intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam: Câu 9 (Bài 2)

Chia sẻ: Pham Minh Ket | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:11

89
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tài liệu Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam: Câu 9 (Bài 2) được thực hiện nhằm chứng minh nhận định rằng "CNXH trên TG từ những bài học thành công và thất bại cũng như khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả năng vượt qua thời kỳ thoái trào, tạo ra bước phát triển mới. Theo qui luật tiến hoá của lịch sử, loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới CNXH".

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam: Câu 9 (Bài 2)

  1. ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM Câu 9: Trong Văn kiện ĐH 9 có nêu: “CNXH trên thế giới từ những bài học thành công và thất bại cũng như từ khát vọng và sư thức tỉnh của các dân tộc, có khả năng vượt qua khỏi thời kỳ thoái trào , tạo ra bướcphát triển mới . Theo qui luật tiến hoá của lịch sử, loài người cuối cùng nhất dịnh sẽ tiến tới CNXH”. Đồng chí hãy phân tích làm rõ nhận định trên. CNXH hiện thực ra đời là một tất yếu trong quá trình phát triển của lịch sử xã hội loài người. Đây là sự biểu hiện, sự vận động không ngừng tiến lên của lịchsử, đó là sự phát triển kế tiếp nhau của các PTSX, các chế độ xã hội và chế độ xã hội ra đời sau bao giờ cũng tiến bộ hơn xã hội trước đó. Chính các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã nghiên cứu những ĐK tiền đề cho sự ra đời một xã hội mới – XHCN và sứ mệnh đó phải do giai cấp vô sản thực hiện trên cơ sở phát động phong trào cách mạng nhằm lật đổ CNTB. Điều đó đã trở thành hiện thực bằng cuộc CMT.10 Nga, 1917 xây dựng nên CNXH đầu tiên trong lịch sử. Nhà nước đó không những là mục đích, lý tưởng của giai cấp vô sản mà còn là ước mơ nguyện vọng của đông đảo nhân dân lao động, vì đó là chế độ không có áp bức, bóc lột, con người được tự do, bình đẳng có cuộc sống ấm no hạnh phúc và có nền dân chủ gấp triệu lần dân chủ tư sản trước đó. Các nhà kinh điển còn dự đoán thiên tài về một xã hội tương lai, xã hội CSCN. Đó là một xã hội mà trong đó mọi sự áp, bóc lột, bất công đều bị xoá bỏ. Con người được hoàn toàn tự do và bình đẳng, có cuộc sống văn minh và hạnh phúc. Trên thực tế của lịch sử ngay từ khi mới ra đời, giai cấp vô sản đã bắt đầu thể hiện lý tưởng đó bằng những cuộc đấu tranh tự phát đầu tiên của giai cấp mình. Trãi qua những bước thăng trầm, thành công và thất bại, giai cấp vô sản không ngừng trưởng thành về số lượng và chất lượng. Phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản đã lãnh đạo phong trào đấu tranh của giai cấp tiến tới lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản giành lấy chính quyền, xây dựng xã hội mới, mở đầu bằng sự thắng lợi của cuộc CMT.10 Nga, 1917 đưa đến việc thiết lập một nhà nước XHCN đầu tiên trong lịch sử loài người. Thắng lợi đó đã thúc đẩy lịch sử phát triển lên một bước mới, mở ra thời đại mới trong lịch sử toàn thế giới. Đó cũng là thành quả vĩ đại, là sản phẩm trực tiếp của phong trào cộng sản và CN quốc tế. CMVN là một bộ phận không thể tách rời phong trào CM thế giới. Đảng CSVN là một bộ phận của phong trào cộng sản và CN quốc tế, là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và chủ nghĩa yêu nước ở một số nước thuộc địa nửa phong kiến đã nắm được qui luật phát triển tất yếu của lịch sử đưa đất nước vào qũi đạo phát triển chung của lịch sử nhân loại. Ngay từ khi mới ra đời đã xác định con đường đi lên của CMVN là tiến tới CNXH. Vì đây là con đường duy nhất đúng đắn và phù hợp với qui luật phát triển tất yếu của xã hội loài người.
