intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài “Thực trạng cải cách hành chính và các giải pháp, phương hướng của cải cách hành chính trong giai đoạn hiện nay”

Chia sẻ: Le Dinh Thao | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:23

3.932
lượt xem
755
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo luận văn - đề án 'đề tài “thực trạng cải cách hành chính và các giải pháp, phương hướng của cải cách hành chính trong giai đoạn hiện nay”', luận văn - báo cáo phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài “Thực trạng cải cách hành chính và các giải pháp, phương hướng của cải cách hành chính trong giai đoạn hiện nay”

  1. Luận văn Đề tài “Thực trạng cải cách hành chính và các giải pháp, phương hướng của cải cách hành chính trong giai đoạn hiện nay”
  2. MỤCLỤC Trang MỞĐẦU 2 CHƯƠNG I: CƠSỞLÝLUẬNCỦACẢICÁCHHÀNHCHÍNH 3 3 I. Cải cách hành chính Nhà nước 4 II. Mục tiêu cải cá ch hà nh chính Nhà nước 1. Mục tiêu chung 4 5 2. Những mục tiêu cụ thể 6 III. Quan điểm của Đảng về cải cách hành chính Nhà nước CHƯƠNG II: ĐÁNHGIÁTHỰCTRẠNGCỦACẢICÁCHHÀNHCHÍNH NHÀNƯỚC 12 12 1. Thực trạng cải cách hành chính ở Việt Nam 16 2. Nguyên nhân hạn chế, yếu kém CHƯƠNG III. GIẢIPHÁPCẢICÁCHHÀNHCHÍNHỞ VIỆT NAM 18 KẾTLUẬN 21 2
  3. MỞĐẦU Ngày nay, trước xu thế toàn cầu ho á kinh tế và văn hoá, cải cách hành chính trở thành một trào lưu, là mộ t nhu cầu tự thân, nỗ lực của hầu hết các quốc gia trên thế giới, nhằm xây d ựng mộ t nền hành chính nhà nước hiện đại, năng động, hiệu quả, giảm phiền hà, mộ t nền hành chính lấy đố i tượng phục vụ làm tôn chỉ, m ục đ ích chủ yếu,để từđó xây dựng, phát triển vàhoàn thiện nền hành chính. Ở Việt Nam hiện nay, công cuộc cải cách hành chính nhà nước đang là tâm điểm trong các nỗ lực của Đảng và Nhà nước nhằm tiến tới phát triển, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ n ghĩa, “Nhà nước của d ân, do d ân, vì dân”, xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ và văn minh” và là điều kiện căn bản để góp phần đạt được các mục tiêu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội quốc gia. Đảng ta, tại Nghị quyết Đại hội toàn quố c lần IX đã khẳng đ ịnh tiếp tục “ Xây dựng một nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hoá” không chỉ là mục tiêu của công cuộc cải cách hành chính mà còn là chủ trương góp phần thực hiện thành công chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến 2010 ở Việt Nam. Chính vì vậy, Tô i đã chọn vấn đề “Thực trạng cải cách hành chính và các giải pháp, phương hướng của cải cách hành chính trong giai đoạn hiện nay” để nghiên cứu làm đề tài cho tiểu luận môn học Luật hành chính. Kết cấu của tiểu luận gồm: Mục lục Chương I: Cơ sở lý luận và cải cách hành chính Chương II: Đ ánh giá thực trạng cải cách hành chính Nhà nước Chương III: Giải pháp cải cách hành chính ở V iệt Nam Kết luận CHƯƠNG I CƠSỞLÝLUẬNCỦACẢICÁCHHÀNHCHÍNH 3
  4. I. CẢICÁCHHÀNHCHÍNHNHÀNƯỚC Hiện nay trên thế giới, về mặt lý thuyết, có nhiều quan niệm khác nhau về cải cách hành chính. Có q uan niệm cho rằng cải cách hành ch ính là sự cải tổ vàđ iều chỉnh cơ cấu tổ chức do đó d ẫn đến sự thay đổ i về chức năng, phương thức quản lý và cơ cấu nhân viên. Đây là quan nhiệm có tính phổ biến và chủđạo nhất. Song, do quan điểm vềý thức hệ và tình hình thực tế của các nước khác nhau nên nội dung, m ục tiêu cải cách hành chính cũng khác nhau. Tuy vậy, cải cách hành chính đều xuất phát từ thực tiễn và phát sinh chủ yếu do nguyên nhân sau: yêu cầu tất yếu của phát triển kinh tế - xã hội, yêu cầu tất yếu của việc cải tạo, điều chỉnh của cơ cấu hành chính, kết quả tất yếu của sự tác động của tiến bộ khoa học vào quản lý hành chính. Những yêu cầu của cải cách hành chính liên quan m ật thiết với nội dung cải cách hành chính, đồng thời liên quan chặt chẽ với tính chất của cải cách hành chính. V ề tính chất, cải cách hành chính là một sự biến đổi hay cách mạng trong lĩnh vực thượng tầng kiến trúc và q uan hệ sản xuất, có tính chất chính trị và giai cấp rõ rệt. Tuy nhiên, từ góc độ hành chính thì cải cách hành chính phải phục tùng nhu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất x ã hội và thúc đẩy khoa học hoá sự quản lý công việc của toàn bộ hệ thống hành chính nhà nước, nên nó có tính cộng đồng xã hội nhất định. Tuy nhiên, tính