Đề tài: Phân tích bình đẳng giới của tuổi về hưu tại Việt Nam
lượt xem 30
download
Trong thời đại kinh tế càng ngày càng phát triển thì vấn đề bình đẳng giới về tuổi nghỉ hưu cũng đã trở thành một vấn đề nóng đã được bàn luận nhiều trên các phương tiện truyền thông, và đã có nhiều ý kiến tranh luận. Một số ý kiến cho rằng: “ Nữ về hưu ở tuổi 55 là sớm”, “ Nam, nữ cần bình đẳng trong số tuổi về hươu”.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đề tài: Phân tích bình đẳng giới của tuổi về hưu tại Việt Nam
- LỜI MỞ ĐẦU Trong thời đại kinh tế càng ngày càng phát triển thì vấn đề bình đẳng giới về tuổi nghỉ hưu cũng đã trở thành một vấn đề nóng đã được bàn luận nhiều trên các phương tiện truyền thông, và đã có nhiều ý ki ến tranh luận. Một số ý kiến cho rằng: “ Nữ về hưu ở tuổi 55 là sớm”, “ Nam, n ữ cần bình đẳng trong số tuổi về hươu”, “ Ở tuổi 55 nữ chưa kịp cất cánh đã phải hạ cánh”. Vậy vấn đề bình đẳng giới về tuổi nghỉ h ưu ảnh hưởng ntn đến sự phát triển của đất nước và chúng ta cần nhìn nh ận v ấn đề này như thế nào? Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu qua bài thuyết trình của nhóm. I. Tìm hiểu luật bình đẳng giới về tuổi nghỉ hưu: So với các nước trên thế giới, Việt nam có hệ thống luật pháp, chính sách về bình đẳng giới tương đối đầy đủ và tiến bộ. Vi ệt nam đã phê chuẩn hầu hết các Công ước quốc tế liên quan đến bình đẳng gi ới và quyền của phụ nữ, trong đó quan trọng nhất là Công ước CEDAW v ề xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ,…. Trong h ệ thống luật pháp, từ Hiến pháp tới các bộ Luật, đều đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến vấn đề bình đẳng giới, tạo điều kiện cho cả phụ n ữ và nam gi ới cùng phát triển tiến bộ và bình đẳng. Gần đây nhất, năm 2006, Luật bình đẳng giới đã được Quốc hội thông qua và triển khai trong thực tế, đánh dấu bước phát triển quan trọng trong nỗ lực phấn đấu vì bình đẳng gi ới ở Việt Nam. Luật bình đẳng giới (2006) đã xác định Mục tiêu bình đẳng gi ới là “xoá bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế - xã hội và phát triển nguồn nhân lực, ti ến tới bình đ ẳng giới thực chất giữa nam, nữ và thiết lập, củng cố quan hệ h ợp tác, h ỗ tr ợ giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình” (điều 4). Bình đẳng giới được hiểu là “nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát tri ển c ủa cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của s ự phát triển đó” (điều 5). Quan điểm này, nhìn ở chiều cạnh lao động, việc làm đã thể hiện được tinh thần của công ước CEDAW, theo đó “Các n ước tham gia Công ước phải áp dụng mọi biện pháp thích h ợp đ ể xóa b ỏ phân biệt đối xử với phụ nữ trong lĩnh vực việc làm nh ằm đảm b ảo nh ững quyền như nhau trên cơ sở bình đẳng nam nữ” (điều 11).
- Bộ luật lao động được Quốc hội sửa đổi và thông qua năm 2012 s ẽ có hiệu lực từ tháng 5/2013. Trong đó quy định tuổi nghỉ hưu của nam là 60 tuổi, nữ là 55 tuổi. Đồng thời quy định: Người lao động có trình đ ộ chuyên môn kỹ thuật cao, người làm công tác quản lý và một số trường hợp đặc biệt khác có thể nghỉ hưu ở tuổi cao hơn nhưng không quá năm năm. Đáng chú ý là, tại khoản 3 điều 187 Bộ luật lao động quy đ ịnh có thể kéo dài tuổi hưu là kéo dài “không quá năm năm”, quy định này cho c ả nam và nữ chứ không phải cho riêng nam hoặc cho riêng nữ. Đây là một điểm mới thể hiện sự công bằng giới trong việc tạo cơ hội cho cả nam và nữ kéo dài tuổi nghỉ hưu, không có sự phân biệt. Trên phương diện này, Bộ luật lao động phần nào đã thể hiện được mục tiêu của bình đ ẳng gi ới trong Luật BĐG năm 2006. II. Một vài quan điểm về tuổi nghỉ hưu của nam và nữ giới ở Việt Nam. 1. Nên tăng. • Tuổi nghỉ hưu là một vấn đề được ĐBQH rất quan tâm trong quá trình xây dựng BLLĐ (sửa đổi) (nguồn: na.gov.vn) • Đề xuất nên tăng tuổi nghỉ hưu của nữ lên 60 tuổi, ngang với nam để thể hiện quyền bình đẳng nam nữ. • Có ý kiến cho rằng, “chúng ta đang có khoảng 80% ng ười lao đ ộng có quan hệ lao động ở trong khối sản xuất kinh doanh thì rất khó có khả năng nâng tuổi nghỉ hưu nữ bằng nam”, nhưng cần phân biệt giữa quyền được nghỉ hưu và nghỉ hưu đúng tuổi theo quy định của pháp luật. V ới lao động nữ làm việc ở những ngành nghề độc hại, nặng nhọc họ có thể nghỉ hưu sớm theo nguyện vọng • Nâng tuổi nghỉ hưu của nữ lên ngang với nam giới là phù