  2. Từ nước Nga XHCN đầu tiên đã trở thành một hệ thống XHCN trên thế giới phải trãi qua một quá trình phát triển như sau: Từ tháng 10/ 1917 – 1960, đây là giai đoạn tạo tiền đề và đưa đến sự hình thành hệ thống XHCN thế giới, bằng việc Liên Xô đánh tan chủ nghĩa Phát xít trong chiến tranh thế giới lần 2 để giúp cho hàng loạt nước tiến lên CNXH. Các nước CNXH đã thiết lập hai tổ chức: HĐTTKT (1949) và khối quân sự Vacsava (1955), điều đó XHCN trở thành một hệ thống thế giới nói lên sức mạnh vật chất của CNXH đủ sức đương đầu với CNTB. Tuy nhiên, giai đoạn này CNXH cũng gặp một số khó khăn: CNĐQ gây ra chiến tranh lạnh, bao vây kinh tế, cấm vận đối với các nước XHCN. Đồng thời, CN Cơ Hội phá hoại gây bạo loạn ở Hungari, 1956 và Nam Tư bị khai trừ ra khỏi hệ thống XHCN, 1948. Giai đoạn những năm 1960: Là giai đoạn phát triển mới của CNXH, thể hiện sự hợp tác giúp đỡ lẫn nhau giữa các nước XHCN nhằm đẩy nhanh việc xây dựng cơ sở vật chất kinh tế cho CNXH. Tuy nhiên, việc giúp đỡ ở đây do Liên Xô hoàn toàn gánh vác, gây tâm lý dựa dẫm, giáo điều, phụ thuộc vào Liên Xô. Giai đoạn này, Mỹ ra sức chống phá Cuba bằng việc đổ quân lên đảo Hêrôn (Tháng 4/ 1961), Liên Xô đưa tên lửa vào Cuba gây sự khủng hoảng tên lửa 1962 giữa Mỹ – Xô và Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc Việt Nam. Mặt khác CN Cơ Hội phá hoại với việc xuất hiện chủ nghĩa xét lại hiện đại: Khơrôxếp làm phân hoá Đảng CS Liên Xô và phong trào cộng sản và CN quốc tế. CN Mao ảnh hưởng nghiêm trọng trong giai đoạn này, Đảng CS Trung Quốc công khai chống “đế quốc xã hội Liên Xô” và CN Cơ Hội gây bạo loạn ở Tiệp Khắc, 1968. Giai đoạn những năm 1970: Là giai đoạn củng cố sức mạnh của CNXH với tiềm lực kinh tế, khoa học kỹ thuật quốc phòng lớn mạnh tạo sự cân bằng chắc chắn về vũ khí chiến lược và cùng chạy đua vũ trang với CNTB thế giới. Tuy nhiên, trong giai đoạn này CNXH cũng gặp khó khăn do sự cấu kết Trung – Mỹ thể hiện ở thông cáo Thượng Hải, 1972. Trung Quốc bán đứng CMVN cho Mỹ, Mỹ đánh phá miền Bắc VN, 1972. Năm 1978, Trung Quốc xâm lược VN, ủng hộ Polpot chống VN. Từ những năm 1980 đến nay: Sau giai đoạn phát triển mạnh mẽ, kinh tế các nước XHCN bắt đầu chựng lại, trì trệ cần phải cải tộ cải cách đổi mới, nhưng khi đổi mới, cải cách mỗi nước làm một kiểu và có nhiều biến động, có nước đạt kết quả, có nước bị thất bại. Liên Xô, Đông Âu sụp đổ, Trung Quốc, Việt Nam đứng vững và tiếp tục phát triển. Tuy vậy, trong suốt thời gian qua, CNXH đã đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội đã xác lập được một chế độ xã hội của người lao động, nâng người lao động từ địa vị nô lệ lên làm chủ xã hội, họ là người trực tiếp tham gia sản xuất và quản lý xã hội. Họ được tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao trình độ, phát huy tài năng. Mặt khác, dù gặp muôn vàn khó khăn nhưng CNXH đã đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế, xã hội, khoa học kỹ thuật và quân sự đã trở thành thành trì của hoà bình, là chỗ dựa tinh thần của giai cấp công nhân ở các nước TBCN trongcuộc đấu tranh vì dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, bênh cạnh những tựu cơ bản mà CNXH đã đạt được trong quá trình phát triển của mình, các nước XHCN đã phạm những sai lầm nghiêm trọng đã đẩy CNXH thế giới lâm vào cuộc khủng hoảng sâu sắc và toàn diện. Đó là duy trì quá lâu mô hình cũ làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại, sản xuất bị trì trệ, nền dân chủ bị vi phạm, những vấn đề xã hội trở nên căn thẳng, các giá trị xã hội bị xáo trộn, kỷ cương pháp luật không nghiêm.
  3. Về chính trị: Trong thời gian dài không thực hiện đúng, đầy đủ bản chất của nền dân chủ XHCH theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin mà thực hiện nền dân chủ hình thức, cắt xén, thậm chí giả dối. Tổ chức Đảng chưa làm tròn vai trò của người chiến sĩ tiên phong, tư duy giáo điều lạc hậu, yếu kém về lý luận. Một dố đảng cầm quyền đã biến bộ máy của đảng thành một bộ máy quan liêu, cồng kềnh kém hiệu quả. Đội ngủ cán bộ được đào tạo phiến diện, chắp vá, và một bộ phận thiếu gương mẫu, năng lực yếu. Mặt khác, do bè lũ cơ hội xét lại phá hoại đảng, còn nhà nước chưa thực hiện đúng là nhà nước của dân, do dân và vì dân mà nhà nước mất dân chủ đối với nhân dân lao động. Về kinh tế: Duy trì quá lâu mô hình XHCN theo kiểu Liên Xô, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã bộc lộ tính lỗi thời, trong thời gian đầu chưa chú trọng đúng mức, các ngành khoa học ứng dụng và đội ngủ trí thức không thực hiện đúng và đủ bản chất nguyên lý của chủ nghĩa Mác Lênin về chế độ sở hữu với hình thức CNXH, không nhận thức đầy đủ về sản xuất hàng hoá, phân phối theo kiểu cấp bậc, bình quân, quan hệ sản xuất giữa các XHCN theo kiểu một chiều biệt lập đóng cửa với nền kinh tế thế giới, không tiếp thu được những thành tựu của cách mạng KHKT hiện đại, đi ngược lại với xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoà nền kinh tế thế giới làm cho kinh tế các nước XHCN không phát triển được. Những sai lầm trên tích tụ lâu ngày, chậm phát hiện sửa chữa. Khi phát hiện sửa chữa cải cách thì lại quá xa rời nguyên tắc Mác xít cộng với sự chống phá của các thế lực thù địch phản động làm cho các nước Đông Âu và Liên Xô sụp đổ. Sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu làm cho CNXH đang ở vào giai đoạn khó khăn nhất từ trước tới nay, CNXH lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng mà theo quan điểm của Đảng ta là: CNXH tạm thời lâm vào thoái trào đã làm cho thành trì hoà bình trên thế giới bị suy yếu, các nước độc lập dân tộc tỏ ra mất phương hướng, cục diện thế giới diễn biến phức tạp nghiêng về lợi thế cho CNTB. Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã khủng hoảng cả chính trị, tư tưởng và tổ chức, uy tín của các Đảng CS giảm sút, nhiều Đảng CS dao động muốn rời bỏ ý thức hệ giai cấp công nhân chuyển sang XHDC, nội bộ tự phân hoá chia rẽ. Tuy nhiên, gần đây có xu hướng phục hồi quan trọng. Sự sụp đổ này không thuộc về bản chất của CNXH KH mà là sự khủng hoảng của một mô hình xã hội, cụ thể mô hình đó đã chứa đựng những biểu hiện của xã hội không tưởng, chủ quan duy ý chí, bất chấp qui luật khách quan chậm được phát hiện khắc phục trong quá trình xây dựng CNXH. Bởi vì bên cạnh sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu cũng đã có những nước XHCN cải cách đổi mới giành được những thành tựu bước đầu quan trọng: Trung Quốc, Việt Nam và nhiều nước trên thế giới theo xu hướng XHCN. Ngay cả ở các nước XHCN trước đây đã sụp đổ nay nhân dân đã thức tĩnh, tiếc nuối cho CNXH và ngày càng tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh mới, nhiều Đảng CS trở lại vai trò lãnh đạo: Bungari, Mông Cổ, Ba Lan … Cả một số quan chức lãnh đạo ở Mỹ cũng đã thừa nhận hiện nay có gần 20 quốc gia theo xu hướng XHCN và chủ nghĩa Mác – Lênin vẫn còn sức sống cao ở nhiều trường đại học Mỹ. Hơn nữa, ý thức đông đảo nhân dân các nước kể cả các nước tư bản phát triển cũng ngày càng không thể chấp nhận những bất công, những tệ nạn xã hội độc ác, đồi trụy do CNTB hiện đại gây ra. Bên cạnh đó, theo qui luật quan hệ xã hội phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Mặc dù, CNTB ngày nay có ưu thế về vốn công nghệ còn khả năng phát triển và có sự vượt trước nhưng bản thân nó không thể giải quyết được > < cơ bản vốn có của nó.
