intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Thân phận con người qua Khóa hư lục của Trần Thái Tông

Chia sẻ: Hung Phan | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:27

101
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài: Thân phận con người qua Khóa hư lục của Trần Thái Tông bao gồm những nội dung về Trần Thái Tông và Khóa hư lục; cảm hứng về thân phận con người trong “Khóa hư lục” của Trần Thái Tông. Mời các bạn tham khảo để hiểu rõ hơn về những nội dung này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Thân phận con người qua Khóa hư lục của Trần Thái Tông

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XàHỘI & NHÂN VĂN Khoa Văn học và Ngôn ngữ ĐỀ BÀI: THÂN PHẬN CON NGƯỜI QUA KHÓA HƯ   LỤC CỦA TRẦN THÁI TÔNG Giảng viên: PGS.TS Nguyễn Công Lý Niên khóa: 2014 ­ 2015 1
  2. Phần một: Trần Thái Tông và Khóa hư  lục I.  Trần Thái Tông (1218 – 1277)  Trần Thái Tông tên thật là Trần Cảnh, con thứ của Thái Tổ Trần Thừa, quê ở  hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường (nay là thuộc Nam Định). Họ trần ban đầu làm  nghề đánh cá, sau nhờ có công mà dần có thế lực trong triều đình nhà Lý. Trần  2
  3. Cảnh mới có tám tuổi được Lý Chiêu Hoàng nhận làm chồng và truyền ngôi cho,  lấy hiệu là Thái Tông. Năm mười sáu tuổi, Thái hậu qua đời, vài năm sau, Thái Tổ Hoàng đế cũng băng  hà, Ngài đau buồn khôn xiết. Lại nghĩ về ân nghĩa mẹ cha sinh thành dưỡng dục  càng thấy thẹn vì chưa có buổi đáp đền. Vả, khi Thái Tông Ngài còn bé được phụ  thân trợ gánh giang sơn, nay Thái Tổ ra đi để lại cho Ngài một bồ xả tắc. Ngài  hoang mang không biết tựa vào đâu nên nghĩ tới nước vào chốn núi rừng học tu  Phật pháp, hầu ngẫm lẽ sinh tử, cũng là vì mong đáp ơn nghĩa mẹ cha. Ngày mồng  ba tháng tư năm 1236, vua Thái Tông bỏ ngai vàng, trốn lên núi Yên Tử, cầu đạo  Thiền sư Trúc Lâm (ngoài ra, cũng còn một số thuyết giải thích khác về việc vua  bỏ ngai vàng tìm đạo). Hôm sau, Trần Thủ Độ đem các quan lên núi cung thỉnh vua về, tìm lời ngay mà  thuyết, rằng giang sơn đâu dễ mà có, xả tắc không thể một phút thiếu vua, nhất  quyết đón Ngài về cung. Thiền sư Trúc Lâm lại nói: “Phàm làm đấng nhân quân, thì  phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, và tâm thiên hạ làm tâm của  mình. Nay thiên hạ muốn đón bệ hạ về, bệ hạ không về sao được? Tuy nhiên sự  nghiên cứu nội điển xin bệ hạ đừng phút nào quên.” Thái Tông miễn cưỡng về cung lên lại ngôi báo. Khi ở ngôi Ngài là một vị vua nhân  từ đức độ, lại trọng học kính Phật, làm cho dân quốc thái dân an. Những lúc quốc  sự thảnh thơi Ngài lại dành thì giờ học hành Nho Phật, rồi tham gia bàn luận kinh  tạng nhà Phật, kiến thức của Ngài thật sự uyên thâm.  Năm 1257 khi giặc Nguyên Mông tràn vào xăm lược nước ta, vua cùng ra trận với  quân sĩ, lập nên những chiến công oai hùng, đuổi giặc ra khỏi biên cương. Đất  nước hòa bình sạch bóng giặc, Trần Thái Tông nhường ngôi cho con năm 1258 lên  làm Thái thượng hoàng vùa giúp vua trẻ coi việc nước, vừa không quên nghiên cứu  Phật pháp chó đến khi Thánh Tông đảm được nước nhà thì Ngài về Vĩ Lâm (Hoa  Lư) lập am tu thiền. Năm  Đinh Sửu niên hiệu Bảo Phù thứ năm, Thái Thông Hoàng đế bang hà, thọ sáu  mươi tuổi. II.  Khóa hư lục  “Khóa hư lục” là một tuyệt tác của nền Văn học Phật giáo Việt Nam, được kết  tập lại từ những tác phẩm của vua Trần Thái Tông. Đây là kết tinh của một trí tuệ  3
  4. siêu việt, đã được lĩnh hội bởi nhiều thiền sư cao đạo, lại thêm sự chiêm nghiệm  sáng suốt của vua Trần Thái Tông mà được viết nên. Với lối viết biền ngẫu, bằng  chữ Hán, trong đó tác phẩm đã sử dụng nhiều điển tích Trung Hoa và kinh Phật, đã  chứng tỏ sự uyên bác của tác giả. Về nội dung cuốn sách tác giả trình bày những  tư tưởng của kinh Đại tạng, nhằm mục đích tự thức tỉnh mình và đồng thời có tính  giáo dục dân chúng về sự giác ngộ, tác phẩm trình bày những triết lí, hình thức tu  tập hết sức cơ bản đạo Phật, nghe thì thấy dễ nhưng thực hành thì rất khó.  Về ý nghĩa tựa đề, Hòa thượng Thích Nhất Hạnh (hay Nguyễn Lang) trong Việt  Nam Phật giáo sử luận viết: “Chữ Khóa (trong Khóa hư) có nghĩa là sự hành trì  học tập. Chữ Hư có nghĩa là với thái độ không cố chấp vào hình thức giáo điều.  Nhu yếu của Khóa là sự siêng năng thực tập Thiền học, không để cho thời gian  luống qua. Nhu yếu của Hư là thái độ phá chấp tự do không kẹt vào khái niệm và  hình thức. Hai nhu yếu tổng hợp lại thành tinh thần thực tiễn và khai phóng của  đạo Phật: Thực tiễn một cách tinh tiến đạo lí giác ngộ trong tinh thần phá chếp tự  do và vô niệm”. Sau đây xin dựa trên bản dịch ­ giảng của Hòa thượng Thích Thanh Từ để làm bài  luận này, về cảm hứng thân phận con người trong “Khóa hư lục”. 4
  5. Phần hai: Cảm hứng về thân phận con  người trong “Khóa hư lục” của Trần Thái  Tông I.  Năm giới và nghiệp báo luân hồi của kiếp người  Năm giới đó là: Sát, Trộm, Sắc, Vọng Ngữ, Rượu. 1.  Giới Sát  Trần Thái Tông cho rằng tuy các loài có đường sinh không giống nhau nhưng tự  tánh mỗi loài là như nhau, chỉ do nghiệp báo khác nhau mà thác sinh vào từng  loài khác nhau. Trong đó, tất cả các loài đều có bản chất chung là tham sống sợ  chết, khi con người giết loài súc sinh thì chúng kêu la giẫy giụa, nhưng do chúng  ta không hiểu được nỗi đau đó của chúng nên mặc nhiên chém giết không  thương xót. Rồi nghiệp báo đến, người lại đầu thai trở thành chính loài súc sanh  mà tiền kiếp mình chém giết, nếm nỗi đau mà mình từng gây ra, cứ như thế,  chém chém giết giết đời đời kiếp kiếp không thôi. Rồi cả người giết hại lẫn  nhau, oán hận nhau, oan oan tương báo như một vòng luẩn quẩn. Ngài trích sách  Nho: “Thi ân bố đức”,  Đạo đức kinh: “Ái vật háo sanh” để thấy được lẽ tương  đồng của tam giáo là giữ hạnh từ bi, không phạm sát giới sát hại chúng sanh. Kẻ  tu hành phải giữ nghiêm giới đó. Nhà thơ Bạch Cư Dị đời Đường có bài thơ nói về giới này: “Đạo lớn quần sanh tính mạng tôn Một bên xương thịt một bên bì Xin anh chớ  giết nàng chim nhỏ Trong tổ chim non ngóng mẹ về.” Giết chim non thì chim mẹ đau đớn mà kêu rối rít tìm con, huống là giết một con  người có biết bao nhiêu kẻ thân thích. Khi sát sinh ta chỉ nghĩ đến việc thỏa mãn  cái lòng oán nhất thời mà đâu nghĩ tới cái tình thâm sâu đằng sau đó, rằng mỗi  vật tồn tại trên cõi đời đều nằm trong một mối tương quan bao la rộng lớn như  5
  6. một chuỗi những mắc lưới gắn kết với nhau, mất đi một vật là mất đi một mắc  lưới, còn gì là chặc chẽ. Bởi do đâu? Do oán mà vô minh, cái vô minh tột cùng  không ai ngăn được, nó kéo dài có khi cả đời cả kiếp. Trước lòng oán hận, thân  phận con người thật mong manh dường bao. Do đó, giới sát đối với nhà Phật  được đặt lên tầm quan trọng hàng đầu, phải bỏ sát trước tiên thì mới hầu mong  thực hiện tốt những giới khác. Nhắc tới giới sát, ta chẳng những phải lìa bỏ sát sinh mà còn phải thường xuyên  thực hành phóng sanh để tạo đức. Thiền sư Chí Công đời nhà Lương ở Trung  Quốc có bài kệ nói về việc phóng sanh: “Phóng sanh  hợp lòng trời Phóng sanh thuận Phật chế Phóng sanh Quán Âm  từ Phóng sanh Phổ Hiền hạnh Phóng sanh không buồn khổ Phóng sanh  ít  bệnh hoạn Phóng sanh con  cháu đông Phóng sanh quan lộc thạnh Phóng sanh miễn  tam  tai Phóng sanh  cửa nhà  khánh Sát   sanh   và   phóng sanh Nhân quả  sáng như gương.” Đó là lẽ phóng sinh và cái nghiệp báo tốt từ phóng sinh mang lại. Thực hành  phóng sanh đâu khó, vậy nên phải tích cực làm để hậu kiếp được hưởng phúc  nghiệp. Mở rộng ra, không sát, phóng sanh là cái từ bi vô lượng. Kinh A Na Luật – Trung   bộ kinh viết: “Ở đây, này Cư sĩ, Tỷ­kheo an trú, biến mãn một phương với tâm  câu hữu với từ, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy  phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy  phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với  từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. ...với tâm câu hữu với bi, ...với  6
  7. tâm câu hữu với hỷ, ... an trú, biến mãn, một phương với tâm câu hữu với xả, ...  quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Như vậy, này Cư sĩ, được gọi là vô  lượng tâm giải thoát”. Đạo Phật khác với các tôn giáo khác ở chổ, không coi con  người như là trung tâm của vạn vật vũ trụ mà xem vạn vật chúng sinh bình  đẳng như nhau. Đoạn văn trên nói về từ và bi, cái từ, bi ở đây quán phổ hết cả  thẩy chúng sinh, tất cả đều có sinh mệnh riêng và sinh mệnh nào cũng đáng quí,  đáng trân trọng.  Trong kinh Thập thiện nghiệp đạo Phật dạy, nếu xa lìa sát sinh thì liền được  thành tựu mười pháp xa lìa phiền não: Đối với các chúng sinh ban cho sự không  sợ hãi; thường khởi tâm Từ rộng lớn đối với chúng sinh; dứt hẳn tập khí giận  dữ; hân thể thường không bệnh tật; mạng sống lâu dài; thường được loài phi  nhân bảo vệ; thường không có mộng ác, ngủ hay thức đều yên vui; diệt trừ thù  oán trói buộc, các thù oán tự giải tỏa; không sợ hãi về đường ác; khi chết được  sinh lên cõi trời. 2.  Giới Trộm   Đầu tiên Trần Thái Tông đưa ra so sánh việc làm của kẻ tiểu nhân và người  quân tử. Người quân tử luôn mong được giúp đở cho người khác, kẻ tiểu nhân  thì lúc nào cũng chỉ biết làm lợi cho mình mà làm đủ thứ chuyện hèn hạ: “Thuốc   chó, đào hầm, đục tường, khoét vách…” Ngài còn nhắc đến Sơn Dương (một  tướng cướp), và Lương Thượng (một tên trộm trốn trên cột kèo) như một dẫn  chứng. Đó là những việc làm “Nghịch trời trái đất, dối pháp khinh hình. Khi  sống thì pháp luật trừng trị, lúc chết bị Minh ty khảo tra”. Cho nên phải biết giữ  mình không tham lam, để mong được yên khi sống và cả khi chết. Dù chỉ là một  vật nhỏ bé như cọng cỏ sợ lông hay hương hoa ngoài đường, chủ nhân không  cho phép mà ta động đến cũng đã là phạm giới. “Lưới trời lồng lộng, làm thiện  thì thoát, làm ác thì mang”, kẻ làm bậy chắc chắn phải nhận lãnh quả báo  không thể nào thoát tội. Xưa có câu “vật phi nghĩa bất thủ”, không phải của mình thì không nên giữ. Lục   độ tập kinh viết: “ta thà giữ đạo chịu nghèo hèn mà chết chứ không chịu vô đạo  được giàu sang mà sống”. Trộm cấp chỉ xếp sau sát sinh, do lòng tham nơi bản  ngã mà chi phối hành động. Như so sánh ở trên của vua Thái Tông, kẻ tiểu nhân  không biết giữ mình, thả cho tà tâm tự tung tự tác, còn người quân tử thì giữ  7
  8. mình, thà chết ngay chứ không chịu làm điều tà gian để làm lợi sống, lợi một lúc  mà ô danh theo bám ngàn năm. Đó một phần cũng là giống cái tư tưởng cốt yêu  của đạo Phật. Từ trộm cấp có thể sinh ra sát sinh. Kẻ trộm khi đã cuồng điên lên vì lòng tham  thì không còn giữ được bình tĩnh nữa, hoặc bị phát hiện mà bất chấp cả việc  giết người, tội nghiệp chồng tội nghiệp nên quả báo sẽ càng nặng. Không trộm cắp, không tham lam mở rộng ra còn đi liền với thi ân bố thí. Bố thí  từ vật chất đến tinh thần. Có người hỏi Phật rằng, nếu không có của cải thì lấy  gì mà bố thí, Phật đáp: “Cho dù con hoàn toàn không có cái gì, con vẫn có thể  thực hiện bố thí 7 điều sau đây: một là nhan thí – bố thí nụ cười. Hai là ngôn thí  – bố thí ái ngữ, nói lời hay. Ba là tâm thí – bố thí tâm hòa ái, lòng biết ơn. Bốn là  nhãn thí – bố thí ánh mắt nhìn thẳng hiền từ. Năm là thân thí – bố thí hành động  nhân ái. Sáu là tọa thí – bố thí nhường chỗ cho người cần. Bảy là phòng thí – bố  thí lòng bao dung." Trong kinh Thập thiện nghiệp đạo Phật dạy, nếu xa lìa trộm cắp thì được mười  pháp đáng tin cậy: tài sản dồn đầy, vua, giặc, nước, lửa, con hư, không thể hủy  hoại; nhiều người thương mến; không ai lừa gạt; mười phương tán than; chẳng  lo sợ tổn hại; tiếng tốt lan khắp; ở trong chúng không khiếp sợ; của cải, mạng  sống, sắc đẹp, sức khỏe yên vui, đầy đủ biện tài khống khiếm khuyết; thường  mang tâm bố thí; khi chết được sinh lên cõi trời. 3.  Giới Sắc  Trần Thái Tông cho rằng sắc đẹp là một thứ mê hoặc nguy hiểm mà khó ai có  thể qua khỏi: “Lưng ong tóc mượt hay khiến tâm tánh say mê; sắc én mày ngài  làm cho hồn phiêu phách lạc. Đưa mắt liếc chẳng phải dao mài mà ai không đứt   ruột. Lưỡi uốn tựa sáo diều, mọi người đều phải lắng nghe”, sắc đẹp không  vóc không hình mà sát thương vô chùng như thế. Nó còn làm cho cốt nhục tương  tàn quên nghĩa “thân sơ”, quên tình phụ tử, làm trái lại luân thường đạo lí, gây  chiến tranh hay làm nước nhà sa sút,, thậm chí diệt vong, như chuyện Trụ  Vương (Nhà Ân) vì Đắc Kỷ mà bại hoại triều cương, giết tôi trung, làm bao  nhiêu chuyện trái đạo thường, hay chuyện đốt phong hỏa đài cảnh giới giặc để  lừa các chư hầu, mua tiếng cười của nàng Bao Tự (Tây Chu), sau đó cả 2 đều bị  thay triều đổi vị, đó là cái họa do mỹ nhân gây ra. Ngẫm cho kĩ, nếu bỏ đi áo  8
  9. quần, chùi đi son phấn, rửa đi mùi hương thì rốt cuộc ai cũng như ai, cũng một  túi thịt xương máu, có gì khác đâu? Kinh chánh pháp niệm xứ có viết: “Nam tử thế gian bị thống khổ, Ðều do bởi nơi phụ nữ, Không luận thiếu niên hay trung niên, Không ai chẳng do nguyên nhân này. Nữ nhân phá hoại thế gian, Làm cho thiện pháp tiêu diệt hết. Triền phược lớn nhất ở thiên giới. Không có gì hơn là nữ sắc, Nữ nhân trói cột hàng chư Thiên, Dẫn dắt đi vào tam ác đạo” Đó là cái nguy hại vô lường của nữ sắc. Từ sắc lại sinh ra tà dâm. Tà dâm gồm  ba phẩm tội: thượng phẩm tội (hành dâm giữa mẹ ­ con, chị ­ em, cha – con, anh  – em), trung phẩm tội (hành dâm với người không phải vợ/chồng của mình), hạ  phẩm tội (hành dâm với vợ/chồng nhưng không phải nơi, phải lúc). Căn cứ vào  phẩm tội mà luận chịu nghiệp báo khác nhau. Bồ tát tạng kinh viết:  “Trong khi gần ái dục, Không tội ác nào chẳng tạo tác. Ðến khi thọ quả báo của ái dục, Không thống khổ nào chẳng lãnh thọ” Từ sắc dục lại sinh ra các tội nghiệp khác như là sát sinh. Bao nhiêu chuyện kể  về những cuộc chiến tranh phi nghĩa mà nguyên nhân chỉ để tranh giành phụ nữ,  cuối cùng thì xương chất như núi. Đó là cái họa to lớn. Cái họa gần ở ngay  trước mắt là những kẻ tà dâm, để chiếm đoạt được kẻ khác có khi phải giết  chết, hoặc sau khi thực hiện hành vi đồi bại thì thủ tiêu để không bị tố cáo, thật  chẳng đáng. 9
  10. Cho nên, trong Thập thiện nghiệp đạo, Phật dạy, nếu xa lìa hạnh tà thì đạt bốn  loại pháp được người trí khen ngợi: căn điều hòa; dứt hẳn sự loạn động; thế  gian khen ngợi; vợ không thể bị xâm phạm. 4.  Giới Vọng Ngữ  Trần Thái Tông mở đầu: “Tâm là gốc thiện ác, miệng là cửa họa phúc”. Phúc  từ miệng mà tới, họa cũng từ miệng mà ra cho nên khi nói năng phải biết kiêng  dè. Có một câu rất hay: “Không nói đây hay kia dở, chẳng bàn mình phải người  sai”. Trong một cuộc nói chuyện hay bàn luận, ta thường mắc lỗi là hay phản  bác điều người khác nói khi không vừa ý, nhưng đó cũng chỉ là cách nhìn của ta,  dưới góc độ của ta, nên cũng không có căn cứ nào để nói rằng ta đúng (hoàn  toàn), và nếu ta có đúng thật mà dùng cách phản bác tuyệt đối như vậy chỉ làm  cho người kia ra sức bào chữa mà thôi, vấn đề càng rắc rối thêm, cho nên phải  biết từ tốn, khiêm nhường mà nhận xét. Một lời nói còn có sức tổn thương ghê  gớm, khiến cho người khác nghe theo còn gây nên những hậu quả tồi tệ hơn. Vì  thế kẻ vọng ngôn sau khi chết đi sẻ phải chịu cảnh “Đời này bị người khinh rẻ,   sau khi chết bị nghiệp kéo lôi. Hoặc kềm sắt kéo lưỡi cam chịu chua cay. Hoặc  nước đồng sôi rót vào miệng lòng ôm đau đớn.” Phật dạy, lời vọng ngữ cũng như nước rửa chân vậy, còn người vọng ngữ cũng  như chậu rửa chân, bỏ chứ không dùng được. Nghĩa là, vọng ngữ bẩn dơ, nên  lìa nên tránh. Trong Luận đại trí độ có viết: “Người vọng ngữ trước tiên là tự  dối gạt mình, rồi sau mới dối gạt người. Cho thực là hư, cho hư là thực. Hư  thực điên đảo thì không thể nào lãnh thọ thiện pháp, như cái bình úp, nước  không chảy vào được. Người nói vọng ngữ tâm không biết hổ thẹn, đóng bít con  đường nhân thiên và cửa ngõ đi đến Niết Bàn. Quán biết tội lỗi này rồi, thế nên  đừng nói vọng ngữ”. Ðức Phật cũng thường bảo với các tỳ kheo rằng: “Tỳ kheo  Ha Ða đọa địa ngục không phải do tuyên thuyết chánh pháp, mà do thường nói  vọng ngữ”. Đó chính là cái hại của vọng ngữ. Trước hết là hại người, làm cho  kẻ khác u mê bất minh, làm nên những chuyện mà bản thân không biết là sai rồi  gây nên hậu quả với chính bản thân người đó hay là với người khác; sau là hại  bản thân, nói vọng ngữ quen thói thì ngày sau chẳng ai tin tưởng, khi có biến cố  gì thì chẳng ai ra tay giúp đỡ. Từ vọng ngữ lại gây nên những tội nghiệp khác, phải xét đó chính là sát sinh,  sắc dục. Vì một lời vọng ngữ có thể nhen nhóm lên được một cuộc chiến tranh,  10
  11. ở mức độ nhỏ hơn có thể gây nên xung đột giữa người với nhau, quá tay có thể  gây nên thương tích, mất mạng. Hậu quả từ lời vọng ngữ quả không nhỏ. Bỏ được vọng ngữ thì có thể có được những điều sau đây: mệng thường sạch  sẽ với mùi thơm của hoa sen xanh; được người đời tin phục; lời nói ra luôn có  chứng cứ, được hàng trời, người kính mến; đem lời ái ngữ an ủi mọi người;  được tâm an vui thù thắng, ba nghiệp thanh tịnh; lời nói không lầm lỗi, tâm  thường vui vẻ; nói năng trang trọng, hàng trời, người phụng hành; trí tuệ thù  thắng, không ai chế ngự được. 5.  Giới Rượu  Trần Thái Tông viết: “Người ưa uống rượu thì đức hạnh suy kém, lời nói nhiều   lỗi lầm”. Rượu không những làm hại sức khỏe mà còn xâm lấn tinh thần, át đi  thần trí làm cho con người mụ mẫm mất đi chính kiến dễ nói bậy làm bậy hay  có những quyết định sai lầm, có kẻ còn mang tội ngũ nghịch giết mẹ cha, sát hại  người vô tội vạ, phá làng xóm, khinh Phật chê Tăng, coi trời bằng vun không coi  ai ra gì. Kẻ quên đi hổ thẹn  “Thân trần trụi nhảy múa” ngoài đường. Từ đó mà  tan cửa nhát nhà, quốc gia suy yếu, như ông Thái Khang “vì mê rượu nên năm  con đều oán”. Nếu biết rượu không tốt thì nên bỏ, từ hàng phong lưu đến người  đạt giả, mới mong có được điềm lành. Trong Luận đại trí độ viết: “Uống rượu sanh ra ba mươi sáu thứ tội lỗi, nên gọi  là vô lượng tội lỗi”.  Có chuyện kể rằng, một lần Mục Kiền Liên tôn giả du  hành trong cảnh giới ngạ quỷ. Có một con quỷ thấy tôn giả liền đến hỏi ngày vì  nghiệp gì mà từ lúc sinh đến khi thác xuống đầu óc luôn ngu . Tôn giả mới trả  lời, đó là do trong lúc làm người đã thường đem rượu cho người uống, lại  cưỡng ép, khuyên người khác uống rượu, muốn cho người say sưa, mê loạn để  tự lấy làm thú vui. Khổ báo ngu si, đần độn này chỉ mới là hoa báo, quả báo sau  khi bỏ thân quỷ này phải đọa vào địa ngục. Đó là cái nhiệp ghê gớm của giới  rượu này.  Rượu gây mụ mị tâm hồn một cách vô ý chí, uống rượu còn gây ra nhiều nghiệp  khác như sát sinh, sắc dục, vọng ngữ. Vì không còn tri giác nên người uống  rượu sẽ làm những chuyện vượt ngoài kiểm soát, có khi làm rồi chẳng nhớ.  Nhưng không thể đổ lỗi cho việc vì uống rượu nên không còn ý thức nên mới  làm bậy. Nếu biết uống rượu là mất đi ý thức thì tại sao lại còn uống? 11
  12. Trong kinh Tát ­giá Ni­kiền­tử, bài kệ nói “Rượu là căn buông lung; chẳng uống  ngăn đường dữ; thà bỏ trăm ngàn thân; chẳng hủy phạm cấm giới”. Cho nên,  phải biết lìa xa chè chén mới mong được tinh tấn tinh thần. Tiểu kết: Việc so sánh tư tưởng của Trần Thái Tông trong Khóa hư lục với tư  tưởng của một số kinh văn nhà Phật chứng minh cho sự am hiểu của Trần Thái  Tông đối với Phật pháp nói chung và sự chiêm nghiệm sâu sắc từ bản thân của  Ngài nói riêng. Ta thấy, những điều ngày nêu lên hết sức cơ bản, dễ hiểu và  không phải gì khác ngoài những cốt yếu của tư tưởng Phật giáo, để ai ai cũng  có thể học theo làm theo. Thân phận của con người dưới sự soi chiếu của chính  đạo (cái đạo phải làm, cái đạo của tự nhiên, của lẽ phải) thật còn nhiều điểm  tối mờ, cho nên như là một lời răng dại cho việc tu tập, phải biết từ bỏ sát,  trộm, sắc, vọng ngữ, rượu để thân được an lạc. II.  Sanh, già, bệnh, chết – qui luật bất biến của đời người  Được biểu hiện trong bốn bài kệ về bốn tướng: Sanh, già, bệnh, chết. Sanh, già, bệnh, chết là qui luật bất biến của đời người. Đức Phật xưa kia vì  thương cho loài người khốn khổ trong vòng sanh, già, bệnh, chết cho nên mới từ bỏ  ngai vàng mà đi tìm đạo, mong cứu vớt chúng sanh khỏi vòng luân hồi này. 1.  Bài kệ đều tiên nói về tướng Sanh:  “Trời đất nấu nung vạn tượng thành, Xưa nay không mống cũng không manh. Chỉ sai hữu niệm quên vô niệm, Liền trái không sanh nhận có sanh. Mũi đắm các hương, lưỡi tham vị, Mắt mờ chúng sắc, tiếng mê tai. Lang thang làm khách phong trần mãi, Ngày cách quê hương muôn dặm trình” Hết thẩy chúng sanh từ kẻ trí đến người ngu, từ thánh hiền đến phàm tục, từ kẻ  văn thao võ lược đến kẻ thất phu, từ nhan sắc tuyệt trần đến phường xấu xí… đều  không thể thoát khỏi vòng luân hồi. Lục căn chịu sự cám dỗ của nhân gian làm cho  12
  13. mê đắm, tham sống, tham hưởng thụ từ đó chỉ muốn níu kéo tuổi xuân cho dài thêm  mãi. Ngài so tướng Sanh với mùa xuân “Hanh thông đang độ tam dương, muôn vật  rực màu tươi tốt”. Trong bát khổ của đạo Phật, sanh đứng đầu. Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia  Thiều có hai câu thơ nói về sanh khổ: “Thảo nào khi mới chôn nhau Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra!” Phải chăng là một sự trùng hợp ngẫu nhiên, khi vừa mới sinh là thì đứa bé lại khóc  chứ không phải là cười? Có phải vì nó biết rằng nó sắp khổ, nỗi khổ của kiếp  nhân sinh, của già, bệnh, chết mà nó sắp trải qua? Khi còn trong bụng mẹ, đứa bé  đã phải chịu khổ, bị giam nhốt trong buồng tối chật hẹp, chịu đói, lạnh, nóng cùng  mẹ; rồi mẹ đứa bé cũng khổ khi phải mang nặng đẻ đau, thai nghén suy nhược  trong suốt chín tháng mười ngày. Khi lớn lên, chúng ta phải ra xã hội bương chải  tìm kế sinh nhai, đổ mồ hôi nước mắt, công sức, dãi nắng dầm mưa, có khi phải  trải qua những lộc lừa ganh ghét của tiểu nhân, bị hãm hại chưa kể có khi còn chết  yểu.  Cha mẹ sinh ra, trước hết ta được cái thân. Có kẻ lành lặn, có kẻ tàn tật cũng là do  nghiệp báo cả. Bởi vậy mới nói rằng thân là gốc của khổ. Lão tử trong Đạo đức  kinh có viết: “Ta sở dĩ có đại nạn là do có thân Nếu không có thân thì họa còn đâu?” Tất cả phúc họa sướng khổ trong đời đều đọa lên thân. Thân là cái được sinh ra,  khi chết đi cũng là cái còn lại duy nhất hiện hữu, thân giống như là cái vỏ bọc chứa  đựng linh hồn, trừng phạt linh hồn ứng theo tạo tác tiền kiếp. 2.  Bài kệ thứ hai nói về tướng Già:  “Con người kiếp sống tợ phù âu, Thọ yểu người trời chớ vọng cầu. Bóng ngả nương dâu, chiều sắp đến, Thân như bồ liễu tạm qua thu. Phan Lang thuở nọ còn xanh tóc, 13
  14. Lữ Vọng ngày nay đã bạc đầu. Cuồn cuộn việc đời trôi chẳng đoái, Vầng ô gác núi, nước trôi xuôi” Kiếp sống của con người tựa như mây như khói, mới tụ đã tan, nhanh như chớp  mắt. Cho nên thọ hay yểu cũng chỉ là cái quan niệm, chớ có cưỡng cầu mà làm gì.  Dù có đang khỏe mạnh tinh tường đến đâu thì khi tuổi già đến cũng không thể trốn  được, “Tóc xanh má đỏ đổi thành tóc bạc da gà”, “Ngựa trúc áo hoa lại thành gậy  cưu xe cói”, mắt sáng cũng mờ dần, tai thính rồi từ từ cũng lãng. Ngài ví tướng Già  như mùa hạ “Trời nóng đá chảy muôn vật đều khô, nắng nóng sôi vàng trăm sông  sắp cạn.”  Có bài ca dao như vầy: “Già nua là cảnh điêu tàn Cây già cây cỗi người già người suy” Khi già đi, cơ thể con người suy kiệt, chân, tay, mắt, mũi, miệng, lưỡi... không còn  nhạy và linh hoạt như thời trẻ cho nên thường phải sống dựa vào sự chăm sóc của  con cháu, từ chuyện vệ sinh, ăn uống ngủ nghỉ cũng đều trở nên hết sức khó khăn  và chậm chạp. Hơn nữa trí tuệ lại không thể minh mẫn được, nói trước quên sau,  chuyện cần nhớ thì lại quên, quên chuyện của mình đã đành, thậm chí còn quên con  quên cháu, hay mất luôn trí nhớ. Còn gì đáng tội nghiệp hơn là cái khổ này nữa? Nhân gian sợ già, sợ sẽ xấu xí, sợ sẽ ốm yếu, da vẻ nhăn nheo, tóc bạc răng  rụng… Bởi như thế thì biết bao nhiêu niềm vui trần tục họ sẽ không còn được  hưởng nữa, phải ở nhà thủi thủi một mình, lắm lúc con cháu bận bịu không ở cùng  được thì cảm thấy cô đơn vô cùng. Có làm đẹp đi chăng nữa thì cùng lắm chỉ có  thể che đi phần bên ngoài, còn thể trạng bên trong là bản chất bất di bất dịch, chỉ  có thể để cho tạo hóa quyết định mà thôi.  Trong Kinh Dược sư, phần sám nguyện và hồi hướng có đoạn viết: “Thế Tôn lời dạy tỏ tường Mấy điều quán tưởng phải thường xét ra: Chúng sanh rồi phải bị già Không ai tránh khỏi lúc qua canh tàn.” 14
  15. Thấy đó, già yếu la qui luật của tạo vật cho nên vạn vật đều không thể tránh khỏi. 3.  Bài kệ thứ ba nói về tướng Bệnh:  “Âm dương trái vận vốn xoay vần, Gieo rắc tai ương đến thế nhân. Đại để có thân thì có bệnh, Ví bằng không bệnh cũng không thân. Linh đơn chớ cậy trường sanh thuật, Lương dược khó mong được sống bền. Sớm nguyện xa lìa ma cảnh giới, Xoay tâm về đạo, dưỡng thiên chân” Người bệnh thường “Chân tay mỏi mệt, mạch lạc khó thông, trăm lóng rã rời,  nóng lạnh chẳng thuận”. Xác thân như cổ xe mục rã, như ngọn đèn trước gió, chỉ  biết nằm một nơi, ăn uống khó khăn, sinh hoạt bất tiện phải phiền tới anh em cháu  con lo đỡ chứ làm gì còn Biển Thước để cứu chữa cho? Kệ rằng, hễ ai có thân thì  đều phải có bệnh, nên hết thân thì hết bệnh, thân tục thì bỏ, thân pháp thì tu, bệnh  từ đó mà không còn động được ta nữa. Tướng bệnh của người là mùa thu trong  năm “Gặp khi sương lạnh mới rơi, đến lúc cỏ cây đều héo” Trong Kinh Dược sư, phần sám nguyện và hồi hướng có đoạn viết rằng: “Chúng sanh bệnh tật phải mang, Không ai sống mãi bình an, mạnh lành.” Con người ai cũng phải mắc bệnh ít nhất một lần trong đời, lại có kẻ suốt đời  phải sống chung với bệnh, đau khổ vật vã khôn cùng. Bệnh có nhiều nguyên nhân,  có khi do bên ngoài tác động vào, lại có khi là do chính bản thân chuốt lấy. Kẻ tham  tài lợi thì tim dễ sanh bệnh, kẻ tham tà dâm thì thận dễ sanh bệnh, kẻ hay nóng  giận thì gan dễ sanh bệnh, kẻ hay oán tù thì tì dễ sanh bệnh, kẻ hay phiền lo thì  phổi dễ sanh bệnh. Tất cả những điều trên có mấy ai mà tránh khỏi (có chăng là  thánh nhân).  Bệnh đọa vào thân, mọi đau đớn thân đều nhận lãnh. Nhẹ thì đau vài ngày, nặng thì  chịu cả đời, hết rồi lại phát, dai dẵn không thôi. Tất cả chúng sanh ai cũng đều có  thể mắc bệnh nhưng dễ mắc nhất là những người già yếu, từ bệnh lại dẫn đến  15
  16. chết. Kẻ bệnh tật khổ mình thì một mà khổ cho gia quyến thì mười, nào là công  chăm sóc, thức đêm canh chừng, bỏ công việc, lo âu triền mien rồi lại chính người  đó sanh ra bệnh nữa. Lắm kẻ vì bệnh mà tán gia bại sản lấy tiền thuốc than chạy  chữa, khỏi đâu chưa thấy mà cái đói nghèo túng quẫn dần vây lấy rồi. Cả bệnh và già đều là nỗi sợ to lớn nhất của con người lúc còn sống ở dương gian,  cho nên con người luôn tìm mọi cách để chống lại chúng. Ngày xưa thời của Trần  Thái Tông phụ nữ chỉ biết làm đẹp, người giàu chỉ biết uống thuốc bổ để ngừa già  và bệnh. Đến thời này, người ta còn cả phẩu thuật thẩm mỹ, tiêm vắcxin… Âu  cũng là tìm cách hạn chế. 4.  Bài kệ thứ tư nói về tướng Chết:  “Cào đất đùng đùng trận gió hanh, Lão ngư say tít, chiếc thuyền chành. Bốn bề mù mịt mây sầm bóng, Một dãy lô xô sóng cuộn ghềnh. Theo lớp hạt mưa bay phấp phới, Dồn nhau tiếng sét nổ đì đoành. Giây lâu tan bụi, bên trời tạnh, Trăng lặn lòng sông, đêm mấy canh?” Bệnh đến hồi cuối thì phải chết. Ngẫm lại cuộc sống, có kẻ trăm năm, có kẻ yểu  mệnh thì cũng phải qua cái ngày chết này. Dù có nhanh cũng không chạy được, dù  có trí cũng không trốn khỏi. Cảnh tử biệt làm cho gia quyến đau đớn, người thương  mến không khỏi chạnh lòng. Đời người vô thường là vậy, sống đó rồi chết đó,  trăng cao rồi trăng cũng lặn lòng sông, thuyền vững trồi thuyền cũng chìm đáy bể.  Ngài ví tướng chết của con người là mùa đông trong năm “Càn khôn ứng Thái tuế  tròn vòng,nhật nguyệt hướng huyền đều hội tụ. Âm tinh cực thịnh, khắp trời mưa  tuyết bời bời, dương khí tan dần, nước tám đức đóng băng càng lạnh buốt.” Trong Kinh Dược sư, phần sám nguyện và hồi hướng có đoạn viết rằng: “Chúng sanh, sự chết sẵn dành, Không ai tránh khỏi tử sanh đến kỳ. 16
  17. Chúng sanh phải chịu chia ly, Giã từ tất cả, ra đi một mình” Trong bốn điều vô thường: sanh, già, bệnh, chết thì chết là điều khiến con người ta  sợ hãi nhất. Ví dụ như, một người bị giết, trước khi chết họ còn tìm cách vùng  vẫy, nghĩa là còn hướng tới cái sống, một người bị bệnh mà nhất định phải chết,  họ vẫn tìm cách kéo dài mạng mình càng lâu càng tốt, đủ để hiểu cái lẽ tham sống  sợ chết ở đời. Chết khổ thế nào mà con người lại sợ hãi đến vậy? Trước khi chết  thân xác co giật liên hồi, nước đờm trào ra, mắt trợn tròng, tay chân cấu lại, máu  ngừng chảy, tim ngừng đập, hơi ngừng thở tất cả chìm trong màu đen đau đớn tận  cùng, đầu ốc thì kinh hãi, còn lưu luyến người thân bạn bè không nỡ ra đi, mà có đi  cũng chưa biết chốn mình đến sẽ như thế nào, có cô đơn lạnh lẽo yêu ma quỹ quái  gì ở đó không, lại còn biết bao nhiêu điều ở dương gian mà mình chưa trải hết,  chưa làm hết. Rồi thì, tất cả cứng đờ, lạnh lẽo và mục rữa ra. Cái chết là điều diễn ra cuối cùng trong cuộc đời của mỗi con người, nó còn hiển  nhiên hơn cả: sanh, già, bệnh. Có sanh thì ắt có diệt, đèn đốt cũng tới lúc hết dầu,  mặt trời mọc rồi cũng đến lúc lặn, ngày rồi cũng tới lúc đêm… Trong Trường bộ  kinh phần Kinh Đại bát niết bàn có viết về lời dặn của Đức Phật trước khi nhập  diệt: "Này các tỳ­kheo, cũng có thể là các người tu hành không gia cư thuộc các  giáo lý khác với giáo lý của chúng ta sẽ hỏi các người rằng: Một Đấng Như Lai có  còn hiện hữu sau khi chết hay không? [...], thì khi đó các người phải trả lời với họ  như thế này: “Này các bạn, điều ấy vị Giác Ngộ không hề nêu lên [...] bởi vì điều  ấy không mang lại sự an vui, không mang lại Đạo Pháp đích thật, không giúp chấm  dứt sự thèm khát, không mang lại sự an bình, sự đình chỉ, trí tuệ, sự giác ngộ và  niết­bàn [...]. Những gì vị Giác Ngộ nêu lên chỉ là Bốn Sự Thật liên quan đến khổ  đau, sự chấm dứt của khổ đau và con đường đưa đến sự chấm dứt ấy””. Chính  Đức Phật cũng phải chết đi, bật giác ngộ ấy hẳn là phi thường hơn cả thánh nhân  gấp nhiều lần mà vẫn phải từ giả cõi đời này thì nói gì là những kẻ u minh như  chúng ta đây? Và cái chết phi thường ấy là kết thúc của một kiếp, nhưng lại mở ra  con đường vô biên cho chánh pháp tiến lên. Chết, là khi đã trả xong nợ tiền kiếp,  chấm dứt cái khổ của kiếp hiện sinh , cũng là để bắt đầu một kiếp sống khác.  Cũng trong kinh này, Phật còn dạy rằng: trong tất cả vụ mùa, cày cấy vào mùa thu  là tốt nhất; trong tất cả bước chân, bước chân voi là vĩ đại nhất; trong tất cả sự  chấp nhận, chấp nhận về cái chết, sự vô thường là vĩ đại nhất. 17
  18. Tiểu kết: Đã biết sanh, già, bệnh, chết là qui luật của đời người thì qui luật, ai  cũng phải trải qua thì cần gì phải trốn chạy, phải bịt tai nhắm mắt xem như không  có. Sao không ung dung tự tại an nhiên mà sống cho hết tuổi trời? Con người cứ  còn “chấp” cho nên thân phận vẫn như ngọn đen trước gió chưa thể thoát khỏi luân  hồi, cứ chìm trong bể khổ bến mê cùng cùng tận tận. Trần Thái Tông tìm đến cửa  Phật, viết được quyển Khóa hư lục này, trong đó có phần nói về sanh, già, bệnh,  chết thì hẳn là Ngài cũng đã thông đạt phần nào cái lẽ vi diệu này. III.  Đời là bể khổ ­ thân là gốc khổ             Trần Thái Tông Ngài viết: “Hết thảy các người! Thân là gốc khổ, thể chất là nhân  nơi nghiệp, nếu tự cho nó là thật, cũng là nhận giặc làm con”. Thân là gốc khổ, có  thân mới có khổ, thân cực nhọc làm lụm, thân oằn mình chịu bệnh đau nóng rét,  mọi họa nghiệt đều đổ lên thân. Nếu tin thân là thân có thật thì chính là tự rước  họa vào mình, nên nói là “nhận giặc làm con”.  Khi một người chưa sanh ra, chưa là bào thai thì thân là gì, ở đâu? Khi họ chết đi thì  thân là gì, ở đâu? Thân xác theo quan niệm nhà Phật là “bởi do niệm khởi duyên  hội, năm uẩn hợp thành, thể mạo vọng sanh, hình dung giả có” do đó thân nam nữ  là giả, đẹp xấu cũng là giả, chỉ mượn xác phàm để nuôi linh hồn mà thôi. Linh hồn  chi phối xác thân, xác thân làm cho cả linh hồn đau đớn nếu sự chi phối đó là sai.  Xác thân đôi khi có những dục vọng mà linh hồn biết là không nên nhưng vẫn  không ngăn được, cho nên mới đọa vào bể khổ. Có kẻ chỉ biết chạy theo tài sắc rượu thịt, chịu cho lợi danh ràng buộc, khác nào  “Đầu sọ khô cài hoa giắt ngọc, túi da hôi ướp xạ xông hương, cắt lụa là che đậy  máu tanh, giồi son phấn át thùng phân thúi. Trang sức như thế trọn là gốc nhớp.  Không thể nơi đây tự thẹn, lại hướng trong ấy mến yêu”, để rồi trầm mình trong  bể khổ, đắng cay trong cảnh sinh lão bệnh tử mà không thoát ra được. Cho nên nếu là người sáng suốt thì hãy biết giữ cho thanh tịnh, một lòng hướng  thiện sẽ “phá sáu thức làm sáu thần thông, dạo tám khổ thành tám tự tại” Ngài kết bằng bài kệ: “Vô vị chân nhân thịt đỏ au, Hồng hồng bạch bạch chớ lầm nhau, Ai hay mây cuộn, không toàn tịnh, 18
  19. Sương biếc bên trời, một núi xanh” “Vô vị chân nhân” ở đây là con người bản chất chưa có vị trí, tức nói con người sơ  khởi của chúng ta, khi chưa có dục vọng phát sinh, rồi sau lớn lên trải qua cuộc  sống trần tục thì nó bị đẩy vào một vị trí nào đó. Có vị trí là có “chấp”, có chấp thì  không thể thanh tịnh. Ta phải tìm ra cái “vô vị chân nhân” ẩn trong cái xác thân tục  này mới mong giác ngộ, như mây tan thì trời hiện trong lành, sương tan thì núi xanh  hiện sừng sững. Triết lí nhà Phật sâu rộng không chừng, nhưng tựu trung lại chỉ nói về hai điều  chính yếu, là khổ và con đường diệt khổ. Như vậy đủ hiểu cái khổ nó quan trọng  và to lớn tới chừng nào, khiến người ta phải vướn vào vòng trầm luân không dứt.  Phật dạy sinh là khổ, có lẽ chính bởi như vậy mà đứa bé khi mới lọt lòng mẹ đã  cất tiếng khóc, khóc cho những nỗi khổ trong đời mà nó sắp trải qua. Như hai câu  thơ đã nhắc ở phần trên: “Thảo nào khi mới chôn nhau, Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra” Khóc là vì khổ, vậy khổ từ đâu mà ra? Không phải từ những dục vọng, u mê,  những cưỡng cầu, những sân si trần tục hay sao? nói cách khác, đó chính là cái nỗi  “thiết tha sự thế”, xem sự thế quan trọng hơn sự bình yên trong lòng, đi tranh giành  cướp đoạt mọi thứ về cho mình, những tưởng sẽ đủ đầy hạnh phúc, ngờ đâu càng  tìm càng mất, càng thiếu, để rồi nhìn lại thì biển xanh đã hóa nương dâu, tóc xanh  đã ngã về chiều, người thân li tán, thân già tàn tạ, có còn gì nữa đâu? Xin có sự so sánh với một tác phẩm của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều là Cung  oán ngâm khúc:  “Nghĩ thân phù thế mà đau, Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê” Cái thân xác tục lụy này là gánh nặng cho linh hồn; sạch dơ, đau sướng, nắng mưa,  lạnh nóng… đều trải trên thân ta. “Thân phù thế” là cái thân thay đổi theo cuộc đời,  cuộc đời ở đây lênh đênh vô định như bọt bèo giữa biển. Sóng đánh tan tành cánh  bèo thành bọt nước. Tác giả nhắc đến “bể khổ”, “bến mê”, là những từ ngữ mà  Phật gia hay dùng để chỉ cái khổ. Khổ do u mê nên “bến mê” nối liền “bể khổ”.  Phật dạy bể khổ vô biên, nước mắt khổ đau của con người rơi xuống còn nhiều  hơn cả nước biển. Mùi đời đắng cay nếm vào tê lưỡi, đường đời gập ghềnh chân  19
  20. bước máu tuôn. Những đắng cay gập ghềnh ấy vây lấy kiếp người từ lúc sinh ra  cho đến lúc chết đi như là đại dương mênh mông đang vờn con thuyền bé nhỏ, con  thuyền ở đây cũng chỉ là “bào ảnh”, có đó rồi tan đó, chìm đó. Trong Cung oán  ngâm khúc: “Mùi tục vị lưỡi tê tân khổ, Đường thế đồ gót rỗ kỳ khu, Sóng cồn cửa bể nhấp nhô, Chiếc thuyền bào ảnh lô xô mặt ghềnh” Đại thi hào Nguyễn Du cũng có sự đồng điệu về bể khổ cuộc đời: “Trăm năm trong cõi người ta Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau Trải qua một cuộc bể dâu Những điều trông thấy mà đau đớn lòng” Chữ tài, và nhất là chữ mệnh chứ đeo đuổi bám riết con người ta không tha, bày ra  bao nhiêu trò lố lăn, cả người trong cuộc lẫn ngoài cuộc nhìn vào đều cười ra nước  mắt, khóc khóc cười cười cười cười khóc khóc. Nói như vậy không phải để cho  mọi người cảm thấy cuộc đời thật tồi tệ để rồi quay lung lại với nó, mà điều cố  yếu ở đây chính là lẽ vô thường; ta không phá vở được qui luật của tạo hóa thì sao  không phá mê bỏ chấp sống tự do an nhiên mà lại cứ biết là khổ mà vẫn lao mình  vào, hoặc lo lắng cho nhọc thân xác vốn đã nhiều khổ lụy? IV.  Buông bỏ và điều quí nhất của đời người  Ở đời vàng ngọc là rất quí, nhưng xét cho kĩ thì chẳng bằng thân mạng. Nhưng nếu  xét kĩ hơn nữa, đến tận gốc rễ thì thân mạng là “gốc khổ” như đã nói ở phần trên.  Lão Tử trong Đạo đức kinh viết: “Tôi sở dĩ có hoạn lớn, vì tôi có thân”, nên thân  mạng chỉ là cái quí nhất trong những cái tầm thường. Vậy phải cho cái quí nhất  trong những cái phi thường là đáng quí. Đó là cái gì? Nghĩ ở góc độ hẹp, vàng bạc mua được đồ ăn thức uống, quần áo tư trang, mua nhà  cửa… thế thì đáng quí thật. Nhưng một người sắp chết, vàng bạc đâu có cứu được  họ? Họ cần được sống hơn hết thẩy. Song, người sống ở đời chẳng phải là hay  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1