intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài nghiên cứu: Nghiên cứu các điều kiện thích hợp Sinh tổng hợp pectinase từ aspergillus niger CF2

Chia sẻ: Trần Văn Khải | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:51

135
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nghiên cứu: Nghiên cứu các điều kiện thích hợp sinh tổng hợp pectinase từ aspergillus niger CF2 trình bày nội dung với kết cấu 4 chương: Tổng quan về đề tài nghiên cứu; Mục tiêu, nội dung và phương pháp nghiên cứu; Kết quả nghiên cứu; Kết luận và kiến nghị,... Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài nghiên cứu: Nghiên cứu các điều kiện thích hợp Sinh tổng hợp pectinase từ aspergillus niger CF2

  1. LỜI CẢM ƠN Để  hoàn thành khóa luận này, tôi xin chân thành cảm  ơn Ban lãnh   đạo Viện Công nghệ  sinh học Lâm nghiệp đã cho phép và tạo điều kiện  thuận lợi để tôi thực tập tại Viện. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô   giáo trong Viện Công nghệ  sinh học Lâm nghiệp đã tận tình truyền đạt   kiến thức cho tôi trong suốt 4 năm học tập tại trường. Với vốn kiến thức  được tiếp thu trong quá trình học không chỉ là nền tảng cho quá trình nghiên   cứu đề tài tốt nghiệp mà còn là hành trang quý báu để tôi bước vào đời một  cách vững chắc và tự tin. Tôi xin được bày tỏ  lòng biết  ơn sâu sắc đến TS. Vũ Kim Dung –  giảng viên Viện CNSH Lâm nghiệp đã tận tình định hướng và hướng dẫn  tôi trong suốt quá trình hoàn thành khóa luận tốt nghiệp. Cuối cùng, tôi xin kính chúc các thầy,  cô giáo trong Viện Công nghệ  sinh học Lâm nghiệp, trường Đại học Lâm nghiệp luôn dồi dào sức khỏe, đạt  được nhiều thành công trong cuộc sống cũng như trong sự nghiệp nghiên cứu  và giảng dạy. Tôi xin chân thành cảm ơn!   Giáo viên hướng dẫn         Sinh viên thực hiện     TS. Vũ Kim Dung          Phạm Nhật Thành
  2. MỤC LỤC
  3. DANH MỤC CÁC BẢNG
  4. DANH MỤC CÁC HÌNH
  5. ĐẶT VẤN ĐỀ Enzyme   pectinase   bao   gồm   nhiều   loại   enzyme   khácnhaunhư  polygalacturonase, pectinesterase, pectolyase,… xúc tácthủyphân các phân tử  pectin tạo các sản phẩm khác nhau. Ban đầu, enzyme này được phát hiện   trong các dịch chiết trái cây như  cà rốt, cà chua hay đại mạch. Đặc biệt  phải kể  đến là phát hiện của nhà khoa học người Italia Enrico Fermi năm  1840 trên đối tượng cà rốt. Với vai trò quan trọng, pectinase được sử  dụng rộng rãi, đem lại lợi   ích khá lớn trong công nghiệp chế  biến thực phẩm và công nghiệp nhẹ.  Trước đây nguồn enzyme chủ yếu thu nhận từ thực vật và động vật. Ngày  nay, người ta đã nghiên cứu tìm ra nguồn enzyme từ vi sinh vật phong phú,   đa dạng và mang lại lợi ích kinh tế. Một đặc điểm nổi bật của pectinase là  các enzyme này được dùng không giới hạn trong thực phẩm vì không  ảnh  hưởng đến sức khỏe con người. Bằng ưu điểm là dễ nuôi cấy, sinh trưởng  và phát triển nhanh,cho nhiều enzyme trong một thời gian ngắn, vi sinh v ật   là lựa chọn hàng đầu của các nhà sản suất công nghiệp với mong muốn  giảm giá thành, tăng năng suất sản xuất lên cao nhất. Sự sản xuất pectinase   quy mô công nghiệp được thực hiện chủ yếu từ  Aspergillus niger(Yogesh,  2009). Trên cơ sở đó, mục tiêu của đề tài “Nghiên cứu các điều kiện thích  hợp sinh tổng hợp pectinase từ  Aspergillus niger CF2”góp phần nghiên  cứu sự ảnh hưởng của một số yếu tố môi trường lên men nhằm tăng hiệu  suất quá trình lên men sinh tổng hợp enzyme pectinase từ  đó phục vụ  nhu  cầu sản xuất trong nước và mang lại giá trị kinh tế cho ngành công nghiệp.
  6. CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan về enzyme pectinase 1.1.1. Cơ chất pectin Pectin là hợp chất cao phân tử mạch thẳng, được cấu tạo từ các acid   galacturonic bằng liên kết  ­1,4 glucoside. Tùy nguồn pectin khác nhau mà  pectin có khối lượng phân tử 80.000  200.000 Da. Pectin tan trong nước ammoniac, dung dịch kiềm, carbonatte natri,  glycerine nóng. Các pectin tự  nhiên định vị  trong thành phần của  tế  bào có thể  liên  kết với các cấu trúc polysaccharide và protein để  tạo thành các protopectin  không tan. Chúng ta có thể phân hủy các protopectin không tan trong tế  bào  thành các pectin tan trong nước bằng cách đun nóng pectin trong môi trường  acid, vì vậy các pectin tan này không đồng dạng vớinhau. Trong thực vật, pectin tồn tại dưới ba dạng: ­ Pectin hòa tan: là ester methylic của polygalacturonic acid, trong tự  nhiên có khoảng 2/3 số nhóm carboxyl của polygalacturonic acid được ester  hóa bằng methanol. Pectin được ester hóa cao sẽ  tạo gel đặc trong dung  dịch acid và trong dung dịch đường có nồng độ  65%. Enzyme pectinase tác  động lên các hợp chất pectin có khối lượng phân tử  khác nhau và cấu trúc  hóa học không đồng dạng. Cấu trúc hóa học cơ  bản của pectin là   ­D­ galacturonan hay  ­D­galacturoglycan, mạch thẳng có cấu tạo từ các đơn vị  D­galactopyranosyluronic acid (liên kết theo kiểu   ­1,4). Mặt khác, mức độ  oxy hóa trong các phân tử  polymer này cũng khác nhau, trong đó một số  nhất định các nhóm carboxyl bị ester hóa bởi các nhóm methoxyl. Trong một  số  trường hợp, chẳng hạn trong pectin củ cải đường có sự  ester hóa giữa  
  7. các nhóm carboxyl và các nhóm acetyl. ­ Pectin   acid:  là  polygalacturonic acid  có  một  phần  nhỏ  các  nhóm   carboxyl được ester hóa bằng methanol. Pectinate là muối của pectinic acid.  Pectic acid là polygalacturonic acid đã hoàn toàn giải phóng khỏi một đơn vị  galacturonic acid. Pectate là muối của pectic acid. ­ Protopectin: tạo độ cứng cho quả xanh, không tan trong nước và có  cấu tạo hóa học phức tạp. Trong protopectin có các phân tử pectin, các phân  tử  cellulose và các ion Ca2+, Mg2+  các gốc phosphoric acid, acetic acid và  đường. Protopectin khi bị thủy phân bằng acid thì giải phóng ra pectin hòa  tan. 1.1.2. Hệ Enzyme Pectinase 1.1.2.1. Giới thiệu enzyme pectinase Enzyme pectinase là enzyme xúc tác sự  phân hủy của các polymer  pectin   và   sản   phẩm   của   quá   trình   này   là   acid   galacturonic,   galactose,  arabinose, methanol,… đây là nhóm enzyme được  ứng dụng rộng rãi trong  công nghiệp chỉ đứng sau amylase và protease. Sự phân hủy pectin trong tự  nhiên thường xảy ra khi trái cây chín.Những enzyme này vì vậy có một vai   trò hết sức quan trọng trong quá trình bảo quản trái cây và rau quả. Hình 1.1: Cấu trúc phân tử của peptin 1.1.2.2. Phân loại
  8. Enzyme pectinase có thể  phân loại theo cơ  chế  tác dụng của chúng  như bảng 1.1. ­ Pectinesterase (PE): xúc tác sự  thủy phân của các nhóm methyl  ester.   Enzyme   thường   tấn   công   vào   các   nhóm   ester   methyl   của   đơn   vị  galaturonate nằm kề đơn vị không bị ester hoá, phân cắt các nhóm methoxy   (COOCH3) đứng cạnh các nhóm –COOH tự do, tạo thành acid pectinic hoặc  acid pectic và methanol. Pectinesterase thu được từ các nguồn khác nhau có  giá trị  pH tối  ưu khác nhau. Pectinesterase thường được hoạt hoá bởi các   ion Ca2+ và Mg2+. Bảng 1.1: Phân loại enzyme pectinase 3. Enzym(t 1. 2. Enzym (tên  ên thường  Phản ứng xúc tác STT gọi theo hệ thống) gọi) Pectin + H2O = n metanol +  1 Pectin­pectinhydrolase pectinesterase pectic acid Thủy phân liên kết  ­1,4­ Poly­ ­1,4  Endopoly  D­galacturonid trong  2 galacturonid­glycano  galacturonase  galacturonid không theo  hydrolase­PG (endo­PG) một trật tự nào Thủy phân liên kết  ­1,4­ Poly­ ­1,4­D­ Exopoly  D­galacturonid trong pectat,  3 galacturonidgalacturo galacturonase  trong galacturonic với sự  n­hydrolase (exo­PG) đứt mạch của acid  galacturonic Thủy phân liên kết  ­1,4­ Poly­ ­1,4­D­ Endopolymetil­ D­galacturonid trong pectin  4 galacturonidmetilester galacturonase  không theo một trật tự nhất  ­glycanohydrolase (Endo­PMG) định. Thủy phân liên kết  ­1,4­ Poly­ ­1,4­D­ D­galacturonid trong pectat  Exo­pectatliase  5 galacturonid  với sự tạo thành  ­4,5  (exo­PKTE) digalacturonoliase aciddegalacturonic không  theo một trật tự nhất định. 6 Poly­ ­1,4­D­ Endopectatlias Thủy phân liên kết  ­1,4­ galacturonid  e (PETE) D­galacturonid trong pectat, 
  9. trong galacturonic với sự  glicanoliase tạo thành nối đôi không  theo một trật tự nhất định Thủy phân liên kết  ­1,4­ Poly­ ­1,4­D­ D­galacturonid trong pectin  galacturonid  Endopectinlias 7 với sự tạo thành nối đôi  metylester  e (Endo­PTE) không theo một trật tự nhất  glicanoliase định ­ Polygalacturonase   (PG):  còn   có   tên   gọi   khác   là   poly   1,4­  galacturoniglucanohydrolase,   xúc   tác   sự   phân   cắt   các   mối   liên   kết   ­1,4­ glycoside. Các exo­PG (exo­poly   ­1,4­D­galacturonide) galacturonohydrolase,  phân cắt từ  đầu không khử, và endo­PG (endo­ poly   ­1,4­D­galacturonide)  glycanohydrolase   tấn   công   ngẫu   nhiên   vào   giữa   mạch   cơ   chất.  Polygalacturonase là một phức hệ enzyme gồm có nhiều cấu tử và thường có  tính đặc hiệu cao đối với cơ chất. ­ Pectate lyase (PEL):  xúc tác sự phân cắt các đơn vị  galacturonate  không   không   bị   ester   hóa.   Cả   hai   enzyme   exo­PEL   (exo­poly   (1,4­ ­D­ galacturonide)lyase)   và  endo­PEL  (endo­poly  (1,4­ ­D­galacturonic)   lyase)  đều tồn tại. Pectate và pectin có lượng methoxyl thấp là các cơ  chất thích  hợp cho các enzyme này. Nói chung, cả hai enzyme này đều có khoảng pH  tối đa nằm trong khoảng từ 8,0­11, đều cần ion Ca2+ để hoạt động. Pectate  lyase không được tìm thấy trong cây xanh, nhưng có  ở  vi khuẩn và nấm.  Các enzyme VSV ngoại bào này đóng một vai trò rất quan trọng trong quá   trình gây bệnh  ở  thực vật, gây ra sự  phân hủy mô của thành tế  bào, làm  mềm và làm mục mô thực vật. Ngoài ra còn có: ­ Pectin­transeliminase (poly 1,4­ ­galaturonid­methylesteglucanolise)  là enzyme tác dụng lên pectin và pectinic acid.
  10. ­ Polygalactorunate­transeliminase (poly1,4­ ­ galaturonid– glucanoliase) là enzyme tác dụng trên pectic acid và pectinic acid. ­ Pectin lyase (PNL): xúc tác sự phân cắt các đơn vị galacturonate đã  bị ester hóa. Tất cả các PNL đều là endo­enzyme. 1.1.2.3. Ứng dụng của enzyme pectinase ­ Trong   sản   xuất   thực   phẩm,   người   ta   sử   dụng   các   chế   phẩm  pectinase duới dạng tinh khiết. Người ta không dùng chế phẩm dưới dạng   canh trường nấm mốc sấy khô. Tỉ lệ chế phẩm pectinase cô đặc trên lượng   nguyên liệu đem chế biến vào khoảng từ 0,03­ 0,05 đến 0,10%. ­ Trong sản xuất rượu vang, cũng như  trong sản xuất nước quả và  các nước uống không rượu, đều có thể  sử  dụng pectinase một cách hiệu  quả. Nhờ tác dụng của pectinase mà các quá trình ép, làm trong và dịch lọc  quả  rất dễ  dàng, do đó  làm tăng hiệu suất sản phẩm. Chẳng hạn  đưa  pectinase vào khâu nghiền quả, sẽ  làm tăng hiệu suất nước quả sau khi ép  tới 15 – 25%. Bởi lẽ  khi có pectinase phân giải các chất pectinase mà dịch  quả trong suốt không bị đục và lọc rất dễ dàng. Không những vậy, enzyme   pectinase còn góp phần chiết rút được các chất màu, tannin và những chất  hoà tan nữa, do đó làm tăng thêm chất lượng thành phẩm. ­ Trong sản xuất nước quả và rượu vang, người ta thường sử dụng  một trong sáu nhóm enzyme sau: Nhóm chế  phẩm enzyme dùng để  sản xuất nước quả  đục. Mục  đích sử dụng nhóm chế phẩm enzyme này là làm tăng hiệu suất trích ly để  thu được luợng sản phẩm lớn. Nhóm chế phẩm enzyme dùng để sản xuất nước quả trong, không  chứa pectin. Mục đích sử  dụng nhóm này là làm tăng hiệu suất trích ly và  thuỷ phân hoàn toàn các chất protein, pectin, làm giảm độ nhớt và làm triệt  tiêu nguyên nhân làm đục nước quả.
  11. Nhóm chế  phẩm enzyme dùng để  làm tăng khả  năng đồng hoá  nước quả và thịt quả, làm tăng khả năng trích ly nước quả. Nhóm chế  phẩm enzyme dùng để  sản suất bán sản phẩm rượu  vang nhằm làm tăng hiệu suất trích ly của bán sản phẩm. Nhóm chế  phẩm enzyme dùng để  ngăn cản quá trình oxy hoá và  làm cản trở  sự  phát triển của vi sinh vật hiếu khí phát triển trong nước  quả, trong rượu vang. Nhóm   chế   phẩm   enzyme   dùng   vào   mục   đích   chống   lại   đường  trong sản suất siro thành phẩm. Việc sử dụng các chế phẩm enzyme phải được xem xét kỹ lưỡng   trên cơ  sở  đặc điểm nguyên liệu trái cây cần xử  lý. Trong các đặc điểm  của trái cây, người ta quan tâm rất nhiều đến đặc điểm màu sắc tự  nhiên  của sản phẩm.Trong nhiều trường hợp, việc sử  dụng enzyme phải  đảm  bảo giữ được màu sắc tự nhiên ban đầu hoặc tạo ra những màu sắc theoý  muốn bằng cách điều khiển những phản  ứng enzyme. Theo màu sắc tự  nhiên, các loại trái cây được chia làm hai loại:   Trái cây có màu nhạt: táo, lê, nho trắng, chuối, cam, xoài, bưởi…  Trái cây có màu sẫm do chứa nhiều antoxian: anh đào, mận đỏ, nho  đỏ, mận đen, dâu…  Để  xử  lý quả  nghiền có màu nhạt, người ta thường sử  dụng một  loạt các enzyme sau: - Enzym endo­PmG để làm giảm độ nhớt của dịch quả. - Enzyme PE làm tăng hiệu suất trích ly - Enzyme khác như cellulose, hemicelluase, protease không bắt buộc. 1.1.2.3.1. Làm trong nước quả ­ Việc ứng dụng pectinase để thu nhận nước quả được áp dụng lần  đầu tiên vào năm 1930. Từ đó đến nay việc áp dụng enzyme này đã trở nên 
  12. rất phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Việc thu nhận nước quả từ trước  đến nay chủ  yếu bằng phương pháp ép. Syrup quả  nhanh đóng cục là do   chứa 1 hàm lượng pectine  đáng kể. Qua phân tích hàm lượng pectinase   trong 1 số quả như sau: •Syrup mơ: 0,107% •Syrup mận: 0,153% •Nước mận: 0,452% Lượng pectin này làm cho syrup quả bị keo và đục, có độ nhớt cao,   nhất là khi quả có độ  acid và hàm lượng đường cao như  các lọai syrup kể  trên ­ Để  sử  dụng vào việc chế  biến nước quả  trong thì chế  phẩm thì  pectinase   phải   có   enzym   endo   và   exo­polygalacturonase,   enzym  pectinestenase. Trong chế  phẩm loại này thì những enzym vừa kể  trên là  những   enzym   quyết   định   hiệu   quả   của   chế   phẩm.   Vì   endo   và   exo­ polygalacturonase sẽ làm giảm độ  nhớt của dịch quả, còn enzyme PE cũng  góp phần vào tác dụng của enzym này. Enzym proteinase của chế phẩm sẽ  thuỷ phân vỏ protein của vỏ nguyên sinh tế bào, kết quả là làm cho sự thoát   của dịch quả dễ dàng. Sự có mặt của cellulase và hemicellulase ở trong chế  phẩm cũng tốt nhưng không bắt buộc. Khi sử  dụng cho các loại quả  như  táo, lê thì trong chế phẩm không được phép có enzyme pectinaseliminase và   enzym này sẽ  phân huỷ  protopectin vốn gắn các tế  bào riêng biệt của mô  quả  lại với nhau, do đó gây mủn hoá mô quả, làm tăng độ  nhớt của dịch  quả  và kết quả  là làm giảm hiệu suất dịch quả. Ngược lại, khi sử  dụng   cho các loại quả  mọng như  dâu tây thì sự  có mặt trong chế  phẩm enzym   PTE lại cần thiết vì enzym này sẽ  làm mủn hoá tế  bào làm cho tính chất  thoát nước của tế bào tăng lên còn độ nhớt của dịch quả lại giảm xuống.
  13. Ngoài ra, đối với các chế  phẩm pectinase dùng trong sản xuất nước  quả  trong cũng không được phép có các enzym oxidase (ascohatoxydase,  poliphenoloxydase). Trong chế biến nước quả có thịt thì các enzym PTE, hemicellulase và  cellulase   lại   là   những   enzym   quyết   định   hiệu   quả   tác   dụng   của   chế  phẩm.Trong   đó   vai   trò   dẫn   động   là   enzym   PTE   có   tác   dụng   phân   huỷ  protopectin của mô quả. Hemicellulase và cellulase sẽ  cùng với PTE làm  cho độ đồng thể của nước quả có màu sáng thì trong chế phẩm không chứa  enzym oxi hoá, còn cho các nguyên liệu có carotenoid và antoxian thì không   chứa enzym phá huỷ các chất này. Để   thu   được   nước   quả,   trong   trường   hợp   có   sử   dụng   enzym  pectinase,   người   ta   cũng   phải   nghiền   nhỏ   nguyên   liệu   quả.   Bã   nghiền  nhanh được đem xử lý bằng enzym, sau đó mới đem ép hoặc ly tâm. Trong  trường hợp có sử dụng enzyme, người ta có thê nghiền nhỏ tới mức tối đa,  cốt sao thuận lợi cho tác dụng của enzym mà không sợ  bị  tắc nghẽn kênh  dẫn dịch quả trong quá trình ép sau này. Dùng pectinase không chỉ làm tăng hiệu suất dịch quả mà còn để làm  trong dịch quả. Phương pháp sử  dụng enzym có hiệu quả  hơn cả. Bởi lẽ  nhờ  tác dụng của các enzyme mà các hệ  keo của nước quả  sẽ  bị  phá huỷ  hoàn toàn. Nếu như khi làm trong bằng các phương pháp khác pectin bị kết  tủa một phần thì khi xử  lý bằng pectinase, pectin bị  phân giải hoàn toàn  thành các chất hoà tan. Với phương pháp enzym, khi mang một lượng thừa chế  phẩm sẽ  loại trừ được trường hợp làm trong không hoàn toàn. Dịch nước quả  được xử  lý bằng chế  phẩm pectinase thường có vị  hoàn toàn hơn và ít có khuynh hướng bị đục hơn.
  14. Quá trình làm trong dịch quả  dưới tác dụng của pectinase có thể   chia làm 3 giai đoạn: + Giai đoạn “bất ổn định hoá” được tiêu biểu bằng sự giảm độ nhớt  một cách sâu sắc và thường được gọi là trạng thái “phá vỡ” + Giai đoạn “kết lắng” bắt đầu từ trạng thái “phá vỡ” và kết thúc khi  kết tủa hoàn toàn.  + Giai đoạn cuối cùng thường được xác định bằng sự  vắng mặt các  pectin kết tủa bởi ion canxi ­ Để  làm trong nước trong quả  nên sử  dụng chế  phẩm enzyme có  hoạt   độ   1,950  đvhđ/1g  canh   trường   (theo   phương   pháp  Cu­pectat)   hoặc   0,768 đvhđ/1g canh trường (theo phương pháp so màu). Dưới tác dụng của  pectinase, pectine ­ một polysacharide được tạo thành từ  sự  liên kết giữa  các mạch của phân tử  acid galacturonic (C6H10O7) mà một phần đã được  este hoá với rượu metylic (CH3OH) bị  phân huỷ  hoặc bị  phân cắt liên kết  glucozic. Pectine là 1 chất điện ly cao phân tử  (polime) mang điện tích âm  (­) dọc theo chiều dài của mạch phân tử có sự sắp xếp các nhóm điện tích  cùng dấu (­COO­) nên mạch có xu hướng duỗi thẳng tạo nên bề  mặt hấp  phụ lớn trong toàn bộ dung dịch có chứa pectin. Nước quả đục là hệ huyền  phù trong đó phần tử  thịt quả  có kích thước nhỏ, bề  mặt riêng lớn và có  năng lượng rất lớn nên không bền vững về mặt nhiệt động học. Mặt khác,  chúng là những phân tử  tích điện nên dưới tác dụng của lực hút phân tử  chúng liên kết lại tạo thành những phân tử lớn dễ dàng lắng xuống. Trong   nước quả, sự  có mặt của hợp chất polyphenol (đặc biệt là tanin) tạo nên  với pectine những kết tủa không tan v.v... Sự có mặt của pectinase sẽ thúc  đẩy nhanh quá trình cơ  bản nêu trên. Xác định giá trị  mật độ  quang OD  (Optical Density)  ở   λ  = 600 nm theo thời gian để  so sánh tốc độ  lắng thịt  quả giữa các mẫu.
  15. ­ Trong tế  bào của quả  nước chiếm khoảng 90­95%. Nếu ta chỉ  nghiền sau đó ép thì ta chỉ có thể thu nhận được khoảng 60­70% là tối đa.  Khi ta cho pectinase vào, hiệu suất ép sẽ  tăng 15­30%. Nhiều trường hợp,   hiệu suất ép tăng đến 50%. Liều lượng chế  phẩm enzyme tinh khiết cho   vào là 0,03­ 0,05% hoặc chế phẩm thô là 0,5 – 2%. Nhiệt độ duy trì cho quá  trình thuỷ phân là 43 – 45%.Thời gian thuỷ phân là 4 – 8 giờ. Dịch quả thu   được bằng pectinase sẽ  trong hơn, khả  năng lọc sẽ  tốt hơn và hiệu quả  kinh tế thấy rõ. 1.1.2.3.2. Trong sản xuất rượu vang Giúp   cải   thiện   kết   tủa   màu   và   ổn   định   các   loại   rượu   vang   đỏ.  Enzyme pectin được thêm vào các loại trái cây trước khi bổ  sung các men   rượu trong quá trình sản xuất rượu vang đỏ  để  cải thiện màu sắc và độ  đục. Rượu vang đỏ được bổ sung enzym có màu sắc tốt hơn so với các loại  rượu vang không được bổ  sung enzyme. Những loại rượu này cũng cho   thấy sự   ổn định lớn hơn so với các loại rượu vang không được bổ  sung  enzyme. 1.1.2.4. Một số phương pháp sản xuất enzyme pectinase 1.1.2.4.1. Nguồn gốc thu nhận Từ  vi sinh vật: Nếu  ở  thực vật người ta chỉ  thấy có một loại   enzyme thì ở vi sinh vật là một loại enzyme rất phong phú. Vi sinh vật phân  giải pectine hầu như có mặt ở các đại diện nấm mốc, nấm men, vi khuẩn   như:  Nấm mốc: A.niger, A.oryase, A.terreus, A.saito, A.japonicus…  Nấm men: S.ellipsoideus, S.fragilis, S.ludwigii …  Vi khuẩn: B.polymixa, B.felseneus, Clostridium roseum… 1.1.2.4.2. Phương pháp nuôi cấy bề mặt  Quy trình sản xuất
  16.  Thuyết minh quy trình: Môi trường nuôi cấy Là môi trường rắn, gồm các thành phần tự  nhiên: cám mì, cám gạo,  ngô   mảnh,   bột   đậu   tương…   pha   thêm   muối   khoáng.   Môi   trường   rắn  thường dùng nhất là cám, đặt biệt trong cám mì có tương đối đầy đủ  các  chất dinh dưỡng và khi làm ẩm sẽ  tạo ra cấu trúc cần thiết cho nấm mốc   phát triển, sinh ra nhiều enzyme. Có thể  bổ  sung những thành phần giàu   pectin như bã củ cải đường, bột cà rốt làm chất cảm ứng để thu được hàm  lượng pectinase cao. Bên cạnh đó, chúng ta cần bổ  sung thêm trấu để  tạo  môi trường thoáng khí tốt, giúp cho sự phát triển của nấm. Vậy môi trường  hoàn chỉnh để  nuôi cấy gồm có: 70% cám mì + 23% trấu + 5% chất cảm   ứng + chất dinh dưỡng khác (mầm mạ, nước khoai tây… để cung cấp thêm   nguồn   nitơ,   photphat,   kali…).   Môi   trường   rắn   cần   được   làm   ẩm   đến  khoảng 60%, nếu độ ẩm quá cao thì nhiều loại vi khuẩn phát triển gây tạp   nhiễm, nếu độ   ẩm quá thấp sẽ  làm môi trường nhanh khô, sinh bào tử  mạnh. Nuôi   cấy:  Các   khay   có   môi   trường   đã   cấy   mốc   được   đặt   vào  phòng nuôi có sẵn các giá.  Dụng   cụ:  Dụng   cụ   và   môi   trường   cần   được   khử   trùng   ở  1210C/1atm/30 phút để tránh tạp nhiễm. Để nguội, phối vào dụng cụ: Môi trường được trải mỏng ra các  khay đã được thanh trùng với lớp dày khoảng 2 – 2,5cm và để  nguội đến  300C thì tiến hành cấy giống. Giống Nấm mốc được nhân và nuôi cấy trong môi trường vô trùng để tránh  nhiễm tạp. Giống được nhân theo phương pháp bề  mặt và cũng trên môi  trường trên để giống quen với điều kiện sản xuất.  Khi nhân giống thường 
  17. để  cho nấm mốc mọc già đến khi sinh ra nhiều bào tử,   bào tử  được thu  theo phương pháp tách bào tử  khỏi môi trường và chứa trong các bình có  nút kín. Tỉ lệ nhân giống vào khoảng 0,2 – 2%. Mỗi gam bào tử mốc có thể  cấy vào 10kg môi trường. Nuôi cấy Các khay có môi trường đã cấy mốc được đặt vào phòng nuôi có sẵn   các giá. Phòng nuôi có thể điều chỉnh được nhiệt độ, độ  ẩm và được thổi  gió. Nhiệt độ  thích hợp với đa số  mốc là 30­320C. Nếu nhiệt độ  xuống  dưới 240C thì nấm mốc phát triển chậm, sinh bào tử  yếu, thời gian nuôi  cấy dài như vậy sẽ làm giảm khả năng sinh tổng hợp enzyme. Quá trình nuôi cấy nấm mốc trên bề mặt môi truờng được chia thành  3 giai đoạn: Giai đoạn 1: Khoảng 10 – 14 giờ đầu: giai đoạn này có những thay  đổi sau:  Bào tử nấm bắt đầu hình thành có màu trắng hoặc màu sữa.  Bắt đầu hình thành enzym, không đòi hỏi phải thông khí nhiều chỉ  cần làm thoáng khoảng 2 – 3 thể tích không khí / thể tích phòng / giờ.  Khối môi trường còn rời rạc, các thành phần dinh dưỡng bắt đầu  có sự thay đổi. Giai đoạn 2: kéo dài khoảng 14 – 18 giờ: giai đoạn này có những   thay đổi sau: Mốc phát triển nhanh, hô hấp mạnh, sợi nấm có thể  quan sát bằng  mắt thường, lúc đầu là lớp lông tơ  màu trắng – xám và ngày càng rõ, làm   môi   trường   kết   bánh   lại,   độ   ẩm   môi   trường   giảm   dần.   Các   chất   dinh  dưỡng trong môi trường tiêu hao nhanh để  phục vụ  cho các quá trình trao   đổi chất trong tế bào và giống hô hấp mạnh tỏa ra môi trường chung quanh   80 – 90kcal/giờ. Làm nhiệt độ  môi trường tăng lên 400  ­ 450C. Thời kì này 
  18. cần phải thông khí mạnh tới 60 thể  tích khí/1thể  tích phòng/giờ  để  cung  cấp O2 cho mốc thở  và đuổi CO2 ra khởi môi trường, đồng thời làm giảm  nhiệt độ  buồng nuôi. Nhiệt độ  buồng nuôi ở  giai đoạn này cần giữ  ở  28 ­  300 C và độ ẩm trong phòng khoảng 90%. Các loại enzyme được hình thành trong giai đoạn này, pectinase được  hình thành nhiều nhất vì có cơ chất cảm ứng. Giai đoạn 3: kéo dài trong khoảng 10 – 20giờ: giai đoạn này có  những biến đổi Quá trình trao đổi chất yếu dần vì do đó mức độ  giảm chất dinh  dưỡng   sẽ   chậm   lại.   Lượng   nhiệt   tạo   ra   giảm,   khoảng   15   –   30kcal/kg/giờ.Thông   khí   không   quá   20   –   25   thể   tích   không   khí/thể   tích  phòng/giờ, giữ nhiệt độ buồng nuôi duy trì ở 300C. Tùy thuộc vào đặc tính sinh lí của từng giống mốc, thời gian nuôi  cấy có thể  kết thúc tại điểm mà lượng enzyme tạo thành tối đa, enzyme  vẫn được hình thành ở giai đoạn này. Môi trường sau khi nuôi cấy được sấy khô tới độ   ẩm dưới 12%,  nghiền nhỏ, đựng trong các bao polyetylen hoặc giấy chống ẩm. Sản phẩm   này là chế phẩm enzyme thô. 1.1.2.4.3. Thu nhận enzyme a. Phương pháp thu nhận Có 2 loại enzyme: nội bào và ngoại bào, mỗi enzyme đòi hỏi phải có   phương pháp tách và thu nhận riêng: Enzyme ngoại bào: (gồm pectinase) do vi sinh vật tiết ra trong môi  trường nuôi cấy ngoài tế  bào, thường hoà tan trong nước do đó dễ trích ly  và tinh sạch.  Enzyme nội bào: là enzyme được sản xuất ra bên trong tế  bào vi   sinh vật và không được tiết ra môi trường bên ngoài. Những tế bào vi sinh 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2