  4. Với tính chất xã hội hoá lực lượng sản xuất ngày càng cao với chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và tất yếu. Cuộc CM xã hội sẽ nổ ra lật đổ chế độ TBCN, xây dựng chế độ XHCN mà sứ mệnh lịchsử đó đặt lên vai giai cấp công nhân. Vì thế đòi hỏi phong trào cộng sản và công nhân quốc tế phải phát huy vai trò tiên phong, không ngừng củngcố cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức đoàn kết các Đảng CS anh em kiên trì đấu tranh vì mục tiêu cao cả của thời đại là hoà bình, độc lập, dân tộc dân chủ và CNXH. Ra sức chống lại chủ nghĩa Cơ Hội và các thế lực thù địch nhằm bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trong thời điểm lịch sử hiện nay. Lịch sử luôn vận động theo hướng đi lên, với những qui luật của nó, quá trình vận động đó rất phong phú và năng động, có khi quanh co, khúc khủyu. Như CNXH với tính cách là một xã hội tốt đẹp, là mục đích của nhân loại cần đạt tới, trong quá trình phát triển tuy có bước quanh co nhưng nhất định sẽ giành được thắng lợi. Đúng như trong văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần VII, Đảng CSVN ghi rõ: “CNXH hiện đang đứng nhiều khó khăn thử thách, lịch sử thế giới đang trãi qua những bước quanh co, nhưng loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới CNXH vì đó là qui luật tiến hoá của lịch sử”. Suy ra, sau những biến cố chính trị ở Liên Xô và Đông Âu, CNXH tạm thời lâm vào thoái trào, nhưng điều đó không làm thay đổi tính chất của thời đại, loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH vì đó là qui luật tiến hoá của lịch sử. Nhận thức đúng qui luật trên, ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã xác định đúng đắn đường lối tiến lên CNXH ở nước ta vì đó là một xã hội văn minh nhất trong lịchsử đem lại tương lai tươi sáng cho dân tộc. Ngày nay, với đường lối đổi mới đất nước đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá do Đảng khởi xướng và lãnh đạo tiếp bước trên con đường phát triển và nhất định sẽ thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc Việt Nam – XHCN. ĐọcThêm tính tất yếu của công cuộc cải tổ đổi mới CNXH nói chung và ở VN nói riêng. Sự ra đời của CNXH hiện thực là phù hợp với sự phát triển của xã hội loài người. Bởi vì lịch sử xã hội loài người luôn phát triển từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện, chế độ xã hội ra đời sau bao giờ cũng cao hơn xã hội ra đời trước. CNXH còn là sản phẩm trực tiếp của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bởi vì chủ nghĩa xã hội là mục đích, là lý tưởng để giai cấp vô sản phải đạt tới và là ước mơ là nguyện vọng của quần chúng nhân dân lao động. Chính vì lý do trên mà giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình bằng đường lối chiến lược của Đảng đề ra. Đường lối đó phù hợp với nguyện vọng của QCND nên nó có ý nghĩa thực tiễn to lớn, sự ra đời của CNXH hiện thực là tất yếu lịch sử mà không sức mạnh nào có thể ngăn cản được. Trong tác phẩm tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản, Mác chỉ rõ : “ Sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản và sự thắng lợi của chủ nghĩa Cộng Sản đều là tất yếu như nhau”. Các nhà kinh điển còn dự đóan thiên tài về một xã hội tương lai. Xã hội Cộng sản Chủ Nghĩa là xã hội mà trong đó có áp bức bóc lột bất công đều bị xóa bỏ, con người được tự do ấm no, hạnh phúc có cuộc sống công bằng văn minh. Quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta lựa chọn là con đường duy nhất và đúng đắn, thực tế đã chứng minh Đảng ta đã lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao động tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ và giành được những thắng lợi vĩ đại làm cuộc cách mạng tháng tám thành công, đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, giải phóng nửa đất nước, miền Bắc chuyển sang giai đoạn Cách
  5. Mạng Xã Hội Chủ Nghĩa, đồng thời kháng chiến chống Mỹ giải phóng miền Nam thống nhất tổ quốc cả nước bước vào thế kỷ quyết định lên CNXH. Vì sao đi lên CNXH là một tất yếu khách qua. Như mọi người đều biết, việc lực chọn con đường Cách Mạng Vô Sản, từ cách mạng giải phóng dân tộc tiến tới mục tiêu chủ nghĩa Xã hội, đã được Bác Hồ nêu trong chánh cương vắn tắt của Đảng: “ làm tư sản dân quyền CM và thổ địa CM để đi tới xã hội Cộng Sản”. Sự lựa chọn ấy dựa trên hai căn cứ chủ yếu: một là, chỉ có CNXH mới giải phóng được nhân dân lao động khỏi mọi áp bức bất công, mới đem lại cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc cho nhân dân, hai là thắng lợi của Cách Mạng Xã Hội Chủ Nghĩa Tháng 10 Nga 1917 đã mở ra thời đại mới, tạo ra khả năng hiện thực cho các dân tộc lạc hậu tiến lên con đường XHCN. Thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống đế quốc xâm lược và những thành tựu bước đầucủa công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, công cuộc đổi mới ở nước ta, chứng tỏ sự định hướng mục tiêu chủ nghĩa xã hội do Đảng ta từ đầu là đúng đắn. Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp năm 1954, vấn đề bước vào con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trở thành lẽ đương nhiên. Xét cả vể lý luận lẫn thực tiễn, cả về tình hình trong nước và hoàn cảnh quốc tế, không những cho phép mà còn đòi hỏi phải như thế nào? Bởi vì: Nhân dân lao động nước ta đã từng chiến đấu, hy sinh không chỉ nhằm mục đích giành lại độc lập dân tộc, mà còn gì cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc. Những yêu cầu đó chỉ có CNXH mới đáp ứng được. Trong CM dân tộc dân chủ, giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong của mình là Đảng CS để lãnh đạo cách mạng. Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của mình, Đảng ta phấn đấu vì lý tưởng XHCN, CSCN. Khi giành được chính quyền, để từng bước thực hiện được mục đích nói trên, CMVN dưới sự lãnh đạo của Đảng không thể không bước vào thời kỳ quá độ tiến lên CNXH. Những năm 1950, Liên Xô đã trở thành một cường quốc, cùng với một loạt nước XHCN ra đời, tạo thành hệ thống XHCN vững mạnh. Toàn bộ lịch sử cách mạng VN đã chứng minh rõ qui luật của cách mạng nước ta là độc lập, dân tộc gắn liền với CNXH, chỉ có đi lên CNXH mới giành và giữ được độc lập, tự do cho dân tộc. Khôngquán triệt sâu sắc ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH thì không huy động được sức mạnh tổng hợp của nhân dân trong nước cũng như nhân dân thế giới. Trong quá trình đấu tranh vì độc lập, dân tộc, không tiến lên CNXH mà đi con đường TBCN có nghĩa là chuyển các thành quả cách mạng vào tay lực lượng khác có lợi ích đối lập với lợi íchcủa nhân dân. Không phải ai khác, chính nhân dân lao động sẽ một lần nữa rơi vào vòng bị áp bức, bóc lột. Đông đảo nhân dân ta nhất định không chấp nhận điều đó. Những thành tựu trong lịch sử của CNXH đã đạt được những thành tựu vĩ đại, về chính trị đã xác lập được xã hội do dân làm chủ, về kinh tế trong quá trình phát triển, mặc dù gặp nhiều khó khăn thử thách nhưng CNXH cũng đạt được những thành tựu đáng kể. Liên Xô đi lên CNXH từ nền kinh tế thấp và đã trở thành một cường quốc về văn hoá xã hội đã nâng dần cuộc sống vật chất cả tinh thần. Trên thực tế, CNXH đã xác lập được chế độ xã hội của những người lao động, mà bản chất của nó là vì con người, phục vụ con người. Nhân dân lao động là người trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất và quản lý xã hội. CNXH không ngừng tạo điều kiện cho người lao động cống hiến trí tuệ, năng lực của mình vào công cuộc xây dựng và bảo vệ chế độ XHCN.
  6. Bên cạnh những thành tựu đạt được, CNXH vẫn mắc phải sai lầm thiếu sót làm biến dạng: Về chính trị: Vấn đề dân chủ trong thời gian dài, CNXH không thực hiện đúng, đầy đủ bản chất và nền dân chủ theo chủ nghĩa Mac – Lênin mà thực hiện nền dân chủ hình thức, cắt xén thậm chí giả dối. Đảng trong thời gian vừa qua cũng mắc phải sai lầm trên, thực tế ở nhiều nước XHCN thời gian qua chưa làm tròn vai trò của người chiến sĩ tiên phong thể hiện ở chỗ tư duy giáo điều. Về lý luận: Đã biểu hiện sự lạc hậu, yếu kém, tổ chức bộ máy cồng kềnh hoạt động kém hiệu quả, chế độ trách nhiệm không rõ ràng, nghị quyết ra nhiều nhưng làm ít, công tác kiểm tra thiếu kịp thời, xử lý chưa nghiêm minh, thậm chí cấp trên nói, cấp dưới không nghe. Nhà nước ở các nước XHCN vừa qua chưa thể hiện đúng là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nhà nước không điều hành và quản lý bằng pháp luật mà nhà nước mất dân chủ đối với nhân dân lao động, hoạt động còn chồng chéo trong các cơ quan giữa hành pháp và lập pháp, lẫn lộn chức năng quản lý nhà nước với quản lý sản xuất kinh doanh, chưa phát huy hết quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, tệ tham nhũng, nạn mất dân chủ còn diễn ra ở nhiều nơi, nhiều vấn đề gây phiền hà cho nhân dân. Về kinh tế: Sai lầm trong chế độ sở hữu, thời gian không thực hiện đúng và đầy đủ những bản chất, những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin về chế độ sở hữu mà dùng biện pháp nhà nước ép buộc cưỡng bức chạy theo chỉ tiêu pháp lệnh. Không để cho nhân dân họ tự quyết định. Chính nguyên nhân này làm ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống nhân dân, từ đó dẫn đến mất niềm tin với Đảng và nhà nước. Về sản xuất hàng hoá: Thời gian qua chưa nhận thức đầy đủ về nền sản xuất hàng hoá mà cho rằng CNXH không có nền sản xuất hàng hoá, đã triệt tiêu động lực sản xuất dẫn đến nền kinh tế chậm phát triển. Về chế độ phân phối cũng mắc phải sai lầm, khuyết điểm không thực hiện phân phối theo lao động mà thực hiện theo phân phối cấp bậc và kèm theo chủ nghĩa bình quân. Về quan hệ kinh tế đối ngoại: Thì chỉ quan hệ một chiều dựa vào sự giúp đỡ một bên chứ không phải quan hệ đôi bên cùng có lợi, từ đó làm nảy sinh sự trông chờ, ỷ lại và thực hiện nền kinh tế khép kín, cách biệt với nền kinh tế thế giới, chỉ biết quan hệ trong các nước XHCN mà thôi, chứ không cần quan hệ với các nước TBCN tức là CNXH đã ngủ quên trên những biến động của xã hội, say sưa với chiến thắng, thoả mãn với chế độ XHCN. CNXH đã mắc sai lầm biệt lập, đóng cửa với nền kinh tế thế giới. Do vậy, không tiếp thu được những thành tựu mới nhất của cuộc cách mạng khoa học công nghiệp hiện đại. Mặt khác, các nước XHCN đóng khung các quan hệ kinh tế giữa các nước XHCN với nhau đi ngược lại xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá của nền kinh tế thế giới, làm cho nền kinh tế của các nước XHCN không thể phát triển được. CNXH, trong thời gian dài đã không chú trọng đúng mức tới các ngành khoa học ứng dụng, chưa sử dụng đúng mức đội ngũ trí thức. Từ đó dẫn đến hậu quả chưa sử dụng hết tài năng, dẫn đến tình trạng chảy máu chất xám từ các quốc gia XHCN sang thế giới TBCN. Những sai lầm đó tích tụ lâu ngày, chậm được phát hiện, chậm được sửa chữa đã đưa đến hậu quả nghiêm trọng chưa từng có trong lịchsử phát triển của CNXH. Mặt khác, CNĐQ lợi dụng sai lầm đó để phản lại công cuộc CNXH, chủ nghĩa Mác – Lênin, phủ nhận sự phát triển tất yếu của lịch sử xã hội loài người.
  7. Chính những tư tưởng trên, cũng làm ảnh hưởng đến nền kinh tế. Do vậy, Đảng ta chủ trương đổi mới, mở cửa quan hệ với các nước, nhưng phải linh linh động, sáng tạo phù hợp với tình hình hiện nay. Tính tất yếu của đổi mới là một tất yếu lịch sử khách quan do quá trình phát triển của lịch sử xã hội loài người, đòi hỏi CNXH phải tiến hành đổi mới vì đó là sự tồn tại và phát triển của một xã hội tương lai. Việc đổi mới này, đòi hỏi phải có những hình thức và bước đi phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện cụ thể trong từng giai đoạn lịch sử, hướng tới mục tiêu phát triển của CNXH. Phải thực hiện một cách đầy đủ những bản chất nhân đạo, dân chủ và văn minh. Đổi mới là quá trình tìm tòi sáng tạo để vươn lên, đổi mới phải tiến hành trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Yêu cầu nhiệm vụ đặt ra cho các Đảng CS cầm quyền và nhà nước XHCN là phải mở rộng và phát huy dân chủ tạo điều kiện cho nhân dân phát huy tích cực sáng tạo trong công cuộc xây dựng CNXH. Muốn vậy, phải cương quyết khắc phục những quan hệ giá trị đã kiềm hãm sự phát triển kinh tế xã hội, xây dựng mối quan hệ mới trong hệ thống chính trị. Tăng cường giáo dục lối sống theo phương châm: Sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, giữ gìn kỷ cương và trật tự xã hội. Về kinh tế: Vấn đề hàng đầu của côngcuộc đổi mới là sự thay đổi cơ chế quản lý bằng mệnh lệnh, tập trung, hành chánh bao cấp sang cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhiệm vụ này phải tiến hành ở tất cả các khâu của nền kinh tế, đa dạng hoá hình thức sở hữu. Trong đó sở hữu nhà nước và tập thể giữ vai trò nền tảng, đổi mới quan hệ kinh tế đối ngoại trên nguyên tắc bình đẳng cùngcó lợi, giữ vững độc lập, tự chủ. Về xã hội: Phải thật sự quan tâm đến vấn đề con người, con người vừa là mục đích, vừa là động lực thực hiện côngcuộc đổi mới đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, sau nhiều năm tiến hành cải tổ, đổi mới ở các nước XHCN đưa đến kết quả không giống nhau. Một số nước càng lún sâu vào khủng hoảng và đi đến tan rã CNXH như: Liên Xô và các nước Đông Âu, do nhiều nguyên nhân trong đó nguyên nhân xa rời các nguyên tắc Mác xít Lênin nit về định hướng, mục tiêu và bước đi. Một số nước khác đã tiến hành công cuộc cải tổ, đổi mới dành được những thành tựu bước đầu quan trọng như: Trung Quốc, Việt Nam … Qua những thành công và thất bại trong cải tổ, đổi mới CNXH đã giúp cho các Đảng CS rút ra được những bài học kinh nghiệm để tiếp tục quá trình cải tố, đổi mới CNXH giành thắng lợi. Thứ nhất là bài học về giữ vững mục tiêu dân tộc và CNXH trong quá trình đổi mới, nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc, kiên trì chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Thứ hai, kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm đồng thời từng bước đổi mới. Thứ ba, xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của nhà nước theo hướng XHCN. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái. Thứ tư, mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của cả dân tộc.
