Đề tài: Hiện trạng ứng dụng khoa học công nghệ trong nông nghiệp tại Việt Nam
lượt xem 28
download
Đề tài trình bày thành tựu của việc ứng dụng công nghệ trong nông nghiệp, khó khăn của việc ud khcn trong nông nghiệp tại Việt Nam, nguyên nhân của những khó khăn trên, biện pháp, đề xuất cho vấn đề ƯDKHCN trong nông nghiệp tại Việt Nam. Mời các bạn tham khảo.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đề tài: Hiện trạng ứng dụng khoa học công nghệ trong nông nghiệp tại Việt Nam
- Bộ Nội Vụ Học Viện Hành Chính Quốc Gia TP.Hồ Chí Minh QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN Đề tài : HIỆN TRẠNG ỨNG DỤNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TRONG NÔNG NGHIỆP TẠI VIỆT NAM GV: Th.s Trần Minh Phong Lớp: KS14XH Nhóm thực hiện : Nhóm 6 1.Hoàng Cao Sáng 2.Rlan Phước 3.Võ Thị Ngọc Huyền
- 4.Nguyễn Thị Hằng 5.Trần Ngọc Hải 6.Vũ Thị Thương MỤC LỤC I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI THÀNH TỰU CỦA VIỆC ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ TRONG NÔNG II. NGHIỆP. 1. Thành tựu trong Công nghệ sinh học 2. Thành tựu trong nghệ cao KHÓ KHĂN CỦA VIỆC UD KHCN TRONG NÔNG NGHIỆP TẠI III. VIỆT NAM IV. NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG KHÓ KHĂN TRÊN V. BIỆN PHÁP 1. Biện pháp ngắn hạn 2. Biện pháp dài hạn VI. Đề xuất của nhóm 6 cho vấn đề UD KHCN trong nông nghiệp tại Việt Nam VII. TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Các từ viết tắt sử dụng trong bài: KHCN: Khoa học công nghệ TW : Trung ương UD: Ứng dụng DN: doanh nghiệp NN&PTNT : Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn CNSH : Công nghệ sinh học I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Tại Việt Nam thì nông nghiệp hiện chiếm 47,5% tỷ trọng sản xuất với hơn 22 triệu lao động, trong đó có tới 10 triệu nông hộ với tổng diện tích đất nông nghiệp xấp xỉ 700.000 ha. Đây là một thuận lợi và cũng là thách thức của ngành nông nghiệp Việt Nam trong hội nhập ngày càng sâu rộng. Những năm qua, ngành nông nghiệp vẫn chủ yếu phát triển theo chiều rộng (tăng mạnh về số lượng, sản lượng cây trồng, vật nuôi). Đơn cử, năm 2013, tổng giá trị kim ngạch XK nông nghiệp của Việt Nam đạt 28 tỉ USD, là một trong 15 nước XK nông sản hàng đầu trên thế giới. Tuy nhiên, do phát triển theo chiều rộng nên hiệu quả đối với nông dân và đất nước còn hạn chế. Thực tế này đòi hỏi phải chuyển dịch mạnh sang phát triển theo chiều sâu (nâng cao giá trị gia tăng, chất lượng nông
- sản). Và chìa khóa thành công hiện giờ của nước ta chính là việc áp dụng KHCN trong nông nghiệp sao cho Nông nghiệp là ngành mũi nhọn trên trường quốc tế. Cũng theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT), trong giai đoạn 20012011, các hoạt động khoa học và công nghệ (KH&CN) nông nghiệp và phát triển nông thôn đã đóng góp trực tiếp vào GDP của Ngành khoảng 35%. Năng suất nhiều loại cây trồng, vật nuôi đã tăng đáng kể và đạt mức tiên tiến của thế giới như lúa, cà phê, cao su,... Tuy nhiên, việc ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp vẫn còn hạn chế. Chính vì thế mà việc xem xét hiện trạng của UD KHCN trong nông nghiệp để thấy những vấn đề còn tồn tại, từ đó có những biện pháp kịp thời cũng như dài hạn. II.THÀNH TỰU CỦA VIỆC ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ TRONG NÔNG NGHIỆP. 1. Thành tựu trong Công nghệ sinh học Ứng dụng công nghệ sinh học (CNSH) trong lĩnh vực nông nghiệp được coi là giải pháp đột phá xây dựng nền nông nghiệp nước ta phát triển toàn diện theo hướng hiện đại. Vào những năm 70, hàng loạt giống lúa mới ngắn ngày có năng suất cao được tạo ra bằng CNSH đã được đưa vào sản xuất. Những giống lúa này đã làm chuyển được vụ lúa chiêm dài ngày, ổn định, góp phần tăng sản lượng lúa lên nhanh chóng.
- Đồng bằng sông Cửu Long là vựa lúa lớn nhất cả nước, vì vậy công tác nghiên cứu và ứng dụng CNSH vào sản xuất lúa được xem là yếu tố quyết định giúp cải tạo các giống lúa, nâng cao sản lượng và chất lượng lúa gạo để ứng phó với biến đổi khí hậu và phục vụ xuất khẩu. Do đó, Viện Lúa Đồng bằng sông Cửu Long đã tập trung nghiên cứu giải mã gen các giống lúa có khả năng chịu nhiễm mặn mà vẫn đạt năng suất cao, kháng bệnh, có phẩm cấp gạo cao. Viện đã tìm được 30 dòng lúa đạt tiêu chuẩn trên đưa vào khảo nghiệm, đánh giá trên đồng ruộng. Ngoài ra, Viện còn thành công với các nghiên cứu chuyển nạp gen tạo lúa kháng hạn, giàu vi chất dinh dưỡng. Ngoài cây lúa, Đồng bằng sông Cửu Long còn là vựa trái cây lớn của cả nước. Trước thực tế đó, Viện Nghiên cứu Cây ăn quả miền Nam đã tập trung hướng nghiên cứu CNSH vào việc phát triển các loại cây ăn quả đặc sản có giá trị kinh tế cao. Trong đó nổi bật nhất là công nghệ nhân giống cây có múi (cam, chanh, quýt, bưởi…) sạch bệnh bằng kĩ thuật vi ghép đỉnh sinh trưởng. Bằng kĩ thuật này, các nhà khoa học đã tạo ra được những giống cây có múi không bị nhiễm bệnh vàng lá greening (VLG) và một số bệnh do virus gây hại. Hoặc xử lí chiếu xạ bằng tia gama để thay đổi cấu trúc gen nhằm tạo ra những loại cây đặc sản có múi không hạt. Nhờ những phương pháp này mà Viện đã chuyển giao cho nhiều nhà vườn ở Đồng bằng sông Cửu Long nhiều giống cây trồng sạch bệnh, năng suất cao, sản phẩm đồng đều và người nông dân có thể chủ động được thời vụ trồng, thu hoạch. Viện cũng đang tiến hành các đề tài nghiên cứu lớn, trong đó đáng chú ý có đề tài xác định tác nhân gây bệnh chổi rồng trên nhãn bằng kĩ thuật sử dụng marker phân tử để nhân đoạn ADN định danh, hay đề tài phân loại tác nhân gây bệnh và nghiên cứu lai xa giữa giống xương rồng quả màu vàng với giống thanh long ruột trắng để tạo ra giống thanh long ruột vàng có hàm lượng carotenoids cao giúp chống được bệnh lão hóa ở người. Tại Tp. Hồ Chí Minh, Trung tâm Công nghệ Sinh học Tp. Hồ Chí Minh ra đời vào năm 2004 với tổng kinh phí đầu tư xây dựng khoảng 100 triệu USD. Bước đầu, Trung tâm đã đạt được một số kết quả trong ứng dụng CNSH vào lai tạo giống hoa lan, sưu tập và định danh hơn 100 giống lan rừng Việt Nam quý hiếm; nghiên cứu thành công bộ Kit PCR phát hiện bệnh virus; nghiên cứu ứng dụng thành công hệ thống ngập chìm tạm thời trong nhân giống cấy mô thực vật có ưu thế vượt trội về số lượng cây con, tỉ lệ cây sống và rút ngắn thời gian; nghiên cứu về các loại vacxin ngừa bệnh gan thận mủ trên cá tra bằng công nghệ tái tổ hợp gen, gây đột biến; nghiên cứu ứng dụng công nghệ tế bào động vật để hoàn thiện quy trình tạo phôi bò bằng phương pháp thụ tinh in vitro… Năm 2007, Khu Nông