hợp với thông lệ quốc tế và theo quy định hiện hành thì thời gian lao động và khẳng định bản thân của phụ nữ là quá ít trong khi sức khỏe và tuổi th ọ của nữ không thua kém nam giới. • Nâng tuổi nghỉ hưu đối với lao động nữ không làm công vi ệc nặng nhọc. Thực tế hiện có nhiều lao động nữ đã ở tuổi 55 nhưng trí óc minh mẫn, đủ sức khỏe đảm đương công việc, chưa kể là họ đã tích lũy được nhiều tri thức và kinh nghiệm, nên về hưu ở tuổi 55 là ch ưa h ợp lý. Nhóm được kéo dài tuổi nghỉ hưu nên khai thác nguồn nhân lực chất lượng cao với vai trò chuyên gia chứ không nên làm lãnh đạo, quản lý. Nói cách khác, đến tuổi nghỉ hưu dù không làm lãnh đạo, quản lý nhưng vẫn có th ể c ống hiến kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm của mình
- 2. Không nên tăng • Không nên nâng tuổi nghỉ hưu vì sau 60 tuổi năng suất lao động sẽ không cao. “Cán bộ hành chính cần phải cho nghỉ hưu trước 60 tuổi đ ể giảm bớt tham nhũng” • Tuổi nghỉ hưu hiện tại phù hợp với khả năng lao động và tuổi thọ trung bình của người Việt. • Đảm bảo sự hài hòa giữa công việc và vai trò nuôi dạy, chăm soc con cái của phụ nữ. • Sẽ là nhẫn tâm nếu buộc người lao động tiếp tục làm vi ệc sau tu ổi 60 vì ở độ tuổi này đã xuất hiện những bệnh tật của sự lão hóa, năng suất lao động giảm. • Tăng tuổi nghỉ hưu sẽ làm giảm cơ hội cho những người trẻ, đi ngược chính sách trẻ hóa độ tuổi lao động trong cơ cấu nhân lực. • Tăng tuổi nghỉ hưu nhằm giảm áp lực cho BHXH là không cần thiết. III. Xu hướng trên thế giới Trên thế giới, bình đẳng giới trong tuổi nghỉ hưu có sự thay đổi theo thời gian. Đến nay, khoảng 80% các nước quy định tuổi nghỉ h ưu của phụ nữ và nam giới như nhau. Vào đầu những năm 1950 - thời kỳ khởi điểm của các hệ thống hưu trí hiện đại ngày nay, 20 trong số 23 quốc gia OECD áp d ụng tu ổi ngh ỉ hưu cho phụ nữ ở độ tuổi 60 hoặc cao hơn. Cùng với s ự gia tăng c ủa lao động làm công ăn lương, tình trạng già hóa của dân số, vi ệc nâng tu ổi nghỉ hưu của phụ nữ lên ngang bằng tuổi về hưu của nam giới đã từng bước được áp dụng kể từ những năm 1990. Vào năm 2035, bình đẳng giới sẽ được thực hiện tại tất cả các quốc gia được điều tra, ngoại trừ Thuỵ Sĩ với một năm khác biệt giữa hai giới. Bảng dưới đây cho th ấy, vào đ ầu của thế kỷ 20, nhiều nước OECD đã áp dụng tuổi ngh ỉ h ưu nh ư nhau cho cả nam giới và phụ nữ. Bảng 1. Tuổi nghỉ hưu tại các quốc gia OECD, thời kỳ 1949-2035
- 1949 1989 1993 2002 2035
- Na Na Na Na Nữ Nữ Nữ Nam Nữ Nữ m m m m Úc 65 60 65 60 65 60 65 62.5 65 65 Áo 65 60 65 60 65 60 65 60 65 65 Bỉ 65 60 60 60 60 60 60 60 65 65 Ca-na-đa 70 70 60 60 60 60 60 60 60 60 Đan Mạch 65 60 67 67 67 67 67 67 65 65 Phần Lan 65 65 60 60 60 60 60 60 62 62 Pháp 60 60 60 60 60 60 60 60 60 60 Đức 65 65 65 60 65 60 65 61 65 65 Hy Lạp 65 60 60 55 60 55 60 60 65 65 Ai-xơ-len 67 67 67 67 65 65 67 67 67 67 Ailen 70 70 65 65 65 65 65 65 65 65 Ý 60 55 60 55 60 55 57 57 60 60 Nhật Bản 55 55 60 56 60 58 60 60 65 65 Lu-xem-bua 65 65 65 65 57 57 60 60 60 60 Hà Lan 65 65 65 65 65 65 65 65 65 65 Niu Zilân 60 60 60 60 62 62 65 65 65 65 Na-Uy 70 70 67 67 67 67 67 67 67 67 Bồ Đào Nha 65 65 65 62 55 55 55 55 55 55 Tây Ban Nha 65 65 65 65 60 60 60 60 61 61 Thuỵ Điển 67 67 60 60 60 60 61 61 61 61 Thuỵ Sĩ 65 65 65 60 65 62 65 63 65 64 Anh 65 60 65 60 65 60 65 60 65 65 Mỹ 65 65 62 62 62 62 62 62 62 62 Nguồn: Turner (2007). Trong các nước có tuổi về hưu ngang nhau bây giờ, thì cũng không phải ngay từ đầu tuổi nghỉ hưu của nam và nữ đã được quy định bằng nhau như vậy. Trước đây, trong điều kiện kinh tế-xã hội chưa phát triển và hệ thống hưu trí mới được hình thành, nhiều nước ủng hộ quan niệm rằng, để đạt được mục tiêu bình đẳng giới, cần phải có nhiều ‘ưu tiên” đối với lao động nữ, đặc biệt khi phụ nữ phải chịu 2 gánh nặng công việc và gia đình. Do vậy, lao động nữ được quyền nghỉ hưu sớm hơn so với lao động nam… Tuy nhiên, sau đó đã nảy sinh một số vấn đề m ới nh ư dân s ố già hóa, tuổi thọ dân cư tăng nhanh,… làm ảnh hưởng đến cân đối qu ỹ hưu trí do gánh nặng chi trả lương hưu cho lao động nữ v ới th ời gian hưởng ngày càng dài hơn. Hơn nữa phụ nữ cũng đã vươn lên bằng nam giới về nhiều mặt, do vậy nhiều nước đã dần dỡ bỏ những “ưu tiên” trên