chất của cải cách hành chính ở các nước có chếđộ xã hội, kinh tế khác nhau, vẫn có sự khác biệt về bản chất. Tính chất khác biệt chủ yếu về mặt chính trị, tính cộng đồng biểu hiện ở các khía cạnh sau đây: - cải cách để thúc đẩy việc khoa họ c ho á, hiệu suất hoá công việc quản lý hành chính; - Cải cách làđể kích thích nhiệt tình công tác và tính tích cực của cán bộ, công chức, phát huy đầy đủ năng lực sáng tạo của họ . - Cải cách làđể xây dựng hệ thống quản lý N hà nước có cơ cấu hợp lý, công năng đầy đủ, chức năng rõ ràng, tinh giản mà hiệu quả cao, có pháp chê hoàn bị và cơ chế tự kiểm soát để thích ứng với sự thay đổi phát triển của tình hình kinh tế xã hội và 4
  5. Từ những phân tích trên đây, cải cách hành chính có thểđược hiểu một cách khái quát, chung nhất, đó là: Cả i cách h ành chính là hoạt động của Chính phủ căn cứ vào yêu cầu phát triển kinh tế, chính trị của xã hộ i mà h iện đại hoá, khoa học hoá, hiệu suấ t hoá thể chế hành chính, cơ cấu tổ chức, ch ếđộ công tác, phương thức quản lýđể nâng cao năng su ất và hiệu lực hành chính của toàn b ộ n ền hành chính nhà nước. II. MỤCTIÊUCỦACẢICÁCHHÀNHCHÍNH Cải cách hành chính ở V iệt Nam là cô ng việc hết sức mới mẻ, diễn ra trong đ iều kiện thiếu kiến thức và kinh nghiệm về quản lý hành chính Nhà nước trong thời kỳđổi mới, mở cửa, phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, nên có nhiều vấn đề phải vừa làm, vừa tìm tòi, tổng kết đú c rút kinh nghiệm. Do vậy, việc hình thành quan niệm và những nguyên tắc cơ bản chỉđạo cô ng cuộc cải cách hành chính cũng như việc đề ra những nội dung, phương hướng, chủ trương, giải pháp thực hiện trong từng giai đoạn là một quá trình tìm tòi sáng tạo không ngừng, là một quá trình nhận thức liên tục, thống nhất trong tiến trình đổi m ới. Cho nên, cải cách hành chính ở V iệt Nam vừa có tính chiến lược, vừa có tính chiến thuật giai đo ạn, được xác định trong khuôn khổ những mục tiêu chung và những mục tiêu cụ thể cần đạt được trong từng giai đoạn nhất định. 1. Mục tiêu chung. Mục tiêu chung của cải cách hành chính ở V iệt Nam thực hiện đến năm 2010 là: - Xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng; - Xây dựng đội ngũ cán bộ , công chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Đến năm 2010, hệ thống hành chính về cơ bản được cải cách phù hợp với yêu cầu quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 5
  6. 2. Những mụ c tiêu cụ thể. 2.1. Mục tiêu thứ nhất. - Hoàn thiện hệ thống thể chế hành chính, cơ chế, chính sách phù hợp với thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đ ại hó a đất nước, trước hết là các thể chế về kinh tế, về tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính. - Tiếp tục đổi mới quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật, khắc phục tính cục bộ trong việ c chuẩn bị, soạn thảo các văn bản; đề cao trách nhiệm của từng cơ quan trong quá trình xây dựng thể chế; phát huy dân chủ, huy động trí tuệ của nhân dân để nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật. 2.2. Mục tiêu thứ hai. Xó a bỏ về cơ b ản các thủ tục hành chính mang tính quan liêu, rườm rà, gây phiền hà cho doanh nghiệp và nhân dân; hoàn thiện các thủ tục hành chính mới theo hướng công khai, đơn giản và thuận tiện cho dân. 2.3. Mục tiêu thứ ba. Các cơ quan trong hệ thống hành chính được xác định chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm rõ ràng; chuyển được một số công việc và dịch vụ không cần thiết phải do cơ quan nhà nước thực hiện cho doanh nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủđảm nhận. 2.4. Mục tiêu thứ tư. Cơ cấu tổ chức của Chính phủ gọn nhẹ, hợp lý theo nguyên tắc Bộ quản lýđa ngành, đa lĩnh vực, thực hiện chức năng chủ yếu là quản lý vĩ m ô toàn xã hội b ằng pháp luật, chính sách, hướng dẫn và kiểm tra thực hiện. Bộ máy của các Bộđược điều chỉnh về cơ cấu trên cơ sở phân biệt rõ chức năng, phương thức hoạt động của các bộ p hận tham mưu, thực thi chính sách, cung cấp d ịch vụ công. 2.5. Mục tiêu thứ năm. Đến năm 2005, về cơ bản xác định xong và thực hiện được các quy định mới về phân cấp quản lý hành chính nhà nước giữa trung ương vàđ ịa phương, 6
  7. giữa các cấp chính quyền địa phương; định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và tổ chức bộ máy chính quyền ởđô thị và nô ng thô n. Các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện đ ược tổ chức lại gọn nhẹ, thực hiện đú ng chức năng quản lý nhà nước theo nhiệm vụ và thẩm quyền được xác định trong Luật Tổ chức Hội đồng nhân d ân vàủy ban nhân dân (sửa đ ổi). Xác định rõ tính chất, cơ cấu tổ chức, chếđộ làm việc của chính quyền cấp xã. 2.6. Mục tiêu thứ sáu. Đến năm 2010, độ i ngũ cán bộ, cô ng chức có số lượng, cơ cấu hợp lý, chuyên nghiệp, hiện đại. Tuyệt đại bộ phận cán bộ , công chức có phẩm chất tốt vàđ ủ năng lực thi hành công vụ, tận tụy phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước và phục vụ nhân dân. 2.7. Mục tiêu thứ bả y. Đến năm 2005, tiền lương của cán bộ, công chức được cải cách cơ b ản, trở thành động lực của nền công vụ, bảo đảm cuộ c sống của cán bộ, cô ng chức và gia đ ình. 2.8. Mục tiêu thứ tám. Đến năm 2005, cơ chế tài chính được đ ổi mới thích hợp với tính chất của cơ quan hành chính và tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công. 2.9. Mục tiêu thứ chín. Nền hành chính nhà nước được hiện đại hóa một bước rõ rệt. Các cơ quan hành chính có trang thiết bị tương đố i hiện đại phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước kịp thời và thông suố t. Hệ thống thông tin điện tử của Chính phủđược đưa vào hoạt động. III. QUANĐIỂMCỦAĐẢNGVỀCẢICÁCHHÀNHCHÍNH Cuộc cải cách hành chính đặt trong khuôn khổ các quan điểm và chủ trương của Đ ảng Cộng sản Việt Nam vềđổi mới hệ thống chính trị và cải cách bộ m áy nhà nước. Cải cách và hoàn thiện nền hành chính nhà nước gắn liền với xây dựng, chỉnh đố n Đảng, đổi m ới nội dung và p hương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nói chung và nền hành chính nó i riêng, nhằm giữ vững và p hát 7
  8. huy b ản chất của giai cấp công nhân, x ây dựng Nhà nước pháp quyền của d ân, do dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng. N ền hành chính phải được tổ chức thành một hệ thống thống nhất ổn định, hoạt động thông suốt, trên cơ sở phân công, phân cấp và chếđộ trách nhiệm rành mạch, có kỷ cương nghiêm ngặt, cơ quan hành chính và cán bộ, công chức nhà nước chịu sự giám sát chặt chẽ của nhân dân. áp dụng các cơ chế, biện pháp hữu hiệu ngăn ngừa những hành vi mất dân chủ, tự do, tùy tiện, quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu, gây phiền hà cho dân. Các chủ trương, giải pháp cải cách hành chính phải gắn liền chặt chẽ với bước đi của đổi mới kinh tế, với yêu cầu phát triển đất nước trong quá trình công nghiệp hó a, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế q uốc tế, hình thành và hoàn thiện các yếu tố của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ vững trật tự, kỷ cương trong các hoạt độ ng kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân. Cải cách hành chính là nhiệm vụ rộng lớn, phức tạp đòi hỏi có tầm nhìn bao quát với những giải pháp đồng bộ, kết hợp chặt chẽ cải cách hành chính với đổi mới hoạt động lập pháp, cải cách tư pháp. Cải cách hành chính phải được tiến hành từng bước vững chắc, có trọng tâm, trọng điểm, lựa chọ n khâu đột phá trong từng giai đoạn cụ thể. Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1986 đ ã mở ra một kỷ nguyên mới trong xây dựng, đổ i mới, mở cửa, phát triển nền kinh tế thị trường đ ịnh hướng xã hội chủ ngghĩa, mở rộng hợp tác quốc tế. Trên cơ sởđánh giá, x ác đ ịnh đúng những nguyên nhân của tình hình khủng hoảng kinh tế- xã hội trầm trọng, nghị quyết Đ ại hội Đảng toàn quốc lần VI đã chỉ rõ nguyên nhân của mọi nguyên nhân là công tác tổ chức và đ ề ra chủ trương thực hiện một cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy các cơ quan nhà nước. Thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, tổ chức bộ máy nhà nước đã đ ược sắp xếp lại một bước theo hướng gọn nhẹ, bớt đầu mối. Tuy nhiên, nhìn chung tổ chức và biên chế của bộ máy nhà nước vẫn cò n quá cồng kềnh, nặng nề, đò i hỏi tiếp tục được cải cách, đổ i mới. Tại Đ ại hội toàn quố c lần VII, đ ã thông qua nghị quyết chỉ rõ việc tiếp tục phải cải cách bộ m áy nhà nước và đề ra những nhiệm vụ cho Nhà nước về sửa đổi Hiến pháp, cải tiến tổ chức và hoạt động của Quốc hội, sửa đổi cơ cấu tổ 8