- nghiệp Công nghệ cao rộng hơn 80ha được thành lập với mục tiêu chuyển giao đến thực tế các mô hình tiến bộ khoa học kĩ thuật nông nghiệp. Hiện nay, 100% diện tích dành cho các nhà đầu tư đã được lấp đầy với 14 dự án. Bước đầu, tại đây đã chuyển giao thành công một số mô hình nuôi cấy mô giống lan quý, giống chuối đặc sản, giám định bệnh bằng CNSH phân tử, chuyển gen kháng bệnh trên cây cà chua... Bên cạnh việc nghiên cứu lai tạo các giống cây trồng, các nhà khoa học Việt Nam cũng nghiên cứu ứng dụng các thành quả của CNSH vào sản xuất phân bón hữu cơ nhằm hướng đến nền nông nghiệp xanh bền vững. Điển hình như Công ty Cổ phần Thiên Sinh và Công ty TNHH Hữu cơ là hai đơn vị đi đầu trong ứng dụng công nghệ lên men vi sinh để sản xuất các loại phân bón hữu cơ sinh học, hữu cơ vi sinh cung cấp dưỡng chất cho cây trồng, góp phần cải tạo đất, bảo vệ môi trường. Hiện nay, mỗi năm, hai đơn vị này cung cấp cho thị trường hàng trăm nghìn tấn phân bón hữu cơ chất lượng cao các loại, đáp ứng cơ bản nhu cầu sản xuất trong nước, đặc biệt là khu vực phía Nam và dành một phần để xuất khẩu. Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, đến hết năm 2010, Chương trình trọng điểm phát triển và ứng dụng CNSH trong lĩnh vực nông nông nghiệp và phát triển nông thôn giai đoạn 20062010 đã phê duyệt đưa vào thực hiện được 90 nhiệm vụ khoa học công nghệ (78 đề tài và 12 dự án sản xuất thử nghiệm), trong đó có 35 đề tài kết thúc năm 2010. Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Cao Đức Phát khẳng định, các kết quả nghiên cứu đã tạo ra hoặc tiếp nhận và làm chủ được một số CNSH hiện đại đưa vào ứng dụng hiệu quả chủ yếu tập trung ở những lĩnh vực chính như chuyển gen mang tính trạng tốt vào giống cây trồng, vật nuôi nhằm tạo ra những giống có năng suất cao, thích nghi với điều kiện thời tiết khắc nghiệt, có khả năng chống chịu dịch bệnh hoặc tạo ra các chế phẩm sinh học bảo vệ cây trồng và vật nuôi. Công nghiệp hóa trong nông nghiệp trong trồng trọt cơ giới hóa từ khâu chuẩn bị đến khâu thu hoạch với sản phẩm máy cấy hiện đại như MC 6250, MC08, đến máy làm đất và máy đập liên hoàn. Việc áp dụng giống mới và các quy trình canh tác tien tiến chương trình “ 3 giảm 3 tăng” IPM, GAP được đẩy mạnh. Chương trình “3 giảm 3 tăng” được áp dụng tại tỉnh bình định thời gian qua mang lại hiệu quả thiết thực giúp tăng hiệu quả kinh tế trong sản xuất lúa. Năng suất lúa cao hơn giá thành sản xuất giảm, giảm thất thoát sau thu hoạch, giúp hạn chế sâu bệnh, góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
- Nhiều địa phương đã ứng dụng CNSH vào trồng trọt, chăn nuôi đạt hiệu quả kinh tế cao. Đơn cử như việc triển khai 14 đề tài chọn tạo giống cây trồng nông, lâm nghiệp bằng phương pháp chỉ thị phân tử đã chọn tạo được 7 giống lúa chịu hạn, 2 giống lúa kháng đạo ôn, 4 giống lúa kháng rầy nâu, 2 giống lúa thơm chất lượng cao, 2 giống chè có triển vọng về năng suất, chất lượng, 8 giống bông kháng bệnh xanh lùn... Trong lĩnh vực chăn nuôi, các kết quả nghiên cứu đã lựa chọn được môi trường bảo quản tinh dịch dài ngày, cải tiến được các quy trình công nghệ tạo phôi, cấy truyền phôi, đông lạnh phôi lợn và bò trong ống nghiệm. Việc sử dụng tinh nhân tạo giúp bò trưởng thành tăng từ 180kg/con lên 250300kg/con, tỷ lệ xẻ thịt tăng 1,5 lần. Nông dân ở nhiều địa phương còn ứng dụng CNSH trong ủ, chế biến thức ăn chăn nuôi cho gia súc, gia cầm để tận dụng các phế phẩm nông nghiệp, giảm chi phí đầu vào.. Trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, việc ứng dụng CNSH cũng đạt được những thành công lớn. Điển hình như Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 2 đã thành công việc nghiên cứu gia hóa tôm sú (là quá trình khép kín vòng đời tôm sú bằng cách đưa tôm sú tự nhiên về nuôi bằng các biện pháp CNSH để trở thành tôm sú bố mẹ) để sản xuất tôm sú sạch bệnh, mở ra triển vọng sản xuất số lượng lớn nguồn tôm giống sạch bệnh, phục vụ ngành công nghiệp nuôi tôm xuất khẩu. Với cá tra, CNSH đã can thiệp khá sâu rộng, từ khâu chọn giống thế hệ bố mẹ làm nguồn sản suất cá tra giống tốt, đến việc nghiên cứu về di truyền tính trạng kháng bệnh gan thận mủ tạo con giống có độ tăng trưởng cao, sạch bệnh, sản phẩm an toàn. công nghệ sinh sản nhân tạo một số loài thủy sản có giá trị kinh tế cao( tôm sú, tôm he, cá tra, cá ba sa..) đã tạo nên cuộc cách mạng thực sự trong ngành nuôi trồng thủy sản. Trung tâm quốc gia thủy sản nước ngọt nam bộ thuộc viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 1 ( xã an thái trung, huyện cái bè, tỉnh tiền giang) đã thành công trong việc sản sinh nhân tạo cá bông lau. Năm 2004 trung tâm nuôi vỗ đàn cá bông lau bố mẹ ở ao hồ. Năm 2005 cá có dấu hiệu sinh sản nhưng tỉ lệ thành công thấp dướ 5%, đến năm 2006 tỉ lệ cá nuôi sinh sản đạt 25%. Đây là loài cá da trơn quý hiếm, có giá trị kinh tế cao, sống nhiều ở sông mekong nhưng do đánh bắt bừa bãi nên ngày càng khan hiếm. Ngoài ra, Viện còn thành công trong nhiều nghiên cứu khác như ứng dụng sinh học phân tử trong chẩn đoán bệnh các loài thủy sản, sản xuất tôm càng xanh toàn đực, nâng cao chất lượng sinh sản cá chẻm nhân tạo và nghiên cứu chế phẩm vi sinh sử dụng trong phòng bệnh trên ấu trùng tôm.