- với quan niệm cho rằng, phụ nữ và nam giới phải có quy ền như nhau trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội, trong đó có quyền được nghỉ hưu ở độ tuổi bằng nhau. Những nước quy định tuổi nghỉ hưu của nữ thấp hơn nam chủ y ếu thuộc hệ thống Xã hội chủ nghĩa cũ như các nước thuộc Liên Xô (cũ), các nước Đông Âu,… Tại Đông Á, chỉ còn 3 nước là Trung Quốc, Việt Nam và Đài Loan quy định tuổi nghỉ hưu của nữ thấp hơn. Bảng 2: Tuổi nghỉ hưu của lao động nữ tại một số quốc gia Đông Á Tuổi nghỉ Tuổi tiêu hưu sớm Nhận xét chuẩn có điều kiện Nhật 65 cho cả không Mức chung 65 hiện nayb và 63.5 Bản hai giới (nam giới) và 61 (nữ giới). 65 cho cả hai giới vào năm 2018 Lào 60 cho cả tới 5 năm hai giới Phi-lip- 60 cho cả tới 5 năm pin hai giới Hàn 65 cho cả tới 10 năm Lương hưu cơ bản ở tuổi 60 (65 Quốc hai giới vào năm 2033) cho người được bảo hiểm có thu nhập dưới một ngưỡng nhất định Thái Lan 55 cho cả hai giới Đài Loan 60 nam 55 tới 10 năm Chỉ được hưởng trợ cấp một lần nữ (nam) tới 5 năm (nữ) Việt 60 nam 55 tới 5 năm Nghỉ hưu sớm tới 10 năm cho Nam nữ người bị suy giảm khả năng lao động 61% trở lên Indonesia 55 cho cả không Rút từ quỹ, được hưởng lương hai giới hưu hàng tháng nếu nguồn quỹ trong tài khoản lớn hơn một ngưỡng nhất định Malaysia 55 cho cả không Rút từ quỹ, được quyền lựa chọn hai giới nhận hàng tháng từ tài khoản, lương hưu được chi trả tới tuổi
- 75 Singapor 62 cho cả không Tạo quỹ lương hưu tháng ở tuổi e hai giới 55 từ các nguồn quỹ khác, lương hưu được trả tới khi tài khoản cạn. Trung 60 cho nam tới 10 năm Cùng tuổi đối với lương hưu cơ Quốc giới (45 cho bản và lương hưu hàng tháng từ 50 tới 60 phụ nữ) các tài khoản tiết kiệm bắt buộc. cho phụ nữ a Hướng dẫn của Chính phủ trung ương 2005. Nguồn: Cơ quan An sinh Xã hội Hoa Kỳ (2006). Ghi chú: Cam-pu-chia, My-an-ma và Mông Cổ không cung cấp thông tin về chế độ của mình. IV. Nên hay không tăng độ tuổi nghỉ hưu ở nữ giới Thông qua việc phân tích ở các phần trên cũng như theo xu hướng của thế giới thì chúng ta nên tăng đội tuổi nghỉ hưu ở lao động n ữ và tu ổi nghỉ hưu của nữ nên quy định bằng với nam giới. Việc tăng tuổi nghỉ hưu của nữ lên 60 tuổi, ngang với nam giới đầu tiên là thể hiện được quyền bình đẳng nam nữ theo bộ lu ật bình đ ẳng giới ở Việt Nam. Đồng thời việc nâng tuổi nghỉ hưu của nữ lên ngang với nam giới cũng là phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, Bộ luật lao động lại quy định “ Nam về hưu ở tuổi 60, nữ về hưu ở tuổi 55” như thế tạo ra một sự bất bình đẳng và gây ra các lo ngại về kinh tế xã hội. Vậy nếu tăng tuổi ngh ỉ hưu ở n ữ thì s ẽ g ặp ph ải những khó khăn và có những thuận lợi nào. 4.1 . Những thuận lợi khi không tăng tuổi nghỉ hưu của nữ: 4.1.1. Đối với bản thân người phụ nữ: Nhóm phụ nữ trung niên ở thành thị đã có kế hoạch về hưu theo quy định hiện hành là nhóm phản đối mạnh nhất. Lý do là; (i) Họ đã có mức sống tương đối tốt, không bị sức ép tiếp tục làm việc đ ể có thu nh ập; (ii) Không hiểu biết về nguy cơ mất cân đối quỹ hưu trí trong tương lai; (iii) Quan niệm lao động nữ được về hưu sớm hơn nam giới 5 năm là ưu tiên, là đặc quyền, không muốn từ bỏ. Phần lớn phụ nữ hưởng lương hưu lại phản đối nâng tuổi nghỉ hưu của lao động nữ. Chất lượng cuộc sống của hầu hết các ph ụ n ữ được ph ỏng
- vấn đều không hề giảm sút sau khi nghỉ hưu và đa số đều tận h ưởng th ời gian nghỉ hưu. Nhiều trong số các phụ nữ được hỏi không hề phàn nàn về mức lương hưu họ được nhận. Một số nhận thấy chất lượng sống của gia đình họ thậm chí còn được cải thiện, hoặc vì h ọ v ẫn ti ếp t ục làm việc, hoặc vì họ dành nhiều thời gian hơn cho con cái và việc nhà. Các ý kiến phản hồi cho thấy nhiều phụ nữ hưởng lương hưu hoặc đã từng làm tư vấn cho đơn vị lao động cũ, hoặc gây dựng các hoạt động tự làm (mở cửa hàng, lập doanh nghiệp v.v...). Với những người khác, lương hưu đủ để họ có thể cân bằng giữa các hoạt động kiếm tiền và nhu c ầu c ủa b ản thân, giúp họ giảm bớt thời gian phải tham gia làm việc. Ngay cả phụ nữ khi nghỉ hưu có khó khăn về thu nhập do mức hưu trí thấp, vẫn không ủng hộ nâng tuổi nghỉ hưu cho phụ nữ. Họ thường cảm thấy sức khỏe là điều không cho phép họ bắt kịp với nhịp điệu lao động mà công việc trước đây của họ đòi hỏi phải duy trì. Nếu tuổi nghỉ h ưu của lao động nữ được nâng cao, họ sợ rằng h ọ sẽ mất vi ệc trước khi được quyền hưởng lương hưu. 4.1.2. Đối với xã hội : a. Không tăng độ tuổi về hưu nữ giới sẽ làm tăng năng su ất