  9. chức và phương thức hoạt động của Chính phủ, của chính quyền địa phương. Trên cơ sở những nhiệm vụ do Đại hội VII đề ra, trong nhiệm kỳ này đã tiến hành đợt sắp xếp lần thứ hai kể từ Đại hội VI hệ thống chính trị ở nước ta bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V II đ ã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá đ ộ lên chủ nghĩa xã hội, chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000, khẳng định bước tiến về lý luận, nhận thức về nền hành chính nhà nước. Cương lĩnh nêu rõ , về Nhà nước “phải có đủ quyền lực và có đủ khả năng định ra luật pháp về tổ chức, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật. Sửa đổi hệ thống tổ chức nhà nước, cải cách bộ m áy hành chính, kiện toàn các cơ quan lập pháp để thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý của Nhà nước”. Chiến lược cũng đ ặt nhiệm vụ trọng tâm cải cách “nhằm vào hệ thống hành chính với nội dung chính là x ây dựng một hệ thống hành chính và quản lý hành chính nhà nước thông suốt, có đ ủ quyền lực, năng lực, hiệu quả ”. Thực hiện Nghị quyết Đại hội VII, tháng 4/1992, Hiến pháp mới thay thế Hiến pháp 1980 đãđược Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua. Hiến pháp 1992 ghi nhận đầy đủ, rõ hơn về sự phân công, phối hợp giữa 3 quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trong tổng thể quyền lực thống nhất của Nhà nước. Sau Đại hội VII, từ 1992 đến 1995, đ ây là giai đoạn phát triển mạnh mẽ tư duy, quan niệm, nhận thức của Đảng về nền hành chính nhà nước và về cải cách hành chính. H ội nghị Trung ương 8 khoá VII (1/1995) đ ã đánh d ấu bước phát triển mới về quan điểm, nhận thức xây dựng và phát triển nền hành chính nhà nước. Cải cách một bước nền hành chính nhà nước đ ược xác định là trọng tâm của việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước, với mục tiêu nhằm xây dựng một nền hành chính trong sạch, có đủ năng lực, sử dụng đúng quyền lực và từng bước hiện đại hoá nhằm phục vụđắc lực đời sống nhân d ân, thúc đẩy tiến trình đổ i mới, thực hiện d ân giàu, nước mạnh, xã hội cô ng bằng, dân chủ, văn minh. Trong đó, cần tập trung thực hiện tố t 3 việc: 9
  10. - Cải cách thể chế của nền hành chính nhằm đáp ứng từng bước yêu cầu tăng cường quan hệ gắn bó giữa nhân dân với chính quyền và bảo đảm sự quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. - Chấn chỉnh tổ chức, bộ máy và quy chế hoạt đ ộng của hệ thống hành chính theo phương hướng và nguyên tắc: Chính phủ và cơ quan hành chính các cấp cần được sắp xếp tinh gọn, tập trung làm tốt công tác quản lý nhà nước, phát triển kinh tế, chăm lo giải quyết các vấn đề văn hoá,xã hộ i, bảo vệ mô i trường, giữ gìn an ninh và củng cố quốc phòng, m ở rộng hoạt động đối ngoại; tăng cường cô ng tác thanh tra, kiểm tra để mọi thành phần kinh tế kinh doanh đúng pháp luật. - Xây dựng đội ngũ cán bộ , công chức hành chính. Trong đ ội ngũ cán bộ, công chức, ngoài sốđược dân cử theo nhiệm kỳ, lực lượng đô ng đảo làđộ i ngũ cán bộ, công chức cần được tuyển chọn và sử dụng theo hướng chuyên nghiệp hoá, ổn đ ịnh, làm việc tận tuỵ và công tâm, cóđ ủ trình độ, năng lực đáp ứng tiêu chuẩn quy hoạch cho từng chức danh. Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khoá VII đã mở ra một giai đoạn mới, giai đoạn chuyển biến thật sự trong cải cách hành chính ở nước ta. Có thể nói Nghị quyết Trung ương 8 (khoá V II) cóý nghĩa quan trọng thúc đẩy tiến trình cải cách hành chính của 20 năm đổi mới vừa qua. Tiếp tục khẳng định cải cách hành chính là trọng tâm của việc x ây d ựng, hoàn thiện Nhà nước trong những năm trước mắt, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996) nhấn mạnh y êu cầu tiến hành cải cách hành chính đồng bộ, dựa trên cơ sở pháp luật, coi đó là một giải pháp cơ b ản để thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu ch ủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế -x ã hội 5 năm 1996-2000. Với tinh thần đẩy mạnh cải cách hành chính được đề ra trong Nghị quyết Trung ương 8 (khoá VII), Nghị quyết Đại hội Đảng to àn quốc lần thứ V III nhấn mạnh nhiệm vụ x ây dựng hệ thống pháp luật phù hợp với cơ chế mới; cải tiến quy trình xây dựng và ban hành văn bản pháp luật của Chính phủ, đồng thời tiếp 10