- Viện Khoa học Kĩ thuật Nông nghiệp miền Nam cũng là đơn vị đạt được nhiều kết quả nghiên cứu trên động vật như xác định tính trạng gen được ứng dụng trong chọn giống vật nuôi, trong kiểm soát dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm, nghiên cứu ứng dụng cải thiện sinh sản để sản xuất thế hệ bò con có giới tính theo định hướng chăn nuôi, tạo phôi nuôi trong bụng mẹ để giải bài toán thích nghi tốt hơn... góp phần phát triển chăn nuôi tại khu vực Tp. Hồ Chí Minh. 2. Thành tựu trong nghệ cao Công nghệ cao (CNC) được áp dụng trong nông nghiệp nước ta và bước đầu đạt thành tựu nhất định. Trong đó, lĩnh vực đang ƯDCNC khá hiệu quả trong sản xuất là ngành trồng hoa. Đi đầu việc UD CNC trong chọn, lai tạo giống, chuyển giao công nghệ đến với người dân là các nhà khoa học của Viện Nghiên cứu rau quả. Đơn vị này đã thành công với mô hình trồng lan CNC thông qua việc đầu tư thiết bị nhà lưới hiện đại dạng kín, tạo điều kiện cho cây sinh trưởng và phát triển thuận lợi. Với quy mô khoảng 4.400m2, Viện cung cấp khoảng 131.000 cây, đáp ứng 21% nhu cầu về giống lan Hồ Điệp của thị trường và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Lãi thu được từ sản xuất lan Hồ Điệp đạt khoảng 280540 triệu/1.000m2. Đặc biệt, một số mô hình cho lãi từ 700 triệu 1 tỷ đồng/1.000m2 như Công ty Cửu Long, Trung tâm Ứng dụng công nghệ cao Quảng Ninh… Hà Nội cũng là địa phương đi đầu trong triển khai mô hình trồng hoa CNC, từng bước tạo dựng thương hiệu trên thị trường hoa cao cấp. Một trong số đó là Công ty TNHH Flora Việt Nam. Đến nay, đơn vị này đã có khu sản xuất rộng 10.000m2, gồm hệ thống nhà kính, nhà lưới, máy móc bảo đảm trồng được nhiều loại hoa. Bà Bùi Bích Hường, Giám đốc công ty cho biết, trồng hoa CNC là hướng đi khá mới ở nước ta. Mỗi năm, Flora Việt Nam đưa ra thị trường hàng triệu cành hoa lan Hồ Điệp, lan Vũ nữ và hàng chục vạn bông ly, loa kèn, đem lại doanh thu khoảng 10 tỷ đồng/năm, tạo công ăn việc làm cho 100 lao động thường xuyên. Ngoài Hà Nội, Đà Lạt (Lâm Đồng), TP Hồ Chí Minh hiện cũng có tới 1.663ha trồng rau an toàn ứng dụng CNC, sản lượng đạt khoảng 30.000 tấn/năm. Trong số đó, diện tích rau sản xuất trong nhà lưới cho giá trị sản lượng 120150 triệu đồng/ha; hơn 700ha trồng hoa và cây cảnh. Các hộ áp dụng CNC trong sản xuất hoa, cây cảnh đem lại thu nhập 600 triệu 1 tỷ đồng/ha/năm.
- KHÓ KHĂN CỦA VIỆC UD KHCN TRONG NÔNG NGHIỆP TẠI III. VIỆT NAM Từ nhiều năm nay, ứng dụng KHCN vẫn được xem là một trong những điểm yếu của ngành nông nghiệp, cả trong sản xuất và chế biến. Đây cũng là nguyên nhân khiến cho chất lượng, giá trị nông sản còn thấp, chưa phát huy hết tiềm năng, thế mạnh. Trong đó, khó khăn với DN là quản lý Nhà nước còn nhiều bất cập, cơ chế chính sách thiếu nhất quán, nền hành chính cồng kềnh, kém hiệu quả... Việc ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ vào quá trình sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp còn chậm. Hầu hết các loại cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh thấp. Năng suất cây trồng thường mới đạt khoảng 70% mức bình quân chung của thế giới. Công tác nghiên cứu, chuyển giao khoa học kỹ thuật, công nghệ mới còn nhiều bất cập. Hệ thống quản lý thủy nông, thú y, bảo vệ thực vật, cung ứng giống, vật tư chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa nông nghiệp. Công tác bảo quản sau thu hoạch, bao bì, nhãn hiệu hàng hóa, thương hiệu vẫn chưa đáp ứng theo tiêu chuẩn quốc tế trong quá trình hội nhập; Bên cạnh việc ứng dụng KHCN hạn chế, đáng chú ý nữa là cho tới nay, vấn đề cơ giới hóa nông nghiệp cũng chưa được quan tâm đúng mức. Trong khi đầu ra cho máy nông nghiệp Việt Nam rất rộng mở, không chịu nhiều sức ép như những ngành khác thì suốt nhiều năm nay, ngành cơ khí Việt Nam lại chưa chú trọng đến việc chế tạo máy nông nghiệp. Phát biểu tại Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện chiến lược phát triển ngành cơ khí Việt Nam (ngày 114), Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đánh giá: Là một quốc gia nông nghiệp, song suốt 10 năm qua, các sản phẩm cơ khí máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp còn ít. Thủ tướng yêu cầu Bộ Công Thương đặc biệt quan tâm rà soát, xây dựng chiến lược quy hoạch của ngành cơ khí, xác định các lĩnh vực, sản phẩm cơ khí ưu tiên, nhất là sản xuất máy cho phục vụ cho phát triển nông nghiệp, khai thác đánh bắt thủy hải sản, chế biến thủy sản,... Để đầu tư nghiên cứu, ứng dụng công nghệ cao đòi hỏi nguồn kinh phí rất lớn. Tuy nhiên, hiện nay, các DN nông nghiệp rất khó tiếp cận được nguồn vốn lớn, dài hạn với lãi suất thấp. Chính vì vậy, DN nông nghiệp luôn bị yếu thế do
