intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Ngân hàng trung ương với chính sách tiền tệ trong quản lý kinh tế ở Việt Nam

Chia sẻ: Nguyễn Phi Nhung Nhung | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:46

559
lượt xem
197
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo luận văn - đề án 'đề tài: ngân hàng trung ương với chính sách tiền tệ trong quản lý kinh tế ở việt nam', luận văn - báo cáo, tài chính - kế toán - ngân hàng phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Ngân hàng trung ương với chính sách tiền tệ trong quản lý kinh tế ở Việt Nam

  1. Đề tài : : “ Ngân hàng trung ương với chính sách tiền tệ trong quản lý kinh tế ở Việt Nam” -1-
  2. LỜI NÓI ĐẦU Xây dựng và thực hiện có hiện có hiệu quả chính sách tiền tệ quốc gia, tăng cường quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, góp phần phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường là một chủ trương lớn của Đảng và nhà nước ta. Hiện nay, trong công cuộc đổi mới đất nước với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường thì hệ thống ngân hàng và chính sách tiền tệ của chính phủ đóng một vai trò rất quan trọng. Chính vì vậy mà em chọn đề tài: “ Ngân hàng trung ương với chính sách tiền tệ trong quản lý kinh tế ở Việt Nam” đ ể tìm hiểu và nghiên cứu vai trò , chức năng của cả hệ thống ngân hàng cùng với sự cụ thể hoá chính sách tiền tệ, đặc biệt là ngân hàng trung ương nơi được coi là Ngân hàng của các Ngân hàng thì vai trò và chức năng của nó lại chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế của Việt Nam. Bài viết gồm những nội dung chính sau đây: Phần I : Lý luận chung về Ngân hàng Trung ương và chính sách tiền tệ. Phần II : Ngân hàng Trung ương và chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong thời gian qua Phần III : Một số giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam. -2-
  3. Mục lục Lời mở đầu………………………………………………..1 Nội dung……………………………………………………..3 I. Những vấn đề chung về Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Chính sách tiền tệ Q uốc gia ………………………………………………..3 1. Tổng quan về Ngân hàng Nhà nước Việt Nam……………….3 1.1. Lịch sử h́nh thành và phát triển của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. 1.2. Vị trí, chức năng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam……….5 1.2.1. Vị trí của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam……………….5 1.2.2. Chức năng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ………...5 2. Chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam……..6 2.1. Khái niệm về Chính sách tiền tệ.…………… ……...6 2.2. Vị trí và nhiệm vụ của Chính sách tiền tệ………………….8 2.2.1. Vị trí của Chính sách tiền tệ ………………………..8 2.2.2. Nhiệm vụ của Chính sách tiền tệ …………………………...8 2.3. Mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ…………….. ..8 2.3.1. Kiểm soát lạm phát và ổn định giá trị đồng bản tệ…… .8 2.3.2. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế……………………………10 2.3.3. Mục tiêu tạo công ăn việc làm và giảm thất nghiệp……...10 2.4. Các công cụ của Chính sách tiền tệ………………….11 2.4.1. Nghiệp vụ thị trường Mở. ………………………….11 2.4.2. Công cụ tái cấp vốn ( tái chiết khấu)……… ……………….. 13 2.4.3. Công cô dự trữ bắt buộc. ……………………………….14 2.4.4. Hạn mức tín dụng. ………………………………………16 2.3.5. Lăi suất tín dụng. …………………………………………..17 II.Thực trạng Chính sách tiền tệ của NHNNVN……………...19 1.Thành tựu đạt được………………………………………...19 2. Những hạn -3-
  4. chế……………………………………………………..22 2.1. Bất cập trong hoạch định Chính sách tiền tệ quốc gia. …………22 2.2. Bất cập trong việc điều hành Chính sách tiền tệ. ……………..23 2.2.1. Trong việc sử dụng các công cụ của Chính sách tiền tệ. …...23 2.2.2. Trong việc thực hiện các dịch vụ Ngân hàng ………..27 3. Đánh giá về chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hiện nay……………………………………………………………….29 III. Một số giải pháp khắc phục………………………………..41 Kết luận……………………………………………….44 Chương 1. Lí luận chung về hệ thống ngân hàng trung ương và chính sách tiền tệ. A. H ệ thống ngân hàng trung ương 1. Khái niệm ngân hàng trung ương(NHTW). Ngân hàng trung ương là ngân hàng của các ngân hàng, là cơ quan phát hành tiền của chính phủ, cơ quan kiểm soát việc cung ứng tiền tệ và tín dụng của nền kinh tế. II. Các chức năng của NHTW Theo luật ngân hàng nhà nước Việt nam tháng 12 năm 1997, ngân hàng nhà nước Việt Nam là cơ quan của chính phủ và là NHTW của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ 1. Là ngân hàng phát hành Ngân hàng phát hành xuất hiện, việc phát hành tiền được ấn định ở các ngân hàng phát hành, sau đó được ấn định vào một ngân hàng. Khi NHTW ra đời, NHTM đ ã đóng vai trò độc quyền phát hành tiền, có nhiệm vụ đảm bảo thống nhất an toàn cho hệ thống lưu thông tiền tệ. -4-
  5. Giấy bạc và tiền kim khí do NHTW phát hành vào lưu thông là phương tiện thanh toán hợp pháp trong mỗi Quốc gia và được thanh toán không hạn chế . Độc quyền phát hành tiền của NHTW không chỉ thể hiện quyền lực của NHTW mà còn nhấn mạnh trách nhiệm của NHTW trong việc phát hành tiền để đảm bảo phát triển kinh tế và lưu thông tiền tệ ổn định. 2. Là ngân hàng của các ngân hàng Sự ra đời và hoạt động của hệ thống ngân hàng 2 cấp đã tạo nên mối quan hệ đặc biệt giữa NHTW với các NHTM và các tổ chức tín dụng (gọi tắt là NH). Đó là mối quan hệ giữa chủ thể quản lý và khách thể chịu sự quản lý. Trong mối quan hệ này NHTW đóng vai trò là người quản lý vĩ mô đồng thời là một tác nhân kinh tế làm hậu thuẫn đối với các ngân hàng. Việc kết hợp quản lý bằng một hệ thống pháp chế, chính sách với việc áp dụng các biện pháp nghiệp vụ thông qua cơ chế thị trường, NHTW thực hiện chức năng là NH của các NH nhằm điều khiển toàn bộ hệ thống NH trong cả nước hoạt động một cách an toàn, năng động và có hiệu quả trong kỷ cương pháp luật. Nâng cao vai trò của hệ thống NH trong việc đảm bảo cung cấp cho nền kinh tế những dịch vụ tái chính tốt nhất tạo mọi điều kiện đẩy mạnh công cuộc phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa. 3. Là ngân hàng của Nhà nước. NHTW thực hiện cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho Chính phủ: - Làm thủ quỹ cho kho bạc Nhà nước thông qua quản lý tài kho ản của kho bạc, các khoản thu của kho bạc d ưới dạng thuế, phí, thu khác được gửi vảo tài kho ản tại NHTW. NHTW có trách nhiệm theo dõi thực hiện chi trả theo yêu cầu của kho bạc, trong thời gian kho bạc chưa sử dụng NHTW đ ược tạm thời sử dụng số dư nhàn rỗi này. - Bảo quản dự trữ Quốc gia về: Ngoại tệ, vàng b ạc, đá quý và tái sản quý khác, các chứng khoán do các tổ chức trong nước hoặc nước ngoài phát hành. - Làm đại lý cho Chính phủ trong việc đấu thầu, phát hành và thanh toán tín phiếu, trái phiếu, công trái của Chính phủ. - Cho ngân sách Nhà nước vay trong những trường hợp cần thiết. - Làm tư vấn cho Chính về những vấn đề kinh tế tiền tệ và đại diện cho Chính tại các tổ chức tài chính Quốc tế. Thực hiện quản lý Nhà nước về tiền tệ tín dụng và hoạt động ngân hàng. III. Vai trò quản lý vĩ mô của NHTW -5-
  6. NHTW khi thực hiện những chức năng của mình nhằm thực thi chính sách tiền tệ nó sẽ phát huy vai trò quan trọng của mình góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội thức đẩy kinh tế xã hội phát triển. 1. NHTW có trách nhiệm xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ Quốc gia Chính sách tiền tệ Quốc gia là chính sách kinh tế vĩ mô mà trong đó ngân NHTW sử dụng các công cụ của mình để điều tiết và kiểm soát khối lượng tiền cung ứng nhằm đảm bảo sự ổn định giá trị của đồng tiền, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đảm bảo công ăn việc làm. NHTW có một vai trò quan trọng trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến chính sách tiền tệ. Vì mọi hoạt động của NHTW đều ảnh hưởng đến cung ứng tiền tệ trong nền kinh tế. Như vậy thực thi chính sách tiền tệ là NHTW sử dụng công cụ một cách hiệu quả để điều chỉnh lượng tiề cung ứng cho phù hợp với các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô và chủ động kiểm soát lượng tiền trong nền kinh tế để đạt đ ược mục tiêu của chính sách tiền tệ. Thông qua tác động sâu sắc đến các yếu tố: Tín dụng, lãi suất, tỷ giá ... Các yếu tố này đã ảnh hưởng rất lớn đến mọi hoạt động trong nền kinh tế. 2. NHTW thực hiện quản lý và kiểm soát các tổ chức tín dụng. NHTW là cơ quan thi hành pháp luật, đồng thời là cơ quan ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng; là cơ quan ban hành các văn bản quy chế về tổ chức hoạt động, về cơ chế nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối để hệ thống tài chính hoạt động trong kỷ cương pháp luật, theo một chế độ thống nhất, tạo môi trường pháp lý và những điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tài chính hoạt động có hiệu quả cạnh tranh lành mạnh để tồn tại và phát triển. Họat động kinh doanh ngân hàng là lo ại hình kinh doanh đ ặc biệt quan hệ sâu rộng đến các hoạt động kinh tế khác. Với tư cách là cơ quan quản lý vĩ mô, NHTW có vai trò vô cùng quan trọng trong việc theo d õi, thanh tra, kiểm soát các ho ạt động ngân hàng, áp dụng các biện pháp có hiệu quả để bảo đảm cho hệ thống ngân hàng hoạt động theo kỷ cương pháp luật, tôn trọng các ưquy định của các quy định của NHTW. Trong quan hệ kinh tế - tiền tệ với các nước và các tổ chức tài chính Quốc tế, chỉ đạo và tạo điều kiện cho các ngân hàng mở rộng quan hệ kinh doanh trên thị trường Quốc tế, phát triển các dịch vụ thanh toán và các dịch vụ tài chính nhằm phục vụ đắc lực cho việc thực hiện chiến lược kinh tế mở, nhất là phát triển đầu tư, thương mại quốc tế IV. Mô hình tổ chức của NHTW -6-
  7. Tuỳ thuộc vào lịch sử truyền thống đặc điểm ra đời,chế độ chính trị,đặc điểm kinh tế của từng quốc gia mà NHTW có thể tổ chức theo mô hình tuỳ thuộc hay độc lập với Chính phủ. 1. Mô hình NHTW trực thuộc Chính phủ Theo mô hình này thì NHTW là cơ quan nằm trong bộ máy của Chính phủ.Chính phủ chi phối trực tiếp NHTW về nhân sự ,về tài chính và các quyết định các vấn đề liên quan đến việc xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ. Đối với mô hình này, Chính phủ sẽ bổ nhiệm người điều hành NHTW, quy đ ịnh hệ thống tổ chức, bộ máy quản trị điều hành NHTW. Hoạt động của NHTW phụ thuộc vào yêu cầu của Chính phủ. Mô hính này có nhược điểm: NHTW không hoàn toàn chủ động trong việc xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ, sự phụ thuộc làm hạn chế mục tiêu ổn định giá trị tiền tệ, góp phần tăng trưởng kinh tế đặc biệt là khi ngân sách bội chi thường xuyên, thường Chính phủ sẽ yêu cầu NHTM bù đắp. Mô hình này được thể hiện theo sơ đồ: Bộ Các thành viên máy Chính phủ - H ội đồng chính sách tiền tệ - Chủ tịch N HTW Thống đốc NH 2. Mô hình tổ chức NHTW độc lập Chính phủ. Theo mô hình này NHTW không nằm trong bộ máy của Chính phủ mà trực thuộc Quốc hội. NHTW quan hệ với Chính phủ là tương đ ối độc lập, NHTW có quyền quyết định việc xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ nhằm đạt các mục tiêu chính sách tiền tệ tiền đã đề ra mà không bị áp lực của Chính phủ vì chi tiêu của ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, NHTW hiên nay không hẳn được tổ chức theo mô hình độc lập với Chính phủ là có thể độc lập hoàn toàn không bị áp lực chính trị của thế lực cầm quyền mà mức độ độc lập là phụ thuộc vào sự chi phối của người đứng đầu Nhà nước đến cơ chế lập pháp và tổ chức của NHTW. Vì vậy không có một mô hình nào thích hợp tuyệt đối cho tất cả các Quốc gia, việc lựa chọn NHTW tuỳ thuộc vào mối quan hệ giữa NHTW với Chính phủ và do chế độ chính trị của Quốc gia quyết định. Như vây, cùng với sự đổi mới của nên kinh tế NHNN đã từng bước ho àn thiện các chức năng của NHTW và phát huy vai trò quản lý Nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng. B. Chính sách tiền tệ . -7-
  8. I. Khái niệm về chính sách tiền tệ. Có thể nói, chính sách tiền tệ là tổng hoà các phương thức mà Ngân hàng Trunl;g ương thông qua các hoạt động của m ình tác động đến các khối lượng tiền trong lưu thông nhằm phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước trong một thời kì nhất định. Chính sách tiền tệ có thể được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa thông thường. Theo nghĩa rộng thì chính sách tiền tệ là chính sách điều hành toàn bộ khối lượng tiền trong nền kinh tế quốc dân nhằm tác động đến 4 mục tiêu lớn của nền kinh tế vĩ mô, trên cơ sở đó đạt được mục tiêu cơ bản là ổn định tiền tệ giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả hàng hoá. Theo nghĩa thông thường chính sách quan tâm đến khối lượng tiền cung ứng tăng thêm trong kỳ tới phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế dự kiến và chỉ số lạm phát nếu có nhằm ổn định tiền tệ và ổn định giá cả hàng hoá. Chính sách tiền tệ có thể được điều hành theo hai hướng: Chính sách thắt chặt tiền tệ và chính sách mở rộng tiền tệ. + Chính sách thắt chặt tiền tệ là chính sách thu hẹp mức cung ứng tiền nhằm hạn chế chi tiêu đàu tư và chi tiêu dùng, qua đó có thể kiểm soát kạm phát, chống sự phát triển kinh tế quá nóng. Khi thắt chặt tiền tệ, một mặt Nhân hàng Trung ương làm giảm vốn khả dụng trong hệ thống ngân hàng, hạn chế sự sẵn có của các nguồn vốn dẫn tới giảm chi tiêu dùng và đầu tư. Mặt khác khi lãi suất thị trường được đẩy tăng lên, lãi suất thực tế tăng cũng làm hạn chế nhu cầu chi tiêu dùng, chi đầu tư, qua đó làm giảm tổng cầu, dẫn tới việc giảm lạm phát, hạn chế sự phát triển quá nóng của nền kinh tế. + Chính sách mở rộng tiền tệ là chính sách tăng mức cung ứng tiền, qua đó mở rộng các hoạt động đầu tư, tiêu dùng, nhằm tránh tình trạng thiểu phát của nền kinh tế. Sự tác động của chính sách tiền tệ mở rộng trước hết thông qua việc giảm lãi suất thị trường, hạ thấp phí tổn về vốn tín dụng để kích thích nhu cầu đầu tư và tiêu dùng. Việc mở rộng tiền tệ còn tăng cường vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng, mở rộng khả năng tài chính cung cấp cho nền kinh tế, tạo điều kiện tăng chi tiêu dùng và đầu tư. Ngân hàng Trung ương cũng có thể mở rộng tiền tệ bằng cách nới lỏng các hạn chế trong việc cấp tín dụng cho người vay (điều kiện vay vốn)... Chính sách tiền tệ mở rộng không chỉ tác động tới tăng chi tiêu dùng và tăng chi đầu tư mà còn tác động tới tăng xuất khẩu ròng. -8-
  9. Khi lãi suất đồng nội tệ có xu hướng giảm xuống sẽ làm giảm giá của nội tệ so với ngoại tệ và do vậy kích thích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu. Kết quả ở đây là chi tiêu ròng của nước ngoài về hàng hoá, d ịch vụ trong nước tăng làm tăng cầu và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Chính sách tiền tệ tác động vào nền kinh tế thông qua việc tác động vào thái đ ộ, dự tính của các nhà đầu tư, người tiêu dùng trên cơ sở việc điêù chỉnh mức cung tiền tệ mà chủ yếu là thông qua kênh tín dụng. Trong trường hợp kinh tế phát triển tốt việc giảm bớt khả năng tài chính bằng chính sách tiền tệ sẽ có tác động mạnh đến hoạt động đầu tư, tiêu dùng (nhất là trong điều kiện vốn thay thế bị hạn chế). Chính v ì vậy chính sách tiền tệ đặc biệt có hiệu quả cao khi cần chống lạm phát cao, hạn chế sự phát triển quá nóng của nền kinh tế. Nhưng trong điều kiện kinh tế trì trệ nhu cầu đầu tư tư nhân và tiêu dùng giảm mạnh, nền kinh tế khó hấp thụ đ ược khả năng tài chính được tạo ra do mở rộng tiền tệ. Chính sách tiền tệ có hiêu quả trong việc kích thích chi tiêu đầu tư và tiêu dùng. Chính sách tiền tệ quốc gia tập trung vào mức độ khả năng thanh toán cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, bao gồm việc đáp ứng khối lượng tiền cung ứng cho lưu thông, điều khiển hệ thống tiền tệ và khối lượng tín dụng đáp ứng vốn cho nền kinh tế, tạo điều kiện và thúc đẩy hoạt động của thị trường tiền tệ, thị trường vốn theo những quỹ đạo đã định, kiểm soát hệ thống các ngân hàng thương mại, cùng với việc kiểm soát tỉ giá hối đoái hợp lý nhằm ổn định và thúc đẩy kinh tế đối ngoại và kinh tế ngoại thương, nhằm mục tiêu cuối cùng là ổn dịnh tiền tệ, giữ vững sức mua đồng tiền, ổn định giá cả hàng hoá. Một chính sách tiền tệ hoàn chỉnh là một chính sách mà việc cung ứng tiền cho lưu thông để khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường, bảo vệ môi trường sinh thái thông qua công cụ lãi suất và việc đảm bảo việc làm và thất nghiệp ở mức tự nhiên, đồng thời đảm bảo mức tăng trưởng. Với mỗi quốc gia thì các mục tiêu này là khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội cụ thể khi hoạch định chính sách. II. Công cụ của chính sách tiền tệ. Theo các quy luật kinh tế sự cân bằng chỉ là tạm thời, nền kinh tế luôn biến động theo chu kỳ. Do đó nhìn chung, Ngân hàng Trung ương có thể sử dụng hai loại chính sách tiền tệ: -9-
  10. + Chính sách nới lỏng tiền tệ được thực hiện khi nền kinh tế có tình trạng suy thoái nhằm cung ứng thêm tiền cho nền kinh tế, hạ lãi suất, khuyến khích đầu tư phát triển, tạo công ăn việc làm. + Chính sách thắt chặt tiền tệ khi nền kinh tế phát triển quá nóng nhằm giảm cung ứng tiền, nâng lãi suất, hạn chế đầu tư, kiềm chế lạm phát. Ngân hàng Trung ương là cơ quan tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ, mà chính sách tiền tệ chỉ có thể tác động vào thị trường tiền tệ qua đó tác động đến tổng cầu và sản lượng nên việc kiểm soát của Ngân hàng Trung ương tập trung chủ yếu vào mức cung tiền hoặc lãi suất. Để tác động đến hai nhân tố này Ngân hàng Trung ương sử dụng các công cụ trực tiếp hoặc công cụ gián tiếp. 1. Các công cụ trực tiếp. Là các công cụ mà Ngân hàng Trung ương có thể tác động trực tiếp đến cung cầu tiền tệ mà không phải thông qua công cụ khác. a. ấn định khung lãi suất tiền gửi và cho vay. Đây được coi là công cụ bổ trợ m à Ngân hàng Trung ương sử dụngđể trực tiếp điều khiển và chi phối toàn bộ lãi suất tín dụng trong nền kinh tế Ngân hàng trung ương có thể quy định khung lãi suất tiền gửi và buộc các ngân hàng kinh doanh phải thi hành. Nếu lãi suất quy định cao sẽ thu hút được lượng tiền gửi lớn làm gia tăng nguồn vốn cho vay. Nếu lãi suất quy định thấp, sẽ làm giảm lượng tiền gửi, giảm khả năng mở rộng kinh doanh tín dụng. Tuy nhiên biện pháp này làm cho các Ngân hàng thương mại mất tính chủ động linh hoạt trong kinh doanh. Mặt khác dễ dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn ở Ngân hàng nhưng lại thiếu vốn đầu tư hoặc khuyến khích dân cư dùng tiền vào dự trữ vàng. Ngân hàng trung ương có thể quy định khung lãi suất cho vay buộc các ngân hàng kinh doanh chấp hành . Khi muốn tăng khối lượng cho vay, Ngân hàng Trung ương giảm mức lãi suất cho vay để khuyến khích các nhà đầu tư vay vốn. Khi cần hạn chế đầu tư, Ngân hàng Trung ương sẽ ấn định mức lãi suất cao. Biện pháp này có ưu điểm là giúp ngân hàng lựa chọn dự án kinh tế tối ưu để cho vay, loại bỏ những phương án kém hiệu quả. -10-
  11. Tuy nhiên, nó có nhược điểm là làm cho tính linh hoạt của thị trường tiền tệ bị suy giảm, các ngân hàng thương mại bị động trong kinh doanh. Việc áp dụng khung lãi suất tiền gửi và cho vay nhìn chung ngày càng ít được áp dụng trong cơ chế thị trường, bởi vì trong cơ chế thị trường lãi suất rất nhạy cảm với đầu tư, nó gửi được vận động theo quan hệ cung- cầu vốn trên thị trường. b. ấn định hạn mức tín dụng. Nhiều nhà kinh tế cho rằng việc tăng tín dụng đối với nền kinh tế do các ngân hàng thương mại thực hiện là không ảnh hưởng đến lạm phát và giá cả. Hạn mức tín dụng là khối lượng tín dụng mà ngân hàng trung ương có thể cung ứng cho nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định, phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế của thời kỳ đó. Sau đó tìm con đường để đưa nó vào nền kinh tế. Song trong nền kinh tế thị trường, Cung - cầu tín dụng biến động không ngừng, biện pháp này chỉ được áp dụng một cách hạn chế khi tình huống yêu cầu. c. Phát hành tiền trực tiếp cho ngân sách và cho đầu tư. Trong điều kiện ngân sách bị thiếu hụt, ngân hàng trung ương phải phát hành tiền để bù đắp sự thiếu hụt ấy. Phát hành tiền trực tiếp cho đầu tư, có thể qua ngân sách nhà nước hoặc qua con đường tín dụng ngân hàng. Biện pháp này cần thiết trong điều kiện kinh tế suy thoái, dư thừa tiềm năng kinh tế. Nó sẽ mang lại hiệu quả tích cực nếu việc phát hành này được sử dụng để khơi dậy các tiềm năng về tài nguyên và con người. Tuy nhiên biện pháp này sẽ làm gia tăng lạm phát do đó làm tăng lượng tiền trong lưu thông. Do đó cần phải được loại trừ trong điều kiện kinh tế bình thường. d. Phát hành trái phiếu ngân hàng để làm giảm lượng tiền trong lưu thông. Trong điều kiện không thể áp dụng biện pháp khác, chính phủ có thể phát hành một lượng trái phiếu nhất định để thu hút bớt lượng tiền trong lưu thông. 2. Các công cụ gián tiếp. Là những công cụ mà tác dụng của nó có được là nhờ cơ chế thị trường. Ba công cụ mà NHTW có thể sử dụng để điều tiết cung ứng tiền tệ: Nghiệp vụ thị trường mở, nghiệp vụ này ảnh hưởng lớn đến cơ số tiền tệ; lãi suất tái chiết khấu, thay đổi lãi suất này ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ bằng cách ảnh hưởng đến -11-
  12. lượng vay chiết khấu của NHTM; việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng bằng cách ảnh hưởng đến số nhân tiền tệ. Sau đây, chúng ta sẽ đi tìm hiểu xem Ngân hàng Trung ương đ ã sử dụng những công cụ đó trong thực tế như thế nào đ ể tác động đến các hoạt động kinh tế. a. D ự trữ bắt buộc. Là phần tiền gửi mà các Ngân hàng Thương m ại phải đưa vào dự trữ theo luật định. Phần dự trữ này được gửi vào tài kho ản chuyên dùng ở N gân hàng Trung ương và để tại quỹ của mình với mục đích góp phần đảm bảo khả năng thanh toán của Ngân hàng Thương mại và dùng đ ể kiểm soát khối lượng tín dụng của ngân hàng này. Ngân hàng Trung ương là cơ quan duy nhất được phép ra quyết định về thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc, những thay đổi đó tác động đến cung ứng tiền tệ bằng cách gây ra những thay đổi trong số nhân tiền tệ. Khi tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ làm giảm khả năng cho vay và đ ầu tư của Ngân hàng Thương mại, từ đó giảm lượng tiền trong lưu thông, góp phần giảm cầu để cân bằng với giảm cung xã hội. Trong trường hợp tỷ lệ dự trữ bắt buộc giảm xuống sẽ mở rộng khả năng cho vay của Ngân hàng Thương mại, dẫn đến sự gia tăng lượng tiền trong lưu thông, góp phần tăng cung ứng tiền. Như vậy, khi thay đổi quy mô của tỷ lệ dữ trữ bắt buộc, Ngân hàng Trung ương đã khống chế một cách gián tiếp những mạnh mẽ đến mức cung tiền. b. Lãi suất tái chiết khấu. Lãi suất tái chiết khấu là lãi suất quy định của Ngân hàng Trung ương cho các Ngân hàng Thương mại vay để đảm bảo có đầy đủ hoặc tăng thêm dự trữ của các Ngân hàng Thương mại . Việc ấn định lãi suất tái chiết khấu, tái cấp vốn của Ngân hàng Trung ương có thể tác động đến khả năng vay của Ngân hàng Thương mại và do đó làm cho cung ứng tiền tăng lên hoặc giảm xuống. Khi lãi suất tái chiết khấu tăng, các Ngân hàng Thương mại sẽ giảm lượng vay ở N gân hàng Trung ương, do đó sẽ làm giảm cơ số tiền tệ và lượng tiền cung ứng giảm. Ngược lại, nếu lãi suất chiết khấu giảm, các Ngân hàng Thương mại sẽ tăng lượng vay ở Ngân hàng Trung ương để tăng dự trữ mở rộng ở số tiền tệ và làm lượng tiền cung ứng tăng lên. c. Nghiệp vụ thị trường mở. -12-
  13. Thị trường mở là thị trường của N gân hàng Trung ương được sử dụng để mua bán các giấy tờ có giá. Khi muốn tăng lượng tiền trong lưu thông, Ngân hàng Trung ương sẽ mua một lượng giấy tờ có giá nhất định. Kết quả là đã đưa vào thị trường một lượng tiền cơ sở bằng cách tăng dự trữ của các Ngân hàng Thương mại, do đó làm tăng khối lượng cho vay và mức cung tiền tăng lên gấp bội. Ngược lại khi muốn giảm lượng tiền trong lưu thông thì các Ngân hàng Trung ương bán lượng giấy tờ có giá đang nắm giữ. Việc các Ngân hàng Thương mại mua giấy tờ có giá của Ngân hàng Trung ương sẽ làm giảm dự trữ của mình và sẽ giảm lượng tiền cung ứng. Chẳng hạn như việc mua trái phiếu chính phủ, trái phiếu ngân hàng nhằm tác động khối lượng tiền dự trữ trong quỹ dự trữ của các Ngân hàng Thương m ại là các tiêu chuẩn tài chính nhằm hạn chế tiềm năng tín dụng và khả năng thanh toán của các ngân hàng này, qua đó điều khiển khối lượng tiền trong thị trường tiền tệ. Thông thường trong điều kiện kinh tế thị trường phát triển, nghiệp vụ thị trường mở được chỉ đạo sát sao từng giờ. Việc mua bán các loại trái phiếu đ ược tiến hành liên tục nên nó ảnh hưởng thường xuyên đ ến khối lượng dự trữ của các Ngân hàng Thương mại và hình thành nên lãi suất vốn trong to àn quốc. Lãi suất là cơ sở cho lãi suất tín dụng và tác động lên các lãi suất thị trường vốn. Thị trường mở đòi hỏi phải có một môi trường pháp lý nhất định. Môi trường hoạt động tốt nhất cho nghiệp vụ thị trường mở là thị trường chứng khoán. Tại thị trường này, Ngân hàng Trung ương hoàn toàn chủ động mua bán các loại trái phiếu cổ phần lưu thông trên thị trường. Vì vậy, công cụ này rất hữu hiệu đối với các nước kinh tế phát triển có thị trường tài chính hoàn chỉnh. -13-
  14. Chương 2. Thực trạng ngân hàng trung ương với việc thực thi chính sách tiền tệ để điều tiết nền kinh tế vĩ mô ở việt nam. I. SƠ LƯỢC VỀ NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG VIỆT NAM. 1. Sự ra đời. Từ cuối thế kỷ 19 trở về trước ở Việt Nam chưa có một ngân hàng nào xuất hiện do kinh tế nghèo nàn lạc hậu, mang nặng tính tự cung, tự cấp, thương mại kém phát triển nên hầu như nhu cầu giao dịch tiền tệ không đáng kể. Cuối thế kỷ 19 khi Pháp xâm chiếm nước ta và thiết lập xong nền đô hộ. Do các hoạt động kinh tế của Pháp phát triển mạnh nên Pháp phải lập các ngân hàng để hỗ trợ các hoạt động kinh tế. Lúc đầu có hai ngân hàng được Pháp thành lập , trụ sở chính được đặt tại chính quốc nhưng chi nhánh ở khắp Việt Nam. Đó là: Ngân hàng Đông Dương và Pháp- Hoa ngân hàng . Đến năm 1927 ở miền nam Việt Nam, một nhóm tư bản tài chính Việt Nam thành lập tại Sài Gòn m ột ngân hàng lấy tên là: An Nam Ngân Hàng( sau đó đổi tên thành Việt Nam Ngân Hàng). Trong khoảng thời gian từ 1945 đến tháng 5-1951, tại Việt Nam không có một loại hình ngân hàng nào. Mọi hoạt động thuộc lĩnh vực tiền tệ- tín d ụng đều do bộ tài chính đảm nhiệm Tháng 2-1951 chính phủ đã đề ra mục tiêu cho công tác tài chính là thống nhất quản lý thu- chi ngân sách nhà nước, thành lập ngân hàng quốc gia để phát hành giấy bạc ngân hàng, làm nhiệm vụ quản lý tiền tệ và thi hành chính sách tín dụng nhằm phát triển kinh tế Ngày 6 -5 -1951 Chủ Tịch Hồ Chí Minh đ ã ký sắc lệnh số 15/ SL thành lập ngân hàng quốc gia Việt Nam và đồng thời ký sắc lệnh 17/ SL quy định:” Mọi công việc của Nha Ngân Khố và Nha Tín D ụng sản xuất giao cho ngân hàng quốc gia phụ trách”. -14-
  15. Sự ra đời của ngân hàng quốc gia Việt Nam là một bước ngoặt lịch sử trong lĩnh vực tiền tệ- tín d ụng ở nước ta. Lần đầu tiên trong lịch sử, dưới chính thể dân chủ mới, Việt Nam đã thành lập được một ngân hàng mang đầy đủ tính chất độc lập- tự chủ của đất nước. 2. Quá trình phát triển của ngân hàng nhà nước Việt Nam. Ngân hàng Trung ương của Việt Nam với tên gọi là ngân hàng nhà nước Việt Nam được thành lập từ năm 1951 trong điều kiện nền kinh tế nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu. Nó là hệ thống ngân hàng một cấp phù hợp với cơ chế quản lý của nền kinh tế theo kế hoạch tập trung và mang tính bao cấp triệt để. Hệ thống ngân hàng một cấp này chỉ có một ngân hàng duy nhất là ngân hàng nhà nước, vừa thực hiện chức năng quản lý, vừa thực hiện chức năng kinh doanh, cơ cấu mạng lưới theo cơ cấu quản lý hành chính. Cùng với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường, năm 1998 hệ thống ngân hàng một cấp được chuyển sang hệ thống ngân hàng hai cấp. Tuy nhiên, chỉ sau khi ban hành hai pháp lệnh về ngân hàng( ngày 23-5-1990), thì hệ thống ngân hàng hai cấp ở Việt Nam mới thực sự được xây dựng phù hợp với mô hình ngân hàng hai cấp của nền kinh tế thị trường. Khái niệm NHTW lần đầu tiên được đề cập trong pháp lệnh ngân hàng( 5-1990) và trong luật ngân hàng nhà nước( 12-1997). “Ngân hàng nhà nước Việt Nam là cơ quan của chính phủ và là ngân hàng trung ương của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngân hàng nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và làm dịch vụ tiền tệ cho chính phủ”. N gân hàng nhà nước Việt Nam là thành viên của hội đồng chính phủ. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của ngân hàng nhà nước Việt Nam là hội đồng quản trị gồm 10 thành viên. Chủ tịch là thống đốc, phó chủ tịch là phó thống đốc ngân hàng nhà nước, 4 uỷ viên cấp thứ trưởng đại diện cho bộ tài chính, bộ thương mại, bộ kế hoạch và đầu tư, còn 4 uỷ viên khác được chọn trong số các chuyên -15-
  16. gia kinh tế- tiền tệ. Ngoài chủ tịch hội đồng quản trị là thống đốc được bổ nhiệm như thành viên khác của chính phủ còn các thành viên khác do thủ tướng chính phủ bổ nhiệm theo đề nghị của thống đốc ngân hàng. Nhiệm kỳ của hội đồng quản trị là 5 năm. Điều hành công việc hàng ngày của ngân hàng nhà nước là thống đốc và một số phó thống đốc cùng với hoạt động cấp trung ương và cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương MỘT VÀI CHỈ SỐ VỀ QUY MÔ VÀ HIỆU SUẤT HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM SO VỚI CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC (Nguồn tạp chí ngân hàng số 1+2 năm 2000) Quốc gia Huy động vốn/GDP Tín dụng/GDP Tín dụng/Huy động vốn Năm Năm N ăm N ăm Năm N ăm 1992* 1998* 1992* 1998* 1992* 1998* Indonesia 68% 91% 74% 128% 1,22 1,06 Hàn Quốc 37% 54% 58% 78% 1,58 1,44 Singapore 83% 105% 61% 85% 0,74 0,89 Thái Lan 68% 91% 74% 128% 1,08 1,40 Trung Quốc 73% 117% 95% 125% 1,30 1,07 Việt Nam** 23,0% 34,0% 27,0% 33,0% 1,14 0,98 Nguồn: IMF (tính toán từ IFS-July 1999, *) Việt Nam là năm 1996 và 1999, **) số liệu Việt Nam suy ra từ báo cáo th ường niên các năm và ước tính. Huy động vốn ngày càng đóng vai trò tích cực hỗ trợ thực hiện tốt các mục tiêu chính sách tiền tệ. Kể từ cuối năm 1993, khi Ngân hàng nhà nước tổ chức hình thànhđược thị trường nội tệ liên Ngân hàng và sau đó gần một năm là thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng. Các Ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng có điều kiện làm quen với cơ chế tự điều hòa vốn với nhau, nâng cao hiệu suất vốn khả năng trong toàn hệ thống, hạn chế đến mức thấp nhu cầu tái cấp vốn từ Ngân hàng nhà nước. Phối hợp với bộ tài chính đến tháng 6/1995, Ngân hàng nhà nước chính thức đấu giá tín phiếu kho bạc, tạo thêm công cụ huy động vốn trên thị trường tiền tệ đồng thời góp phần lành mạnh hoá ngân sách. Bên -16-
  17. cạnh đó, việc phát hành trái phiếu kho bạc hay công trái chính phủ diễn ra khá thường xuyên bổ sung thêm bộ phận lớn nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế. Trên cơ sở nguồn vốn huy động khá dồi dào, tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế cũng gia tăng mạnh mẽ, đồng thời chuyển từ cho vay chủ yếu đối với các xí nghiệp quốc doanh sang cho vay với mọi thành phần kinh tế. Cơ cấu tín dụng đổi mới theo hướng tăng cường đầu tư cho các ngành sản xuất, dịch vụ, chuyển từ cho vay ngắn hạn là chủ yếu sang đẩy mạnh cho vay trung và dài hạn. Các Ngân thương mại quốc doanh và ngoài quốc doanh, các quỹ tín dụng nhân dân mở rộng cho vay hộ nông dân, cho vay tạo việc làm, cho vay xoá đói giảm nghèo, cho vay hỗ trợ xây dựng nhà ở đồng bằng sông Cửu long, cho vay phát triển kinh tế trang trại, cho vay đóng mới tàu thuyền đánh bắt xa bờ và các mục tiêu kinh tế xã hội khác. Việc huy động các nguồn vốn nhàn rỗi vào ngân hàng và cung ứng tín dụng ngày càng nhiều, đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế là một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy quá trình tiền tệ hoá nền kinh tế. Bên cạnh cung ứng tiền cho nền kinh tế thông qua con đường tín dụng, hàng năm Ngân hàng trung ương còn phải bổ sung một phần tiền cung ứng khi chuyển đổi lượng ngo ại tệ ròng kết dư nhằm phục vụ mục tiêu ổ n định sức mua đối với đồng tiền VN. Mặt khác, hiện nay về cơ bản việc phát hành tiền bù đắp thâm hụt ngân sách của Ngân hàng nhà nước đã được chấm dứt, kết quả là tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán M2 hàng năm nhìn chung ổn định phù hợp với các động thái tăng trưởng và lạm phát. Việc điều hành chính sách tiên tệ luôn được đặt trong mối quan hệ khăng khít với các chính sách kinh tế vĩ mô (chính sách tài chính, chính sách xuất nhập khẩu ... ) ngay từ giai đoạn hoạch định dến quá trình thực thi. Nhờ vậy đảm bảo hỗ trợ tốt thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội trong từng thời kì và lo ại bỏ được những nhân tố tiêu cực, gây trở ngại và hạn chế hiệu năng của chính sách tiền tệ. H ơn nữa bản thân chính sách tiền tệ chỉ phát huy tốt hiệu lực vốn có khi các bộ phận của nó được xử lý hết sức linh hoạt và đ ồng bộ. Nếu như trước đây Ngân hàng nhà nước phải dùng m ệnh lệnh hành chính để tăng giảm lãi suất, tỉ giá, tăng giảm lượng cung tiền trên thị trường thì nay, với việc hoàn thiện từng bước các công cụ của chính sách tiền tệ, Ngân hàng trung ương dựa vào tín hiệu thị trường để điều hành chính sách tiền tệ. Đây là bước tiến căn bản của Ngân hàng trung ương trong quản lý thông qua các công cụ điều hành chính sách tiền -17-
  18. tệ theo cơ chế thị trường. Mặc dù việc điều hành chính sách tiền tệ đó chưa được hoàn hảo song chúng đã phát huy tác dụng đưa lại hiệu quả cho nền kinh tế. Tăng trưởng tín dụng và huy động vốn cho nền kinh tế ước tính đến hết tháng 12/2000 dư nợ cho vay tăng 21% và vốn huy động tăng 25% so với năm 1999. So sánh với 3 năm gần đây, năm 1999 dư nợ tín dụng tăng19,2%, vốn huy động tăng 34%; năm 1998d ư nợ tăng16,4%, vốn huy động tăng 34%; năm 1997 dư nợ tăng 22%, còn vốn huy động tăng 25,7%. Như vậy trong năm 2000, tín dụng tăng trưởng cả về quy mô và tốc độ trong khi nợ quá hạn được kiềm chế. Đến hết năm 2000, tỷ lệ nợ quá hạn của toàn bộ hệ thống ngân hàng giảm gần 2% so với 1999;11,7%so với tổng dư nợ. 1. V ề lãi suất. Ngày 2/8/2000, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt nam đã ra quyết định số 241/2000/ QĐ-NHNN về việc thay đổi cơ chế điều hành lãi suất cho vay của các tài sản tín dụng đối với Ngân hàng, chấm dứt việc điều hành lãi suất theo cơ chế “trần lãi suất cho vay” sang điều hành lãi suất theo lãi suất cơ b ản. Đây là một b ước tiến quan trọng của quá trình tự do hoá lãi suất . Trong 6 tháng đầu năm 2001, Ngân hàng Trung ương tiếp tục thực hiện cơ chế lãi suất cơ bản đối với VNĐ, giảm lãi suất chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn phù hợp với thực tiễn, giảm lãi suất cơ bản để mở rộng tín dụng và thúc đ ẩy sản xuất kinh doanh, thực hiện tự do hoá lãi suất cho vay ngoại tệ. Các Ngân hàng Thương mại đ ược chủ động quy định các mức lãi suất cho vay cụ thể của mình theo biên độ xoay quanh lãi suất cơ bản, trên cơ sở đó chủ động quy định các mức lãi suất tiền gửi. Đối với VNĐ, lãi suất cơ bản đã ba lần giảm từ 0,75%/tháng xuống còn 0,65%/tháng nhưng vẫn giữ nguyên biên độ 0,3% tháng đối với cho vay ngắn hạn và 0,5% tháng đối với cho vay trung và dài hạn. Đối với ngoại tệ, năm tháng đầu năm tiếp tục điều hành lãi suất cho vay bằng Đôla dựa trên cơ sở lãi suất SIBOR (lãi suất trên thị trường liên Ngân hàng Singapo) cộng với biên độ 1,0% đối với cho vay ngắn hạn; 2,5% đối với cho vay trung và dài hạn. Từ 1/6/2001 Ngân hàng Nhà nước đã có quyết định bỏ cơ chế khống chế biên độ cho phép các tổ chức tín dụng dựa trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu vốn ngo ại tệ trong nước mà thoả thuận với từng khách hàng mức lãi suất cho vay phù hợp. Riêng đối với lãi suất vay tiền gửi ngoại tệ của các pháp nhân tại tổ -18-
  19. chức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước vẫn khống chế ở mức thấp nhằm khống chế việc nắm iữ đô la trong tài kho ản và hạn chế đô la hoá trong điều kiện hạn chế tỷ lệ kết hối giảm từ 50% xuống còn 40% như hiện nay. Cùng với việc điều hành theo lãi suất cơ bản, trong 6 tháng qua ngân hàng nhà nước đã liên tục hạ lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn (lãi suất tái cấp vốn giảm từ 0,5% xuống còn 0,4%/tháng; lãi suất tái chiết khấu giảm từ 0,45% xuống còn 0,35%/tháng). Một thời gian dài các Ngân hàng Thương mại cổ phần gặp rất nhiều khó khăn trong công tác chiết khấu nhưng nay với cơ sở “nới lỏng” của Ngân hàng Nhà nước đã dễ d àng hơn trong việc vay vốn theo hình thức tái chiết khấu. Như vậy chuyển sang cơ chế điều hành lãi suất cơ bản đã tạo điều kiện thúc đẩy cạnh tranh giữa các Ngân hàng Thương mại có lợi cho người gửi tiền và người vay vốn, thúc đẩy chu chuyển vốn, hình thành lãi suất bình quân hợp lý trên cơ sở quan hệ cung cầu về vốn trong nền kinh tế. Diễn biến lãi suất cơ bản của NHNNVN. (đơn vị: %/tháng-các thời điểm điều chỉnh). 0.8   0,7  0,75 0,725  0,70 0,6  0,65 0,60 0,5 0,4 0,3 0,2 0,1 0 1/8/2000 1/3/2001 1/4/2001 1/6/2001 1/10/2001 -19-
  20. D iễn biến lãi suất chủ đạo của SIBOR.  7,5  7,0   6,5 6,0  5,5  5,0   4,6   4,0 3,5   3,0 2,5 2/1/2001 1/3/2001 16/5/2000 3/1/2001 31/1/2001 20/3/2001 18/4/2001 15/5/2001 27/6/2001 21/8/2001 11/9/2001 2. Hạn mức tín dụng. Công cụ này được Ngân hàng nhà nước áp dụng từ năm 1994 và đã có tác động hiệu quả đến việc hạn chế tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán trong những năm 1995-1997 và qua đó kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên từ cuối năm 1997 và đầu năm 1998, công cụ hạn mức tín dụng đã dần mất đi vai trò của nó trong việc hạn chế việc hạn chế gia tăng của tổng phương tiện thanh toán . Hơn nữa việc mở rộng tổng phương tiện thanh toán trong giai đoạn này là cần thiết để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nếu tiếp tục thực hiện hạn mức tín dụng sẽ tạo ra khó khăn cho các Ngân hàng Thương mại trong việc mở rộng tín dụng . Do vậy từ quý II- 1 998, ngân hàng nhà nước đã không áp dụng hạn mức tín dụng như là một công cụ thường xuyên trong điều hành chính sách tiền tệ. Mặc dù vậy mức tăng trưởng tín dụng vẫn tiếp tục được theo dõi để có những giải pháp kịp thời nhằm hạn chế sự gia tăng khi nó có xu hướng tăng cao. 3. Sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc. Kể từ khi ban hành pháp lệnh ngân hàng năm 1989, hệ thống ngân hàng được tách làm hai cấp thì công cụ dự trữ bắt buộc lần đầu tiên được sử dụng ở nước ta. Tại điều 45 pháp lệnh NHNN đ ã quyết định tỷ lệ dự trữ bắt buộc tối thiểu là 10%, tối đa là 35% trên toàn bộ tiền gửi ở các tổ chức tín dụng. Pháp -20-
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2