intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Nghiên cứu đặc tính dinh dưỡng của cá Ngát (Plotosus canius) với các kích cỡ khác nhau

Chia sẻ: Nhu Chau | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:33

157
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài bao gồm một số nội dung sau: 1. Quan sát các đặc điểm hình thái giải phẩu cơ quan tiêu hóa của cá Ngát (Plotosus canius) ở các kích cỡ khác nhau. 2. Phân tích thức ăn trong ống tiêu hóa của cá Ngát, thu từ các thủy vực tự nhiên ở các kích cỡ khác nhau. 2.1. Phân tích thức ăn trong ống tiêu hóa của cá Ngát, thu ở thủy vực nước ngọt. 2.2. Phân tích thức ăn trong ống tiêu hóa của cá Ngát, thu ở thủy vực nước lợ mặn. 3. Phân tích thức...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Nghiên cứu đặc tính dinh dưỡng của cá Ngát (Plotosus canius) với các kích cỡ khác nhau

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA THỦY SẢN TR ẦN TH Ị DI ỄM TRINH NGHI ÊN C ỨU Đ ẶC ĐI ỂM DINH D Ư ỠNG C ỦA C Á NG ÁT (Plotosus canius Hamilton, 1822) Ở CÁC KÍCH CỠ KHÁC NHAU LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN CÁN BỘ HƯỚNG DẪN DƯƠNG THỊ BẠCH LOAN 2009 1
  2. CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU Việt Nam nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới, với đường bờ biển dài 3.260km2, có nhiều rừng ngập mặn, nhiều ao hồ, kênh rạch và các sông lớn như: sông Hồng, sông Thái Bình, sông Cửu Long,…Vì vậy thành phần và số lượng động vật Thủy sản rất phong phú và đa dạng. Sông Cửu Long thuộc hệ thống sông MeKong bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng chảy qua 6 quốc gia đến Việt Nam chia thành hai nhánh sông chính là: sông Tiền và sông Hậu, cuối cùng là đổ ra biển Đông. Với mạng lưới sông ngòi kinh rạch chằng chịt, đã tạo nên một lượng thức ăn tự nhiên và tôm cá. Đây chính là một trong những lợi thế quan trọng giúp nghề nuôi trồng và khai thác thủy hải sản phát triển mạnh mẽ. Vì vậy mà nghề nuôi thủy ở Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) nói riêng và cả nước nói chung đã góp phần làm cho nước ta đứng hàng thứ 7 trên thế giới về xuất khẩu sản phẩm thủy sản (atpvietnam.com/vn/thongtinnganh/7752/index.aspx). Hiện nay nhiều đối tượng cá đang được nuôi phổ biến như: cá Lóc, cá Chình, Bống Tượng, Nghêu, Tôm càng xanh,… Tuy nhiên, vẫn còn một số loài có giá trị kinh tế cao như cá Bông Lau, cá Chạch Lấu, cá Leo, cá Ngát,... chưa được quan tâm đúng mức, nguồn lợi thủy sản trong tự nhiên bị con người khai thácquá mức, sự cạnh tranh gay gắt của thị trường thế giới làm cho đầu ra của sản phẩm cá tra, cá basa bấp bênh gây bất lợi cho ngành thủy sản. Do vậy việc phát triển đối tượng nuôi mới với những loài bản điạ có triển vọng kinh tế, trong đó có cá Ngát là rất cần thiết. Mặc dù là loài có giá trị kinh tế cao nhưng nghiên cứu về loài cá này ở nước ta chưa nhiều và nghiên cứu chưa sâu. Từ nhận định đó, việc nghiên cứu các vấn đề về sinh học của loài cá này, đặc biệt là nghiên cứu đặc điểm dinh dưỡng sẽ góp phần xây dựng cơ sở khoa học cho hoạt động quy hoạch, khai thác bảo vệ nguồn lợi. Đồng thời làm cơ sở cho việc ương nuôi đối tượng trên. Với ý nghĩa đó đề tài “Nghiên cứu đặc điểm dinh dưỡng của cá Ngát (Plotosus canius Hamilton, 1822) ở các kích cỡ khác nhau” được thực hiện. Mục tiêu của đề tài Nghiên cứu đặc tính dinh dưỡng của cá Ngát (Plotosus canius) với các kích cỡ khác nhau, nhằm góp phần hoàn chỉnh những dẫn liệu về đặc điểm dinh dưỡng của cá Ngát (Plotosus canius), làm cơ sở cho những nghiên cứu tiếp theo về nhu cầu dinh dưỡng và chế biến thức ăn phục vụ cho việc ương nuôi loài cá kinh tế này . 2
  3. Đề tài bao gồm một số nội dung sau: 1. Quan sát các đặc điểm hình thái giải phẩu cơ quan tiêu hóa của cá Ngát (Plotosus canius) ở các kích cỡ khác nhau. 2. Phân tích thức ăn trong ống tiêu hóa của cá Ngát, thu từ các thủy vực tự nhiên ở các kích cỡ khác nhau. 2.1. Phân tích thức ăn trong ống tiêu hóa của cá Ngát, thu ở thủy vực nước ngọt. 2.2. Phân tích thức ăn trong ống tiêu hóa của cá Ngát, thu ở thủy vực nước lợ - mặn. 3. Phân tích thức ăn trong ống tiêu hóa của cá Ngát ở mùa mưa và mùa nắng 3
  4. CHƯƠNG II: LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 1. Tổng quan Bộ Cá da trơn hay bộ Cá nheo (danh pháp khoa học: Siluriformes) là một bộ cá rất đa dạng trong nhóm cá xương. Các loài cá trong bộ này dao động khá mạnh về kích thước và các thức sinh sống, từ loài nặng nhất là cá tra dầu (Pangasius gigas) ở Đông Nam Á tới loài dài nhất là cá nheo châu Âu (Silurus glanis) của đại lục Á-Âu, hay những loài chỉ ăn xác các sinh vật chết ở lớp nước đáy, hay các loài cá ký sinh nhỏ bé như Vandellia cirrhosa. Có các loài với các kiểu tấm xương bảo vệ cũng như các loài không có tấm xương bảo vệ này, nhưng tất cả chúng đều không có vảy. Không phải loài cá da trơn nào cũng có râu; các đặc trưng để xác định bộ Siluriformes trên thực tế là các đặc điểm chung của hộp sọ và bong bóng. Bộ cá này có tầm quan trọng kinh tế đáng kể, nhiều loài được chăn nuôi ở quy mô lớn để cung cấp cá thực phẩm, một vài loài được nuôi thả như là cá câu thể thao. Nhiều loài cá nhỏ, cụ thể là các loài trong chi Corydoras, được nuôi làm cá cảnh trong các bể cá,… Do đó có khá nhiều nghiên cứu về cá trơn nói chung, tùy theo điều kiện và mục đích mà các nghiên cứu cung cấp cho các độc giả những kết quả với các mức độ khác nhau. Tuy nhiên, những nghiên cứu riêng biệt về cá Ngát (Plotosus canius) còn ít. Trên cở sỡ những tài liệu nghiên cứu về cá Ngát và những vấn đề có liên quan được tổng hợp và trình bày theo một số nội dung sau. 1.1. Đặc điểm hình thái phân loại cá Ngát 1. Vị trí phân loại Theo dẫn liệu cập nhật (Google, 2008) cho thấy bộ Siluriformes gồm có 36 họ, 477 giống, 3088 loài cá phân bố rộng khắp trên toàn thế giới. Trong 36 họ cá đã nêu có một số họ cá có giá trị kinh tế được nuôi và khai thác phổ biến như các họ: Ariidae (cá Úc), Bagridae (cá Chốt), Clariidae (cá Trê), Ictaluriidae (cá Nheo), Pangasiidae (cá Trơn), Plotosidae (cá Ngát), Silurudae (cá Leo) và Sisoridae (cá Chiên)…(Carl, J.Ferraris, JR, 2007). Họ cá ngát là một họ cá trơn có danh pháp khoa học Plotosidae với đuôi kéo dài giống đuôi lươn. Các loài cá này có nguồn gốc từ Ấn Độ Dương và miền tây Thái Bình Dương, từ Nhật Bản tới Australia và Fiji. Họ này bao gồm khoảng 35 loài trong 10 chi. Khoảng một nữa số loài cá nước ngọt này có mặt ở khu vực Australia và New Guinea. Cá ngát có tên tiếng Anh là Grayell-catfish và thuộc vị trí phân loại như sau: Giới: Animalia Linnaeus, 1758 - animals Ngành: Chordata Bateson, 1885 - chordates Lớp: Osteichthyes Huxley, 1880 - bony fishes 4
  5. Bộ: Siluriformes - catfishes Họ: Plotosidae - eeltail catfishes Giống: Plotosus La Cepède, 1803 Loài: Plotosus canius Hamilton, 1822 Ngoài ra cá Ngát Plotosus canius còn có các đồng danh sau (Fishbase ,2008): + Plotosus canius Hamilton, 1822 + Plotosus horridus Bleeker, 1846 + Plotosus multiradiatus Bleeker, 1846 + Plotosus unicolor Valenciennes, 1840 + Potosus viviparus Bleeker, 1846 Hiện nay tên Plotosus canius Hamilton, 1822 của cá Ngát được nhiều tác giả sử dụng phổ biến trên thế giới (Fishbase, 2008 và Itis, 2008). Theo Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương (1993) và Rainboth (1996) họ Plotosidae chỉ có một giống Plotosus. Theo Itis (2008) và Fishbase (2008) họ Plotosidae có 10 giống cá với tên khoa học như sau: + Anodontiglanis Rendahl, 1922 + Cnidoglanis Günther, 1864 + Euristhmus Ogilby, 1899 + Neosiluroides Allen and Feinberg, 1998 + Neosilurus Steindachner, 1867 + Oloplotosus Weber, 1913 + Paraplotosus Bleeker, 1862 + Plotosus Lacepède, 1803 + Porochilus Weber, 1913 + Tandanus Mitchell, 1838 Trong đó, giống Plotosus có 8 loài đã được định danh, gồm các loài: Plotosus abbreviatus, Plotosus lineatus, Plotosus nkunga, Plotosus brevibarbus, Plotosus canius, Plotosus fisadoha, Plotosus limbatus, Plotosus papuensis (Fishbase, 2008). Ngoài những loài cá có trong danh sách giống Plotosus của Fishbase thì các loài cá thuộc giống Plotosus của Itis có thêm 2 loài: Plotosus anguillaris, Plotosus microceps. Điều trùng hợp ở đây, Fishbase và Itis điều nói về loài Plotosus canius Hamilton, 1822. Hiện nay giống Plotosus có hai loài đã được phân loại là Plotosus canius và Plotosus lineatus dựa trên những đặc điểm hình thái sau: 5
  6. Bảng 2.1: Đặc điểm phân loại loài Plotosus canius và Plotosus lineatus Đặc điểm hình Loài Plotosus canius Loài Plotosus lineatus thái phân loại Râu mũi Kéo dài qua khỏi bờ Chưa qua khỏi bờ sau của mắt sau của mắt rất xa Mắt Hình cầu nhỏ Hình bầu dục, lớn Màu sắc thân Toàn thân có màu Có hai sọc trắng xuất phát từ trên đầu xám đen đến nâu chạy song song hai bên thân suốt chiều đen dài cơ thể Plotosus canius có kích thước lớn nhất đến 150 cm (59 inch), còn Plotosus lineatus chỉ phát triển đến 41 cm (16 inch) (Theo Trần Ngọc Hải, 2007; Fishbase, 2008). Hình 2.1: Plotosus canius Hình 2.2: Plotosus lineatus http://www.fishbase.org http://en.wikipedia.org 1.1.2. Hình thái của cá Đây là loài có giá trị kinh tế cao, thịt ngon, kích thước lớn nên loài cá Ngát Nanh hay cá Ngát Chó (Plotosus canius) được nhiều người nghiên cứu. Theo Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương, (1993), Plotosus canius Hamilton, 1822, được mô tả như sau: D. I, 4 P. I, 12 V. 12 – 13 Dài chuẩn / Dài đầu = 5,2 (4,8 - 5,5) Dài đầu / Khoảng cách hai mắt = 2,9 (2,6 – 3,3) Dài chuẩn / Cao thân = 6,5 (5,9 – 7,6) Dài đầu / Đường kính mắt = 10,9 (9,5 – 11,9) Đầu to, rộng, dẹp bằng. Miệng dưới nằm trên mặt phẳng nằm ngang, không co duỗi được. Môi dày, mềm, có viền rua. Răng hình quạt, cứng chắc. Răng vòm miệng xếp thành một đám có dạng hình lưỡi liềm, răng xếp thành 4 hàng ngang, các hàng sau thô hơn các hàng trước. Có 4 đôi râu to: Một đôi râu mũi (kéo dài qua khỏi mắt), một đôi râu mép nhưng hơi lệch về phía hàm trên, hai 6
  7. đôi râu hàm dưới. Mắt cá nhỏ, hoàn toàn nằm ở mặt lưng của đầu, gần chót mõm hơn gần cuối nắp mang. Phần trán giữa hai mắt rộng. Mấu xương chẩm nhỏ, hình tam giác đều. Hai màng mang dính nhau một phần và dính với eo mang. Thân dài, phần trước tròn, phần sau dẹp bên, mỏng và mềm mại. Đường bên hoàn toàn chạy từ mép trên lỗ mang đến điểm giữa gốc vi đuôi. Cá có hai vi lưng, gốc vi lưng thứ nhất ngắn, có gai độc, gốc vi lưng thứ hai và vi hậu môn nối liền với vi đuôi nhỏ. Vi đuôi không chẻ hai. Vi ngực có gai độc. Gai độc trước các vi ngực và vi lưng rất nhọn, cạnh trước và sau có răng cưa sắc. Cơ ở gốc vi phát triển và da ở vi dày. Mặt lưng của thân và đầu có màu nâu đen đến nâu đỏ nhạt dần xuống bụng. Bụng cá và mặt dưới của đầu có màu trắng sữa. Mặt trên của vi ngực, vi bụng màu xám, mặt dưới màu trắng sữa. Râu mép và râu mũi sậm hơn râu hàm dưới. 1.2. Phân bố và môi trường sống Thế giới Cá Ngát phân bố rộng ở vùng nhiệt đới, vùng Ấn Độ - Tây Thái Bình Dương (Fishbase, 2008; Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương, 2006), xuất hiện nhiều ở các cửa sông, hồ, vịnh, đầm phá nước lợ, biển, chúng cũng có thể sống ở cả những vùng nước ngọt sâu trong nội địa (Fishbase, 2008). Chúng được tìm thấy ở các nước: Úc, Bangladesh, Brunei Darsm, Campuchia, Ấn Độ, Indonesia, Lào, Malaysia, Papua N Guin, Myanmar, Philippines, Singapore, Sri Lanka, Thái Lan, và Việt Nam (Fishbase, 2008). Loài cá Ngát chó (Plotosus canius) sống đáy, vùng nước ngọt, nước lợ và nước mặn, phân bố chủ yếu ở vùng ven biển các nước Bangladesh, Myanmar, Thái Lan, Sundaland, Sulawesi, Moluccas, Ấn Độ, và bên trong hạ lưu sông Mekong. Loài cá Ngát sọc trắng (Plotosus linaetus) sống trong nước lợ, nước mặn, có độ sâu từ 1 – 60 m, phân bố ở phía tây Ấn Độ Dương (Indian Ocean) và biển Ả Rập. (Theo Nguyễn Hữu Phụng và Nguyễn Nhật Thi, 1994) * Việt nam Theo Nguyễn Hữu Phụng và Nguyễn Nhật Thi (1994); nước ta có 3 loài (Plotosus lineatus, Plotosus canius và Paraplotosus alibilabris) thuộc hai giống Plotosus và Paraplotosus. Trong đó, loài Plotosus linaetus được tìm thấy ở vịnh Bắc Bộ và miền Trung Việt Nam.Loài Plotosus canius tìm thấy ở phía nam Việt Nam và trong sông Mekong. 1.3. Đặc điểm dinh dưỡng 1.3.1. Đặc điểm dinh dưỡng của cá trơn trong tự nhiên. Tính ăn của cá trơn cũng thay đổi theo kích thước cơ thể. Lúc còn nhỏ (1-3 ngày tuổi) dinh dưỡng chủ yếu bằng noãn hoàng, sau đó cá chuyển sang ăn thức bên ngoài. Theo R.Vachta, 1994, thức ăn của cá trơn ở giai đoạn cá con gồm: copepoda, giáp xác, phytoplankton, giáp xác nhỏ. Ngày tuổi càng tăng tỉ 7
  8. lệ giáp xác nhỏ giảm, trong khi đó, copepoda và giáp xác lớn tăng. Ngoài ra cá trơn cũng có thể ăn thức ăn ở đáy như: giun ít tơ, ấu trùng Chironomus (Nguyễn Bạch Loan, 1998). Tính ăn tạp thiên về thức ăn có nguồn gốc động vật thể hiện khá rõ ở các loài cá trơn trưởng thành. Dựa vào hình thái cấu tạo của răng, miệng và phân tích thức ăn trong ống tiêu hóa của cá cho thấy thức ăn được cá ưa thích là động vật sống đáy thủy vực như: giáp xác, động vật thân mềm, ấu trùng côn trùng thủy sinh, kể cả những côn trùng trên cạn. (Rainboth, 1996. Nguyễn Bạch Loan, 1998) Thức ăn của loài Plotosus canius thường là giáp xác, nhuyễn thể, giun và cá nhỏ (fishbase 2008). Theo Nguyễn Bạch Loan, 2000, cá ngát là loài ăn tạp thiên về động vật với phổ thức ăn rộng (mùn bã hữu cơ, động vật phù du, cá con, thực vật thuỷ sinh, thực vật phù du, giáp xác, nhuyễn thể, giun). Loài P. lineatus trưởng thành sống ở vùng đáy cát thường ăn giáp xác, giun, nhuyễn thể và thỉnh thoảng ăn cá. Cá đẻ trứng chìm và ấu trùng thuộc sinh vật nổi. (Theo Nguyễn Hữu Phụng và Nguyễn Nhật Thi, 1994). Nghiên cứu cấu trúc cơ thể cá như vị trí miệng, râu mắt, răng, kích thước miệng,… giúp hiểu rõ hơn về loại thức ăn tự nhiên và tập tính bắt mồi của cá (Pillay, 1952). Cá có miệng dưới hay miệng nằm ở mặt bụng khẳng định đó chính là loài ăn đáy. Sự xuất hiện của các răng nhọn ở hàm chứng tỏ chúng có khả năng bắt xé mồi như vậy đây là loài cá ăn thịt. Sự hình thành và phát triển của mắt cũng là yếu tố rất quan trọng trong việc lựa chọn thức ăn của cá trong tự nhiên (Alikunhi, 1952, trích theo Nguyễn Bạch Loan, 2004). Theo Nguyễn Văn Triều, Dương Nhựt Long và Bùi Châu Trúc Đan, 2006, cá Kết có đặc điểm hình thái giải phẩu cơ quan tiêu hóa như sau: Cá Kết có miệng trên, rộng, không co duỗi được, rạch miệng gần như nằm ngang, góc miệng chưa chạm tới bờ trước của mắt. Cá Kết có răng hàm nhỏ, nhọn, mọc thành nhiều hàng trên hàm, ngọn răng hướng vào xoang miệng, răng vòm miệng mọc thành một đám hình vòng cung, có thể dự đoán cá Kết thuộc nhóm cá ăn động vật. Lược mang dài, mảnh, xếp thưa, nằm trên xương cung mang, hướng vào xoang miệng hầu. Ở cung mang thứ nhất có 14 – 17 lược mang. Thực quản ngắn, có vách dày, mặt trong thực quản có nhiều nếp gấp nên co giản được, do đó cá có thể nuốt được mồi to. Dạ dày có hình chữ J, to, vách dày, mặt trong có nhiều nếp gấp nên có thể giãn nở và lực co bóp rất lớn. Ruột cá Kết gấp khúc, ngắn, vách tương đối dày. Tỉ lệ chiều dài ruột so với chiều dài chuẩn có giá trị trung bình là 0.83 - 0.1. Theo Nikolxki (1963), những loài cá có tính ăn thiên về động vật sẽ có tỉ lệ chiều dài ruột so với chiều dài chuẩn
  9. 1.3.2. Phương pháp xác định tập tính dinh dưỡng cá Một chỉ số thường được sử dụng để xác định tính ăn của cá là chỉ số tương quan giữa chiều dài ruột và chiều dài chuẩn RLG (relative length of the gut). Giá trị RLG không những thay đổi giữa các loài khác nhau mà còn thay đổi trong từng cá thể theo từng giai đoạn phát triển, và được tính như sau: RLG = Chiều dài ruột (Li)/ chiều dài chuẩn (Ls) Theo nhận định của Trần Đắc Định và Phạm Thanh Liêm (2004) khi RLG < 1: cá thuộc nhóm ăn động vật, chỉ số này lớn hơn 1 cá thiên về nhóm ăn thực vật. Giá trị RLG dao động quanh giá trị trung bình cá thuộc nhóm ăn tạp. Còn theo nhận định của Nikolxki (1963): Li/Ls ≤ 1: cá ăn tạp thiên về động vật, Li/Ls = 1-3: cá ăn tạp, Li/Ls ≥ 3: ăn tạp thiên về thực vật. Phương pháp phân tích thức ăn trong ruột cá Thức ăn và tập tính ăn là những thông tin quan trọng trong ngành nuôi trồng thủy sản. Các nghiên cứu về vấn đề này rất phức tạp đòi hỏi nhiều công đoạn phân tích trong phòng thí nghiệm. Do không quan sát trực tiếp tập tính bắt mồi của cá trong tự nhiên được nên để xác định tập tính dinh dưỡng của cá cách tốt nhất là phân tích thành phần thức ăn trong ống tiêu hoá của cá. Theo Trần Đắc Định và Phạm Thanh Liêm, 2004, có nhiều phương pháp phân tích thức ăn của cá, có thể nhóm lại thành 3 phương pháp chính, đó là: - Phương pháp số lượng: Phương pháp này được thực hiện bằng cách đếm các loại thức ăn hiện diện trong ống tiêu hoá của cá và được tính theo 4 cách khác nhau: * Phương pháp tần số xuất hiện: Phương pháp này được mô tả như phương pháp phân tích định tính các loại thức ăn cũng như cho biết tần suất của từng loại thức ăn riêng biệt xuất hiện trong ruột cá. Trong phương pháp này số lượng ống tiêu hóa hiện diện từng loại thức ăn riêng biệt được quy đổi ra phần trăm (%) trên tổng số ống tiêu hoá cá được quan sát được. Phương pháp này tiến hành theo 2 bước: Bước 1: Tất cả các loại thức ăn hiện diện trong các mẫu quan sát sẽ được liệt kê thành một danh sách, sau đó sự hiện diện hay không có mặt của mỗi loại thức ăn trong từng ống tiêu hoá sẽ được ghi nhận lại. Bước 2: Số lượng ống tiêu hoá có sự hiện diện của mỗi loại thức ăn sẽ được cộng lại, và cách tính tương tự cho tất cả các loại thức ăn còn lại, sau đó sẽ được tính ra phần trăm trên tổng số mẫu quan sát. Công thức xác định tần số xuất hiện Pi = N i / N Pi : Tần số xuất hiện loài i trong ống tiêu hoá cá. Ni :Số lượng mẫu chứa loài thứ i trong ống tiêu hoá cá. 9
  10. N : Tổng số lượng mẫu. Phương pháp này cho phép định tính thành phần thức ăn và tần số xuất hiện của mỗi loại thức ăn trong tổng số mẫu quan sát từ kết quả đó cho phép suy đoán được tính ăn của cá. * Phương pháp số lượng: Trong phương pháp này số lượng của mỗi loại thức ăn sẽ được ghi nhận và được tính thành % trên tổng số các loại thức ăn hiện diện trong ống tiêu hoá. Phương pháp này rất có hiệu quả khi nghiên cứu trên nhóm cá ăn sinh vật nổi, tuy nhiên khi nghiên cứu trên nhóm cá ăn tạp thì phương pháp này sẽ bộc lộ nhược điểm do không chú ý đến kích cỡ khác nhau của các loại thức ăn. * Phương pháp tính nhóm thức ăn ưu thế: Phương pháp này giống phương pháp tính tần số xuất hiện. Sự khác biệt ở đây thay vì ghi nhận tất cả các loại thức ăn hiện diện trong ống tiêu hoá thì chỉ có loại thức ăn hay nhóm thức ăn chiếm ưu thế trong ống tiêu hoá được ghi nhận. Sau đó, số lượng ống tiêu hoá có sự hiện diện của loại thức ăn hay nhóm thức ăn ưu thế sẽ được tính thành % trên tổng số mẫu cá quan sát. Yếu điểm chính của phương pháp này là nhóm thức ăn mà cá ưa thích nhất có thể bắt gặp với số lượng nhỏ do các tác động của môi trường, trong khi đó một nhóm thức ăn khác sẽ vượt trội hơn và trở thành nhóm thức ăn ưu thế, gây sự khó khăn trong việc đánh giá chính xác tập tính dinh dưỡng chính xác của loài. * Phương pháp đếm điểm: Đây là sự kết hợp giữa số lượng và kích thước để đánh giá về mặt khối lượng của thức ăn. Điểm số của mỗi loại thức ăn phụ thuộc vào: - Tần số xuất hiện: Thức ăn thường xuất hiện sẽ có điểm số cao nhất, thức ăn ít xuất hiện sẽ có điểm số thấp hơn. - Kích cỡ thức ăn: Thức ăn kích cỡ lớn sẽ có điểm cao hơn thức ăn cỡ nhỏ. Điểm số cho tất cả các loại thức ăn sẽ được kết hợp lại và được tính ra % trên tổng điểm số các loại thức ăn có trong khẩu phần ăn của cá. - Phương pháp thể tích: Phương pháp này thường được xem là thỏa mãn và chính xác hơn trong việc phân tích ống tiêu hoá của cá. Thực tế có 3 cách phân tích * Phương pháp ước lượng bằng mắt: Trong phương pháp này, thức ăn trong mỗi mẫu ruột cá được đưa về cùng một đơn vị thể tích và mỗi loại thức ăn được tính ra % theo thể tích (Pearse, 1915; Pillay, 1952). Thức ăn trong mỗi ruột cá trước tiên được cho vào một thể tích nhất định, lắc thật mạnh để thức ăn được phân tán đều trong nước. Sau đó lấy một giọt mẫu và quan sát dưới kính hiển vi. Diện tích bị chiếm của mỗi loại thức ăn được xác định theo đơn vị mà người quan sát qui ước. Mỗi mẫu ruột cá quan sát ít nhất 10 giọt, sau đó lấy giá trị trung bình cho mỗi loại thức ăn. * Phương pháp tính điểm: Phương pháp này cơ bản giống với phương pháp ước lượng bằng mắt, tuy nhiên thay cho việc ước lượng diện tích mỗi loại thức ăn được ước định bằng điểm số căn cứ trên thể tích của chúng. 10
  11. * Phương pháp thay thế: phương pháp này được xem là chính xác nhất trong các phương pháp thể tích. Trong phương pháp này thể tích của mỗi loại thức ăn được đo bằng thể tích nước bị thay thế bởi thể tích thức ăn trong một ống xi lanh (ống đong). Phương pháp này thích hợp trong việc phân tích dạ dày của các loài cá ăn thịt. Thể tích của mỗi loại thức ăn cũng được tính thành phần trăm trên tổng thể tích dạ dày. - Phương pháp trọng lượng: Tương tự phương pháp thể tích, tuy nhiên thay cho việc xác định thể tích thức ăn thì trọng lượng khô của mẫu và của mỗi loại thức ăn sẽ được xác định, sau đó tính ra tỷ lệ % trên tổng trọng lượng mẫu quan sát. 1.4. Đặc điểm sinh trưởng và sinh sản. Đa số các loài cá trơn đều có tập tính sinh sản vào mùa mưa và một số có tập tính di cư sinh sản, bãi đẻ của chúng có thể là các vùng ngập nước ven sông vào mùa mưa, ven các sông hồ lớn hay các thác nước cao. Trong các ao nuôi vỗ một số loài cá trơn ở Việt Nam (tra, basa) thường bắt đầu vào tháng 3 hàng năm và kéo dài đến tháng 9-10 (tập trung nhất từ tháng 4-8). (Nguyễn Văn Kiểm & ctv, 1996, Phạm Văn Khánh, 1996). Theo khảo sát của Nguyễn Bạch Loan, 1998, cá Bông Lau (Pangasius krempfi) thành thục sinh dục trọng lượng 195g tương đương với chiều dài là 30.7cm ở con cái và con đực 200g tương đương với chiều dài là 31.7cm. Kích thước này là khá lớn so với một số loài cá xác sọc (Pangasius macronema), cá dứa (Pangasius polyuranodon) nhưng nhỏ hơn nhiều so với cá Tra thành thục sinh dục lần đầu tiên (3-3.5kg). Theo Trần Ngọc Hải, 2006, cá Ngát là loài cá có kích cỡ lớn, có thể đạt đến 1- 1.5 m. Cá ngát bố mẹ có trọng lượng 1-1.5 kg/con. Cá cái thưòng đạt đến trưởng thành và sinh sản khi kích thước của chúng đạt khoảng 33.7 cm. Thời kì sinh sản của P. canius kéo dài từ tháng 4- 8 đỉnh điểm là vào tháng 7. Cá có chiều dài từ 36.5-69.2 cm có sức sinh sản tuyệt đối biến đổi nhỏ nhất 1,180 (g) trong tháng 4 và lớn nhất 2,509 (g) trong tháng 7. Trung bình có khoảng 23,718 trứng được sản xuất trên trọng lượng cá. (Google, 2008). Trứng có kích thước trung bình 6.5 mm, ấu trùng mới nở có chiều dài thân trung bình 10 mm, với noãn hoàng to 6.4 mm. Sau khi ương dưỡng một tuần, cá đạt 15.5 mm; 2 tuần cá đạt 21.1mm; 3 tuần đạt 35.5 mm. Giai đoạn cá con của giống Plotosus thường tập trung chủ yếu với mật độ dày đặc, cá Ngát có kích cỡ lớn, thịt ngon, giá trị kinh tế cao, chủ yếu ở vùng nước lợ ven biển và cửa sông là đặc sản ở ĐBSCL. 11
  12. CHƯƠNG III: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Phương pháp nghiên cứu chung. 1.1. Vật liệu nghiên cứu 1.1.1. Mẫu vật: Mẫu cá Ngát dùng trong nghiên cứu được thu từ các thủy vực tự nhiên. Bên cạnh đó, những mẫu cá do Nguyễn Văn Thảo và Quách Thanh Trúc thu từ thủy vực tự nhiên cũng được sử dụng cho đề tài. 1.1.2. Dụng cụ và hóa chất: - Formol công nghiệp 38% - Cal nhựa, chai nhựa, ống nhỏ giọt, găng tay, kính nhựa - Kính lúp, trắc vi thị kính, lame, lamell,… - Thước đo kỹ thuật, pen, dao mổ, kéo giải phẩu. - Cân điện, cân đồng hồ. - Một số dụng cụ thường khác. 2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu 2.1. Thời gian nghiên cứu Đề tài được thực hiện trong thời gian từ 12/2009 đến tháng 05/2009 2.2. Địa điểm nghiên cứu Mẫu được thu định kỳ ở 3 điểm dọc theo tuyến sông Hậu như sau: Long Xuyên (An Giang), Thốt Nốt (Cần Thơ), cửa sông Trần Đề (Sóc Trăng). Các mẫu thu được phân tích tại phòng thí nghiệm Nguồn lợi, Bộ môn Thủy sinh học ứng dụng, Trường Đại Học Cần Thơ. Long Xuyên Thốt Nốt Trần Đề Hình 3.1: Các địa điểm thu mẫu Cá Ngát 12
  13. 3. Phương pháp thu và bảo quản mẫu Cá Ngát được thu mua từ các ngư dân đánh bắt ở các thủy vực tự nhiên ở An Giang và Cần Thơ đại diện cho mẫu cá sống ở nước ngọt, cửa sông Trần Đề ở Sóc Trăng để đại diện cho vùng nước lợ mặn. Mỗi đợt thu mẫu ít nhất 30 mẫu trên mỗi điểm thu. Để mẫu cá được thu một cách ngẫu nhiên từ nhiều ngư cụ đánh bắt khác nhau như: cào đáy, lưới đăng, câu,…, kết hợp với một số chợ địa phương ở điểm thu mẫu. Mẫu cá sau khi thu sẽ được rửa sạch và cá được giết ngay bằng cách ướp lạnh trong nước đá để giữ nguyên thành phần thức ăn trong ống tiêu hóa. Sau đó chuyển về lưu trữ ở phòng thí nghiệm Nguồn lợi của Khoa Thủy sản, Trường Đại Học Cần Thơ. Để phân tích thành phần dinh dưỡng, phần ruột cá sẽ được cố định trong dung dịch formol 10%. Bên cạnh đó các mẫu cá con, thu từ ghe và vây chà được bảo quản trong cal nhựa chứa formol (10%) và chuyển về phòng thí nghiệm phân tích. 4. Phương pháp phân tích mẫu. 4.1. Đặc điểm hình thái giải phẩu các cơ quan tiêu hóa của cá Ngát (Plotosus canius) với các kích cỡ khác nhau. Tiến hành giải phẩu và quan quan sát và ghi nhận các chỉ tiêu về đặc điểm hình thái giải phẩu của các cơ quan thuộc hệ tiêu hóa như: hình dạng và kích cỡ miệng, răng, hình dạng lược mang, thực quản, dạ dày, cách sắp xếp và chiều dài của ruột. Chỉ số tương quan giữa chiều dài ruột và chiều dài chuẩn (RLG: Relative Length of Gut) được tính bằng công thức: RLG= chiều dài ruột/chiều dài chuẩn Sau khi quan sát hình thái giải phẩu các cơ quan tiêu hóa, thức ăn trong ống tiêu hóa sẽ được lấy ra pha loãng trong dung dịch formol 2%, lắc điều rồi đưa lên lame quan sát dưới kính hiển vi, dựa vào tài liệu định danh để xác định thành phần và tính chất của mẫu thức ăn theo phương pháp tần số xuất hiện và kết hợp với phương pháp đếm điểm của Biswas (1973) như sau: (trích theo Phạm Thanh Liêm và Trần Đắc Định, 2004). 4.1. Phân tích mẫu theo tần số xuất hiện: Trong phương pháp này số lượng ống tiêu hóa của cá (dạ dày, ruột) hiện diện từng loại thức ăn riêng biệt được qui đổi ra % trên tổng số ống tiêu hóa được quan sát. Phương pháp này tiến hành theo 2 bước: Bước 1: Tất cả các loại thức ăn hiện diện trong các mẫu quan sát sẽ được liệt kê thành một danh sách, sau đó sự hiện diện hay không có mặt của mỗi loại thức ăn trong từng ống tiêu hoá sẽ được ghi nhận lại. Bước 2: Số lượng ống tiêu hoá có sự hiện diện của mỗi loại thức ăn sẽ được cộng lại và cách tính tương tự cho tất cả các loại thức ăn còn lại, sau đó sẽ được tính ra % trên tổng số mẫu quan sát. 13
  14. Công thức xác định tần số xuất hiện như sau: Pi = N i / N Pi : Tần số xuất hiện loài i trong ống tiêu hoá cá. Ni :Số lượng mẫu chứa loài thứ i trong ống tiêu hoá cá. N : Tổng số lượng mẫu. 4.2. Phân tích mẫu theo phương pháp đếm điểm Đây là sự kết hợp giữa số lượng và kích thước để đánh giá về mặt khối lượng của thức ăn. Dựa vào kích thước và số lần bắt gặp của mỗi loại thức ăn có trong ống tiêu hóa của những mẫu quan sát để tính ra số điểm. Số điểm này sẽ được qui ra % tổng số điểm của tất cả các loại thức ăn hiện diện trong ống tiêu hóa của những mẫu quan sát. Điểm số của mỗi loại thức ăn phụ thuộc vào: - Tần số xuất hiện: Thức ăn thường xuất hiện sẽ có điểm số cao nhất, thức ăn ít xuất hiện sẽ có điểm số thấp hơn. - Kích cỡ thức ăn: Thức ăn kích cỡ lớn sẽ có điểm cao hơn thức ăn cỡ nhỏ. 5. Phương pháp xử lý số liệu Các phép tính, các giá trị trung bình và độ lệch chuẩn được tính trên chương trình Excell (2003). 14
  15. CHƯƠNG IV: KẾT QUẢ THẢO LUẬN Thức ăn là cơ sở để cung cấp chất dinh dưõng cho quá trình trao đổi chất của động vật thủy sản. Do đó dinh dưõng là một trong những chức năng quan trọng trong cơ thể. Nhờ hoạt động của hệ tiêu hoá mà vật chất dinh dưỡnng từ môi trường ngoài được chuyển vào cơ thể dưới dạng thức ăn nhằm cung cấp năng lượng cho hoạt động sống của cơ thể như: bơi lội, kiếm ăn, sinh trưởng, sinh sản. Mỗi loài cá thích nghi với việc dinh dưỡng bằng những loại thức ăn nhất định và phù hợp với đặc tính dinh dưỡng của cá. (Trần Thị Thanh Hiền, 2004, Đỗ Thị Thanh Hương, 2004). Theo Nikolxki (1963) “ Phù hợp với đặc tính dinh dưỡng của cá mà các cơ quan cá dùng để bắt mồi cũng khác nhau.”. Để dự đoán được tính ăn của cá ngoài tự nhiên, hình dạng cấu tạo của các cơ quan thuộc ống tiêu hoá của cá Ngát được khảo sát. Kết quả sau khi giải phẩu và quan sát cho thấy ở cá Ngát có: 1. Đặc điểm hình thái giải phẩu của các cơ quan thuộc hệ tiêu hoá của cá Ngát - Miệng: miệng Cá Ngát thuộc dạng miệng cận dưới, rộng, không co duỗi được. Rạch miệng ngắn và xiên hướng xuống. Cá có dạng miệng này thường bắt mồi ở tầng đáy và có khả năng bắt đựơc những con mồi có kích thước lớn. Hình 4.1: Hình dạng miệng của cá Ngát - Răng: là một trong những chỉ tiêu thể hiện rõ tính ăn của cá. Răng cá Ngát có dạng hình hạt cứng chắc, nhọn và sắc. Răng phân bố ở hai hàm, vòm miệng (xương lá mía, xương khẩu cái) và răng hầu. A B Hình 4.2: Hình (A) răng hàm trên & Hình (B ) răng hàm dưới của cá Ngát 15
  16. + Hàm dưới có một hàng nhọn bên ngoài, bên trong có 3 hàng răng hình hạt, các răng trong lớn hơn răng ngoài, trải đều hình trăng lưỡi liềm. + Hàm trên có răng nhỏ, ngắn và xếp thành hai đám tách biệt nhau dọc theo xương khẩu cái. + Vòm miệng có răng rắn chắc, hình hạt, tập trung thành đám gần giống hình bán nguyệt, xếp thành bốn hàng ngang, hàng sau to và tròn hơn hàng trước. + Răng hầu rất phát triển, nhỏ nhọn, sắc bén, xếp thành đám hình bầu dục ở vùng hầu. Hình 4.3. Hình dạng răng hầu của cá Ngát Từ đó cho thấy cá Ngát thuộc nhóm cá ăn thiên về động vật. - Lược mang: Nằm trong xoang miệng, trên mỗi cung mang của cá Ngát chỉ có một hàng lược mang. Lược mang có màu trắng, mảnh, dài, thưa, xếp thành một hàng (23 – 24 lược mang) và biến thành gai nhọn cứng chắc nằm hướng vào xoang miệng hầu. Nhiệm vụ của lược mang là lọc, giữ thức ăn và bảo vệ các tia mang phía sau. Từ dạng lược mang cho thấy cá Ngát có khả năng ăn động vật nhiều hơn thực vật và có lược mang giống những loài cá dữ. Lá mang Lược mang Xương cung mang Hình 4.3: Hình dạng cung mang của cá Ngát 16
  17. - Thực quản: Là phần nối tiếp xoang miệng hầu. Nhiệm vụ của thực quản là đưa thức ăn xuống dạ dày. Thực quản của hầu hết các loài cá thường ngắn (Smith, 1991), tuy nhiên các loài cá có tính ăn khác nhau thì độ đàn hồi của thực quản cũng khác nhau. Bond (1996) cho rằng những loài cá ăn mồi kích thước nhỏ có thực quản nhỏ thì ít đàn hồi hơn những loài cá ăn thịt. Thực quản cá Ngát có dạng hình ống, to, ngắn, vách dày, mặt trong có nhiều nếp gấp nên có độ co dãn tốt, chứng tỏ cá Ngát có thể ăn được thức ăn có kích cỡ lớn. Gan Mật Thực quản Dạ dày Ruột Hình 4.4. Các cơ quan tiêu hóa của cá Ngát - Dạ dày: Nằm nối tiếp sau thực quản. Nhiệm vụ của dạ dày là chứa thức ăn và tiết men tiêu hoá tham gia quá trình tiêu hoá thức ăn. Dạ dày thường có quan hệ với thức ăn và kích thước con mồi. Những loài cá có dạ dày lớn có thể ăn được những con mồi có kích thước lớn và ngược lại (Smith, 1991). Dạ dày cá Ngát có dạng hình ống, rất to, vách dày, mặt trong có nhiều nếp gấp tạo độ đàn hồi cao và chứa thức ăn có kích thước lớn dễ dàng. Tuy nhiên dạ dày của cá Ngát không giống với dạ dày dạng túi của cá ăn động vật như cá Leo được miêu tả bởi Nguyễn Bạch Loan (2004). - Ruột: Là đoạn cuối của ống tiêu hoá đổ ra hậu môn. Với nhiệm vụ là tiết ra men tham gia vào quá trình tiêu hoá thức ăn, tiếp nhận men tiêu hoá do các tuyến tiêu hoá khác chuyển đến và hấp thu chất dinh dưỡng đưa vào máu. Ruột cá Ngát thuộc dạng ruột thẳng, to và ngắn, vách ruột dày, xếp gấp khúc tỉ lệ giữa chiều dài ruột trên chiều dài chuẩn tương đương 1. Đây cũng là dạng ruột thường gặp ở những loài cá ăn động vật. 17
  18. Hình dạng cấu tạo ruột cá Ngát thay đổi theo các kích cỡ cá. Đối với những con cá có trọng lượng dưới 2g ruột tương đối lớn, chỉ gấp 1-2 khúc. Số nếp gấp của ruột tăng lên từ 2-3 khúc ở nhóm cá từ 2g đến
  19. dạ dày. Túi mật to, thon dài hình ovan, có màu xanh vàng nâu sậm, vách mỏng, chứa dịch mật màu vàng xanh, có ống dẫn từ gan xuống và một ống dẫn xuống đầu ruột trước gần giáp dạ dày. Điều này chứng tỏ cá Ngát ăn mồi thiên về động vật hơn. Qua kết quả khảo sát hình dạng, cấu tạo và kích thước của các cơ quan thuộc hệ tiêu hoá cho thấy cá Ngát thuộc nhóm cá ăn tạp thiên về động vật (Li/Ls = 0.91). Từ kích cỡ và hình dạng miệng, răng, thực quản cho thấy cá Ngát là loài cá dữ ăn động vật có kích thước lớn. Kết quả này cũng phù hợp với nhận định của Mai Đình Yên và ctv (1979): “Cá dữ có cỡ miệng lớn, răng nhọn ở hai hàm, xương lá mía và xương khẩu cái. Ruột ngắn, dạ dày tách khỏi bó ruột và ta thường gặp dạ dày ở cá dữ. Kết quả trên cho thấy tính ăn của cá Ngát là ăn thiên về động vật. Đặc điểm dinh dưỡng của cá ngát giống với một số loài khác trong bộ cá Trơn như cá Bông lau (Pangasius krempfi) (Phạm Thanh Liêm, 2005), cá hú (Pangasius conchophilus), cá Tra (Pangasius hypophthalmus), (Nguyễn Bạch Loan, 1998). 2. Tính ăn của cá Ngát Một số chỉ tiêu thường sử dụng để xác định tính ăn của cá là chỉ số RLG (Relative Length of Gut) Li/Ls. Theo Alikunhi và Rao (1951, được trích dẫn bởi Phạm Thanh Liêm và Trần Đắc Định, 2004), chiều dài ống tiêu hóa của các loài cá ăn động vật phụ thuộc vào loài thức ăn tự nhiên mà chúng tiêu thụ, chiều dài ống tiêu hóa tăng theo sự gia tăng tỉ lệ các loài thức ăn thực vật trong khẩu phần ăn của cá. Theo Biswas (1993, trích dẫn bởi Hồ Mỹ Hạnh, 2003) các cá thể trong cùng một loài thì chỉ số RLG cũng khác nhau tùy theo giai đoạn phát triển của cá. Bảng 4.1. Trọng lượng của cơ thể và giá trị RLG của cá ngát Nhóm trọng Lt trung bình RLG Ghi chú lượng (gam) (cm)
  20. tỉ lệ các loại thức ăn thực vật trong khẩu phần thức ăn của cá. Girgis (1952) (trích dẫn bởi Phạm Thanh Liêm & Trần Đắc Định, 2004) cũng cho rằng giá trị RLG thấp ở giai đoạn cá hương và cao ở giai đoạn cá trưởng thành. Trong quá trình tăng trưởng, ống tiêu hóa của cá sẽ gia tăng về chiều dài và gia tăng các nếp gấp để tiêu hóa và hấp thu các vật chất có nguồn gốc thực vật, điều này dẫn đến gia tăng giá trị RLG. Bảng 4.2: Kết quả phân tích tỉ lệ giữa chiều dài ruột (Li) và chiều dài chuẩn (Ls) Các chỉ tiêu đo Trung bình (khoảng dao động) cm Ls 24.09 ± 11.75 (5cm – 71cm) Li 22.45 ± 12.54 (2cm – 63.5cm) Li/Ls(RLG) 0.90 ± 0.23 (0.4cm – 1.61cm) Kết quả nghiên cứu ở bảng trên cho thấy ở tỉ lệ giữa chiều dài ruột (Li) và chiều dài chuẩn (Ls) Li/Ls là < 1 (0,90). Chỉ số RLG ở cá Ngát thấp hơn chỉ số RLG của cá bông lau 1,52 (Phạm Thanh Liêm, 2005) và cao hơn RLG của cá cá leo 0,65 0,11 (Nguyễn Bạch Loan, 2004), cá kết 0,83 0.1 (Nguyễn Văn Triều & ctv, 2006) và Lươn đồng 0.65 0.10 (Lý Văn Khánh & ctv, 2008). Theo Nikolxki (1963) những loài cá có tập tính ăn tạp thiên về động vật sẽ có chỉ số RLG ≤1, cá ăn tạp có RLG từ 1-3 và ăn tạp thiên về vật khi RLG>3. Như vậy cá Ngát (Plotosus canius) thuộc loài cá ăn tạp thiên về động vật. Để kiểm chứng lại những dự đoán trên, thức ăn trong ống tiêu hóa của các mẫu cá Ngát thu từ thủy vực tự nhiên được tiến hành phân tích. 3. Kết quả phân tích thức ăn trong ống tiêu hóa của cá Ngát 3.1. Phương pháp tần số xuât hiện. Phân tích thức ăn trong ống tiêu hóa của cá Ngát bằng phương pháp tần số xuất hiện. Kết quả phân tích thức ăn trong ống tiêu hóa của cá Ngát (n = 62) thu vào mùa mưa (từ tháng 2 đến tháng 4) theo phương pháp tần số xuất hiện được trình bày ở Bảng 4.3. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0