- công nghệ thấp, khó cạnh tranh, chi phí cao dẫn đến lợi nhuận thấp và không có kinh phí để mở rộng, nghiên cứu công nghệ mới hơn. Hơn nữa, tiêu chuẩn nước thải trong chăn nuôi lại quá cao dẫn đến các DN đầu tư vào lĩnh vực này còn rụt rè. hầu hết các DN chưa biết hoặc chưa tiếp cận được hỗ trợ của Nhà nước về phát triển KHCN. Việc tiếp cận hồ sơ để được hưởng ưu đãi còn phức tạp nên đến năm 2014, cả nước mới có 132 DN được công nhận là DN KHCN, trong đó có 18 DN nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Thêm vào đó, điểm yếu trong nghiên cứu, chuyển giao KHCN lĩnh vực nông nghiệp hiện nay là thiếu sự liên kết giữa DN với các đơn vị nghiên cứu và nông dân do chưa có cơ chế của Nhà nước tác động mạnh. Việc sản xuất một số sản phẩm nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao còn nhỏ lẻ, thị trường tiêu thụ một số sản phẩm nông nghiệp không ổn định, khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh tế sản xuất một số sản phẩm còn thấp, chưa tương xứng với mức độ đầu tư, chưa có nhiều công nghệ cao trong nông nghiệp và mô hình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao với quy mô lớn tại Việt Nam. Mặt khác, ngân sách nhà nước có hạn, thiếu kinh phí để nghiên cứu, nhập khẩu và phát triển công nghệ cao trong nông nghiệp. Chưa có nhiều doanh nghiệp đăng ký công nhận doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Chưa có hệ thống dịch vụ phục vụ phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. ̣ ̀ ̃ ̣ ược nhiều kết quả như đã nêu, nhưng so với yêu cầu phát Măc du đa đat đ triển, KHCN nước ta còn chưa thật sự trở thành động lực thúc đẩy phat triên đât ́ ̉ ́ nươc, ch ́ ưa gắn kết chặt chẽ với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tê xa hôi; ́ ̃ ̣ thị trường KHCN còn kinh doanh; đầu tư cho KHCN còn thấp, sử dụng chưa hiệu quả. Phân bổ ngân sach nha n ́ ̀ ươc cho KHCN ch ́ ưa hợp lý, kinh phí cấp để thực hiện nhiệm vụ KHCN có nhiều bất cập, thường xuyên giao chậm; cơ cấu chi chưa thực sự phù hợp (ươc tính có kho ́ ảng 20% tiền danh cho KHCN th ̀ ực chất đầu tư cho hoạt động sáng tạo của các nhà nghiên cứu, còn 80% nằm ở khâu đầu tư gián tiếp). Quản lý tài chính quốc gia về KHCN có nhiều bất cập. Bộ Kế hoạch và Đầu tư lo chi đầu tư phát triển khoảng 44%, khoảng 56% còn lại một phần là lương sự nghiệp cua B ̉ ộ Tài chính, phần chi nghiên cứu do Bộ Khoa học va Công nghê ̀ ̣ chủ trì (Trong đầu tư phát triển, Trung ương: 49%, địa phương: 51%. Trong chi
- cho vấn đề nghiên cứu, Trung ương: 75%, địa phương: 25%). Đây là bài toán cần nghiên cứu tính toán lại. Chưa huy động được nhiều nguồn lực cho hoạt đông KHCN, đ ̣ ặc biệt từ doanh nghiệp. Ở các nước phát triển, phần lớn kinh phí đầu tư cho hoạt động KHCN đến từ các doanh nghiệp, còn nhà nước chỉ chi khoảng 20% 30%. Kinh phí từ ngân sach nha n ́ ̀ ươc ch ́ ủ yếu chi cho các nghiên cứu cơ bản và các đề án có tầm quan trọng chiến lược. Ở nước ta do năng lực các doanh nghiệp còn nhỏ, nhu cầu đổi mới sáng tạo để tồn tại và phát triển chưa cao nên không nhiều doanh nghiệp tự ý thức được việc này. Măc du theo quy đ ̣ ̀ ịnh của Luật Khoa hoc̣ ̣ va Công nghê (năm 2013), doanh nghi ̀ ệp phải trích một phần lợi nhuận để tái đầu tư cho R&D (research & development nghiên cứu và phát triển) nhằm đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Cơ cấu nguồn nhân lực quốc gia bất hợp lý. Theo kết quả tổng hợp từ Điều tra nghiên cưu va phat triên 2014 (B ́ ̀ ́ ̉ ản tin Chiến lược Phát triển, số 5+6+7/2015 của Cục Thông tin KHCN quốc gia, Bộ Khoa hoc va Công nghê), năm 2013 Vi ̣ ̀ ̣ ệt Nam có 164.744 người hoạt động trong lĩnh vực R&D, trong đó ở khu vực nhà nước có 139.531 người, chiếm tới 83%; ngoài nhà nước: 20.917 người, chiếm 14%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài: 4.296 người, chiếm 3%. Với cơ cấu như vậy, cần phải thay đổi mới thu hút được các nguồn lực cho hoạt động KHCN. Ở các trường đại học có 74.217 người, chiếm 45%, các viện/trung tâm nghiên cứu: 37.481 người, chiếm 23%, số còn lại ở các cơ sở khác. Với cơ cấu như vậy, nguồn ngân sách cũng cân ph ̀ ải cơ cấu lại mới tranh đ ́ ược tình trạng lãng phí chất xám và sử dụng nguôn nhân l ̀ ực không hiệu quả. IV. NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ TRÊN là: Thứ nhât, ́ về mặt thể chế và mô hình. Trong thời gian rất dài chúng ta phát triển kinh tế theo chiều rộng, mà đã phát triển kinh tế theo chiều rộng thì thường se thâm d ̃ ụng vốn, sử dụng lao động giá rẻ và trình độ thấp, xuất khẩu tài nguyên chế biến thô là chính, trình độ sử dụng công nghệ thấp. Mô hình này không tạo ra thị trường và động lực để thúc đẩy phát triển và ứng dụng KHCN. Đây là vấn đề “then chốt”, vì với hệ thống sản xuất như thời gian vừa qua không thê thúc ̉ đẩy liên kết giữa cung và cầu cho KHCN được. Cầu của KHCN hiện nay có thể kể tới mấy loại: Từ phía các cơ quan của Đảng, Nhà nước sử dụng KHCN, từ phía doanh nghiệp, từ sản xuất, kinh doanh và từ các tổ chức KHCN. ̣ ̉ Viêc chuyên giao KHCN qua cac d ́ ự an cua doanh nghiêp có v ́ ̉ ̣ ốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chưa thực sự la câu nôi đôi v ̀ ̀ ́ ́ ới KHCN trong nươc; Doanh ́
- nghiệp nhà nước phát triển theo chiều rộng, nhập công nghệ nước ngoài là chính, có rất ít doanh nghiệp đầu tư cho phát triển KHCN (trừ Viettel, Dầu khí, ̣ ́ Vinaphone và môt sô doanh nghi ệp lớn có một bước đột phá đầu tư lớn cho KH CN). Trong số các doanh nghiệp dân doanh thì có tới 90% 95% la doanh nghiêp ̀ ̣ vừa và nhỏ dù rất muốn đầu tư cho KHCN nhưng cũng không có đu ti ̉ ềm lực, không thể tiếp cận về kinh phí theo ngân hàng. Nước ta có 2 trung tâm KHCN lớn nhất là Viện Hàn lâm khoa học xã hội và Viện Hàn lâm khoa học công nghệ Việt Nam, nhưng hăng năm Nhà n ̀ ước đặt hàng những nhiệm vụ trực tiếp cho 2 ̣ viên nay r ̀ ất ít. Thứ hai, cơ chế phát triển kinh tế và cơ chế phát triển KHCN chưa thực sự gắn chặt với nhau, kinh tế chưa đặt hàng được cho KHCN, vì thế KHCN nghiên cứu xong cũng ít có điêu kiên đ̀ ̣ ể ứng dụng. Nhìn vào cac đ ́ ề tài nghiên cưu c ́ ấp nhà nước đã được triển khai, chúng ta thấy rất it cac đê tai đ́ ́ ̀ ̀ ược cac doanh nghiêp ́ ̣ ̣ đăt hang, ma ch ̀ ̀ ủ yếu từ cac c ́ ơ quan nghiên cứu khoa học, từ các nhà khoa học. Có một điều đáng nói là, một số sản phẩm KHCN ra đời từ thực tiễn cuộc sống, từ nhu cầu sản xuất, kinh doanh do ngươi dân sáng t ̀ ạo co hi ́ ệu quả lại không tiếp cận được nguồn vốn, không được tài trợ từ nguôn ngân sach nha n ̀ ́ ̀ ươc cho ́ KHCN. Thứ ba, về cơ chế phát triển KHCN. Vấn đề này liên quan nhiều đến sử dụng ngân sach nha n ́ ̀ ươc cho KHCN. Đây là v ́ ấn đề vẫn bị ràng buộc theo quan điểm chỉ chủ yếu cấp kinh phí cho tổ chức KHCN, doanh nghiệp nhà nước. Nêú chúng ta không “gỡ bo” ̉ được quan niệm này thì không thể huy động tốt các nguồn lực từ xã hội và khó sử dụng ngân sach nha n ́ ̀ ươc hi ́ ệu quả. ̣ Bên canh đo, phân lo ́ ại nhiệm vụ KHCN gắn với cơ chế phân bổ và sử dụng kinh phí hiện nay còn khá nhiều bất cập. Có 4 loại nghiên cứu: 1 Nghiên cứu cơ bản; 2 Nghiên cứu lý luận xây dựng cơ sở, chủ trương, chính sách; 3 Nghiên cứu ứng dụng triển khai; 4 Nghiên cứu phát triển sản phẩm hàng hóa, dịch vụ mới. Về mặt pháp lý, ai là người chịu trách nhiệm quản lý nguồn kinh phí cho từng loại nghiên cứu, cấp cho ai, cấp theo cơ chế nào, trách nhiệm, đánh giá kết quả, thì phải chịu trách nhiệm giải trình trươc Nha n ́ ̀ ươc, tr ́ ươc nhân dân. Theo ́ đó, chúng ta cần nghiên cứu để hình thành một cơ chế cho rõ rang va phù h ̀ ̀ ợp. Có những kết quả nghiên cứu rất đúng, rất tốt nhưng vì không có cơ chế nên không có đơn vị sẵn sàng ứng dụng vào thực tiễn. Thứ tư, xác định rõ trách nhiệm sử dụng ngân sach nha n ́ ̀ ươc đ ́ ể thực hiện nhiệm vụ KHCN. Cấp được phân nhiệm vụ khoa học và cấp được cấp kinh phí phải chịu trách nhiệm về nhiệm vụ khoa học cung nh ̃ ư phân bô kinh phi h ̉ ́ ợp ly.́ Với cách cấp kinh phí như hiện nay, người làm nhiệm vụ KHCN phai m ̉ ất nhiều thời gian đê hoàn thành các th ̉ ủ tục hành chính và bức xúc với tình trạng tham nhung trong khoa hoc. ̃ ̣ Thứ năm, Chưa có sự kết hợp chặt chẽ giữa các tổ chức KHCN, doanh nghiệp và người sản xuất; giữa các cơ quan quản lý nhà nước của T.Ư và địa phương;
- giữa các lĩnh vực, các trong việc phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ vào sản xuất. Thứ sáu, Việc định hướng, tập trung tiềm lực nghiên cứu, giải quyết những vấn đề lớn, cấp thiết cho lĩnh vực công nghiệp còn dàn trải; các chính sách đặc thù, giải pháp mạnh mẽ để tạo đột phá trong những lĩnh vực công nghiệp mà Việt Nam có lợi thế cũng chưa rõ nét; các lĩnh vực KHCN mũi nhọn, đạt trình độ tiên tiến, có khả năng cạnh tranh bình đẳng với khu vực và thế giới chưa được hình thành. Thứ bảy, Hiệu quả hoạt động của các tổ chức KHCN chưa cao; số lượng thành lập doanh nghiệp KHCN còn rất hạn chế, nên kết quả ứng dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh chưa cao. Hơn nữa, cơ chế hỗ tr ợ tài chính trong sử dụng kinh phí từ nguồn sự nghiệp còn chưa khoa học, thiếu đồng bộ, mang nặng tính thủ tục hành chính, chưa thực sự gắn chi phí với kết quả cuối cùng, gây mất nhiều thời gian trong hoàn thành các thủ tục giải ngân. Thứ tám, Việc gắn kết giữa hoạt động nghiên cứu với chiến lược, kế hoạch phát triển các lĩnh vực, ngành với các nhiệm vụ nghiên cứu còn hạn chế. Đội ngũ cán bộ nghiên cứu đầu ngành trong một số lĩnh vực công nghiệp còn hạn chế, chưa khuyến khích được đội ngũ tri thức có trình độ cao ở nước ngoài tích cực tham gia nghiên cứu KHCN. Đặc biệt, chưa có chính sách hỗ trợ bảo đảm bù đắp rủi ro trong nghiên cứu, ứng dụng các kết quả nghiên cứu, vì vậy đã phần nào hạn chế việc tham gia thử nghiệm ứng dụng của các doanh nghiệp công nghiệp. Thứ chín, Chính sách huy động về đầu tư tàỉ chính cho nghiên cứu KHCN trong công nghiệp hiện nay còn hạn chế, chủ yếu từ nguồn ngân sách nhà nước. Việc huy động, khai thác tiềm lực của các đơn vị trong các bộ, ngành như: Các tập đoàn, tổng công ty, viện nghiên cứu, trường đại học, các doanh nghiệp hoạt động KHCN còn hạn chế. cơ chế tài chính trong hoạt động KHCN chậm đổi mới, chưa phù hợp với đặc thù của hoạt động KHCN, làm giảm năng lực sáng tạo, gây khó khăn và buộc các nhà khoa học phải tìm cách đối phó trong thủ tục thanh quyết toán thực hiện nhiệm vụ. Doanh nghiệp chưa quan tâm đầu tư cho KHCN, chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước. Đặc biệt, cơ chế quản lý còn thiếu đồng bộ, gây khó khăn trong việc huy động nguồn lực, vay vốn cho hoạt động nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, sản xuất kinh doanh.
- Sau cùng, Nền tảng của nông nghiệp nước ta là hộ nông dân nhỏ lẻ, thu nhập thấp, công nghệ và phương pháp canh tác lạc hậu, giá thành nông sản phẩm thường cao hơn các nước khác, chất lượng sản phẩm thua kém các nước trong khu vực, chi phí sản xuất cao hơn do phải khắc phục những giới hạn của tự nhiên với những giải pháp tăng sản lượng như luân canh tăng vụ: bơm nước, phân bón, thuốc trừ sâu, phòng chống dịch bệnh. Các tiến bộ khoa học công nghệ chưa được áp dụng một cách phổ biến vì các giống mới du nhập giá đắt do phải thực hiện bảo hộ trí tuệ, nông dân nghèo không thể áp dụng. Hàng hóa nông sản nước ta về cơ bản sản xuất mang tính tự nhiên, chưa có tác động nhiều của khoa học công nghệ: giống, bảo quản sau thu hoạch, chế biến, phần lớn chưa có nhãn hiệu, thương hiệu, xuất thô chưa qua chế biến do đó phải bán giá thấp, khó khăn lớn nhất đối với nông sản xuất khẩu nước ta là hàng rào phi thuế quan: dư lượng kháng sinh, an toàn vệ sinh thực phẩm, nguồn gốc xuất xứ... những vấn đề này nông dân nước ta chưa được hướng dẫn và quen làm. Việc giảm thuế nhập khẩu làm cho sản phẩm trong nước cạnh tranh khó khăn ngay trên sân nhà đang bị lấn sân vì nông sản các nước chất lượng cao hơn, giá thấp hơn. V. BIỆN PHÁP 1. Biện pháp ngắn hạn Đẩy mạnh việc chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao, công nghệ sinh học để nâng cao năng suất, sản lượng cây trồng, vật nuôi nhằm đảm bảo an ninh lương thực ổn định đời sống nhân dân, đảm bảo an sinh xã hội. Chú ý ứng dụng khoa học công nghệ để sản xuất các loại cây trồng, vật nuôi theo hướng hữu cơ, sản phẩm sạch, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng, sản xuất theo quy trìnhVietGap. Tăng cường nghiên cứu, ứng dụng, khai thác tiềm năng những vùng có lợi thế so sánh kết hợp việc bảo tồn sinh thái tự nhiên, quản lý, sử dụng tốt, có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên ở các địa phương... Quan tâm nghiên cứu, ứng dụng vào sản xuất nông lâm ngư nghiệp đảm bảo vệ sinh môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu thời tiết.
- Cần tăng cường phối hợp với các đơn vị nghiên cứu, các nhà khoa học, các nhà quản lý, để làm tốt công tác nghiên cứu, đào tạo, chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất ngày càng tốt hơn. Chú trọng việc ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến để chủ động phòng chống dịch bệnh cây trồng vật nuôi, đảm bảo sản xuất ổn định. Tăng cường công tác tập huấn, đào tạo, tuyên truyền, xây dựng các mô hình trình diễn để cung cấp thông tin kịp thời, thuyết phục nông ngư dân mạnh dạng ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất .... Cần có sự phối hợp trong các chương trình đầu tư kết cấu hạ tầng nông thôn, quy hoạch vùng sản xuất, phát triển theo hướng bền vững, toàn diện, có cơ cấu kinh tế phù hợp, có các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, sản xuất hàng hóa có chất lượng, có khả năng cạnh tranh cao, để không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nông dân, ngư dân .... 2. Biện pháp dài hạn Để làm được điều đó, trước hết cần đổi mới cơ chế, chính sách quản lý đối với khoa học, kỹ thuật và công nghệ phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân theo hướng: Tổ chức, huy động lực lượng cán bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ về nông thôn, cùng với bà con nông dân, các doanh nghiệp, các tổ chức khuyến nông, các tổ chức chính trị, xã hội giải quyết các vấn đề về giống, công nghệ chế biến, công nghệ sau thu hoạch, phát triển công nghiệp và dịch vụ, sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ cũng như các cơ quan chuyển giao, ứng dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ ở nông thôn được bảo đảm thỏa đáng về lợi ích, được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Khuyến khích việc ký kết hợp đồng giữa các cơ quan khoa học, kỹ thuật và công nghệ với các chủ thể trong nông nghiệp. Bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ, hữu cơ giữa khoa học, kỹ thuật và công nghệ với sản xuất, kinh doanh bằng các chương trình, dự án phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn. Thứ nhất, Tăng cường hướng dẫn để người nông dân hiểu được rằng, mình cần làm gì, cần tìm ai, cần đầu tư bao nhiêu vốn và vật tư, trang thiết bị để đổi mới công nghệ, đổi mới cây trồng, vật nuôi cho năng suất, chất lượng cao hơn, thu nhập cao hơn. Điều đó cũng có nghĩa là cần nâng cao nhận thức của người lao động nông nghiệp về ứng dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất.
- Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng, là yêu cầu to lớn và mang tầm chiến lược trong sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Có chính sách khuyến khích, hỗ trợ kinh phí, trợ giá, ưu đãi tín dụng, miễn giảm thuế... cho các hộ nông dân, chủ trang trại, hợp tác xã, doanh nghiệp nông nghiệp trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất. Thứ hai, Phân bổ và sử dụng ngân sách phải thực sự khoa học, hướng tới hiêu ̣ quả, theo cơ chế thị trường. Đổi mới việc xác định nhiệm vụ và cấp kinh phí KHCN cho các địa phương, địa bàn. Nhiệm vụ KHCN nói chung có tinh liên ́ thông, liên kết tất cả vùng, không bị “chặn” ở “biên giới” một địa phương nào đó. Đây là vấn đề cần thiết xem xét kỹ, sau khi xác định rõ tất cả các loại nhiệm vụ KHCN từ nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng triển khai, đến nghiên cứu phát triển sản phẩm thì phai co c ̉ ́ ơ chế bảo đam đ ̉ ể co hi ́ ệu quả. Sản phẩm phaỉ có sức cạnh tranh trên thị trường; những sản phẩm mới, nghiên cứu khoa học phải đến được các doanh nghiệp. Bởi doanh nghiệp là nơi quy tụ của sự phát triển ứng dụng KHCN để tạo thành sức mạnh cạnh tranh của nền kinh tế. Trong ngân sách cho KHCN phải dành một phần để làm “vốn mồi”, phải có cơ chế để kéo vốn, để thu hút các nguồn lực kể cả trong và ngoài nước. Cần bố trí nguồn kinh phí dự phòng cho khoa học, vì hoạt động KHCN co tính ŕ ủi ro cao, ̉ căt giam nh ́ ưng ho ̃ ạt động KHCN không chât l ́ ượng nhằm chông lãng phí, th ́ ất thoát ngân sach nha n ́ ̀ ươc. Đ ́ ổi mới cơ chế khoán; đấu thầu phải theo kịp với sự phát triển của thời đại. Phải có niềm tin với người được cấp kinh phí. Thứ ba, tăng cường giám sát và đánh giá tình hình sử dụng và phân bổ ngân sách bằng những chỉ tiêu thực sự khoa học. Theo đo, ph ́ ải tăng quy định và giám sát tình hình sử dụng, phân bổ ngân sách bằng những tiêu chí thực sự khoa học; kiểm toán thực hiện các quy định về quản lý các chương trình đề tài kể cả cấp nhà nước, chống hình thức. Cân giám sát k ̀ ỹ viêc s ̣ ử dụng ngân sách phù hợp với kế hoạch được phê duyệt; có hướng dẫn tổ chức và hoạt động của các đơn vị KHCN theo tinh thần mới. Có thể hình thành hai nhóm: nhóm môt v ̣ ới kinh phí hoạt động hoàn toàn nhờ thị trường, nhóm hai có sử dụng ngân sach nha n ́ ̀ ươc.́ Xây dựng và triển khai các quy định về dân chủ trong hoạt động KHCN, công ̉ khai, dân chu thì m ới co thê phát tri ́ ̉ ển KHCN, nhất là trong khoa học xa hôi đ ̃ ̣ ể không thành khoa học theo kiểu minh họa. Thứ tư, xã hội hóa các nguồn lực đầu tư cho KHCN; thu hút đầu tư từ doanh nghiệp, coi đây là nguồn lực chính. Nhà nước phải coi đầu tư từ các nguồn ngoài ngân sach nha n ́ ̀ ươc, đ ́ ặc biệt là từ các doanh nghiệp cho KHCN là chinh, ti ́ ến tới đầu tư cho KHCN chủ yếu từ doanh nghiệp như các nước tiên tiến đã làm. ́ ̀ ểu rõ bản chất hoạt động của doanh nghiệp là phải có hiệu Theo đo, cân hi quả thiết thực, nên việc tiếp cận với nghiên cứu KHCN của doanh nghiệp có những nét riêng so với các tổ chức KHCN công lâp. Khi doanh nghi ̣ ệp đặt yêu cầu thì cần phải có ngay, nếu chậm cơ hội thị trường sẽ mất đi. Nắm được yếu
- tố đó chúng ta cân đi ̀ ều chỉnh làm sao cho ngân sách của các doanh nghiệp dành ̣ cho KHCN ngay môt nhi ̀ ều hơn. Cần có cơ quan theo dõi, tổng hợp, phân tích các hoạt động KHCN không dùng ngân sách nhà nước để tham mưu cho Nhà nước các giải pháp đột phá trong việc thu hút đầu tư và phát triển KHCN. Nhiều doanh nghiệp báo cáo đã dành gần 10% lợi nhuận của các doanh nghiệp làm nguồn vốn cho KHCN. Đây là nguồn lực lớn, cần giám sát việc sử dụng kính phí. Nghiên cứu khoa học theo cơ chế đặt hàng. Luật KH và CN được Quốc hội ban hành ngày 1862013, chính thức có hiệu lực từ 112014 sẽ là bước đột phá trong nghiên cứu KHCN nói chung và KHCN ứng dụng cho nông nghiệp nói riêng. Theo luật mới này, người đề xuất đề tài là các cơ quan quản lý có thẩm quyền, tạm gọi như việc “đặt hàng” với các nhà KH. Khi nghiên cứu xong, các đề tài này sẽ được bàn giao lại cho người đề xuất để có cơ chế quản lý cụ thể, minh bạch. Việc sử dụng vốn đầu tư cho KHCN vào nông nghiệp hiệu quả cùng với cơ chế nghiên cứu gắn với đầu ra sản xuất sẽ giúp nông nghiệp có được những sản phẩm có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao. Hàm lượng này chính là nguồn gốc để nâng cao giá trị cũng như tạo lập thương hiệu cho nông sản Việt Nam. Thứ năm, Tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho doanh nghiệp nói riêng và xã hội nói chung về việc cần thiết đầu tư cho phát triển KHCN. Cung cấp thông tin và định hướng thị trường công nghệ cho doanh nghiệp và có những hỗ trợ ban đầu cho hoat đông KHCN. B ̣ ̣ ổ sung những chế độ tiếp cận ngân sach́ ̀ ươc cho ho nha n ́ ạt động KHCN từ phía cac nhà khoa h ́ ọc không chuyên. Công khai hóa các kết quả nghiên cưu trên m ́ ạng intơnét đê m ̉ ọi người co thê tim đoc, ́ ̉ ̀ ̣ nghiên cưu t ́ ự do. VI. Đề xuất của nhóm 6 cho vấn đề UD KHCN trong nông nghiệp tại Việt Nam Có 2 vấn đề chính cần được làm rõ trong vấn đề UD KHCN trong nông nghiệp tại Việt Nam cho 3 nhóm đối tượng chính: Nhà nước, Doanh nghiệp và người Nông dân; đó là : Nhận thức và hành động. Tuy nhiên, các chính sách hiện tại rất “ to tát” và chung chung, cách thức triển khai còn mang nặng tính chất thủ tục rườm rà. Bên cạnh đó còn xuất hiện hiện tượng “ tham nhũng” và “ chảy máu chất xám”.... Ở khía cạnh sinh viên, chúng tôi đưa ra 3 dự án sau đây: Thứ nhất, thành lập Hệ thống Kiến thức nông nghiệp trực tuyến (Agricultural Knowledge OnLine (AKOL), đây là một hệ thống tương tác trực tuyến trên toàn cầu, nó liên kết kho dữ liệu về kiến thức nông nghiệp, các chuyên gia và nông dân để giải quyết bất cứ một vấn đề gì trong nông nghiệp. Mọi nông đân giờ đây có thể truy cập vào hệ thống này, học hỏi các kiến thức, kinh nghiệm và yêu cầu sự giúp đỡ, tư vấn phương pháp, giải pháp nông nghiệp từ các chuyên gia hàng đầu, các nhà sản xuất nông nghiệp chuyên nghiệp về vấn đề của họ.
- Thứ hai, dự án “Nhà Khoa học bạn Nông dân”, khi đưa những viện, nhóm nghiên cứu theo đơn đặt hàng của Doanh nghiệp, nhà nước. Nhằm nghiên cứu các loại, giống cây trồng vật nuôi phù hợp với một địa phương nhất định, các tỉnh/ sở khoa học được đặt tại một tỉnh hoặc vùng chuyên nghiên cứu, thử nghiệm tại địa phương đó. Muốn vậy cần sự đầu tư rất nhiều vào Nhà nước có muốn làm hay không? Thứ ba, tập trung đầu tư cho các nhóm nghiên cứu tại các trường THCS, THPT, các trường đại học. Thực hiện theo đúng tinh thần đại học” Trường đại học là nơi nghiên cứu chứ không phải trường trung học cấp 3 hay trường dạy nghề”. Đầu tư đúng mực cho chất xám của lực lượng trẻ, vì đây là cái nôi của ý tưởng, nghiên cứu và thử nghiệm bởi “ không sợ sai, không sợ thất bại, không sợ cường quyền hay bất cứ quyền lực thần/ công quyền nào”. Tổ chức các cuộc thi công nghệ, sáng tạo mới trong lĩnh vực nông nghiệp. VII. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1- https://www.facebook.com/bizlive.vn/videos/563546793821889/ 2- https://www.facebook.com/khoinguontuduy/videos/741785812623444/ 3- https://www.facebook.com/khoinguontuduy/videos/753895061412519/ 4- https://www.facebook.com/khoinguontuduy/videos/765561373579221/ 5- https://www.youtube.com/watch?v=FQ75iXR4OUc 6- https://www.youtube.com/watch?v=jtJd1s2TmFs 7- https://www.youtube.com/watch?v=ev9hR2xI35w 8- http://khoahoc.tv/ungdungcongnghesinhhoctrongnongnghiep31761 9- http://www.ahtp.hochiminhcity.gov.vn/web/hoatdongnghiencuuung dung/ungdungcongnghecaotrongnongnghiep 10- http://thuvienphapluat.vn/vanban/Linhvuckhac/Quyetdinh2139QD UBNDnam2013PhattrienkhoahoccongnghenongnghiepnongthonSonLa 209495.aspx
- 11- http://thuvienphapluat.vn/vanban/Congnghethongtin/Nghiquyet20NQ TWphattrienkhoahoccongnghephucvucongnghiephoa163983.aspx 12- http://thuvienphapluat.vn/vanban/Congnghethongtin/Nghiquyet20NQ TWphattrienkhoahoccongnghephucvucongnghiephoa163983.aspx Nghị quyết 20NQ/TW phát triển khoa học công nghệ phục vụ công nghiệp hóa, 13- http://thuvienphapluat.vn/vanban/Linhvuckhac/Quyetdinh2139QD UBNDnam2013PhattrienkhoahoccongnghenongnghiepnongthonSonLa 209495.aspx 14- http://moj.gov.vn/vbpq/lists/vn%20bn%20php %20lut/view_detail.aspx?itemid=16849 Về việc phê duyệt "Chương trình trọng điểm phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn đến năm 2020" 15 http://l.facebook.com/l.php?u=http%3A%2F%2Fthuvienphapluat.vn%2Fvan ban%2FLinhvuckhac%2FNghiquyet26NQTWnongnghiepnongdannong thon69455.aspx&h=HAQF44ac
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đề tài: Thực trạng ứng dụng hệ thống CRM trong doanh nghiệp Việt Nam hiện nay và giải pháp
78 p | 1601 | 281
-
ĐỀ TÀI " Thực trạng ứng dụng CNTT trong nhà trường phổ thông hiện nay "
25 p | 2981 | 175
-
Đề tài: Ứng dụng GIS và viễn thám để thành lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa
89 p | 1048 | 153
-
Luận văn thạc sĩ Nông nghiệp: Ứng dụng công nghệ tích hợp tư liệu viễn thám và GIS thành lập bản đồ biến động sử dụng đất giai đoạn 2004-2009 trên địa bàn huyện Buôn Đôn tỉnh Đắk Lắk
130 p | 249 | 88
-
Đề tài: Hiện trạng ứng dụng thương mại điện tử ở Việt Nam
127 p | 330 | 77
-
Nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng: Nâng cao kết quả học tập phần mềm word thông qua việc tổ chức dạy học trên phòng máy
20 p | 318 | 74
-
Đề tài: Đánh giá hiện trạng sử dụng đất huyện Vĩnh Tường – tỉnh Vĩnh Phúc
90 p | 242 | 54
-
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: Nghiên cứu thiết kế chế tạo và chuyển giao công nghệ sản xuất cồn hiện đại ứng dụng cho các nhà máy rượu cồn Việt Nam
97 p | 190 | 45
-
Đề tài: Tìm hiểu thực trạng ứng dụng công nghệ sau thu hoạch ở Việt Nam hiện nay (đối với ngành trồng trọt lương thực, rau quả). Nêu những hạn chế tồn tại và đề ra phương hướng thực hiện hiệu quả trong tương lai
26 p | 265 | 29
-
Khóa luận tốt nghiệp Quản lý đất đai: Ứng dụng phần mềm Microstation thành lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất năm 2019 xã Tân Hiệp, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang
65 p | 174 | 20
-
Tiểu luận môn Ứng dụng công nghệ cao trong trồng trọt
9 p | 233 | 19
-
Khóa luận tốt nghiệp: Ứng dụng GIS và viễn thám để đánh giá hiện trạng sử dụng đất trên địa bàn xã Quyết Thắng – Thành phố Thái Nguyên
60 p | 81 | 17
-
Báo cáo tổng kế đề tài cấp bộ: Một số giải pháp nhằm thức đẩy doanh nghiệp Việt Nam phát triển thương mại điện tử
77 p | 95 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý đất đai: Ứng dụng viễn thám và GIS trong thành lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất trên địa bản huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu
89 p | 65 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Kiểm soát và Bảo vệ môi trường: Ứng dụng phần mềm TMV-Cadas xây dựng cơ sở dữ liệu địa chính và bản đồ hiện trạng sử dụng đất thị trấn Nam Phước, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam
81 p | 38 | 10
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ: Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành tại Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh
18 p | 63 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học ở các trường tiểu học huyện Sa Thầy tỉnh Kon Tum trong giai đoạn hiện nay
133 p | 9 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn