thành thành  viên của các tổ  chức trong khu vực và trên thế  giới (ASEAN, WTO…), Việt Nam   hiện nay đã tham gia vào rất nhiều các hiệp định thương mại tự  do (FTA) song   phương và đa phương. Các FTA mà Việt Nam đã và đang là thành viên như: ASEAN  ­ Nhật Bản, ASEAN ­ Hàn Quốc, ASEAN ­ Trung Quốc, ASEAN ­  Ấn Độ, ASEAN  ­ Úc ­ New Zealand, Việt Nam ­ Nhật Bản, Việt Nam ­ Chi lê (đàm phán đã kết thúc  nhưng Hiệp định chưa cón hiệu lực). Các Hiệp định này thực sự đã mang lại nhiều  lợi ích to lớn cho Việt Nam cũng như các nước thành viên tham gia. Hiện nay, Việt   Nam đang tham gia đàm phán một số  FTA mới có tính mở  rộng và có tính song   phương cao hơn so với các Hiệp định trên, như: Hiệp định Đối tác kinh tế  chiến  Tiểu Luận Môn Kinh Doanh Xuất Nhập Khẩu Trang 16
  17. GVHD: ThS. Trương Văn Khánh – ThS. Trẩm Bích Lộc lược xuyên Thái Bình Dương TPP, Hiệp định Việt Nam ­ Liên minh Châu Âu, Hiệp  định Việt Nam ­ khối thương mại tự do châu Âu EFTA, Hiệp định Việt Nam ­ Hàn  Quốc, Hiệp định Việt Nam ­ Liên minh Thuế  quan. Trong số 5 FTA mà Việt Nam   đang đàm phán thì có 3 nước được coi là đối tác chiến lược và có tác động lớn đối  với nền kinh tế Việt Nam đó là: Hoa Kỳ, châu Âu và Nga. Nếu Việt Nam thực hiện   đầy đủ  các hiệp định đã ký thì từ  nay đến năm 2018, GDP của nước ta sẽ tăng ba   điểm phần trăm/năm, lợi ích ròng 2,4 tỉ USD/năm.  Việc tham gia các khu vực thương mại tự do đã tạo cho Việt Nam những cơ  hội thuận lợi để phát triển kinh tế và tăng trưởng xuất khẩu. Với các ưu đãi về cắt   giảm thuế quan và về rào cản phi thuế quan, thị trường xuất khẩu của Việt Nam sẽ  được mở rộng. Nhìn tổng thể khi Việt Nam đã tham gia khu vực thương mại tự do,   phần lớn hàng xuất khẩu đã và sẽ được hưởng thuế  xuất nhập khẩu ưu đãi, thậm  chí tới 0%, mang lại lợi thế cạnh tranh lớn và triển vọng sáng sủa cho nhiều ngành   hàng, đặc biệt là dệt may, da giày, thủy sản, đồ  gỗ  là các ngành xuất khẩu quan   trọng hiện nằm trong nhóm 10 sản phẩm xuất khẩu chủ lực.  Ngoài ra, các FTA còn giúp cải thiện các biện pháp hạn chế  nhập khẩu từ  các đối tác thương mại. Trường hợp tham gia TPP, Việt Nam sẽ  có cơ  hội được   tham vấn giữa chính phủ với chính phủ các nước đối tác về các vụ kiện chống bán   phá giá và chống trợ cấp. Việt Nam cũng có thể có được cam kết của các thành viên  không sử  dụng hoặc hạn chế  các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ  cấp.   Ngoài ra, Việt Nam có thể có cơ hội sử dụng các cam kết của TPP về hàng rào kỹ  thuật và các biện pháp vệ sinh dịch tễ để tránh các tranh chấp.  Bảng 2: Nhóm 10 hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam 2014 Bên cạnh đó, việc tận dụng các ưu đãi về thuế quan từ việc cấp giấy chứng   nhận xuất xứ hàng hoá (C/O ­ Certificate of Origin) ­ chứng từ quan trọng trong bộ  hồ  sơ  xuất nhập khẩu để  đảm bảo quyền  ưu đãi trong các FTA được các doanh   Tiểu Luận Môn Kinh Doanh Xuất Nhập Khẩu Trang 17
  18. GVHD: ThS. Trương Văn Khánh – ThS. Trẩm Bích Lộc nghiệp Việt Nam chủ động và tích cực tận dụng. Tỉ lệ hàng hóa được hưởng ưu đãi  của Việt Nam cao so với các đối tác trong khu vực và luôn có xu hướng tăng lên qua  các năm thực hiện với giá trị đơn hàng tăng cao. Riêng với Hàn Quốc, trên 90% hàng   xuất khẩu của nước ta được hưởng  ưu đãi về  thuế  thông qua FTA ASEAN ­ Hàn   Quốc. Trong bối cảnh kính tế khó khăn hiện nay, việc tận dụng những ưu đãi thuế  quan thông qua các FTA giữa Việt Nam và các nước, được coi là một trong những   giải pháp hữu hiệu giúp doanh nghiệp tiếp tục gia tăng xuất khẩu vào nhiều thị  trường, nhất là mốc thời gian hướng tới việc thiết lập Cộng đồng kinh tế  ASEAN  (AEC) cũng như hoàn thành các Hiệp định FTA đang đến gần.  Các FTA còn giúp  ổn định nguồn và hạ  giá đầu vào hàng nhập khẩu. Do   nhập khẩu của Việt Nam thường xuyên chiếm khoảng 80% GDP nên việc ổn định  và hạ giá nguyên nhiên vật liệu nhập khẩu có ý nghĩa quan trọng đến việc ổn định,  duy trì tăng trưởng sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam ngay  trên thị  trường trong nước với hàng nhập khẩu từ  các nước và  ở  thị  trường ngoài  nước với hàng cùng chủng loại của các đối tác khác.  2.2.3 Nhập khẩu của Việt Nam tăng nhanh chóng Bên cạnh những cơ hội mở ra cho Việt Nam, quá trình hội nhập kinh tế quốc   tế cũng dẫn đến nhiều thách thức to lớn, đó là khả năng cạnh tranh quốc tế khá hạn  chế  của hàng hóa, dịch vụ, doanh nghiệp Việt Nam và khả  năng cạnh tranh thấp  của quốc gia, nguy cơ  bị  phá sản của các doanh nghiệp và mất thị  trường trong  nước cho các đối thủ nước ngoài, suy thoái tài nguyên, tác động xấu về văn hóa, an  ninh.  Cam kết giảm thuế  nhập khẩu đối với các nhóm hàng từ  các nước đối tác  FTA sẽ khiến luồng hàng hóa nhập khẩu từ các nước này gia tăng nhanh chóng dẫn  đến sức ép cạnh tranh nội địa ngày càng lớn. Hệ  quả  là thị  phần của các nhà sản   xuất trong nước tại sân nhà sẽ bị ảnh hưởng, dẫn đến nguy cơ sản xuất của không  ít doanh nghiệp bị  thu hẹp. Ngoài ra nguồn ngân sách thu thuế  nhập khẩu cũng bị  giảm đáng kể khi Việt Nam giảm thuế nhập khẩu xuống 0% cho các nước đối tác.  Biểu đồ 4: Xuất nhập khẩu theo nhóm loại hình chính năm 2014 Trường hợp của hiệp  định TPP, những mặt hàng Việt Nam kỳ  vọng thu   được lợi ích nhiều nhất là dệt may, da giày thì những mặt hàng này vẫn phải đối  mặt với khó khăn về xuất xứ hàng hóa. Theo điều khoản về xuất xứ hàng hóa đang   đàm phán của TPP, hàng dệt may xuất khẩu từ một thành viên TPP sang thành viên  Tiểu Luận Môn Kinh Doanh Xuất Nhập Khẩu Trang 18
  19. GVHD: ThS. Trương Văn Khánh – ThS. Trẩm Bích Lộc khác phải sử dụng nguyên liệu và có quy trình sản xuất gần như toàn bộ thuộc “nội   khối TPP” mới được hưởng ưu đãi (trừ một số ngoại lệ trong giai đoạn đầu). Như  vậy, sản phẩm nào sử  dụng nguyên liệu của các nước bên ngoài TPP không được  hưởng  ưu đãi. Trong khi đó, Việt Nam hiện chủ  yếu là nền kinh tế  gia công xuất  khẩu dựa trên nhập khẩu phần lớn nguyên vật liệu đầu vào (từ các nước bên ngoài   TPP như Trung Quốc, Hàn Quốc) nên ưu đãi sẽ rất hạn chế.  Bảng 3: Xuất nhập khẩu theo nhóm loại hình chính của Việt Nam Để tận dụng được những ưu đãi từ FTA và Incoterms®2010 trước tiên cần có  sự liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp và các ngành chức năng. Doanh nghiệp   xuất nhập khẩu cần cải thiện năng lực kinh doanh, markerting, xây dựng thương   hiệu, dịch vụ khách hàng, cần hiểu rõ chuỗi cung ứng của mình trong đó chú trọng  quản lý logistics, làm chủ  quyền thuê và kiểm soát vận tải ­ logistics, linh hoạt sử  dụng Incoterms 2010 trong các hợp đồng ngoại thương… đồng thời cần chủ  động  nghiên cứu quy tắc xuất xứ, mức cắt giảm thuế quan, các hàng rào kỹ thuật… một   cách thấu đáo và chuẩn bị  đàm phán hợp đồng ngoại thương hiệu quả. Các doanh   nghiệp xuất nhập khẩu nhỏ, cùng loại hình, có mối quan hệ  tin cậy nên kết hợp   với nhau trong những giao dịch thương mại, tập hợp vốn để  thực hiện thành công   những thương vụ “mua FOB ­ bán CIF”.  2. 3 Một số giải pháp Với những thuận lợi và thách thức nêu trên, để  Việt Nam có thể  hưởng lợi   một cách tốt nhất từ các tổ  chức thương mại quốc tế mà Việt Nam đang tham gia  nói chung và từ  TPP nói riêng, tận dụng được mọi  ưu thế  của mình sau khi hội   nhập thì trước hết cần phải có những thay đổi về  chính sách và pháp luật trong  nước để thúc đẩy phát triển những ngành có lợi thế so sánh.  Với những ngành sẽ  được lợi sau khi TPP có hiệu lực, như: dệt may, thủy   sản, nông sản… cần chủ động các nhân tố lao động, vốn, đất đai và các tài nguyên   khác. Với các ngành kém được lợi thế, như: chăn nuôi, lâm nghiệp, công nghiệp…  cần tái cơ cấu để tăng năng suất, hiệu quả hơn.  Tiểu Luận Môn Kinh Doanh Xuất Nhập Khẩu Trang 19
  20. GVHD: ThS. Trương Văn Khánh – ThS. Trẩm Bích Lộc Đặc biệt, sau khi tham gia TPP, Việt Nam cần phải điều chỉnh cả những yếu   tố thương mại như những nội dung liên quan tới lao động, quyền sở  hữu trí tuệ…   khẳng định sự cấp thiết phải tiến hành cải cách thể chế, tự do hóa thị trường.  Hiện nay, khi trình độ công nghệ của Việt Nam còn nhiều hạn chế thì Chính  phủ  cần tăng cường hỗ  trợ  nghiên cứu, đào tạo và  ứng dụng các tiêu chuẩn kỹ  thuật hợp lý khi các hàng rào thuế quan bị gỡ bỏ nhằm bảo vệ ngành sản xuất trong  nước.  Doanh nghiệp Việt Nam vì có năng suất lao động thấp, trình độ  công nghệ  lạc hậu nên chi phí sản xuất và giá thành mới cao hơn so với những doanh nghiệp   có năng suất cũng như trình độ công nghệ cao.  Nếu thuế suất cho hàng nhập khẩu vào trong nước từ các quốc gia thành viên   về còn 0% thì doanh nghiệp chắc chắn sẽ không thể tránh khỏi khó khăn trong việc  cạnh tranh tiêu thụ hàng hóa ngay trên chính thị trường nước nhà.  Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế đồng nghĩa với việc là Việt Nam mở cửa   thị trường dịch vụ, là cơ hội cho các nhà cung cấp có tiềm lực lớn, có kinh nghiệm  và danh tiếng lâu năm, có ưu thế về cung cấp dịch vụ trên thế giới “đổ bộ” vào thị  trường trong nước. Và tất nhiên nó cũng đồng nghĩa với việc các đơn vị  cung cấp   dịch vụ của Việt Nam sẽ gặp khó khăn nghiêm trọng và có thể bị mất thị phần trên  thị  trường nội địa, hay nói cách khác là "thua đau trên sân nhà", nếu như  không nỗ  lực tự thay đổi bản thân.  Tuy nhiên, Việt Nam vẫn có lợi thế là có một thị trường tiêu thụ lớn, nguồn   lao động dồi dào, dư địa thị trường còn nhiều nên hy vọng rằng ta vẫn có thể tự lực   để tự cường, thoát khỏi "cái bóng" đơn thuần chỉ là một thị trường gia công của khu  vực và thế giới sau khi đã bước chân qua được cánh cửa của Hiệp định kinh tế lịch   sử TPP trong năm nay.  Tiểu Luận Môn Kinh Doanh Xuất Nhập Khẩu Trang 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0