lao động của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp trong lĩnh vực thương nghiệp cho biết đôi khi lao động lớn tuổi làm việc với khách hàng kém hiệu quả hơn so với các lao động trẻ tuổi hơn. Các doanh nghiệp không ủng hộ nâng tuổi nghỉ hưu của lao động nữ do nhận thức cho rằng năng suất giảm sút theo tuổi tác. Các ch ủ lao động nhận thấy rằng lao động lớn tuổi có kinh nghiệm h ơn, nh ưng h ọ cũng trở nên chậm chạp hơn, thị lực giảm sút, họ gặp khó khăn khi phải làm việc theo ca và miễn cưỡng hơn khi phải làm việc ngoài giờ. Trong điều kiện nguồn lao động trẻ dồi dào, doanh nghi ệp có xu hướng muốn sa thải bớt lao động cao tuổi để thay thế lao động trẻ. b. Không tăng độ tuổi về hưu lao động ở nữ sẽ giảm thất nghiệp cho giới trẻ: Trong một doanh nghiệp với quy mô nhân s ự ổn đ ịnh thì vi ệc trì hoãn sự về hưu của phụ nữ sẽ dẫn tới trì hoãn tuyển dụng mới. Hi ện nay, tình trạng thất nghiệp ở nhiều sinh viên sau khi ra trường đang ngày càng tăng
- cao. Khi chúng ta không tăng tuổi về hưu ở nữ sẽ tạo nhi ều kho ảng tr ống trong công việc, giúp nâng cao cơ hội tìm việc làm cho không chỉ sinh viên sau khi tốt nghiệp mà còn cho nhiều người có năng lực và đáp ứng yêu cầu của vị trí công việc đó. Một thực trạng hiện nay để chúng ta có th ể th ấy rõ là tình tr ạng th ất nghiệp của sinh viên trong các khối sư phạm. Trong khi các giáo viên đã đến tuổi về hưu hoặc nhiều người không còn đủ sức kh ỏe để tiếp tục giảng dạy hiệu quả nhưng vẫn bám trụ để có thể hưởng được lương thâm niên cao hơn. Trong khi đó, các sinh viên trẻ sau khi ra trường có nhu cầu xin về các trường để giảng dạy nhưng trường lại không có chỉ tiêu tuyển dụng. Nhiều sinh viên sau khi ra trường chỉ có thể dạy thêm, dạy kèm ở nhà. Số khác thì làm các nghề lao đông phổ thông bình th ường. Điều đó lí giải tại sao đôi lúc chúng ta bắt gặp nhi ều sinh viên có t ấm bằng đại học nhưng không thể phát huy năng lực của mình đóng góp cho xã hội. 4.2. Những khó khăn khi không tăng độ tuổi nghỉ hưu của nữ: 4.2.1. Đối với bản thân phụ nữ: a. Về cơ hội thăng tiến. • Cơ hội thăng tiến của họ giảm sút. Tuổi nghỉ hưu thấp của phụ nữ dẫn tới thời gian làm việc ít, cũng có nghĩa phụ nữ có ít cơ hội được đề bạt tới các vị trí cao h ơn so với nam giới. Thực tiễn cho thấy, khi muốn đề bạt, bổ nhiệm cán bộ vào một vị trí nào đó, các nhà quản lý cũng đều phải cân nh ắc tiêu chu ẩn đầu tiên đó là yếu tố tuổi của cán bộ đó vì họ mong muốn người được đề bạt có kh ả năng làm việc tại vị trí này trong một thời gian đáng kể. • Thu nhập của phụ nữ thấp khi đi làm việc và khi v ề h ưu c ơ h ội thăng tiến cũng có thể có tác động tới tiền lương. Tuổi ngh ỉ hưu thấp hơn của phụ nữ góp phần đem lại tổng thời gian làm việc thấp hơn so với nam giới và do đó, phụ nữ ít có cơ hội tối đa hóa tiền lương trong suốt thời kỳ làm việc. Tuổi nghỉ hưu thấp h ơn c ủa phụ nữ khiến cho mức lương trung bình thấp hơn 11% so với mức lương của nam giới với các điều kiện tương đương. Nghiên cứu trường hợp của Bộ LĐTB& XH sử dụng thông tin về cơ cấu tiền
- lương của cán bộ Bộ LĐTB&XH cho thấy rằng phụ nữ Việt Nam ít có cơ hội được đề bạt. Nghiên cứu điểm tại Bộ LĐTB&XH Phân tích này so sánh xu thế thay đổi của mức lương trung bình giữa phụ nữ và nam giới tại Bộ LĐTB&XH. Tập hợp số liệu được thu thập vào tháng 3 năm 2008 bao gồm thông tin về giới tính, ngày sinh, trình độ học vấn, phòng ban, ngày tuyển dụng và các mức lương của từng cán bộ. Các mức lương được tính bao gồm tất cả các khoản lương cơ b ản cùng các khoản phụ cấp liên quan tới thâm niên, trợ cấp v.v... mức l ương trung bình của phụ nữ thấp hơn mức lương trung bình của nam giới cùng độ tuổi. Tuy nhiên, tính trung bình, phụ nữ và nam giới vẫn có thể có cùng cơ hội được đề bạt và lên lương nếu bất chấp những khác biệt trong mức lương, một bảng phân loại hạn mức lương theo tuổi và trình độ h ọc v ấn chung được sử dụng cho cả nam giới và phụ nữ. Ngược lại, nếu tuổi nghỉ hưu sớm của phụ nữ là một yếu tố làm hạn chế cơ hội thăng tiến của phụ nữ, thì bảng phân loại các mức lương theo tuổi và trình độ học vấn giữa nam giới và phụ nữ trên 40 tuổi phải khác nhau. Kết quả cho th ấy phụ nữ lớn tuổi có ít cơ hội được tăng lương hơn so với nam giới. Các hệ số đánh giá mối tương quan giữa tuổi tác và mức l ương của phụ nữ tuổi từ 40 trở lên thấp hơn so với nam giới . Luôn có sự khác biệt ở bất cứ trình độ học vấn nào, trừ trường hợp cán bộ tốt nghiệp cao đẳng (chiếm 5,6 % trong số cán bộ lớn tuổi trong độ tuổi từ 40 t ới 55). Những kết quả thu được cho thấy trung bình, sự phát triển nghề nghiệp chuyên môn của phụ nữ kém thành công hơn so với nam giới ở các độ tuổi cao hơn. Tuy nhiên, những khác biệt này không ở m ức đ ộ nh ư nhau trong mọi trường hợp. Những khác biệt giới chính được quan sát thấy giữa nam giới và phụ nữ “có bằng cử nhân” và trình đ ộ h ọc v ấn “trung học chuyên nghiệp.” Mối tương quan giữa mức lương và tuổi tác của cán bộ trong Bộ LĐTB&XH Nam giới ( 40+ tới 55) Phụ nữ ( 40+ tới 55) Mức lương tương quan (bao gồm mọi hệ Trình độ học vấn số)và tuổi Không biết 0.4918 0.4154 Bằng Tú tài 0.5660 0.4737 Cao đẳng 0.5140 0.5616 Bằng Thạc sĩ 0.6055 0.5934 Trung học chuyên nghiệp 0.6506 0.5201
- Học nghề ngắn hạn 0.2997 0.2693 Nguồn: Số liệu quản lý của Bộ LĐTB&XH. b. Tình trạng mất cân bằng tài chính đáng lo ngại . Hình dưới đây chỉ cho thấy, tuổi nghỉ hưu trung bình của lao động nam đã giảm liên tục trong những năm qua, trong khi tuổi nghỉ hưu trung bình của lao động nữ vẫn được giữ ổn định. Hình 2. Tuổi nghỉ hưu trung bình Tuổi nghỉ hưu trung bình 60 58 56 54 52 50 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 nam Nữ Nguồn: Số liệu của BHXH Việt Nam tới cuối tháng 12 năm 2007. Ước tính: sau khi nghỉ hưu, phụ nữ ở tuổi 50 sẽ sống thêm trung bình 28 năm. Nếu phụ nữ đóng bảo hiểm trung bình 29 năm, thì đ ộ dài của thời gian đóng bảo hiểm gần bằng độ dài trung bình c ủa th ời kỳ ngh ỉ hưu. Trong điều kiện này, mỗi năm người lao động chỉ đóng góp 16 % mức lương của họ, và nếu lương hưu trung bình gần ngang bằng so với mức lương làm cơ sở đóng bảo hiểm trung bình, thì rõ ràng là hệ th ống hưu trí không thu đủ tiền để chi trả cho các khoản lương hưu này. Hiện tại, tình trạng mất cân bằng tài chính này chưa bộc lộ do lực lượng lao động chính thức đang gia tăng nhanh chóng ở Việt Nam; số lao động được quyền hưởng lương hưu nghỉ hưu là rất thấp so với số lượng người tham gia đóng bảo hiểm. Tuy nhiên, tình trạng tài chính không bền vững về mặt dài hạn khi dân số già hóa và khi có sự giảm sút số người đóng bảo hiểm so với s ố người hưởng lương hưu. Do vậy, Việc nâng tuổi nghỉ hưu tiêu chuẩn của phụ n ữ thêm m ột năm, từ tuổi 55 lên tuổi 56, sẽ dẫn tới giảm số lượng người v ề h ưu mới. Những phụ nữ đến tuổi 55 sẽ phải tiếp tục làm việc tới khi họ đến tuổi 56.
- Tuy nhiên, không phải tất cả những phụ nữ này đều về hưu muộn hơn một năm. Những phụ nữ được quyền nghỉ hưu sớm và nh ững người bị suy giảm khả năng lao động 61% trở lên vẫn có thể về hưu ở độ tuổi 55 nếu muốn. Tại Việt Nam, một số phụ nữ đến tuổi ngh ỉ h ưu nh ưng có thời gian đóng góp ít hơn 20 năm, hiện không được quyền h ưởng lương hưu hàng tháng theo các quy định hiện hành, có nhiều khả năng sẽ được hưởng phúc lợi này. Hình dưới đây mô tả số người về hưu và tình hình tài chính của quỹ lương hưu nếu thực hiện bình đẳng tuổi nghỉ hưu của nam giới và phụ nữ ngay trong năm 2008. Tương tự như nam giới, phụ nữ có th ể nghỉ hưu vào tuổi 60 và nghỉ hưu sớm tới 5 năm nếu họ làm việc trong các đi ều kiện nặng nhọc, và sớm tới 10 năm nếu họ bị suy giảm khả năng lao động 61% trở lên (hoặc làm việc trong điều kiện nặng nhọc ở những vị trí đặc biệt). Hình 3. Tiết kiệm lương hưu và Bình đẳng giới trong tuổi nghỉ hưu Số người nghỉ hưu Doanh thu từ các khoản đóng bảo hiểm trừ chi phí lương hưu 2,500,000 0.6 0.4 2,000,000 0.2 1,500,000 0.0 1,000,000 -0.2 P GD 500,000 of -0.4 nt rce -0.6 0 pe 2003 2006 2009 2012 2015 2018 in -0.8 2003 2006 2009 2012 2015 2018 Hiện trạng Bình đẳng giới Hiện trạng Bình đẳng giới Chú ý: Biểu đồ đầu tiên thể hiện số lượng người nhận lương hưu nghỉ hưu từ năm 1995 đến nay và số lượng lao động dự tính sẽ ngh ỉ h ưu từ khu vực công tới năm 2020. Biểu đồ thứ hai th ể hiện cán cân gi ữa các khoản chi phí lương hưu và các khoản đóng góp từ lao động trong khu vực công trong thời kỳ tương ứng. Với hiện trạng này, cán cân sẽ mang giá tr ị âm bắt đầu từ năm 2010. Lỗ hổng tài chính này hiện đang được bù đắp t ừ các khoản đóng góp của các lao động trong khu vực tư nhân. Theo dự báo, đến năm 2013, tăng tuổi nghỉ hữu sẽ tiết kiệm này tương đương 0,4% của GDP. Dự báo dài hạn sẽ tiết kiệm khoảng 1,3% của GDP.
- c. Tác động sức khỏe. Nhìn chung, phụ nữ trong độ tuổi 50-59 không đặc biệt y ếu h ơn nam giới về mặt sức khỏe. Tương tự, phụ nữ hưởng lương hưu trong độ tuổi 50-59 cũng hòa nhập vào thị trường lao động như các nam gi ới và phụ nữ khác cùng tuổi. Tuy nhiên, một số phụ nữ có sức khỏe y ếu và c ải cách cần đặc biệt đáp ứng các nhu cầu của họ. Ở Việt Nam có tồn tại một số nghi ngại về khả năng lao động c ủa phụ nữ lớn tuổi do sức khoẻ yếu và do có ít cơ h ội vi ệc làm h ơn. Nh ưng các bằng chứng thống kê không ủng hộ quan điểm này. Trung bình, ph ụ nữ trong độ tuổi 50-59 không yếu hơn nam giới cùng tuổi. Trung bình mỗi năm, phụ nữ thậm chí còn ít báo ốm và ít phải nằm viện h ơn so v ới nam giới cùng tuổi. Nhìn chung, phụ nữ dường như có khả năng làm việc tương đương nam giới. Việc nâng tuổi nghỉ hưu của lao động nữ chỉ có tác động tiêu cực tới một nhóm phụ nữ nhỏ: những phụ nữ không thể tiếp tục làm việc vì sức khỏe kém hoặc bị suy giảm khả năng lao động. Hi ện nay, ch ỉ m ột s ố ít trong số những phụ nữ đã nghỉ hưu trước tuổi 55 nói họ gặp khó khăn lớn trong sinh hoạt hàng ngày. Do đó, việc nâng tuổi nghỉ hưu của lao động nữ chỉ có tác đ ộng b ất lợi tới một nhóm phụ nữ nhỏ - những phụ nữ bị suy giảm khả năng lao động nghiêm trọng và không thể tiếp tục làm việc. Cải cách cần quan tâm đặc biệt tới nhóm phụ nữ này. Duy trì quyền hưởng trợ cấp suy giảm khả năng lao động 61% trở lên ở tuổi 45 có thể là một phần của giải pháp. 4.2.2. Đối với xã hội: a. Quỹ hưu trí đang chịu gánh nặng chi trả lớn do quy định phụ nữ nghỉ hưu sớm hơn 5 tuổi. Năm 2005 2007 2008 2009 2010 Chi lương 6,76 9,16 10,16 10,68 10,69 hưu, BHXH Từ bảng số liệu trên ta thấy trong những năm qua thì cơ cấu số tiền chi cho lương hưu và bảo hiểm xã hội của ngân sách nhà nước đang có xu
- hướng tăng lên cụ thể ở năm 2005 chỉ ở mức 6,76% thì đến năm 2010 đã lên đến 10,69%. Theo con số thống kê của BHXH Việt Nam, đến năm 2012 ước tính cả nước có khoảng hơn 10,4 triệu người tham gia BHXH với số tiền thu là 74.229 tỷ đồng. Đối tượng tham gia BHXH các năm sau dù tăng so v ới năm trước nhưng mới chỉ chiếm gần 20% lực lượng lao động và v ẫn còn thấp hơn so với số thực tế (dự tính so với số phải tham gia khoảng 78%). Được biết, đối tượng hưởng lương hưu hàng năm tăng nhanh, so với năm 2007 thì năm 2012 đã tăng 1,78 lần (thêm gần 500.000 người, bình quân gần 100.000 người/năm sau khi đã trừ số giảm hưởng do chết) và số tiền chi lương hưu tăng 4,11 lần. Dự báo, những năm tới số người nghỉ hưu hưởng từ quỹ BHXH càng nhiều, số chi từ quỹ sẽ tăng nhanh và tương lai gần quỹ sẽ mất cân đối. Đến năm 2023 số thu bằng số chi. Từ năm 2024 trở đi để đảm bảo chi chế độ hưu trí, tử tuất, ngoài số thu trong năm phải sử dụng thêm số kết dư mới đảm bảo đủ chi. Và đến năm 2037, nếu không điều ch ỉnh chính sách hoặc không phát triển mạnh đối tượng, tăng thu hoặc giảm chi thì s ố thu BHXH trong năm và số tồn tích bắt đầu không đ ảm bảo kh ả năng chi trả. Thêm vào đó, tình trạng nợ, chậm đóng BHXH vẫn xảy ra khá ph ổ biến. Tính đến 31/12/2012, số nợ đóng BHXH là 4.274 tỷ đồng và tính đến tháng 7/2013 số nợ đóng BHXH tại 63 tỉnh, thành ph ố con s ố này lên tới 6.368 tỷ đồng, chiếm 7,83% số phải thu trong năm 2013). Qua một số tính toán thì nếu độ tuổi nghỉ hưu không tăng thì nguy cơ vỡ quỹ BHXH sẽ rất lớn. Bởi trên thực tế, hiện nay tuổi thọ của người VN đang rất cao và mức hưởng lương hưu thấp nhất là 45%. Cụ thể, hiện mức thu của NLĐ và người sử dụng LĐ là 26% mức lương cơ bản và thời gian đóng thì 20 năm. b. Tác động tới năng suất của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp thích áp dụng quy định nghỉ hưu sớm cho phụ nữ, đặc biệt là các doanh nghiệp có phụ nữ làm việc trong các điều kiện nặng