  8. Thứ năm, mở rộng hợp tác quốc tế tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới, kết hợp với sức mạnh của cả dân tộc với sức mạnh của thời đại. Thứ sáu, Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Từ những thành tựu đã đạt được và những thiếu sót trong quá trìnhđổi mới, đồng thời bám sát thực tiễn, Đảng ta đã tổng kết chặng đường qua 20 năm đổi mới đã rút ra bài học kinh nghiệm sau: Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đứng trước những khó khăn thử thách, những biến động phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, Đảng ta luôn kiên định xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sáchđổi mới đúng đắn, phát huy những truyền thống quí báu của dân tộc và những thành tựu cách mạng đã đạt được giữ vững độc lập dân tộc, vững bước đi lên CNXH. Hai là, đổi mới phải dựa vào dân vì lợi ích của dân, phù hợp với thực tiễn luôn luôn sáng tạo. Tiến hành đổi mới xuất phát từ thực tiễn và cuộc sống của xã hội VN, tham khảo kinh nghiệm tốt của thế giới, không sao chép bất cứ một mô hình có sẵn nào, đổi mới toàn diện đồng bộ và triệt để với những bước đi hình thức và cách làm phù hợp. Có những điều chỉnh bổ sung và phát triển cần thiết về chủ trương, phương pháp, biện pháp linh hoạt sáng tạo, nhạy bén nắm bắt cái mới, tận dụng thời cơ, khắc phục sự trì trệ làm chuyển biến tình hình. Nhân dân tích cực thực hiện đổi mới trên mỗi lĩnh vực tạo ra nhiều điển hình tiên tiến, kinh nghiệm hay và nhân tố mới, từ đó Đảng có cơ sở để tổng kết thực tiễn và phát triển lý luận, đẩy mạnh công cuộc đổi mới. Đổi mới là sự nghiệp của nhân dân, do dân và vì dân. Để công cuộc đổi mới thành công phải động viên được mọi tầng lớp nhân dân và các thành phần kinh tế khác tham gia. Ba là, đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại. Công cuộc đổi mới diễn ra vào lúc cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới phát triển như vũ bão, toàn cầu hoá kinh tế ảnh hưởng đến cuộc sống các dân tộc, cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội diễn ra sôi nỗi. Tiến hành đổi mới nhân dân ta ra sức tranh thủ tối đa cơ hội tốt do những xu thế nói trên tạo ra. Bốn là, đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới. Đảng khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, hoàn thiện đường lối đổi mới, thường xuyên xây dựng, chỉnh đốn Đảng tạo ra sự thống nhất về quan điểm ý chí và hành động trong toàn Đảng, lãnh đạo tổ chức thực hiện xây dựng và kiện toàn bộ máy nhà nước trong sạch vững mạnh. Tóm lại: Mặc dù CNXH hiện nay đang đứng trước nhiều khó khăn thử thách to lớn. Song CNXH vẫn tiếp tục duy trì củngcố xây dựng ở một số nước. Qua những năm cải tổ, đổi mới, một số nước XHCN đã có những chuyển biến tích cực đạt những thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các Đảng CS và công nhân ở các nước XHCN đã đổ vở. Ở các nước này hiện nay đang có sự chuyển biến tích cực trên con đường phục hồi về tổ chức và hoạt động của các Đảng CS, điều này càng chứng tỏ rằng CNXH có sức thu hút mạnh các lực lượng tiến bộ của thời đại với tư cách là một chế độ xã hội văn minh nhất trong lịch sử, đại diện cho lực lượng sản xuất phát triển trong tương lai của xã hội loài người. /.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2