  11. tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, và sắp xếp lại bộ máy hành chính từ Trung ương đến địa phương, hợp nhất một số cơ quan quản lý chuyờn ngành về kinh tế trên cơ sở xác định rõ và thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước của các bộ, ngành. Trong đó, 4 điểm mới quan trọng được bổ sung trong định hướng cải cách được Nghị quyết đề ra là: - Phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của từng cấp hành chính; - Tiếp tục nghiên cứu để cụ thể hoá sự phân cấp quản lý nhà nước giữa các cơ quan của Chính phủ với chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; - Đổi mới chế độ công chức và công vụ, bao gồm: sửa đổi quy chế thi tuyển, bồi dưỡng, đào tạo mới và trẻ hoá đội ngũ cán bộ, công chức, kiên quyết xử lý và sa thải những người tho ái ho á, biến chất; tăng cường biện pháp và phối hợp lực lượng đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, cửa quyền trong bộ m áy quản lý nhà nước và các tổ chức kinh tế nhà nước; - Thành lập To à án hành chính và thực hiện xã hội ho á đối với một số hoạt động thuộc lĩnh vực dịch vụ công. Hội nghị lần thứ 3 của Ban Chấp hành Trung ương (khoá VIII) họp tháng 6/1997 đã ra Nghị quyết về phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục x ây dựng nhà nước Cộng ho à xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Một trong những chủ trương và giải pháp lớn về cải cách hành chính được nhấn mạnh trong Nghị quyết quan trọng này là bảo đảm thực hiện dân chủ hoá đời sống chính trị của xã hội, giữ vững và phát huy bản chất tốt đẹp của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ nhà nước; trong giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước và hoạt động của cán bộ, cô ng chức. Đây là cơ sởđể Chính phủ ban hành các quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở. Trong việc xây d ựng chiến lược về cán bộ cho thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp ho á, hiện đại hoá đất nước đến năm 2020, Nghị quyết Trung ương 3 đặc biệt nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có p hẩm chất và năng lực, coi đó là yếu tố quyết định đến chất lượng bộ máy nhà nước. Cán bộ 11
  12. lãnh đ ạo phải được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức toàn diện, được bố trí, điều động theo nhu cầu và lợi ích của đất nước. Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), Nghị quyết Trung ương 7 (khoá V III), đã biểu thị một quyết tâm chính trị rất lớn về việc tiếp tục tiến hành cải cách hành chính, đặt cải cách hành chính trong tổng thể của đổi mới hệ thống chính trị. Từ việc kiểm điểm tình hình và rút kinh nghiệm thực tiễn, Đảng đ ã đi đ ến khẳng định, trong điều kiện một đảng cầm quyền, việc đổi mới chưa đồng bộ, toàn diện các tổ chức trong hệ thống chính trị là trở ngại lớn của công cuộc cải cách hành chính ở nước ta trong thời gian qua. Không thể tiến hành cải cách riêng nền hành chính tách rời sự đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đ ạo của Đảng, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các đoàn thể nhân d ân. Cũng không thể cải cách hành chính một cách biệt lập mà không đồng thời đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động của các cơ quan lập pháp, cơ quan tư pháp. Từ nhận thức đó, Nghị quyết Trung ương 7 (khoá V III) đề ra chủ trương tiến hành sắp xếp lại tổ chức bộ máy đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị gắn liền với cải cách hành chính theo hướng tinh gọn, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Đồng thời, với việc kiên quyết sắp xếp một bước bộ máy các tổ chức trong hệ thống chính trị, thực hiện tinh giảm biên chế, cải cách chính sách tiền lương. Tại Nghị quyết Đ ại hội Đảng toàn quố c lần thứ IX (năm 2001), bên cạnh việc tiếp tục khẳng định nhất quán mục tiêu x ây d ựng nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hoáđã đưa ra m ột loạt chủ trương, giải pháp cóý nghĩa quan trọng trong cải cách hành chính thời gian tới như điều chỉnh chức năng và cải tiến phương thức hoạt động của Chính phủ, nguyên tắc bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực; phân công, phân cấp; tách cơ quan hành chính công quyền với tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công; tiếp tục cải cách doanh nghiệp nhà nước, tách rõ chức năng quản lý nhà nước với sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp; tiếp tục cải cách thủ tục hành chính; xây dựng đội 12
  13. ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực; thiết lập trật tự kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng… 13
  14. CHƯƠNG II ĐÁNHGIÁTHỰCTRẠNGCỦACẢICÁCHHÀNHCHÍNH NHÀNƯỚC 1. Thực trạng cải cách hành ch ính ở Việt Nam Thực hiện chủ trương, chính sách tại các Nghị q uyết Đ ại hộ i VII, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa VII), Nghị quyết Đại hội VIII, các Nghị quyết Trung ương 3, Trung ương 6 (lần 2) và Trung ương 7 (khóa VIII), Nghị quyết Đại hội lần thứ IX, công cuộ c cải cách hành chính trong gần 20 năm qua đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp đổi mới, mở cửa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nâng cao đời sống của đại bộ pbận tầng lớp nhân d ân, làm cho nhân d ân tin tưởng hơn vào chếđộ xã hội, dân và chính quyền gắn bó, thân thiết hơn. 1.1. Những ưu điểm. * Về thể chế hành chính. Hiện nay, Nhà nước ta đ ã ban hành tương đối đầy đủ hệ thống các văn bản chính sách, pháp luật điều chỉnh các quan hệ hành chính, đảm bảo cho bộ máy hành chính hoạt động thông suốt. Hệ thố ng thể chế hành chính trên các lĩnh vực từng b ước đ ược đổi mới, trước hết làđã hình thành thể chế kinh tế tương đối phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hộ i chủ nghĩa. Các thể chế hành chính Nhà nước, bao hàm việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật và cơ cấu bộ máy tổ chức đã và đang được cải tiến theo hướng đơn giản, rõ ràng, tinh gọn, ngày càng rộng mở đối với doanh nghiệp và nhân d ân, chặt chẽ đối với cán bộ, cô ng chức. Các quan hệ kinh tế, dân sự, hành chính được luật hoá, cởi bỏ thói quen hành động cảm tính, suy luận chủ quan của cán bộ, công chức khi xử lý cô ng việc, chứng tỏ sự thay đổi về tư duy đó và đang diễn ra rất tích cực. Hệ thống luật pháp ngày càng chú trọng nguyên tắc công bằng, bình đẳng giữa cơ quan quản lý N hà nước và các tổ chức, cá nhân chịu sự điều chỉnh. Thó i quen nhờ đỡ các mối quan hệ quen biết để giải quyết cô ng việc cho nhanh gọn của người dân và doanh nghiệp cũng dần hạn chế bởi các chế 14
  15. định đã quy định chặt chẽ thời hạn giải quyết công việc và có xu hướng rút d ần thời gian xuống mức thấp nhất. * Về bộ máy, tổ chức. - Chức năng và hoạt động của các cơ quan trong hệ thố ng hành chính từ Chính phủ, các Bộ, ngành trung ương đến ủy ban nhân dân các cấp đã có nhiều thay đổi tiến bộ, tập trung nhiều hơn vào quản lý nhà nước; - Cơ cấu tổ chức bộ m áy của Chính phủ và cơ quan hành chính các cấp được sắp xếp, đ iều chỉnh, thay đổi theo hướng tinh gọn hơn. Bộ máy hành chính từ Trung ương đ ến cơ sở vậ n hành phát huy tác dụng, hiệu quả tố t hơn, cùng với chủ trương hạn chế biên chế từ mấy năm nay, giảm số lượng đầu mối (nơi phát sinh các thủ tục hành chính) cấp bộ, ngành từ Trung ương đến cơ sở và trong từng cơ quan, đơn vị. Vấn đề tiền lương cũng đ ược nhìn nhận một cách công bằng hơn, chế độ tiền lương được cải thiện từng bước trong khả năng của ngân sách, chính là cơ sở vật chất quan trọng để thực hiện cải cách hành chính. - Một số cơ quan Nhà nước đó đi tiên phong trong áp d ụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, tạo động lực đáng kể trong cải tiến hoạt động của bộ máy hành chính Nhà nước. * Vềđộ i ngũ cán b ộ, công chức. Hiện nay, đội ngũ cán bộ công chức bộ máy hành chính nhà nước đã được nâng lên về mọi mặt, cả về trình độ chính trị lẫn chuyên mô n. Việc quản lý , sử dụng cán bộ , cô ng chức được đổi m ới một bước theo các quy định của Pháp lệnh Cán bộ , công chức: từ khâu tuyển chọ n, đánh giá, thi nâng ngạch, khen thưởng, kỷ luật đến đào tạo, bồi dưỡng. Chếđộ, chính sách tiền lương bước đ ầu được cải cách theo hướng tiền tệ hóa. Nhận thức của phần lớn cán bộ, công chức Nhà nước đã có sự thay đổi cơ b ản, từ cách tư duy hành chính theo kiểu ''hành dân'' đó chuyển sang tư duy ''phục vụ''. Sự tiến bộ trong nhận thức đó trực tiếp tác động đến lề lối, tác phong làm việc của cán bộ, công chức từ cấp lãnh đạo đến nhân viên khi thi hành công vụ. Việc tiếp cô ng dân và giải quyết các khiếu nại của dân được coi trọng hơn. Các cuộc gặp gỡ và giải đáp vướng mắc, kiến nghị 15
  16. của doanh nghiệp đã được tổ chức thường xuyên ở nhiều cơ quan, được cấp lãnh đạo cao nhất tham dự, đã giải quyết trực tiếp các kiến nghị trong khuôn khổ pháp luật quy định. 1.2. Những hạn chế, yếu kém. Cải cách nền hà nh chính nhà nước đã tiến hành được nhiều năm, tuy nhiên, vẫn còn mang nặng dấu ấn, “tàn d ư” của cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp, chưa đáp ứng đ ược những yêu cầu, đòi hỏ i phải có cơ chế quản lý thích hợp thực tiễn, công cuộ c đổi mới toàn diện, dân chủ hoá các mặt của đời số ng xã hội, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong đ iều kiệm hội nhập sâu, rộ ng kinh tế nước ta v ới nền kinh tế toàn cầu; yêu cầu phát triển m ột nền hành chính lấy mục đích phục vụ nhân dân, vì dân, cũng như hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính chưa cao. * Về thể chế hành chính. Mặc dù hệ thống thể chế hành chính đ ãđược các cấp, các ngành tích cực ban hành, sửa đ ổi, bổ sung, thay thế nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn quản lý hành chính và yêu cầu hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, hệ thống thể chế hành chính vẫn còn nhiều điểm chưa đồng bộ, còn chồng chéo và thiếu thống nhất; thủ tục hành chính trên nhiều lĩnh vực còn rườm rà, phức tạp; trật tự, kỷ cương chưa nghiêm. Nhiều thủ tục hành chính còn rườm rà, nhiêu khê, đò i hỏi quá nhiều giấy tờ, phải qua nhiều cửa, nhiều dấu, nhiều tầng nấc trung gian, đồng thời thiếu thống nhất, tuỳ tiện thay đổi và thiếu cô ng khai đã gây phiền hà cho nhân dân, nhất là những người ít hiểu biết về thủ tục hành chính. Hệ thống các thủ tục hành chính đ ã cản trở, gây phiền hà cho nhân dân trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, gây trở ngại cho việc giao lưu và hợp tác quốc tế, gây ra tệ cửa quyền, tệ giấy tờ trong guồng máy hành chính và là ''miếng đất'' thuận lợi cho nạn tham nhũng, lãng phí, làm giảm lòng tin của nhân dân vào chính quyền. ý thức chấp hành pháp luật hành chính của một bộ phận cán bộ, công chức còn yếu, quen giải quyết công việc theo ''lệ'' chứ chưa theo luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa chưa được đảm bảo. 16
  17. *Về tổ chức, bộ máy hành chính. - Bộ máy hành chính nhà nước cò n cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều cửa, nhiều dấu, chức năng của một số cơ quan còn chồng chéo, chưa rõ ràng, nhiều khi cản trở lẫn nhau, hạn chế hiệu lực và hiệu quả quản lý hành chính. Có lĩnh vực thìôm đồm, bao biện, có lĩnh vực và c ó nơi thì buông lỏng quản lý, d ẫn đến một số cá nhân lợi dụng để trục lợi, làm thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước và nhân dân. Chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của bộ m áy hành chính trong nền kinh tế thị trường định hướng x ã hội chủ nghĩa chưa được xác định thật rõ, sự phân công, phân cấp giữa các ngành và các cấp chưa thật rành mạch, triệt để, cụ thể và phù hợp. Tình trạng chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan cùng cấp, cấp trên và cấp dưới còn chồng chéo, nhiều khi hạn chế lẫn nhau, dẫn đến hiệu lực, hiệu quả quản lý thấp. - Bộ m áy hành chính ở các địa phương và cơ sở chưa thực sự gắn bó với dân, không nắm chắc được những vấn đề nổi cộm trên địa bàn, lú ng túng, bịđộng khi xử lý các tình huố ng phức tạp. - Phương thức quản lý hành chính vừa tập trung quan liêu lại vừa phân tán, chưa thông suốt; chưa có những cơ chế, chính sách tài chính thích hợp với hoạt động của các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, tổ chức làm dịch vụ công; * Vềđộ i ngũ cán b ộ, công chức. Đội ngũ cán bộ, công chức còn nhiều điểm yếu về phẩm chất, tinh thần trách nhiệm, năng lực chuyên môn, kỹ năng hành chính; phong cách làm việc chậm đổi mới; tệ quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu nhân dân tiếp tục diễn ra nghiêm trọng trong mộ t bộ phận cán bộ, công chức. Nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế; ý thức nghề nghiệp chưa cao, tôn trọng kỷ luật lao động còn yếu; đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ công chức bị suy thoái; thái độ phục vụ nhân dân còn thấp, một bộ phận cán b ộ công chức tồn tại thái độ thờ ơ, ''lãnh cảm'' với dân, đặt mình ở vị thế b an phát quyền lợi cho dân. Những vấn đề 17
  18. đó đó làm chính quyền ngày càng xa dân, giảm lòng tin của dân đối với chính quyền... Về số lượng thì có nơi, có lĩnh vực thừa và ngược lại, có nơi, có lĩnh vực thì thiếu; thiếu đội ngũ cỏn bộ cô ng chức có chất lượng cao, tận tụy với nghề, vừa hồng vừa chuyên;tình trạng cán bộ nhiều nhưng chất lượng hoạt động chẳng bao nhiêu, chưa có trình độ ngang tầm nhiệm vụ, bố trí chưa đúng người đúng việc, bằng cấp và năng lực chưa tương ứng với chức danh v.v... 2. Nguyên nhân hạn chế, yếu kém. Thực trạng hạn chế, yếu kém cải cách hành chính ở nước ta trong thời gian qua do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan gây ra. - Một là, nhận thức của cán bộ, cô ng chức về vai trò và chức năng quản lý của Nhà nước, về xây d ựng bộ máy nhà nước nói chung và bộ máy hành chính nhà nước trong tình hình m ới, điều kiện mới chưa thật rõ ràng và chưa thống nhất, cò n nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn chưa đ ược làm sáng tỏ, còn nhiều chủ trương, chính sách, quy định của pháp luật ra đời trong cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp chưa được kịp thời sửa đổi, thay thế. - Hai là, việc triển khai các nhiệm vụ về cải cách hành chính chưa đ ược tiến hành đồng bộ với đổi mới tổ chức và ho ạt động của hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo, cải cách hành chính chưa gắn bó chặt chẽ với đổi mới hoạt động lập pháp và cải cách tư pháp. - Ba là, cải cách hành chính gặp trở ngại lớn do đ ụng chạm đến lợi ích cục bộ của nhiều cơ quan hành chính, nhiều cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước ở trung ương vàđ ịa phương; ảnh hưởng của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp cò n đè nặng lên nếp nghĩ, cách làm của khô ng ít cán bộ, công chức; cuộc cải cách chưa được chuẩn bị tốt về mặt tư tưởng. - Bốn là, các chếđộ , chính sách về tổ chức và cán bộ, về tiền lương còn nhiều điều chưa phù hợp, chưa tạo ra động lực thúc đẩy cô ng cuộc cải cách. - Năm là, những thiếu só t trong cô ng tác chỉđạo của Chính phủ, các Bộ, ngành trung ương vàủy ban nhân d ân các địa phương trong việc tiến hành cải 18
  19. cách hành chính; sự chỉđạo thực hiện các chủ trương đãđề ra thiếu kiên quyết và chưa thố ng nhất. - Sáu là , cải cách hành chính diễn ra chậm, thiếu sự kiểm tra, đánh giá sát sao; nhiều hiện tượng tiêu cực phát sinh từđội ngũ cán bộ, công chức từ cấp cao đến cấp cơ sở chậm được phát hiện x ử lý nghiêm minh, kịp thời. Hiện tượng phát sinh tiêu cực cả một tập thể, ngay từ chính những cán bộ chủ chốt cảở hệ thống bộ máy Đảng và chính quyền có nơi, cóđịa phương x ả ra trầm trọng, gây bất bình trong dư luận, giảm lòng tin của nhân dân vào chếđộ. 19
  20. CHƯƠNG III GIẢIPHÁPCẢICÁCHHÀNHCHÍNHỞ VIỆT NAM 1. Tiếp tục cải cách, đổi mớ i hệ thống thể chế hành chính ở các lĩnh vực, tập trung vào các lĩnh vực liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của công dân, các lĩnh vực liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế. - Một là, tập trung ho àn thiện thể chế và phương thức điều hành ở tầm vĩ mô, tạo môi trường pháp lý đồng bộ, phù hợp thông lệ quốc tế để tạo động lực lớn cho cơ sở. Đó là tiếp tục rà soát các văn bản pháp luật, xoá bỏ những quy định phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế và không phù hợp kinh tế thị trường. X ây dựng khung khổ pháp luật cạnh tranh, trước hết là các luật cạnh tranh và kiểm soát đ ộc quyền, luật chống phá giá, luật về các ngành độc quyền tự nhiên. - Hai là, thú c đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tiếp tục rà soát các giấy phép kinh doanh hiện hành và điều kiện kinh doanh đối với những ngành có đ iều kiện. Đơn giản hoá các thủ tục hoàn thuế xuất nhập khẩu, xây dựng, hộ khẩu, công chứng phù hợp chuẩn mực quốc tế. - Ba là, công bố đầy đủ, kịp thời các văn bản pháp luật và thủ tục hành chính trong công b áo, sớm phát hành công báo của địa phương. Xây dựng quy chế công bố thông tin của các cơ quan nhà nước về quy hoạch, tình hình và chính sách thuộc lĩnh vực phụ trách, quy chế trả lời ý kiến công dân và doanh nghiệp. - Bốn là, thể chế ho á việc tổ chức đối thoại giữa doanh nghiệp với các cơ quan chức năng và chính quyền điạ phương; quy định trách nhiệm thực hiện các cam kết và thời hạn giải quyết. - Năm là, đưa vào áp dụng quy trình quản lý hành chính theo tiêu chuẩn ISO 9000 (bộ tiêu chuẩn về quản lý chất lượng do Tổ chức Tiêu chuẩn hoá Quốc tế ban hành). Quy trình quản lý theo ISO 9000 được coi như là một quy trình công nghệ quản lý mới với nhiều lĩnh vực. Trong dịch vụ hành chính, tiêu chuẩn ISO 9000 cho phép loại bỏ thủ tục rườm rà, nâng hiệu quả và chất lượng hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2