- nhọc. Quy định này giúp doanh nghiệp tránh được các lao động lớn tuổi có năng suất lao động giảm sút. Các quy định hiện hành không khuy ến khích doanh nghiệp cải thiện điều kiện sức khỏe và an toàn tại nơi làm vi ệc. Những thay đổi của cải cách cần được thực hiện dần để doanh nghiệp có điều kiện điều chỉnh sự đầu tư của mình. Tuy nhiên, không phải tất cả phụ nữ ở độ tuổi 50 trở lên đều gặp vấn đề giảm sút năng suất lao động. Như số liệu th ống kê cho th ấy, t ỷ l ệ tham gia lao động ở các phụ nữ đang hưởng lương hưu trong độ tuổi 50- 59 vẫn được duy trì ở mức cao. Việc nâng tuổi nghỉ h ưu của lao đ ộng n ữ thường chỉ gây tác động tiêu cực tới năng suất lao động trong m ột s ố lĩnh vực kinh tế nhất định. Nếu thực hiện cải cách dần dần, các doanh nghi ệp này sẽ có cơ hội điều chỉnh các chính sách đầu tư và hoạt động c ủa mình để duy trì sức cạnh tranh. Cuộc cải cách cần nâng dần tuổi nghỉ hưu của lao động nữ. c. Tác động tới việc làm của giới trẻ. Việc nâng tuổi nghỉ hưu của lao động nữ không chắc chắn kéo theo sự gia tăng đáng kể tình trạng thất nghiệp trong giới trẻ ở Việt Nam. Trong một doanh nghiệp với quy mô nhân sự ổn định thì việc trì hoãn sự về hưu của phụ nữ sẽ dẫn tới trì hoãn tuyển dụng mới. Điều này sẽ trở thành một vấn đề nếu Việt Nam là quốc gia có nền kinh t ế ch ỉ tạo ra m ột số ít việc làm. Nhưng thực tế không phải vậy. Số vi ệc làm h ưởng l ương cũng như số người đăng ký tham gia chế độ hưu trí và đóng b ảo hi ểm xã hội đã và đang tăng lên đều đặn ở Việt Nam. Xu hướng này được kỳ vọng sẽ còn tiếp tục. Hơn nữa, các bằng chứng thống kê không cho thấy có tồn tại mối quan hệ chặt chẽ nào giữa dòng lao động nghỉ hưu và biến động việc làm. Số người về hưu tăng gấp đôi trong năm 2005 và gấp ba trong năm 2006, trong khi số người tham gia đóng bảo hiểm mới cũng tăng; tuy nhiên, không thấy mối quan hệ giữa hai xu hướng này. Vấn đề thanh niên xếp hàng xin những công việc do người lao động lớn tuổi về hưu để lại thường chỉ hạn chế trong một số lĩnh vực kinh t ế cụ thể, như quản lý công, nghiên cứu hay giáo dục, là nh ững lĩnh v ực ch ỉ có số lượng chỗ trống hạn chế. Lao động trẻ có học vấn có thể x ếp hàng xin việc trong ngành quản lý công, nghiên cứu hoặc giáo dục, những thanh niên này thường không phải là những người mới bước chân vào thị trường lao động. Những việc làm có tương lai hơn thường đòi hỏi ứng viên có kinh nghiệm. Cải cách sẽ không gây tác động tiêu cực tới những thanh niên mới bước chân vào thị trường lao động.
- d. Không tận dụng được nguồn nhân lực chất lượng: Theo một nghiên cứu của Viện Công nhân-Công đoàn, phụ nữ về hưu ở tuổi 55 như quy định bắt buộc thì có tới 41% trong số đó vẫn đi làm việc và cống hiến; trong đó, có tỷ lệ nhất định nguồn nhân lực có ch ất lượng cao (mà để có được chất lượng này phải qua một quá trình đào tạo và thời gian dài thực hành, trở thành kinh nghiệm). Xu thế tiếp cận từ nghĩa vụ của lao động nữ đối với sự phát triển bền vững trong điều kiện tận dụng tối đa nguồn nhân l ực có ch ất l ượng, bình đẳng giới trong hội nhập quốc tế là hướng tiếp cận cần được quan tâm trong quá trình tham gia xây dựng Nghị định quy định chi tiết Điều 187 của Bộ luật Lao động. Việc nghiên cứu tuổi nghỉ hưu đối với lao động nữ là việc làm cần thiết, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của ng ười lao đ ộng và thể hiện vai trò của tổ chức Công đoàn trong công tác tham gia qu ản lý với Nhà nước về chế độ, chính sách. Tỷ lệ áp đảo của lao động trực tiếp hiện nay, đặc biệt là lao đ ộng trong khu vực nặng nhọc, độc hại như: Chế biến thủy hải sản, dệt may, cạo mủ cao su đều có mong muốn giảm tuổi ngh ỉ h ưu, vì đ ến tu ổi 55 h ọ không thể làm được những việc như hiện nay đang làm. Ngược lại, đối với lao động làm hành chính thì đa số mong muốn tu ổi ngh ỉ h ưu nh ư hi ện tại; còn đa số cán bộ làm công tác quản lý cấp vụ trở lên thì 47% trả lời mong muốn kéo dài tuổi nghỉ hưu lên 58 – 60 tuổi. Cũng trong nghiên c ứu, những người có học vị cao thì không quan tâm lắm đến kéo dài tuổi nghỉ hưu, vì họ cho biết, chưa nghỉ hưu đã rất nhiều nơi mời làm vi ệc... Vì vậy, điều kiện làm việc, môi trường làm việc và tính ch ất công vi ệc ảnh hưởng lớn đến tuổi nghỉ hưu. V. Kết luận và giải pháp: Tóm lại, qua phân tích trên cho thấy xu hướng tăng tuổi ngh ỉ h ưu ở n ữ giới là phù hợp với hoàn cảnh hiện tại nó giúp giải quyết đồng thời nhiều vấn đề vĩ mô quân trọng là: bất bình đẳng giới tuổi lao đ ộng, phát huy khả năng làm việc của phụ nữ tránh lãng phí chất xám đồng thời làm giảm một phần gánh nặng về mặt tài chính giảm gánh nặng chi trả cho BHXH. Tuy nhiên, việc tăng độ tuổi về hưu lao động nữ cần tính tới
- những bất lợi và bảo vệ được quyền lợi của các đối tượng khác đang được hưởng chính vì vậy nhóm xin đưa ra 2 giải pháp sau: Phương án 1 Phương án 2 Tuổi được - Tuổi được quyền hưởng hưu trí: - Tuổi được quyền hưởng hưu trí: quyền Đủ 60 tuổi cho cả nam và nữ Đủ 60 tuổi cho cả nam và nữ hưởng hưu - Phụ nữ được quyền yêu cầu nghỉ - Phụ nữ không được quyền yêu cầu trí hưu từ đủ 55 tuổi nghỉ hưu sớm Nhận xét -Nhóm hưởng lợi: -Nhóm hưởng lợi: + Lao động nữ có trí thức, có trình độ + Lao động nữ có trí thức, có trình + Lao động nữ khác có nhu cầu và đủ độ; khả năng làm việc sau tuổi 55; + Lao động nữ khác có nhu cầu và đủ Hai nhóm nói trên sẽ hưởng lợi do khả năng làm việc sau tuổi 55; được quyền tiếp tục làm việc đến Hai nhóm nói trên sẽ hưởng lợi do tuổi 60. Doanh nghiệp không thể tạo được quyền tiếp tục làm việc đến sức ép để sa thải lao động nữ ở độ tuổi 60. Doanh nghiệp không thể tạo tuổi 55 trở lên sức ép để sa thải lao động nữ ở độ - Nhóm thiệt thòi: tuổi 55 trở lên + Lao động nữ nghỉ hưu ở độ tuổi từ - Nhóm thiệt thòi: 55- dưới 60 sẽ không được hưởng tỷ + Lao động nữ không đủ sức khỏe lệ lương hưu tối đa (75%). hoặc không có nhu cầu làm việc sau + Lao động nữ trong doanh nghiệp tuổi 55 sẽ không được nghỉ hưu, phải không cải thiện được vị thế vì doanh tiếp tục làm việc đến 60 tuổi nghiệp vẫn thích tuyển lao động trẻ + Lao động nữ bị mất sức lao động hơn và tạo ra sức ép cho lao động cao sẽ không được nghỉ ở độ tuổi 45, mà tuổi phải về hưu ngay khi họ đến phải đủ 50 tuổi mới được hưởng tuổi được hưởng hưu. lương hưu. + Lao động nữ làm việc ở các nghề/công việc nặng nhọc, độc hại,
- nguy hiểm không được nghỉ hưu sớm hơn nam giới 5 năm. Với hai nhóm giải pháp đưa ra phía trên nó sẽ đồng thời giải quyết được cả những thuận lợi và khó khan khi thực hiện bình đẳng giới tuổi về hưu ở Việt Nam.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đề tài “ Phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại CTCP Giày Bình Định ’’
38 p | 324 | 141
-
Đề tài: Phân tích định tính bằng phương pháp XRD
10 p | 382 | 86
-
Đề tài " Phân tích mô hình QSPM của Ngân Hàng Đông Á "
28 p | 277 | 75
-
Luận văn Thạc sỹ Luật học: Bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình tại Việt Nam hiện nay
137 p | 267 | 68
-
Đề tài: Dựa vào mô hình phân phối thu nhập hãy phân tích phương pháp phân phối thu nhập của Việt Nam hiện nay. Những thành tựu đã đạt được và những khó khăn còn tồn tại. Để giảm bớt sự bất bình đẳng và xóa đói giảm nghèo chính phủ cần thực hiện các giải pháp nào
31 p | 335 | 53
-
Đề tài triết học " NHỮNG SUY TƯ TRIẾT HỌC CỦA ĐẶNG TIỂU BÌNH TRONG VIỆC XÁC LẬP LẠI ĐƯỜNG LỐI TƯ TƯỞNG CHỦ NGHĨA MÁC "
18 p | 171 | 42
-
Đề bài: Phân tích thực trạng phân hóa giàu nghèo ở Việt Nam
18 p | 300 | 38
-
Luận văn Thạc sĩ Địa lý học: Vấn đề bình đẳng giới trong giáo dục ở Bà Rịa - Vũng Tàu thực trạng và giải pháp
119 p | 135 | 31
-
Luận văn Thạc sĩ Địa lý học: Bình đẳng giới trong giáo dục ở Trà Vinh thực trạng và giải pháp
117 p | 111 | 28
-
Bài thuyết trình: Dựa vào mô hình phân phối thu nhập hãy phân tích phương pháp phân phối thu nhập của Việt Nam hiện nay. Những thành tựu đã đạt được và những khó khăn còn tồn tại. Để giảm bớt sự bất bình đẳng và xóa đói giảm nghèo chính phủ cần thực hiện các giải pháp nào
44 p | 203 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội: Công tác xã hội nhóm nhằm giảm thiểu bất bình đẳng giới về phân công lao động trong gia đình viên chức tại xã Cộng Hòa, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội
91 p | 92 | 26
-
BÁO CÁO " PHÂN TÍCH ĐA DẠNG DI TRUYỀN MẪU GIỐNG LÚA CANH TÁC NHỜ NƯỚC TRỜI BẰNG CHỈ THỊ SSR "
10 p | 105 | 9
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ ngành Lý luận Âm nhạc: Các ca khúc mang âm hưởng chèo trong bộ dâng hoa tại giáo phận Thái Bình
130 p | 52 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Phân tích đa dạng cảnh quan phục vụ định hướng bảo vệ và sử dụng hợp lý tài nguyên huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình
110 p | 20 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phân tích sự bất bình đẳng trong thu nhập: Trường hợp nghiên cứu tại huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh
88 p | 31 | 5
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Thống kê kinh tế: Phân tích thu nhập hộ gia đình trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
26 p | 5 | 1
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu tác động của tăng trưởng kinh tế tới bất bình đẳng thu nhập tại thành phố Đà Nẵng
100 p | 2 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn