intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài “Hoàn thiện quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán Báo cáo tài chính do Công ty Kiểm toán Việt Nam thực hiện”

Chia sẻ: Thanh Thanh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:116

232
lượt xem
70
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Kiểm toán là lĩnh vực đang dần được khẳng định và chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Mặc dù mới ra đời và phát triển trong hơn 15 năm nhưng số lượng các công ty kiểm toán đã ngày càng gia tăng, chứng tỏ nhu cầu đối với lĩnh vực này ngày càng cao. Trong đó, sự ra đời của Công ty Kiểm toán Việt Nam (VACO) được đánh dấu là một mốc lịch sử cho ngành kiểm toán tại Việt Nam....

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài “Hoàn thiện quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán Báo cáo tài chính do Công ty Kiểm toán Việt Nam thực hiện”

  1. LỜI MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài Kiểm toán là lĩnh vực đang dần được khẳng định và chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Mặc dù mới ra đời và phát tri ển trong h ơn 15 năm nhưng số lượng các công ty kiểm toán đã ngày càng gia tăng, ch ứng tỏ nhu cầu đối với lĩnh vực này ngày càng cao. Trong đó, sự ra đời của Công ty Kiểm toán Việt Nam (VACO) được đánh dấu là một mốc lịch sử cho ngành kiểm toán tại Việt Nam. Kiểm toán Báo cáo tài chính luôn là dịch vụ truyền thống và chiếm tỷ trọng lớn trong doanh thu của các công ty kiểm toán hiện nay. Trước xu thế hội nhập như ngày nay các công ty kiểm toán độc lập ở Việt Nam luôn ph ải đặt ra yêu cầu không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ của mình đ ể có th ể đáp ứng được nhu cầu của khách hàng và cạnh tranh với các công ty ki ểm toán nước ngoài. Trong đó đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán là một bước vô cùng quan trọng để giúp cho các công ty kiểm toán xây dựng một kế hoạch kiểm toán hợp lý góp phần nâng cao chất lượng cũng như hiệu qu ả c ủa cu ộc ki ểm toán. Tuy nhiên, thực tế hiện nay việc đánh giá trọng yếu ở các công ty vẫn còn nhiều điểm chưa hoàn thiện do đây là một công vi ệc khó và đòi h ỏi trình độ phán xét của kiểm toán viên. Được đánh giá là một trong nh ững công ty có quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán khá hoàn ch ỉnh và tiêu chu ẩn, trong thời gian thực tập tại VACO em đã có cơ hội tiếp xúc và so sánh giữa lý thuyết và thực tế và nhận ra được rất nhiều kiến th ức cũng nh ư kinh nghi ệm quý báu. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài: “Hoàn thiện quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán Báo cáo tài chính do Công ty Kiểm toán Việt Nam thực hiện ” để nghiên cứu, phát triển cho Luận văn tốt nghiệp của mình. Mục đích nghiên cứu của đề tài 1
  2. Từ ý nghĩa quan trọng của đánh giá trọng yếu và rủi ro trong ki ểm toán Báo cáo tài chính và thực tế công tác đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán tại Công ty Kiểm toán Việt Nam, Luận văn muốn làm rõ được lý lu ận v ề trọng yếu, rủi ro kiểm toán nói chung và đánh giá trọng yếu và rủi ro ki ểm toán trong kiểm toán Báo cáo tài chính nói riêng. Hơn nữa, Lu ận văn cũng muốn tìm hiểu quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán t ại Công ty Kiểm toán Việt Nam. Từ đó, em đã có cơ sở để so sánh giữa thực t ế và lý thuyết và có cơ sở để đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán tại Công ty Kiểm toán Việt Nam. Phương pháp nghiên cứu của đề tài Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Ch ủ nghĩa duy vật biện chứng và sử dụng các phương pháp kỹ thuật như phương pháp toán học, phương pháp tư duy lôgic, phương pháp diễn giải, quy nạp, ph ương pháp so sánh và phân tích để tổng hợp về lý luận và th ực ti ễn đánh giá tr ọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán Báo cáo tài chính. Ngoài ra, đ ề tài cũng sử dụng phương pháp sơ đồ, bảng biểu để làm rõ và bổ sung thêm cho lý luận cũng như thực tiễn đánh giá trọng y ếu và rủi ro ki ểm toán trong ki ểm toán Báo cáo tài chính. Hướng đóng góp của đề tài Đề tài đã hệ thống hóa lý luận về trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán nói chung và đánh giá trọng yếu, rủi ro ki ểm toán trong Báo cáo tài chính nói riêng. Bên cạnh đó, đề tài đã mô tả được thực trạng đánh giá tr ọng yếu và rủi ro kiểm toán tại Công ty Kiểm toán Việt Nam. Từ đó, đ ề tài đã đưa ra được nhận xét cho những vấn đề còn tồn tại và ph ương h ướng nh ằm hoàn thiện quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro ki ểm toán t ại Công ty Ki ểm toán Việt Nam. Nội dung của đề tài Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Luận văn gồm ba chương sau: Chương 1: Cơ sở lý luận về trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong ki ểm toán báo cáo tài chính 2
  3. Chương 2: Thực tiễn đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính tại Công ty Kểm toán Việt Nam Chương 3: Nhận xét, kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính t ại Công ty Kiểm toán Việt Nam. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn cùng các anh chị tại Công ty Kiểm toán Việt Nam đã có những hướng dẫn chỉ bảo tận tình cho em để em có thể hoàn thành tốt Luận văn của mình. 3
  4. CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRỌNG YẾU VÀ RỦI RO KIỂM TOÁN TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH 1.1. KHÁI NIỆM TRỌNG YẾU VÀ RỦI RO KIỂM TOÁN 1.1.1. Trọng yếu Theo từ điển Tiếng Việt, “Trọng yếu là một tính từ để chỉ s ự quan trọng thiết yếu. Một sự vật hay một địa danh đi kèm với trọng y ếu đ ều mang ý nghĩa quan trọng”. Trọng yếu là một thuật ngữ quan trọng trong kế toán, kiểm toán. Nguyên tắc trọng yếu cần chú trọng đến những vấn đề mang tính cốt yếu, quyết định bản chất và nội dung của sự vật, sự kiện kinh t ế phát sinh. Chính vì vậy khái niệm trọng yếu được đề cập ở rất nhiều tài liệu trong n ước cũng như quốc tế. Có thể trích dẫn một số tài liệu sau: Theo Bản công bố về chuẩn mực kiểm toán số 47 (SAS 47): “ki ểm toán viên nên xem xét rủi ro kiểm toán và vấn đề trọng yếu trong khi lập kế hoạch kiểm toán và thiết kế các thủ tục kiểm toán cũng như khi đưa ra kết luận kiểm toán” (Lý thuyết kiểm toán -NXB Tài chính 2005). Theo sách Lý thuyết kiểm toán (NXB Tài chính 2005): “Trọng yếu, xét trong mối quan hệ với nội dung kiểm toán, là khái niệm chung ch ỉ rõ tầm c ỡ và tính hệ trọng của phần nội dung cơ bản của kiểm toán có ảnh hưởng tới tính đúng đắn của việc nhận thức, đánh giá đối tượng kiểm toán và việc sử dụng thông tin đã đánh giá đó để ra quyết định quản lý. Trên góc độ của người sử dụng thông tin, nói một cách đơn giản, một thông tin quan trọng và cần phải được trình bày nếu nó có khả năng ảnh hưởng tới các quy ết định của người sử dụng”. Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200 (VSA 200) - Mục tiêu và nguyên tắc cơ bản chi phối kiểm toán báo cáo tài chính : “Trọng yếu: là thuật 4
  5. ngữ dùng để thể hiện tầm quan trọng của một thông tin (một số liệu kế toán) trong Báo cáo tài chính. Thông tin được coi là trọng yếu có nghĩa là nếu thiếu thông tin đó hay thiếu chính xác của thông tin đó sẽ ảnh hưởng tới các quyết định của người sử dụng Báo cáo tài chính. Mức độ trọng yếu tuỳ thuộc vào tầm quan trọng của thông tin hay của sai sót được đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể. Tính trọng yếu của thông tin phải được xem xét trên cả tiêu chuẩn định lượng và định tính.” Theo Chuẩn mực kiểm toán quốc tế (ISA 320) - Tính trọng yếu trong kiểm toán: “Thông tin là trọng yếu nếu việc bỏ sót hoặc sai sót c ủa thông tin đó có thể ảnh hưởng đến quyết định kinh tế của người sử dụng Báo cáo tài chính. Tính trọng yếu phụ thuộc vào mức độ quan trọng của các khoản mục hay sai sót được đánh giá theo bối cảnh cụ thể tạo ra vi ệc b ỏ sót ho ặc sai sót đó. Vì thế, tính trọng yếu là một ngưỡng hoặc một đi ểm định tính c ơ b ản mà một thông tin hữu ích cần phải có”. Theo Các văn bản chỉ đạo kiểm toán quốc tế số 25 (IAG 25) - Trọng yếu và rủi ro trong kiểm toán: “Trọng yếu là khái niệm về tầm cỡ, bản ch ất của sai phạm (kể cả bỏ sót) thông tin tài chính hoặc đ ơn l ẻ ho ặc t ừng nhóm, mà trong bối cảnh cụ thể nếu dựa vào các thông tin này để xét đoán thì s ẽ không chính xác hoặc rút ra kết luận sai lầm”. Từ rất nhiều các định nghĩa ở trên ta thấy rằng dù ở trên thế giới hay Việt Nam “trọng yếu” đều được quan niệm như một thuật ngữ dùng để thể hiện tầm quan trọng của một thông tin hay một số liệu k ế toán trong Báo cáo tài chính mà nếu thiếu nó hoặc thiếu chính xác của thông tin đó sẽ ảnh hưởng đến nhận thức của người sử dụng Báo cáo tài chính, từ đó dẫn đến sai lầm trong việc đánh giá thông tin và ra các quyết định quản lý. Sự tương đồng giữa kiểm toán và quản lý này đã dẫn đến tính t ất y ếu ph ải l ựa ch ọn n ội dung kiểm toán tối ưu, vừa đánh giá đúng bản chất của đối tượng ki ểm toán, vừa đáp ứng kịp thời nhu cầu của người quan tâm với giá phí ki ểm toán th ấp trên cơ sở thực hiện tốt chức năng kiểm toán. 5
  6. Bởi vậy, để giải quyết yêu cầu trên trong khái niệm “trọng yếu” đã bao hàm hai mặt liên quan tới nhận thức đối tượng: Quy mô hay t ầm c ỡ (m ặt lượng) và vị trí hay tính hệ trọng (mặt chất) của phần nội dung cơ bản.  Về quy mô Nhiều kế toán viên và kiểm toán viên mong muốn có được m ột con s ố tuyệt đối chỉ dẫn cho họ về trọng yếu. Nhưng điều này là rất khó vì trọng yếu là một khái niệm tương đối hơn là tuyệt đối và trong th ực t ế rất khó đ ể ấn định một con số cụ thể về tầm cỡ cho những điểm cốt y ếu c ủa nội dung kiểm toán, đặc biệt là khi có các yếu tố tiềm ẩn. Một con s ố có th ể là tr ọng yếu với công ty này nhưng không trọng y ếu với công ty khác. B ởi v ậy, ki ểm toán viên thường quan tâm tới quy mô tương đối hơn quy mô tuyệt đối. Quy mô tương đối là mối quan hệ tương quan giữa đối tượng cần đánh giá với một số gốc. Số gốc thường khác nhau trong nh ững tình huống c ụ th ể. Chẳng hạn, với báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, số gốc có th ể là doanh thu thuần; với bảng cân đối kế toán, số gốc có thể là tổng tài s ản ho ặc tài sản lưu động… Phần đông các kiểm toán viên đều cho rằng “t ổng h ợp các sai phạm mà có tỷ lệ nhỏ hơn 5% so với giá trị thu nh ập ròng thì đ ược xem là không trọng yếu nhưng nếu lớn hơn 10% thì chắc chắn trọng yếu”. Nhưng có khi kiểm toán viên sử dụng con số tuyệt đối để đánh giá tính tr ọng y ếu. M ột con số tuyệt đối là số thể hiện mức quan trọng mà không cần nh ắc thêm m ột yếu tố nào khác. Ví dụ như, một vài kiểm toán viên cho rằng “một tri ệu USD hoặc một con số lớn hơn thì luôn là con số trọng y ếu, không cần quan tâm đến vấn đề nào khác”. Ngoài ra, khi xem xét quy mô trọng yếu, kiểm toán viên nên cân nh ắc cả sự ảnh hưởng luỹ kế của đối tượng xem xét. Trên thực tế thì có rất nhi ều sai phạm khi xem xét chúng một cách cô lập thì không phát hi ện ra tr ọng y ếu, nhưng nếu cộng dồn tất cả các sai phạm sẽ phát hiện thấy s ự liên quan và tính hệ thống của sai phạm và khi đó phát hiện tính trọng y ếu c ủa chúng. Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 320 - Tính trọng yếu trong kiểm toán: “Kiểm toán viên cần xem xét tới khả năng có nhi ều sai sót là t ương đ ối 6
  7. nhỏ nhưng khi tổng hợp lại có ảnh hưởng trọng yếu tới Báo cáo tài chính, như: một sai sót trong thủ tục hạch toán cuối tháng có th ể trở thành một sai sót trọng yếu, tiềm tàng nếu như sai sót đó cứ tiếp tục tái diễn vào m ỗi tháng”. Việc xác định tính trọng yếu qua quy mô không phải là dễ dàng chính vì vậy để xác định đúng nội dung kiểm toán trên ph ương diện này chúng ta c ần quán triệt các nguyên tắc cơ bản sau: Thứ nhất, quy mô trọng yếu phải được xác định. Đó là việc xác định trọng yếu dựa trên các đối tượng nào (Báo cáo tài chính, toàn bộ tài li ệu k ế toán hay thực trạng tài chính nói chung) và cũng tùy thuộc vào cả khách th ể kiểm toán thuộc loại hình doanh nghiệp nào (sản xuất, công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, ngân hàng, bảo hiểm, xây lắp hay vận tải…). Vì mỗi ngành, mỗi lĩnh vực lại có những đặc điểm riêng nên việc tìm hiểu khách hàng là một công việc hết sức quan trọng trong giai đoạn chuẩn bị kiểm toán. Thứ hai, quy mô của các khoản mục, nghiệp vụ không chỉ xét về quy mô bằng con số tuyệt đối mà còn phải trong tương quan với các đối t ượng kiểm toán khác. Về định lượng đó là những tỷ lệ của các khoản mục, nghi ệp vụ so với một cơ sở tính toán như tổng tài sản, tổng doanh thu, l ợi nhu ận trước thuế…Và cũng tùy vào bản chất mà khi tính toán ta nên cộng dồn hay tách riêng các khoản mục, nghiệp vụ, sai sót có liên quan. Thứ ba, quy mô trọng yếu còn phụ thuộc vào đối tượng và mục tiêu của cuộc kiểm toán là kiểm toán tài chính, kiểm toán nghi ệp v ụ với các ch ức năng xác minh hay xác minh, tư vấn….  Về tính chất Trong kiểm toán Báo cáo tài chính, kiểm toán viên đánh giá tính trọng yếu cần tuỳ thuộc vào loại hình, quy mô doanh nghiệp. Đồng th ời cần có sự am hiểu tài chính kế toán, các quy định pháp luật với doanh nghiệp và dựa vào kinh nghiệm nghề nghiệp của kiểm toán viên. 7
  8. Các khoản mục nghiệp vụ được coi là trọng yếu thường bao gồm: các khoản mục, nghiệp vụ có gian lận hoặc chứa đựng kh ả năng gian l ận và các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót hệ trọng. Các khoản mục, nghiệp vụ có gian lận hoặc có ch ứa kh ả năng gian lận: Gian lận và sai sót đều dùng để chỉ các sai phạm nói chung, tuy nhiên giữa chúng lại có sự khác nhau cơ bản. Với cùng một quy mô tiền tệ, gian lận thường được chú trọng hơn sai sót vì nó làm người ta nghĩ đến tính trung th ực và độ tin cậy của các nhà quản lý và các thành viên có liên quan. Do đó, m ột hành vi gian lận luôn được coi trọng bất kể quy mô của nó là bao nhiêu. Các khoản mục, nghiệp vụ có gian lận hoặc có chứa khả năng gian lận thường bao gồm: - Các nghiệp vụ đấu thầu, giao thầu và giao dịch không hợp pháp vì có thể có sự móc nối giữa các bên nhằm thu lợi cho cá nhân; - Các nghiệp vụ thanh lý tài sản: có khả năng có sự liên kết giữa người tiến hành thanh lý và người mua tài sản trong khi tài sản đó vẫn đang trong quá trình sử dụng; - Các nghiệp vụ về tiền mặt: các nghiệp vụ này xảy ra thường xuyên, tiền mặt lại có đặc điểm là gọn nhẹ, dễ biển thủ nên dễ xảy ra gian lận; - Các nghiệp vụ về mua bán và thanh toán: doanh nghiệp và khách hàng hoặc nhà cung cấp có thể móc ngoặc với nhau để báo cáo sai về th ực trạng hoạt động của mình; - Các nghịêp vụ bất thường: các nghiệp vụ này ít xảy ra nhưng nó l ại ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp; - Các nghiệp vụ phân chia quyền lợi: các nghiệp vụ liên quan đến quyền lợi bao giờ cũng chứa đựng khả năng gian lận cao vì hầu như bất cứ ai cũng muốn thu lợi cho bản thân mình; - Các nghiệp vụ cố ý bỏ ngoài sổ sách: các nghiệp vụ phát sinh đều phải được ghi sổ, nếu đơn vị cố ý bỏ ngoài sổ sách thì đây là biểu hiện của hành vi gian lận; 8
  9. - Các nghiệp vụ xảy ra vào cuối kỳ quyết toán hoặc thuộc loại nghiệp vụ mới phát sinh. Thông thường, vào cuối kỳ quyết toán, để kết quả hoạt động kinh doanh được như kế hoạch đã định hoặc để điều chỉnh một số chênh lệch thừa, thiếu, kế toán thường đưa thêm một số bút toán hạch toán. Do đó các nghiệp vụ xảy ra vào cuối kỳ thường trọng yếu. Đối với các nghiệp vụ mới phát sinh thì kiểm toán viên cần tự đặt ra câu hỏi tại sao những nghiệp vụ đó từ trước tới giờ mới phát sinh, liệu kế toán đã xử lý chưa và từ đó tìm bằng chứng để chứng minh; - Các khoản mục, chứng từ có sửa chữa vì có thể thông tin tài chính đã bị làm cho sai lệch dẫn đến ảnh hưởng tới Báo cáo tài chính; - Các nghiệp vụ vi phạm nguyên tắc kế toán và pháp lý nói chung: có ảnh hưởng đến sự trung thực và độ tin cậy của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp và các cá nhân có liên quan. Các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót (không cố ý) hệ trọng: - Các nghiệp vụ này thường do trình độ, năng lực yếu kém và tính thiếu cẩn trọng của kế toán viên; - Các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót ở quy mô lớn hoặc có chênh lệch lớn với các kỳ trước hoặc giữa các nguồn thông tin có liên quan; - Các nghiệp vụ vi phạm nguyên tắc kế toán và pháp lý nói chung có thể dẫn đến sai lầm nghiêm trọng, ảnh hưởng đến người sử dụng thông tin vì nó khiến ta nghĩ đến tính trung thực và độ tin c ậy c ủa Ban qu ản tr ị ho ặc c ủa những cá nhân có liên quan khác; - Các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót lặp lại nhiều l ần: vi ệc các sai sót lặp lại nhiều lần cho dù quy mô của sai sót là không lớn thì vẫn gây một sự nghi ngờ về năng lực của kế toán viên và vấn đề xem xét qu ản lý s ổ sách không được chặt chẽ. Hơn nữa, tổng hộ các sai sót nhỏ có thể là một sai sót lớn ảnh hưởng đến Báo cáo tài chính; - Các khoản mục, nghiệp vụ có ảnh hưởng nghiêm trọng đến kỳ sau; - Các sai sót có ảnh hưởng tới lợi nhuận; 9
  10. - Các khoản mục, nghiệp vụ là đầu mối hoặc gây hậu quả liên quan đến nhiều khoản mục, nghiệp vụ khác. Việc nhận định và đưa ra ý kiến kiểm toán phụ thuộc rất nhiều vào các khoản mục, nghiệp vụ liên quan đến bản chất đối tượng kiểm toán. Vì v ậy, khái niệm trọng yếu đã đặt ra yêu cầu xác định nội dung kiểm toán với nguyên tắc không bỏ qua các khoản mục, nghiệp vụ có quy mô lớn và có tính hệ trọng, phản ánh bản chất đối tượng. Vi phạm nguyên tắc này có nghĩa là không nắm vững nội dung của trọng yếu thì kiểm toán viên đã tạo ra rủi ro cho cuộc kiểm toán. Do đó, khi đánh giá tính trọng y ếu c ủa m ột n ội dung hay một phát hiện kiểm toán cụ thể, kiểm toán viên phải xem xét trên c ả hai m ặt là quy mô và bản chất của vấn đề, từ đó mới đưa ra quyết định hợp lý về tính trọng yếu, đảm bảo mục tiêu và chất lượng cuộc kiểm toán. 1.1.2. Rủi ro kiểm toán 1.1.2.1. Khái niệm Cùng với việc đánh giá trọng yếu thì đánh giá rủi ro cũng là một trong những bước quan trọng nhất trong kiểm toán Báo cáo tài chính. Do nh ững nguyên nhân như trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên thường ch ỉ lấy mẫu kiểm toán chứ không kiểm tra toàn bộ, hay việc thu thập các bằng chứng kiểm toán thường mang tính thuyết phục hơn là chứng minh sự chính xác tuyệt đối của các số liệu trên Báo cáo tài chính, hay là còn tùy thuộc nhiều vào óc xét đoán nghề nghiệp của từng kiểm toán viên… nên trong bất kỳ cuộc kiểm toán nào cũng tồn tại những hạn chế tiềm tàng. Chính vì v ậy kh ả năng kiểm toán viên đưa ra nhận xét không chính xác về Báo cáo tài chính là điều luôn có thể xảy ra. Vấn đề là làm thế nào để có thể giảm rủi ro này xu ống ở mức chấp nhận được. Muốn như vậy, ngay từ giai đoạn chuẩn bị ki ểm toán, kiểm toán viên phải đánh giá rủi ro để điều chỉnh các thủ t ục ki ểm toán m ột cách thích hợp nhằm có được một mức rủi ro có thể chấp nhận được. 10
  11. Vậy rủi ro kiểm toán là gì? Theo Từ điển Tiếng Việt: “rủi ro là tính t ừ dùng để chỉ việc không may xảy ra” hoặc “rủi ro là điều không lành, không tốt bất ngờ xảy đến”. Nói chung rủi ro là những điều không mong muốn tuy nhiên trong các lĩnh vực khác nhau thì đặc trưng c ủa rủi ro l ại khác nhau. Sau đây là những khái niệm khác nhau về rủi ro trong kiểm toán mà đã được đề cập ở rất nhiều tài liệu. Rủi ro kiểm toán: “là khả năng mà kiểm toán viên và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến nhận xét không thích hợp khi Báo cáo tài chính đã đ ược ki ểm toán vẫn còn có những sai sót trọng yếu”. (Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400 - Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ). Do đối tượng kiểm toán là những thông tin được kiểm toán qua nhiều giai đoạn bằng những bộ máy quản lý và các phương thức, thủ tục kiểm soát khác nhau nên rủi ro kiểm toán cũng được xác định tương ứng đối với từng loại đối tượng kiểm toán. R ủi ro bao gồm ba bộ phận: Rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện. Theo Các văn bản chỉ đạo kiểm toán quốc tế số 25 (IAG 25) - Trọng yếu và rủi ro trong kiểm toán: “Rủi ro kiểm toán là những rủi ro mà kiểm toán viên có thể mắc phải khi đưa ra những nhận xét không xác đáng về các thông tin tài chính và đó là các sai sót nghiêm trọng. Ví d ụ, ki ểm toán viên có thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn bộ về một Báo cáo tài chính mà không bi ết rằng báo cáo này có những sai sót nghiêm trọng”. 1.1.2.2. Các loại rủi ro kiểm toán Rủi ro tiềm tàng: “là rủi ro tiềm ẩn, vốn có do khả năng từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong Báo cáo tài chính chứa đựng sai sót trọng yếu khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp, mặc dù có hay không hệ thống kiểm soát nội bộ”. (Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400: Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ). Chẳng hạn như doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực có sự thay đổi nhanh về kỹ thuật rất có thể dẫn đến khả năng có sai sót cao ở khoản mục hàng tồn kho trên Báo cáo tài chính do không lập dự phòng giảm giá đầy đủ đối với những hàng hóa bị lỗi thời; hay khoản mục tiền trên Báo cáo tài chính thường có khả năng sai sót cao do tiền là loại tài sản nhạy cảm với gian lận. 11
  12. Mức độ rủi ro tiềm tàng phụ thuộc vào đặc điểm tình hình kinh doanh của khách thể kiểm toán, loại hình kinh doanh và cả năng lực nhân viên của khách thể kiểm toán. Kiểm toán viên không tạo ra và cũng không kiểm soát rủi ro tiềm tàng mà họ chỉ đánh giá chúng. Việc đánh giá rủi ro tiềm tàng có thể được thực hiện từ nhiều nguồn khác nhau như từ cuộc kiểm toán năm trước hay từ những tìm hiểu về ngành nghề kinh doanh, chính sách kế toán, tài chính của khách thể kiểm toán. Đánh giá rủi ro tiềm tàng có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì trên c ơ s ở đó kiểm toán viên dự kiến những công việc, thủ tục kiểm toán s ẽ đ ược th ực hiện đối với các khoản mục, nghiệp vụ trọng yếu trên Báo cáo tài chính. Rủi ro kiểm soát: “là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng khoản mục, nghiệp vụ trong Báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ ho ặc tính g ộp mà h ệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ không ngăn ngừa hết hoặc không phát hiện và sửa chữa kịp thời”. (Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400: Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ). Ví dụ như: một hệ thống kiểm soát nội bộ tốt vẫn có thể gặp sai sót khi hệ thống xây dựng quá ph ức tạp, luân chuyển nhân sự nhiều hoặc thiếu đào tạo nhân viên… Môi trường kiểm soát thường thể hiện ý chí, quan điểm, nhận thức, hành động của nhà qu ản lý đ ơn vị vì vậy cần được xem xét kỹ lưỡng. Đối với các doanh nghiệp xử lý số liệu bằng phương pháp điện tử, rủi ro kiểm toán là cao nếu doanh nghiệp không kiểm soat tốt được quy trình xử lý số liệu từ khâu nh ập số li ệu, thi ết k ế chương trình phần mềm, bảo mật thông tin… Như vậy, cũng như rủi ro tiềm tàng, đối với rủi ro ki ểm soát, ki ểm toán viên cũng không tạo ra và kiểm soát chúng mà ch ỉ đánh giá chúng đ ể đ ưa ra mức rủi ro kiểm soát dự kiến. Rủi ro phát hiện: “là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng khoản mục, nghiệp vụ trong Báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ ho ặc tính gộp mà trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên và công ty ki ểm toán không phát hiện ra được”.(Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400: Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ). Rủi ro phát hiện có nguyên nhân bắt nguồn trực tiếp từ nội 12
  13. dung, thời gian và phạm vi của các thử nghiệm cơ bản do kiểm toán viên thực hiện. Ví dụ như: rủi ro phát hiện sẽ giảm xuống nếu kiểm toán viên mở rộng phạm vi kiểm tra, tăng cường kích cỡ của các thử nghiệm hay tăng các th ủ tục kiểm tra chi tiết với các số dư hoặc nghiệp vụ. Khác với rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát, kiểm toán viên ph ải có trách nhiệm phát hiện các thủ tục thu thập các bằng chứng kiểm toán nh ằm quản lý và kiểm soát đối với rủi ro phát hiện. 1.1.3. Mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro kiểm toán Trọng yếu và rủi ro kiểm toán có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Đó là mối quan hệ tỷ lệ nghịch. Mức trọng yếu càng cao thì rủi ro ki ểm toán càng thấp và ngược lại nếu mức trọng yếu có th ể chấp nhận được gi ảm xuống thì rủi ro kiểm toán sẽ tăng lên vì khi đó giá trị sai sót có th ể b ỏ qua giảm xuống. Mối quan hệ này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định nội dung, lịch trình và phạm vi của các thủ tục kiểm toán sẽ áp dụng. Không những thế cả trọng yếu và rủi ro kiểm toán đều ảnh hưởng đến tính đầy đủ của bằng chứng kiểm toán cần thu th ập. Đó là m ối quan h ệ t ỷ l ệ thuận: nếu mức độ trọng yếu và mức độ rủi ro kiểm toán càng cao thì s ố lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập càng nhiều. Số lượng bằng chứng kiểm toán sẽ phải nhiều lên khi kiểm toán các khoản mục có tính trọng yếu cao. Chẳng hạn, khi kiểm toán một đơn vị sản xuất thì số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập để đạt được mục tiêu kiểm toán đối với hàng tồn kho bao giờ cũng phải lớn hơn so với s ố l ượng bằng chứng cần thu thập cho khoản trả trước. Và cũng tương tự nh ư v ới tính trọng yếu, thông thường số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu th ập s ẽ tăng lên trong những trường hợp có nhiều khả năng sai phạm. 13
  14. Bảng 1.1: Các mối quan hệ giữa của rủi ro kiểm toán với bằng chứng phải thu thập Số lượng bằng Trườn Rủi ro Rủi ro Rủi ro Rủi ro chứng cần thu g hợp kiểm toán tiềm tàng kiểm soát phát hiện thập 1 Cao Thấp Thấp Cao Thấp 2 Thấp Thấp Thấp Trung bình Trung bình 3 Thấp Cao Cao Thấp Cao 4 Trung bình Trung bình Trung bình Trung bình Trung bình 5 Cao Thấp Trung bình Trung bình Trung bình Nguồn: “Kiểm toán” - Alvin Arren, sách dịch, tr194. 1.2. ĐÁNH GIÁ TRỌNG YẾU VÀ RỦI RO KIỂM TOÁN TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH 1.2.1. Cơ sở đánh giá 1.2.1.1. Đối với tính trọng yếu Như ta đã biết việc đánh giá tính trọng y ếu có ý nghĩa nh ư th ế nào đ ối với một cuộc kiểm toán. Muốn đánh giá được tính trọng yếu ta thường phải dựa vào trước hết chính là nội dung hàm chứa bên trong khái ni ệm trọng y ếu, đó là quy mô và bản chất của đối tượng. Đây cũng là hai cơ sở quan trọng nhất khi đánh giá trọng yếu. Khi đánh giá tính trọng yếu ngoài việc phải xem xét quy mô tuy ệt đối của sai phạm mà còn phải chú ý đến quy mô tương đối của nó, t ức là m ối quan hệ của nó với các đối tượng khác. Trong toàn bộ đối tượng kiểm toán bao giờ cũng có những nội dung, nghiệp vụ, khoản mục quan trọng hơn, đòi hỏi tập trung nhiều hơn. Đây chính là mặt bản chất của vấn đề cần xem xét. Ngoài ra, khi đánh giá tính trọng yếu ta cũng cần chú ý đến nh ững tiêu chí khác nữa như mục tiêu kiểm toán cụ thể, tính không chắc chắn của vấn 14
  15. đề xem xét, tính chất thường xuyên hay không thường xuyên của nghiệp vụ, … 1.2.1.2. Đối với rủi ro kiểm toán Đối với rủi ro kiểm toán: cơ sở để đánh giá rủi ro chính là các y ếu tố bao hàm trong mỗi loại rủi ro. Rủi ro tiềm tàng là rủi ro tồn tại sai sót trọng yếu không kể đến hoạt động kiểm soát nội bộ và kiểm toán, vì vậy, cơ sở đánh giá là nh ững t ồn t ại tiềm tàng thuộc về bản chất của đối tượng như: đặc điểm kinh doanh của khách hàng, công việc ngành nghề kinh doanh, bản chất hệ thống kế toán… Rủi ro kiểm soát là khả năng tồn tại sai sót trọng y ếu khi đã k ể đ ến hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ, vì vậy, c ơ sở đ ể ti ến hành đánh giá chính là bộ máy kế toán, hệ thống Kiểm soát nội bộ. Đánh giá rủi ro ki ểm soát chính là quá trình đánh giá cách thiết kế, tính liên tục và hi ệu qu ả ho ạt động của hệ thống Kiểm soát nội bộ trong việc ngăn ngừa và phát hiện các sai sót nghiêm trọng. Rủi ro phát hiện là rủi ro mà các kiểm toán viên không phát hi ện ra các sai sót nghiêm trọng trong quá trình kiểm toán, vì vậy, cơ sở đánh giá nó chính là việc thực hiện các bước kiểm toán, phạm vi tiến hành kiểm toán và sự tuân thủ các Chuẩn mực kiểm toán của kiểm toán viên. Đối với rủi ro tài khoản: để lựa chọn cơ sở cho việc đánh giá r ủi ro tài khoản, cần quan tâm đến mối quan hệ chặt chẽ giữa trọng yếu và rủi ro. Mối quan hệ đó thể hiện ngay trong khái niệm rủi ro kiểm toán: “rủi ro ki ểm toán là rủi ro mà kiểm toán viên mắc phải khi đưa ra ý kiến chấp nhận không thích hợp về Báo cáo tài chính khi vẫn tồn tại những sai sót trọng y ếu”. Trong m ọi cuộc kiểm toán thì trọng yếu và rủi ro có quan h ệ t ỷ l ệ ngh ịch với nhau. Khi kiểm toán viên đánh giá là có nhiều khoản mục trọng y ếu trên Báo cáo tài chính và cần tiến hành kiểm tra, xem xét nhiều khoản mục, nghi ệp v ụ đ ể r ủi ro kiểm toán thấp, nghĩa là khả năng còn tồn tại những sai sót trọng y ếu là thấp. Ngược lại, khi kiểm toán viên đánh giá là có ít hơn các khoản mục trọng 15
  16. yếu thì sẽ có ít hơn các khoản mục, nghiệp vụ ph ải ki ểm tra, xem xét thì r ủi ro còn tồn tại những sai sót trọng yếu là lớn hơn. Khi lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên phải xem nh ững nhân tố có thể làm phát sinh những sai sót trọng yếu trong Báo cáo tài chính. Đánh giá của kiểm toán viên về mức trọng yếu liên quan đến số dư các tài khoản cụ thể và các loại nghiệp vụ, giúp họ xác định được các khoản mục nào c ần kiểm tra và nên áp dụng phương pháp chọn mẫu hay áp d ụng các th ủ t ục phân tích. Điều này giúp kiểm toán viên lựa chọn được những thủ tục kiểm toán, kết hợp các thủ tục kiểm toán đó với nhau có thể sẽ giảm được rủi ro kiểm toán đến một mức có thể chấp nhận được. 1.2.2. Đánh giá trọng yếu trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán Việc đánh giá thế nào là trọng yếu là một công việc mang tính xét đoán nghề nghiệp của kiểm toán viên, được tiến hành trong suốt cuộc kiểm toán, từ khâu lập kế hoạch cho đến khâu kết thúc. Nói chung, quy mô sai sót là m ột nhân tố quan trọng để kiểm toán viên xem xét các sai sót có trọng y ếu hay không. Tuy nhiên, khái niệm trọng yếu bao gồm hai yếu tố của sai phạm về quy mô và bản chất nên mặc dù thông thường, kiểm toán viên lập kế hoạch kiểm toán để tìm ra các sai sót nghiêm trọng về mặt định lượng, nh ưng trên thực tế, kiểm toán viên phải đánh giá, xét đoán cả về đ ịnh lượng và đ ịnh tính của bất cứ sai phạm nào phát hiện ra. Trong khi đề cập đ ến nh ững sai sót có thể có, kiểm toán viên cần xét vấn đề trọng yếu ở mức độ tổng thể cũng như trong mối quan hệ với các số dư tài khoản cá biệt khác và sự th ể hiện trên Báo cáo tài chính. Tính trọng yếu cần phải được đặc biệt xem xét ở hai giai đoạn trong cuộc kiểm toán: lập kế hoạch kiểm toán khi kiểm toán viên quy ết định cần tiến hành những thủ tục kiểm toán nào, xác định thời gian và phạm vi của thủ tục kiểm toán đó, sau đó là khâu rà soát lại, khi kiểm toán viên đánh giá ảnh hưởng của tất cả các sai sót. Lập kế hoạch kiểm toán bao gồm việc xác định mục tiêu, phạm vi, thời hạn và tính chất của các thủ tục kiểm toán,…, trong đó có vi ệc thi ết l ập m ột 16
  17. mức trọng yếu có thể chấp nhận được, cho phép ki ểm toán viên phát hi ện ra các sai sót trọng yếu. ở giai đoạn thực hiện kiểm toán, việc đánh giá trọng yếu có thể khác so với giai đoạn chuẩn bị, có thể do sự thay đổi hoàn cảnh và cũng có thể do kiểm toán viên thu thập thêm những hiểu biết về khách hàng của mình. Cụ thể, sau khi thiết lập được mức trọng yếu có thể ch ấp nh ận được, kiểm toán viên tiến hành các thủ tục kiểm toán theo kế hoạch để phát hiện các sai phạm, sau đó áp dụng mức trọng yếu đã xây dựng để đánh giá ảnh hưởng của các sai phạm đó, từ đó đề xuất các biện pháp x ử lý. Đ ể đánh giá mức độ trọng yếu, quy mô của các khoản mục, nghiệp vụ không ch ỉ xét về con số tuyệt đối mà phải xét trong tương quan với toàn bộ đối tượng kiểm toán. Về định lượng, đó là những tỷ lệ của các khoản mục, nghi ệp vụ so với một cơ sở để tính toán như: tổng tài sản, lợi nhuận trước thuế,…Tuỳ quan hệ cụ thể với đối tượng cụ thể của kiểm toán, có thể tính riêng biệt hay cộng dồn các khoản mục, nghiệp vụ cụ thể hay các sai sót có liên quan. Tính tr ọng yếu, nếu đánh giá về quy mô tương đối, có ba mức độ khác nhau để so sánh:  Quy mô nhỏ: không trọng yếu Thông thường, một khoản mục, một loại nghiệp vụ luôn có quy mô nhỏ trên Bảng Cân đối kế toán hay Báo cáo Kết quả hoạt động kinh doanh thì việc phản ánh đúng hay sai nghiệp vụ này không ảnh hưởng đến quy mô chung trên đối tượng kiểm toán và từ đó không ảnh hưởng đến nh ận th ức v ề đối tượng này cùng những quyết định đưa ra trên cơ sở đã được kiểm toán. Các khoản mục, nghiệp vụ này cũng không thể hiểu một cách bất biến, chẳng hạn, một khoản mục vật liệu phụ có thể không trọng yếu trong sản xuất mặt hàng này nhưng lại trọng yếu trong việc sản xuất mặt hàng khác, có thể trọng yếu trong thời kỳ này nhưng không trọng yếu trong thời kỳ trước,…  Quy mô lớn nhưng chưa đủ mức quyết định nhận thức về đối tượng: có thể không trọng yếu Thông thường, một khoản mục có quy mô lớn sẽ ảnh h ưởng đến nh ận thức về tình hình tài chính của đơn vị, và từ đó ảnh hưởng đến các quyết định được đưa ra. Tuy nhiên, không phải lúc nào hậu quả này cũng như nhau. 17
  18. Chẳng hạn, khoản mục hàng hoá thường có quy mô khá lớn nhưng sai lệch của nó (nếu có) là nhỏ không ảnh hưởng đến số tổng cộng của Bảng Cân đối kế toán. Bởi vậy nếu đối tượng trực tiếp của cuộc kiểm toán là bảng này hay toàn bộ hệ thống bảng tổng hợp tài chính thì kiểm toán viên v ẫn có th ể th ực hiện chức năng xác minh của mình. Một ví dụ khác, người sử dụng có th ể quyết định sai về cung ứng hay vay tiền, thế chấp,…, nhưng việc đó lại không đặt ra trong mục tiêu kiểm toán Báo cáo tài chính nhưng nghiệp vụ loại này sẽ là trọng yếu trong kiểm toán nghiệp vụ vật tư hay mua hàng,… Vì vậy, trong tổ chức kiểm toán phải giải quyết nhiều vấn đề liên quan và m ối quan hệ với những người quan tâm.  Quy mô lớn, đủ quyết định bản chất đối tượng kiểm toán: trọng yếu Các khoản mục, nghiệp vụ có quy mô lớn được xác định trong tương quan với đối tượng kiểm toán, song trong thực tế cũng có th ể làm rõ h ơn trong tương quan với các khoản mục, nghiệp vụ quy mô nhỏ và cả với việc thực hiện nguyên tắc trọng yếu trong kế toán. Nếu đánh giá trọng yếu trên phương diện tính hệ trọng của các nghi ệp vụ hay khoản mục thì các khoản mục được coi là trọng yếu thường bao gồm: • Các khoản mục, nghiệp vụ có gian lận hoặc chứa đựng kh ả năng gian lận như: các nghiệp vụ đấu thầu và giao thầu, nghi ệp v ụ thanh lý tài sản, nghiệp vụ cố ý bỏ ngoài sổ sách, nghiệp vụ sửa chữa sổ sách, nghiệp vụ xảy ra vào ngày cuối kỳ kế toán,… • Các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót hệ trọng: các khoản mục, nghiệp vụ có quy mô sai sót lớn hoặc có chênh lệch nhiều với các kỳ trước, các sai sót lặp đi lặp lại nhiều lần, các khoản mục, nghi ệp vụ có ảnh h ưởng nghiêm trọng đến kỳ sau,… Theo phương pháp vận dụng đánh giá trọng yếu được đề cập trong “Auditing” của tác giả W.Morley Lemon, Alvin A.Arens, Jame K.Loebbecke một phương pháp được công nhận phổ biến thì vận dụng đánh giá trọng y ếu 18
  19. trong một cuộc kiểm toán bao gồm 5 bước cơ bản: (1) Ước l ượng s ơ b ộ ban đầu, (2) Phân bổ ước lượng ban đầu cho các bộ phận, (3) Ước tính tổng s ố sai sót trong từng bộ phận, (4) Ước tính sai sót kết h ợp, (5) So sánh sai s ố k ết hợp với ước lượng ban đầu. Trong đó, hai bước đầu tiên được thực hiện trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, ba bước sau được thực hiện trong giai đoạn thực hiện kiểm toán. Các bước trong quá trình vận dụng tính trọng yếu được thể hiện ở sơ đồ sau: Bước 1 Ước lượng sơ bộ về tính trọng yếu Lập kế hoạch phạm vi của các Phân bổ ước lượng ban đầu về tính khảo sát Bước 2 trọng yếu cho các bộ phận Bước 3 Ước tính tổng số sai trong bộ phận Bước 4 Ước tính sai số kết hợp Đánh giá các kết quả Nguồn: “Kiểm toán” - Alvin Arren, sách dịch, tr176. So sánh sai số tổng hợp ước tính với Bước 5 ước 1:lượng ba đầu hoặc đầuxét lại ướtrọng yếu  B ước Ước lượng ban xem về tính c lượng ban đầu về tính trọng yếu Nguồn: “Kiểm toán”, Alvin Arren, sách dịch Mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu là lượng tối đa mà ki ểm toán viên tin rằng ở mức đó các Báo cáo tài chính có thể bị sai lệch nhưng vẫn chưa ảnh hưởng đến các quyết định của người sử dụng thông tin tài chính. Nói cách khác đó chính là những sai sót có thể chấp nhận được đối với toàn bộ Báo cáo tài chính. Ở mức độ tổng thể của Báo cáo tài chính, kiểm toán viên phải ước tính toàn bộ sai sót có thể chấp nhận được để đảm bảo rằng Báo cáo tài chính không có các sai lệch trọng yếu. Mức trọng yếu tổng thể này th ường được tính bằng một tỷ lệ phần trăm trên tài sản, doanh thu hoặc lợi nhuận. Thông 19
  20. thường các cuộc kiểm toán diễn ra trước ngày kết thúc niên độ kế toán nên các chỉ tiêu chủ yếu trên Báo cáo tài chính như doanh thu, lợi nhuận… chưa xác định được. Vì thế các kiểm toán viên thường ph ải ước lượng các ch ỉ tiêu này một cách hợp lý để làm cơ sở xác lập mức trọng yếu. Người ta thường sử dụng bảng tính sau để tính ước lượng trọng yếu ban đầu: Bảng 1.2: Bảng tính mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu Cơ sở tính Tối thiểu Tối đa Tỷ lệ % Số tiền Tỷ lệ % Số tiền Thu nhập từ hoạt động trước thuế 5 10 Tài sản lưu động 5 10 Tổng cộng tài sản 3 6 Nợ ngắn hạn 5 10 Nguồn: “Kiểm toán” - Alvin Arren, sách dịch, tr179. Đối với từng khoản mục, mức trọng yếu chính là sai lệch tối đa được phép của khoản mục. Số tiền này được tính dựa trên mức trọng y ếu tổng th ể của Báo cáo tài chính. Việc phân bổ cụ thể cho từng khoản mục còn tùy thuộc vào chính sách của từng công ty. Tuy nhiên dù áp dụng ph ương pháp nào thì kiểm toán viên vẫn thường dựa trên kinh nghiệm của mình v ề đ ơn v ị cũng như đánh giá khả năng sai sót và chi phí thực hiện kiểm tra đối với khoản mục để xác lập mức trọng yếu cho khoản mục đó. Nhìn chung, dù ở mức độ nào thì việc xác lập mức trọng y ếu cũng là một công việc mang tính xét đoán nghề nghiệp của kiểm toán viên và m ức ước lượng này có thể thay đổi bất cứ lúc nào trong suốt cu ộc ki ểm toán n ếu kiểm toán viên nhận thấy sự thay đổi ở một trong các yếu tố được dùng để xác định mức ước lượng ban đầu hoặc đơn thuần chỉ do một quy ết đ ịnh của kiểm toán viên cho rằng mức ước lượng ban đầu là quá lớn hoặc quá nhỏ. Kiểm toán viên cần chú ý những yếu tố ảnh hưởng sau khi xây dựng mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu vì nó có thể có tác động lớn đến sự phán xét của kiểm toán viên: 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2