Ebook Lịch sử Đảng bộ huyện Bắc Mê (1939-2013): Phần 1
lượt xem 3
download
Nội dung cuốn sách đề cập khá toàn diện về vùng đất, dân cư, tình hình kinh tế - xã hội thời Pháp thuộc. Nhưng, quan trọng và chiếm phần lớn nội dung là sự nghiệp cách mạng ở Bắc Mê qua các thời kỳ lịch sử dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Đảng bộ huyện Vị Xuyên và từ năm 1984 là sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ huyện Bắc Mê. Mời các bạn cùng tham khảo phần 1 dưới đây.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Ebook Lịch sử Đảng bộ huyện Bắc Mê (1939-2013): Phần 1
- BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ HUYỆN BẮC MÊ TỈNH HÀ GIANG LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ HUYỆN BẮC MÊ (1939 -2013) Xuất bản năm 2013 1 2
- biên soạn, xuất bản cuốn Lịch sử Đảng bộ huyện Bắc Mê (1939 - 2013), nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày thành lập huyện và Đảng bộ huyện (01/01/1984 - 01/01/2014). LỜI NÓI ĐẦU Đến nay, cuốn sách đã được hoàn thành và ra mắt bạn đọc. Bắc Mê là huyện miền núi, vùng sâu của tỉnh Hà Cuốn sách ra đời trên cơ sở kế thừa tác phẩm Lịch Giang, cách trung tâm Tỉnh lỵ 53 km về phía Đông Bắc. sử Đảng bộ huyện Bắc Mê (1945-2000), xuất bản năm Đây là vùng đất có bề dày lịch sử và văn hóa. Trên địa 2000, nhưng đã có sự chỉnh sửa, bổ sung, đặc biệt là bổ bàn huyện có 14 dân tộc cùng sinh sống, có truyền thống sung từ năm 2000 đến năm 2013. Cuốn sách được biên lao động cần cù, đấu tranh anh dũng, yêu thương đùm soạn trên tinh thần tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc, bọc lẫn nhau. Từ khi có Đảng lãnh đạo, tinh thần đó phương pháp trong nghiên cứu lịch sử. Nội dung cuốn không ngừng được phát huy mạnh mẽ. Nhân dân các dân sách đề cập khá toàn diện về vùng đất, dân cư, tình hình tộc Bắc Mê đã đoàn kết một lòng đứng lên đánh Pháp, kinh tế - xã hội thời Pháp thuộc. Nhưng, quan trọng và đuổi Nhật, tham gia kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, chiếm phần lớn nội dung là sự nghiệp cách mạng ở Bắc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; chủ động, sáng tạo trong Mê qua các thời kỳ lịch sử dưới sự lãnh đạo của Trung sự nghiệp đổi mới. Xuất phát từ trách nhiệm, tình cảm ương Đảng, Đảng bộ huyện Vị Xuyên và từ năm 1984 là cao đẹp “Uống nước nhớ nguồn” của cán bộ, đảng viên sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ huyện Bắc Mê. Cuốn và nhân dân Bắc Mê hôm nay đối với thế hệ cha anh đi sách ghi lại những phong trào cách mạng sôi nổi, rộng trước. Đồng thời, thực hiện Chỉ thị số 15-CT/TW ngày khắp và liên tục trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, 28/8/2002 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước; những nỗ lực Nghiên cứu, biên soạn Lịch sử Đảng bộ cơ sở, Chỉ thị số vươn lên của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện 24-CT/TU ngày 22/11/2013 của Ban thường vụ Tỉnh ủy Bắc Mê trong công cuộc đổi mới theo chủ trương của Hà giang vầ đẩy mạnh thực hiện chỉ thị số 15-CT/TW Đảng. của Ban bí Trung ương Đảng khóa IX. Ban Thường vụ Huyện ủy Bắc Mê đã thành lập Ban chỉ đạo, tổ biên tập Với những nội dung trên, cuốn sách góp phần nâng và chỉ đạo tiến hành việc sưu tầm tư liệu, bổ sung và cao niềm tự hào của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong 3 4
- huyện về truyền thống đoàn kết, đấu tranh anh dũng, cần kiến đóng góp của các đồng chí và bạn đọc gần xa để cù, sáng tạo trong lao động sản xuất. Hơn nữa, cuốn sách trong dịp tái bản sau cuốn sách đạt được chất lượng cao có tác dụng giáo dục truyền thống, tình cảm cách mạng hơn. cho thế hệ trẻ xây dựng tình đoàn kết, tinh thần chủ động T/M TỔ BIÊN TẬP sáng tạo, dám nghĩ dám làm cũng như tin tưởng vào TỔ TRƯỞNG thắng lợi của sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Trần Quốc Phòng Nam lãnh đạo. Trong quá trình sưu tầm tư liệu, chỉnh sửa, bổ sung cuốn sách, chúng tôi nhận được sự đóng góp nhiệt tình của các đồng chí lãnh đạo huyện qua các thời kỳ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân huyện cùng sự đồng thuận cao của các ban, ngành, đoàn thể đã cung cấp tư liệu và đóng góp nhiều ý kiến quý báu. Chúng tôi, tổ biên tập cũng nhận được sự chỉ đạo của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Hà Giang để công trình ra đời đúng thời gian, đáp ứng sự mong đợi của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong huyện. Ban chỉ đạo, tổ biên tập xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ đó nhân dịp công trình: Lịch sử Đảng bộ huyện Bắc Mê (1939 – 2013) ra mắt bạn đọc. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc sưu tầm tư liệu, nghiên cứu và biên soạn nhưng do nguồn tư liệu thành văn bị thất lạc, các nhân chứng lịch sử qua các thời kỳ, đặc biệt là thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ không còn nhiều…do đó cuốn sách khó tránh khỏi thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận được những ý 5 6
- Chương I đá cheo leo rất nguy hiểm. Thực tế này gây khó khăn BẮC MÊ – ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, DÂN CƯ VÀ không nhỏ đến nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của TÌNH HÌNH KINH TẾ-XÃ HỘI THỜI PHÁP THUỘC địa phương. Về khí hậu, Bắc Mê mang những đặc điểm chung 1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của vùng rừng núi phía Bắc, đó là khí hậu nhiệt đới gió Bắc Mê là một huyện nằm ở phía Đông tỉnh Hà mùa. Nhiệt độ trung bình năm là 230C. Trong năm chia Giang, trung tâm huyện cách Tỉnh lỵ 53km, diện tích tự thành hai mùa rõ rệt: Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến nhiên toàn huyện 852 km2. Vị trí tiếp giáp của huyện tháng 10, thời tiết nóng ẩm, mưa nhiều, tập trung vào như sau: Phía bắc giáp huyện Yên Minh, phía đông giáp các tháng 6, 7, 8. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm huyện Bảo Lâm (Cao Bằng), phía tây giáp huyện Vị sau. Lượng mưa trung bình năm khoảng 3.000 mm, hệ Xuyên, phía nam giáp huyện Na Hang (Tuyên Quang). thực vật sinh trưởng phát triển nhanh. Nhìn chung, khí Vị trí tiếp giáp đó tạo điều kiện để Bắc Mê sớm có sự hậu thuận lợi cho sản xuất nông - lâm nghiệp, những loại giao lưu tiếp xúc rộng rãi với các huyện trong và ngoài cây có nguồn gốc nhiệt đới và cận nhiệt. tỉnh. Về tài nguyên đất, Bắc Mê có nhiều loại đất được Về mặt địa hình, Bắc Mê là huyện miền núi được hình thành qua quá trình phong hoá từ các loại đá mẹ xếp vào huyện vùng thấp của tỉnh Hà Giang, có độ cao như đá vôi, phiến thạch, đất sét, sa thạch. Về cấu tạo địa trung bình từ 400 – 500m so với mực nước biển. Nhìn chất chia thành hai dạng vùng núi đất và vùng núi đá, chung, địa hình chia thành hai vùng: vùng núi cao gồm nhưng phần lớn là đồi núi đất, xen kẽ những dãy núi đá các xã Minh Sơn, Giáp Trung, Yên Phong, Yên Phú, vôi. Những loại đất chính gồm đất đỏ vàng, đất vàng Yên Cường, Phiêng Luông, Phú Nam, Đường Âm, nhạt, đất nâu trên phù sa cổ, đất dốc tụ và hồi tụ. Đất ở Đường Hồng, Thượng Tân; vùng núi thấp gồm các xã Bắc Mê khá màu mỡ, đặc biệt ở những vùng thung lũng, Yên Định, Minh Ngọc, Lạc Nông. Tuy là vùng thấp của ven sông. Đó là điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất tỉnh nhưng địa hình khá phức tạp, bị chia cắt mạnh, xen nông nghiệp theo hướng thâm canh. kẽ giữa đồi núi là khe suối, vực sâu. Do vậy, đến mùa Về thủy văn, trên địa bàn Bắc Mê có sông Gâm mưa bão hàng năm rất dễ xảy ra sạt lở gây thiệt hại tới chảy từ Cao Bằng qua giữa Yên Phong và Phú Nam, thị tính mạng và tài sản của nhân dân. Thậm chí có những trấn Yên Phú, chảy qua Lạc Nông, một phần của Yên thôn chưa thể làm đường giao thông, người dân vẫn phải Cường, Minh Ngọc, Thượng Tân và đổ về Na Hang sử dụng đường mòn, có chỗ phải men theo những vách 7 8
- (Tuyên Quang). Đoạn chảy qua Bắc Mê dài 45km. Nhìn Yên Cường, Phiên Luông, Thượng Tân, Lạc Nông, chung đây là con sông nhỏ, nhiều thác ghềnh, nước chảy Minh Ngọc, Yên Định, Minh Sơn. Đây là một trong xiết, thuyền bè đi lại khá khó khăn. Bên cạnh đó, Bắc những khu dự trữ thiên nhiên đặc dụng của tỉnh Hà Mê có nhiều mạch nước chảy từ, triền đồi, chân núi ra, Giang với hệ sinh thái đa dạng, thảm thực vật dày. Về tạo thành những khe suối. Những mạch nước, khe suối động vật, có nhiều loài nằm trong sách đỏ, đặc biệt là này không chỉ cung cấp nước sinh hoạt mà còn có ý loài voọc mũi hếch. Tuy nhiên, do quá trình khai thác nghĩa để hình thành phát triển hệ thống ruộng bậc thang. rừng và săn bắn, một số loài động vật không còn, số Thực hiện Quyết định số 288/QĐ-TTg ngày 19 lượng cũng giảm nhiều. tháng 4 năm 2002 của Thủ tướng Chính phủ về việc đầu Về tài nguyên khoáng sản, dưới lòng đất có các loại tư Dự án thuỷ điện Na Hang (Tuyên Quang), Bắc Mê có khoáng sản quý như Ăngtimon, vàng sa khoáng, sắt, chì, 4 xã bị ảnh hưởng của vùng lòng hồ (Thượng Tân, Minh kẽm..., trong đó mỏ sắt Sàng Thần xã Minh Sơn có trữ Ngọc, Lạc Nông, Yên Phú). Tuy nhiên, nước lòng hồ lượng gần 32 triệu tấn. Nguồn khoáng sản ở địa phương dâng lên cũng tạo cho Bắc Mê những điều kiện mới về là cơ sở để phát triển ngành công nghiệp khai khoáng và giao thông, du lịch, kết nối Bắc Mê với các huyện: Na luyện kim, đóng góp vào nguồn thu ngân sách huyện. Hang (Tuyên Quang), Ba Bể (Bắc Kạn) và Bảo Lâm 2. Dân cư và truyền thống lao động, văn hóa (Cao Bằng). Sông, suối ở Bắc Mê chứa đựng nhiều nguồn thủy sinh phong phú, cung cấp nguồn thực phẩm Bắc Mê là tên gọi theo tiếng địa phương2, ra đời đáng kể, nổi tiếng như cá dầm xanh, anh vũ, chiên, bống, cách đây gần một thế kỷ nhưng các nhà khảo cổ học tìm tôm, v.v.. thấy ở Bắc Mê những di chỉ, di tích chứng minh người Việt cổ đã xuất hiện và cư trú ở đây từ thời kỳ đồ đá cũ Do điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng, rừng núi Bắc (cách đây hàng vạn năm) và phát triển qua các thời kỳ Mê giàu có về các loài động, thực vật, trên rừng có nhiều lịch sử: giai đoạn hậu kỳ đá cũ có di tích hang Bó Khiếu loại gỗ quý như: Đinh, trò, nghiến, lát hoa, pơ mu và (Bản Sáp - Yên Phú); di tích sơ kỳ thời đại đá mới có di hàng trăm loại thảo dược. Trong rừng xưa kia có nhiều chỉ hang Đán Cúm, Nà Chảo (Yên Cường),… Trong các loại động vật quý hiếm như: Hổ, báo, lợn rừng, dê núi, di chỉ, di tích này, hàng ngàn công cụ bằng đá được phát khỉ, Vọoc mũi hếch, trăn, tắc kè, v.v. Bắc Mê có khu dự trữ thiên nhiên1 quy mô 27.800 ha thuộc địa phận các xã 2 1 Khu dự trữ thiên nhiên Bắc Mê được thành lập theo quyết định Bắc Mê theo tiếng gọi địa phương là Pạc Mè, qua quá trình chuyển tiếp 142/QĐUB ngày 22/4/1994 của Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Giang. lịch sử được gọi lái là Bắc Mê. 9 10
- hiện, khẳng định Bắc Mê là địa bàn cư trú, sinh tụ của từ các vùng biên giới về. Sau đổi mới, dưới tác động của con người từ rất sớm. quá trình phát triển kinh tế, mở rộng giao lưu giữa các Trong chặng đường dài dựng nước và giữ nước, vùng miền, trong điều kiện hòa bình nhiều cư dân miền vùng đất Bắc Mê thuộc một phần của châu3 Vị Xuyên xuôi từ các tỉnh Tuyên Quang, Phú Thọ, Vĩnh Phúc tới thuộc trấn4 Tuyên Quang của nước Đại Việt5. Thời Pháp sinh cơ lập nghiệp. Sự gia tăng cơ học này cùng với quá thuộc, Bắc Mê được đặt dưới chế độ quân quản, nằm trình gia tăng dân số tự nhiên, số dân ở Bắc Mê tăng lên trong vùng kiểm soát của đạo quan binh thứ 3. Ngày 20 đáng kể. tháng 8 năm 1891, tỉnh Hà Giang được thành lập, Bắc Theo số liệu thống kê đầu năm 2013, huyện Bắc Mê Mê thuộc 2 trong 5 tổng6 của châu Vị Xuyên với tên gọi có tổng số 52.197 nhân khẩu, mật độ dân số là 61 là tổng Yên Phú7 và tổng Yên Định8. Thời kỳ này cư dân người/km2, có 14 dân tộc anh em cùng chung sống, gồm của Bắc Mê có một số dân tộc thiểu số sinh sống nhưng các dân tộc: Dao, Tày, Mông, Kinh, Nùng, Pu Péo, Hoa, còn thưa thớt. Giáy, Sán Chay, Pố Y, Mường, La Chí, Thái, Sán Dìu. Bắc Mê là nơi tiếp nhận nhiều cư dân ở các vùng Ngày nay do quá trình di dân cũng như thông qua hôn biên giới và cư dân miền xuôi tới. Khi cuộc chiến tranh nhân, Bắc Mê có thêm một số người thuộc dân tộc khác biên giới diễn ra ác liệt (thời điểm trước và sau thành lập đến. Những dân tộc chính trong huyện là: dân tộc Dao huyện) Bắc Mê là hậu cứ tiếp nhận hàng vạn dân di cư (36,49%), dân tộc Tày (31,98%), dân tộc Hmông (23,83%), dân tộc Kinh (6,06%), còn lại là các dân tộc khác (1,64%). 3 Châu là một đơn vị hành chính ở các vùng miền núi xuất hiện từ thời Lý (1010 – 1226), tương đương cấp huyện ngày nay. Đồng bào các dân tộc sống cư trú xen kẽ, mỗi xã 4 Trấn là là đơn vị hành chính tương đương cấp tỉnh, diện tích bằng một đều có từ 4 đến 5 dân tộc trở lên. Với sự phát triển của số tỉnh ngày nay. giao thông, quá trình giao lưu và hội nhập thì tính chất 5 Đại Việt là tên nước Việt Nam thời phong kiến. 6 Tổng là đơn vị hành chính tương đương cấp xã hiện nay nhưng có quy xen kẽ càng được đẩy mạnh. Tuy nhiên, do là huyện mô bằng một số xã. Sau Cách mạng tháng Tám cấp tổng bị xóa bỏ. miền núi, vùng sâu quá trình giao lưu diễn ra chủ yếu ở 7 Trước năm 1945, tổng Yên Phú gồm 5 xã: Yên Phú, Phú Nam, Lạc huyện lỵ và trung tâm các xã vùng thấp còn ở các làng Nông, Đường Âm, Thanh Lương. Xã Thanh Lương hiện nay không tồn tại, một phần thuộc về xã Đường Âm, Đường Hồng (Bắc Mê), phần còn bản, các xã vùng sâu mức độ tập trung cũng còn khá rõ, lại thuộc xã Sinh Long (Na Hang – Tuyên Quang). có những làng bản chỉ có một dân tộc cư trú. Sự tập 8 Tổng Yên Định có 4 xã: Yên Định, Tùng Bá, Minh Tân, Thuận Hoà. trung mang tính bền chặt đó giúp cho các bản làng bảo Tùng Bá, Minh Tân, Thuận Hoàn nay thuộc Vị Xuyên. lưu những giá trị văn hóa truyền thống. 11 12
- Trên cơ sở những điều kiện tự nhiên và địa hình, các Xuất phát từ cuộc sống xưa kia nương tựa vào rừng làng bản thường bám vào các vùng chân núi, thung lũng núi và lấy kinh tế nông lâm nghiệp làm nguồn sống vì đó là những nơi thuận lợi về nguồn nước và điều kiện chính, cuộc sống phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Trước sản xuất. Quá trình phát triển hệ thống giao thông đang vũ trụ bao la và muôn vàn các hiện tượng tự nhiên, khi dần tạo ra những thay đổi về sự phân bố dân cư: nhiều khoa học chưa phát triển, người dân tin vào sức mạnh ngôi nhà đã được dựng lên dọc các tuyến đường từ như siêu nhiên, thờ cúng các hiện tượng như mây, mưa, sấm, quốc lộ 34, những tuyến đường tỉnh lộ và từ huyện lỵ chớp… Cũng chính từ kinh tế nông nghiệp người dân đã đến trung tâm các xã. Xét trên phương diện địa hình, sáng tạo ra các nghi lễ, lễ hội liên quan tới nông nghiệp, người Dao, Hmông thường cư trú trên các triền núi cao; thể hiện đậm nét, tiêu biểu nhất qua lễ hội xuống đồng, người Kinh, Tày, Hoa thường cư trú ở vùng thấp. cầu mùa, cúng cơm mới, gọi trăng, cấp sắc.v.v. Để sinh tồn và phát triển từ xưa đồng bào các dân Đời sống văn hóa tinh thần của người dân Bắc Mê tộc ở Bắc Mê sinh sống chủ yếu nhờ hoạt động khai thác mang những nét chung của văn hóa dân tộc Việt Nam, tự nhiên và nông nghiệp. Quá trình gây dựng bản, làng rất coi trọng tín ngưỡng thờ cúng ông bà, tổ tiên. Bỏ ông cũng là lúc con người bước vào chinh phục tự nhiên, bà tổ tiên không thờ phụng bị coi là mất gốc, bất nhân, người dân đắp đập, be bờ biến những vùng đất thung bất nghĩa. Hầu hết các gia đình dù giàu có hay nghèo lũng, ven sông suối thành đồng ruộng. Người dân nơi khổ, cán bộ hay nông dân, con trưởng hay con thứ đều đây không chỉ dừng lại khai phá những vùng đất thung có bàn thờ tổ tiên. Bàn thờ tổ tiên được đặt ở gian giữa lũng, ven sông ven suối mà còn từng bước chinh phục nhà, trang nghiêm, sạch sẽ. Vào các ngày tết, ngày giỗ, những vùng đất cao, biến những vùng đồi núi thành rằm tháng giêng, tết đoan ngọ, rằm tháng bảy… mọi nhà những cánh đồng trồng lúa, ngô... Ở Bắc Mê, người Dao đều tổ chức cúng cơm. Nhà giàu có thì mâm cao cỗ đầy, là dân tộc có nhiều kinh nghiệm trong việc khai khẩn đất nhà nghèo thì trầu cau, hương rượu. Những tục lệ ở làng hoang và làm ruộng bậc thang. có thể bớt bỏ, cúng tế ở đền, miếu có thể sao nhãng Bên cạnh trồng trọt, người dân ở Bắc Mê còn tiến nhưng ngày giỗ ông bà tổ tiên vẫn được thực hiện hành chăn nuôi nhiều loại gia cầm, gia súc và tham gia nghiêm túc, trang trọng từ đời này sang đời khác. vào nhiều nghề thủ công phục vụ cuộc sống và sản xuất. Các nghề thủ công được duy trì trong cộng đồng các dân Bên cạnh những điểm chung, trong quá trình sinh tộc tiêu biểu như nghề dệt, đan lát, nghề rèn, nấu rượu, tồn, lao động sản xuất mỗi dân tộc ở Bắc Mê sáng tạo ra góp phần làm đa dạng các hoạt động kinh tế, đảm bảo những giá trị văn hóa riêng, thể hiện trên các phương nhu cầu thiết của cuộc sống. diện như trang phục, nhà ở, cưới xin, tang ma… Mỗi dân 13 14
- tộc đều có một kho tàng văn hóa riêng, trong đó có động ở địa phương, lập ra bộ máy cai trị từ tỉnh tới các những nghi lễ, lễ hội tạo thành những giá trị văn hóa đặc châu, xã. Chúng thi hành chế độ quân sự quản chế, ở trưng của dân tộc như: lễ cúng thần rừng của dân tộc Pu mỗi châu có một sĩ quan Pháp đứng đầu nắm trọn quyền Péo, lễ hội múa khèn của dân tộc Hmông; lễ hội Lồng hành. tồng của dân tộc Tày; lễ cấp sắc của dân tộc Dao. Về chính trị, ở Bắc Mê chúng lập ra quan Bang tá 11 Bắc Mê là vùng đất có lịch sử lâu đời, lại liên tục để cai trị nhân dân. Bang tá đầu tiên ở Bắc Mê là Đèo thu nhận những văn hóa mới từ các vùng miền do quá Văn Ất rồi đến Đàm Quang Khuýnh, Đinh Ngọc Thiện. trình nhập cư, giao lưu văn hóa. Mặt khác, trước xu thế Thời Nhật - Tưởng 1945, do Nông Văn Tông một Lý giao lưu và hội nhập văn hóa, nhiều giá trị văn hóa trưởng người Yên Phú làm Bang tá. truyền thống bị mai một. Đời sống văn hóa tinh thần của Thời kỳ này Bắc Mê có tổng12 Yên Phú và tổng Yên người dân chuyển dần theo xu hướng thích nghi với cuộc Định thuộc châu Vị Xuyên. Thực dân Pháp đặc biệt coi sống hiện đại. trọng chính sách “chia để trị”. Chúng ra sức chia rẽ các 3. Đời sống kinh tế - xã hội thời Pháp thuộc dân tộc, phân biệt từng vùng, từng dân tộc để lập bộ máy Năm 1858, thực dân Pháp nổ tiếng súng đầu tiên, hành chính: Người Dao bị phân thành Dòng13, do Quản mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Trước sức chiểu đứng đầu. Người Hmông bị chia thành từng mạnh của kẻ xâm lược, triều đình nhà Nguyễn kháng cự Giáp14, do bọn Tổng giáp, Mã phái đứng đầu v.v.. yếu ớt rồi từng bước đầu hàng. Nhưng, ngay từ khi đặt Về quân sự, trước năm 1939 thực dân Pháp cho xây chân lên đất nước ta, chúng đã vấp phải sự kháng cự quyết liệt của mọi tầng lớn nhân dân ở khắp nơi. Đến dựng “Căng” 15 Bắc Mê để làm đồn binh (đồn biên năm 1887, thực dân Pháp mới hoàn thành cơ bản việc phòng) án ngữ khu vực này, đồng thời là nơi tuyển lính chiếm đóng Hà Giang. Tại đây, chúng bắt nhân dân ta để thực hiện mưu đồ của chúng. Trong quá trình xây xây dựng rất nhiều tường thành, đồn bốt dọc biên giới và dựng Căng, Pháp huy động hàng trăm phu ở hai tổng các trục đường giao thông huyết mạch. Đồng thời, chúng nắm lấy ngay bọn thổ ty9, địa chủ10 và các phần tử phản 11 Bang tá là một chức quan nhỏ coi việc trật tự an ninh thời Pháp. 12 Tổng là đơn vị hành chính tương đương cấp xã ngày nay, nhưng phạm 9 Thổ ty là quan lại thời phong kiến ở miền dân tộc thiểu số. vi hành chính rộng lớn hơn, bằng một vài xã ngày nay. 10 13 Địa chủ là người chiếm hữu nhiều ruộng đất thời phong kiến, bản thân Dòng là những nhóm người Dao có điểm chung về văn hóa. 14 không lao động, sống bằng bóc lột sức lao động của những người làm Giáp là đơn vị dân cư gồm 10 hộ gia đình cạnh nhau, chính quyền thực thuê. Đầu thế kỷ XX giai cấp địa chủ ở nước ta chia làm 3 bộ phận: Đại dân lập ra để tiện bề kiểm soát dân chúng. 15 địa chủ, trung địa chủ, tiểu địa chủ. Đại địa chủ là những người theo “Căng” là tên gọi biến âm của từ “Camp” tiếng Pháp, có nghĩa là đồn Pháp; trung và tiểu địa chủ ít nhiều có tinh thần cách mạng. binh, trại lính. 15 16
- Yên Phú và Yên Định xây dựng. Tại đó, chúng thường và trình độ canh tác lạc hậu đã khiến cho đời sống nhân duy trì một trung đội khố xanh16 làm nhiệm vụ canh dân các dân tộc Bắc Mê vô cùng điêu đứng, cùng cực. phòng; ở các tổng, xã, chúng phát triển lính dõng17 nhằm Có thể nói, dưới chế độ thực dân, phong kiến Bắc Mê là trực tiếp kiểm soát địa bàn. một trong những nơi điển hình nhất về sự cực khổ, lạc Về kinh tế, thực dân Pháp mặc sức cho bọn phong hậu của xã hội Việt Nam. Đói rét, bệnh tật, ngu dốt dẫn kiến địa phương bóc lột nhân dân để thu thuế, vơ vét tài tới tỉ lệ chết nhiều hơn tỉ lệ sinh (có thời kỳ trong 10 nguyên và các sản phẩm nông - lâm nghiệp, phục vụ năm dân số Bắc Mê giảm đi hàng trăm người). chiến tranh. Pháp để cho các tầng lớp trên duy trì các Không chịu khuất phục trước ách đô hộ của thực hình thức bóc lột phong kiến “Địa tô lao dịch, địa tô dân Pháp, nhiều người con ưu tú của Bắc Mê đã đứng cống vật”, đồng thời tăng cường các loại thuế. Ngoài các lên đấu tranh ngay tại quê hương và tham gia các cuộc loại thuế áp dụng chung, ở Bắc Mê và vùng biên giới Hà khởi nghĩa chống Pháp ở Đồng Văn năm 1903, ở Bắc Giang còn có thêm nhiều thứ thuế vô nhân đạo như thuế Quang năm 1905, ở Đường Thượng (Yên Minh) năm ngựa thồ, thuế rửa bát, thuế khói lửa, thuế thuốc phiện. 1911 - 1912 và các cuộc đấu tranh chống Pháp ở Vị Về văn hoá - xã hội, trong khi Pháp xây dựng đồn Xuyên - Bắc Quang do tổ chức Việt Nam quang phục bốt, trại giam thì cả vùng Bắc Mê chỉ có một trường hội18 lãnh đạo diễn ra từ năm 1914 - 1926. Hương học với gần 30 học sinh, chủ yếu là con em các chức sắc ở địa phương. Đại đa số đồng bào ta không biết Mặc dù có tinh thần yêu nước, anh dũng chống giặc đọc, biết viết. Kết quả là có tới 99% dân số mù chữ. Đặc ngoại xâm, nhưng do đường lối đấu tranh không phù biệt, Pháp còn cấm đoán nghiêm ngặt việc lưu hành sách hợp, chưa có Đảng trân chính lãnh đạo, các cuộc đấu báo của Đảng, của Việt Minh hòng bưng bít sự thật làm tranh trên phạm vi cả nước, cả tỉnh cuối cùng đều thất cho nhân dân u mê về chính trị. Mặt khác, chúng khuyến bại. Trước sự đàn áp của thực dân Pháp, phong trào đấu khích những phong tục tập quán lạc hậu trong nhân dân. tranh tạm thời lắng xuống, để rồi nhường chỗ cho những Các hủ tục mê tín dị đoan, cờ bạc, nghiện hút, trộm cắp tổ chức mới, đấu tranh theo con đường mới. luôn đè nặng lên đời sống hàng ngày của người dân. Chính sách bóc lột dã man của thực dân Pháp và phong kiến, cùng với những khó khăn do thiên tai gây ra 18 Việt Nam quang phục hội là tổ chức cách mạng được thành lập năm 16 Lính khố xanh là lính có nhiệm vụ chính là canh phòng, khác với lính 1912, do Phan Bội Châu (1867 – 1940) đề xướng , là phong trào đấu tranh khố đỏ có nhiệm vụ chiến đấu. vũ trang với mục tiêu đánh đuổi người Pháp ra khỏi Đông Dương. Năm 17 Lính dõng là lính tuần tra, thực hiện nhiệm vụ chiến đấu khi cần thiết. 1925, Phan Bội Châu bị bắt, hội tan rã nhanh chóng. 17 18
- Chương II “Căng” Bắc Mê là nơi giam giữ hàng chục tù nhân DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, NHÂN DÂN chính trị là Đảng viên Đảng cộng sản Đông Dương19. BẮC MÊ THAM GIA CUỘC CÁCH MẠNG GIẢI Mặc dù bị kiểm soát gắt gao, lao động cực nhọc, các PHÓNG DÂN TỘC, XÂY DỰNG CỦNG CỐ chiến sĩ cộng sản vẫn tìm mọi cách vận động cách mạng LỰC LƯỢNG VÀ KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP trong “Căng” và nhân dân trong vùng; tổ chức đấu tranh (1939 - 1954) đòi địch nới lỏng một số quy tắc khắc nghiệt trong “Căng”. Ma Văn Quảng làm đầu bếp trong Căng người 1. Nhân dân Bắc Mê trong cuộc cách mạng giải xã Yên Định là một trong những người được cảm hoá phóng dân tộc giành chính quyền (1939 - 1945) thuyết phục. Theo kế hoạch, ông và một số nhân viên Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trực khác sẽ phối hợp làm nội ứng cho các tù chính trị nổi tiếp lãnh đạo nhân dân, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng dậy cướp súng, phá tù, phát động nhân dân trong vùng về đường lối cách mạng, đưa sự nghiệp giải phóng dân khởi nghĩa. Song do kế hoạch bị lộ, chúng điều Ma Văn tộc theo con đường cách mạng vô sản. Từ đây, các Quảng đi nơi khác. Lo sợ ảnh hưởng của các đảng viên phong trào cách mạng ở Việt Nam có Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân - giai cấp tiên tiến nhất cộng sản tới quần chúng quanh vùng, đầu năm 1942, lãnh đạo, là bước ngoặt to lớn của lịch sử dân tộc. Pháp giải tán “Căng” Bắc Mê, phân tán tù nhân về nhà tù Hà Nội, Sơn La. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các phong trào cách mạng nổ ra liên tiếp và rộng khắp các miền trong cả Trong gần 3 năm hoạt động, các tù chính trị ở Căng nước. Ở Hà Giang phong trào đấu tranh bắt đầu xuất Bắc Mê tuy chưa phát động được phong trào đấu tranh hiện và phát triển ở các huyện Vị Xuyên và Bắc Quang. cách mạng ở địa phương nhưng đã gây ảnh hưởng lớn Trước tình thế phong trào đấu tranh cách mạng của quần cho nhân dân quanh vùng. Lòng yêu nước của nhiều chúng ngày càng dâng cao, thực dân Pháp ra sức khủng đồng bào được khơi dậy, hướng tới cuộc cách mạng giải bố các chiến sỹ cách mạng, nhiều người con ưu tú của phóng dân tộc. dân tộc bị bắt bớ đưa đi đầy ải, gông tù. Từ năm 1939 “Căng” Bắc Mê từ một đồn binh đã được Pháp chuyển 19 mục đích sử dụng làm nơi giam cầm các chiến sĩ cộng Hàng chục chiến sĩ cộng sản bị giam giữ ở Căng Bắc Mê, tiêu biểu như: Đ/c Xuân Thủy, Vọng Bình, Hoàng Hữu Nam, Hoàng Bắc Dũng, Trần sản từ khắp nơi đưa về, do hai tên giám binh người Pháp Cung, Nguyên Hồng, Đặng Việt Châu, Lê Giản, Hà Kế Tấn, Lương là SaVét và Lavu cai quản. Nhân, Trần Các... 19 20
- Từ năm 1941, phong trào Việt Minh ở tỉnh Cao cao trào đấu tranh mới. Sau cơ sở cách mạng Hùng An Bằng phát triển mạnh đã ảnh hưởng trực tiếp tới vùng (Bắc Quang) được xây dựng tháng 3/1943 bị địch dập tắt giáp ranh Bắc Mê của Hà Giang. Tháng 9 năm 1943, tháng 12/1943, Thoôm Toòng là cơ sở cách mạng thứ một số cán bộ Việt Minh do đồng chí Hồng Tụ và Tô Vũ hai được nhen nhóm ở tỉnh Hà Giang. Cơ sở Việt Minh phụ trách từ Bảo Lạc (Cao Bằng) đã xâm nhập vào Thoôm Toòng duy trì và phát triển được là do phương Thoôm Toòng20 (một bản người Dao) thuộc xã Đường pháp hoạt động của cán bộ và quần chúng ở đây chặt Âm. Cán bộ Việt Minh đã tuyên truyền chủ trương đánh chẽ, bí mật, thận trọng. Tuy vậy, do địa hình hiểm trở, Pháp, đuổi Nhật giành độc lập dân tộc, vận động quần nhân dân sống thưa thớt, phong trào Thoôm Toòng phát chúng gia nhập Hội cứu quốc. Được cán bộ Việt Minh triển chậm, việc mở rộng phong trào ra các vùng xung tuyên truyền, tổ chức, đồng bào địa phương rất phấn quanh gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy, phong trào chua khởi, hăng hái tham gia mặt trận Việt Minh. Tất cả 12 hộ phát huy được tác dụng theo yêu cầu của Xứ uỷ Bắc Kỳ người Dao ở bản này đã tự nguyện tham gia vào Hội cứu và Liên tỉnh uỷ Cao - Bắc - Lạng. quốc. Họ đã cắt tiết gà, uống máu ăn thề một lòng đi theo cách mạng. Hàng tháng mỗi gia đình đều nộp hội Đầu năm 1944, Xứ uỷ Bắc Kỳ chủ trương tăng phí và tham gia sinh hoạt hội. 24 thanh niên đã xung cường vận động cách mạng ở Hà Giang, khai thông con phong vào đội tự vệ để bảo vệ phong trào, cung cấp tin đường liên lạc “Tây tiến” từ Cao Bằng qua Hà Giang về tức, làm liên lạc viên, tuyên truyền vận động nhân dân Tuyên Quang - Việt Trì đề phòng đường Lạng Sơn, Cao quanh vùng ủng hộ Việt Minh. Có thể nói đây là cơ sở Bằng, Bắc Cạn bị cản trở, đồng thời tiếp tục mở thông cách mạng đầu tiên của Bắc Mê cũng như của Tỉnh Hà con đường liên lạc từ Cao Bằng qua Hà Giang sang Vân Giang lúc bấy giờ. Nam (Trung Quốc) để đón cán bộ và chuyển vũ khí về Đến cuối năm 1943 đầu năm 1944, cơ sở cách mạng nước. Ban Việt Minh khu Thiện Thuật được giao trách ở Thoôm Toòng tiếp tục phát triển vững chắc, có thêm nhiệm thực hiện nhiệm vụ này. nhiều cán bộ Việt Minh tới đây hoạt động. Đồng bào ở Tháng 5 năm 1944, một số cán bộ Việt Minh khu một số vùng lân cận đã tìm đến đón cán bộ về tổ chức Thiện Thuật do đồng chí Đặng Việt Hưng phụ trách đã phong trào Việt Minh ở thôn, bản mình. Đội tự vệ được tới khu vực Nhiêu Lai, Nam Lai (nơi giáp ranh ba tỉnh bồi dưỡng, huấn luyện ngắn ngày, chuẩn bị bước vào Cao - Bắc - Hà) chuẩn bị phát triển vào Hà Giang. Một 20 Thoôm Toòng hiện nay là thôn Quảng và thôn Đoàn Kết xã Đường trong ba con đường chính vào Hà Giang là từ Tề Sủng Âm. 21 22
- (Cao Bằng) đến Cồ Lủng21, tổng Yên Phú và Lòng mạng thời kỳ này ở Bắc Mê có hai người tiêu biểu là Cổng, tổng Yên Định (Bắc Mê) rồi vào Dù Già, Đường đồng chí Nông Văn Bút và Triệu Văn Yêu, sau này trở Thượng (Yên Minh). Trong dịp này, các bản dân tộc thành cán bộ tiền khởi nghĩa. Hmông, Dao ở hai tổng Yên Định và Yên Phú đều được Đầu năm 1945, Xứ uỷ Bắc Kỳ tiếp tục tăng cường cán bộ Việt Minh đến tuyên truyền cách mạng. Cán bộ lực lượng cho các vùng cách mạng ở Hà Giang nhằm Việt Minh đi tới đâu cũng nhận được sự ủng hộ của chuẩn bị thời cơ khởi nghĩa từng phần, tiến tới tổng khởi đồng bào các dân tộc. Ở những thôn bản, lần đầu cán bộ nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Ở Bắc Mê, một đặt chân tới, đồng bào tổ chức ăn thề quyết tâm theo đội vũ trang tuyên truyền gồm các đồng chí Hồng Quốc, cách mạng. Thời kỳ này cơ sở cách mạng ở Thoôm Mệnh Lệnh, Hồng Đào từ Cao Bằng vào; các đồng chí Toòng cũng bắt đầu phát triển, mở rộng ra các vùng Bảo Toàn, Tài Nam, Minh Ngọc từ Bắc Quang lên tới xung quanh. Đồng chí Hồng Tụ phụ trách chuyển hướng địa phương giữa tháng 3 năm 1945. Ông Nguyễn Văn tuyên truyền về phía tổng Yên Phú, đồng chí Tô Vũ phụ Thọ (ông giáo Thọ) và một số người ở Yên Phú đã đi trách tuyên truyền về phía tổng Yên Định. Trước khí thế đón đoàn cán bộ cách mạng ở Bản Tính về xã Yên Phú mạnh mẽ của quần chúng, bọn cường hào, chức dịch ở để xây dựng cơ sở cách mạng. địa phương đều bất lực, một số đem bằng sắc đến nộp, Ngày 9 tháng 3 năm 1945, phát xít Nhật thực hiện số còn lại nằm im, không dám chống phá. thành công cuộc đảo chính hất cẳng thực dân Pháp trên Ngày 5 tháng 8 năm 1944, Ban Việt Minh ở Nhiêu toàn cõi Đông Dương. Chúng nhanh chóng nắm lấy Lai được thành lập (gồm 5 xã giáp ranh của 3 huyện Bảo chính quyền tay sai, tăng cường đàn áp phong trào cách Lạc (Cao Bằng), Yên Minh, Bắc Mê (Hà Giang). Tiếp mạng, ra sức vơ vét của cải của nhân dân ta, phục vụ đó, ngày 15 tháng 9 năm 1944, Ban Việt Minh tổng chiến tranh toàn cầu của Nhật. Ở Bắc Mê, chính quyền Đường Thượng (gồm các xã Mậu Duệ, Đường Thượng tay sai của thực dân Pháp do Đinh Ngọc Thiện cầm đầu (Yên Minh), Yên Phú, Yên Định (Bắc Mê) và Nam hoang mang, giao động cực độ, số lính người địa Thắng (Cao Bằng) được thành lập. Các ban Việt Minh phương bỏ đồn chạy về nhà, chỉ còn khoảng 1 tiểu đội trên đây gồm đủ đại biểu các dân tộc, các xã có nhiệm lính khố xanh người miền xuôi. Vài ngày sau, số lính vụ vận động, tổ chức các hội cứu quốc như Phụ nữ cứu còn lại hoảng hốt vứt súng xuống sông Gâm lẩn trốn. quốc, Nông dân cứu quốc. Tham gia phong trào cách Ngày 28 tháng 3 năm 1945 lực lượng cách mạng tiếp quản đồn “Căng” Bắc Mê, thu 4 tấn gạo, 6 tạ muối, 40 21 súng trường và nhiều quân trang, quân dụng khác. Cồ Lủng hiện nay thuộc thôn Giáp Yên thị trấn Yên Phú. 23 24
- Việc giải phóng đồn Bắc Mê đã nâng cao uy tín, ảnh đã tổ chức mai phục tại Pắc Pìu – Yên Định chặn đánh hưởng của Mặt trận Việt Minh, cổ vũ đồng bào địa toán đi đầu, diệt tại chỗ 5 tên (trong đó có 1 sỹ quan phương quyết tâm theo cách mạng. Phát huy thắng lợi, Nhật), bắt sống 4 tên, thu 4 súng, 2 ngựa. Cay cú trước cán bộ chiến sỹ vũ trang tuyên truyền đẩy mạnh hoạt thất bại trên, trong các tháng 5 và 6 năm 1945, quân động đến các xã thuộc hai tổng Yên Phú và Yên Định. Nhật sử dụng hàng trăm tên, tổ chức ba đợt tiến công Chỉ sau một thời gian ngắn, phong trào cách mạng lan vào Bắc Mê, lực lượng Việt Minh ở Bắc Mê đã bí mật tới Linh Hồ, Phú Linh (Vị Xuyên). Chính quyền cách chống trả quyết liệt. Trước thế lực địch mạnh gấp nhiều mạng lâm thời ở tổng Yên Phú và nhiều xã được thành lần, được trang bị vũ khí hiện đại, đơn vị vũ trang cùng lập. Chính quyền cách mạng lâm thời đầu tiên ở tổng nhân dân địa phương buộc phải sơ tán lên rừng ẩn náu. Yên Phú được thành lập tháng 4 năm 1945 do ông Tô Tuy không tìm diệt được lực lượng của ta nhưng chúng Văn Tuyên làm chủ tịch; các ông Nông Văn Tuyên, đã móc nối, tổ chức được lực lượng phản cách mạng Giáo Thụ, Hoàng Văn Vương làm uỷ viên; ông Nguyễn trong vùng. Trong khi đó, cán bộ ta thiếu cảnh giác Đình Thừa làm cố vấn. Trong điều kiện chính trị xã hội không đẩy mạnh các hoạt động vũ trang để bảo vệ phong lúc đó, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc của trào, thiếu tích cực xây dựng cơ sở chính trị trong quần Mặt trận Việt Minh, ta đã sử dụng một số các chức dịch chúng. Việc tổ chức chính quyền cách mạng và lực trong bộ máy chế độ cũ ít nhiều còn ảnh hưởng trong lượng vũ trang còn nhiều sơ hở, để cho bọn Việt gian, nhân dân, tham gia chính quyền cách mạng, tích cực phản động chui vào. Công tác tuyên truyền củng cố lòng tranh thủ vận động họ thực tâm làm cách mạng. tin vào thắng lợi của Mặt trận Việt Minh trong quần Đối phó với ảnh hưởng của Mặt trận Việt Minh chúng bị coi nhẹ. đang lan rộng, phát xít Nhật tăng cường các biện pháp Lợi dụng tình hình trên, bọn phản động thân Nhật ở kiểm soát, khủng bố, đồng thời ra sức móc nối với bọn Bắc Mê do tên Nguyễn Đình Phù, Hoàng Văn Sài, phản động địa phương, mưu toan dựng dậy chính quyền Nguyễn Văn Cấp chỉ huy ra sức hoạt động chống phá tay sai phản động ở Bắc Mê. Đầu tháng 4 năm 1945, đơn cách mạng. Chúng đe doạ cán bộ, khống chế quần vị vũ trang tuyên truyền của ta do đồng chí Minh Ngọc chúng, giết hại một cách dã man 02 cán bộ cốt cán Việt chỉ huy đã dũng cảm diệt hai tên mật thám Nhật hoạt Minh là Bảo Toàn, Tài Nam vào ngày 4 tháng 6 năm động ở Nà Sài - Yên Định (nay thuộc Minh Ngọc). Được 1945. Cùng thời gian đó tại xóm Nà Phèn, thôn Bản Sáp, tin trên, quân Nhật ở Hà Giang tiến vào Yên Định tìm Yên Phú. Tại Bảo Lạc (Cao Bằng), bọn phản động ở Bảo diệt Việt Minh, đơn vị vũ trang cùng du kích địa phương Lạc câu kết với bọn phản động ở Bắc Mê đã giết hại 11 25 26
- cán bộ Việt Minh (trong đó có các đồng chí từng hoạt chúng ra nhập Nam Dương hoa kiều hiệp hội23 chống lại động ở Bắc Mê như Hồng Quốc, Mệnh Lệnh, Minh chủ trương “Hoa - Việt thân thiện” của Mặt trân Việt Ngọc)22. Phong trào cách mạng ở Bắc Mê tạm lắng Minh. Ở Bắc Mê, Quốc dân Đảng đã phục hồi lại bộ xuống. Đây là một tổn thất to lớn, bài học xương máu máy tay sai với đủ các chức dịch do Nông Văn Tông làm của sự nghiệp cách mạng ở Bắc Mê. Đó là việc chậm Bang tá, Nguyễn Văn Cấp làm Tổng đoàn Yên Phú, chuẩn bị lực lượng quân sự, chính trị ở cơ sở, nhất là Nguyễn Đình Phù làm Phó Tổng đoàn Yên Phú, Hoàng việc bảo vệ cán bộ, bảo vệ phong trào cách mạng của Văn Sài làm Tổng đoàn Yên Định, Bế Văn Hộ làm Phó quần chúng; thiếu kế hoạch đề phòng những tình huống tổng đoàn Yên Định. Chúng phục hồi các đơn vị lính phức tạp có thể xảy ra; để cho bọn phản cách mạng nổi dõng, được trang bị vũ khí và thường xuyên tổ chức đi lên giết hại cán bộ chỉ huy cốt cán, làm cho cuộc đấu quấy rối ở các vùng có cơ sở cách mạng. Cuối tháng 10 tranh giành chính quyền bị ngưng trệ. năm 1945, chúng tổ chức đi cướp phá ở các xã Côn Lôn Ngày 14 tháng 8 năm 1945, phát xít Nhật đầu hàng huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang. Đầu tháng 11 năm đồng minh, nhân cơ hội Nhật và tay sai hoang mạng lo 1945, chúng đánh vào thôn Phia Bióoc, xã Giáp Trung sợ, Mặt trận Việt Minh lãnh đạo cả nước tổng khởi nghĩa nhưng bị lực lượng cách mạng đánh cho tan tác, diệt tại giành chính quyền. Sau khi Cách mạng tháng Tám thành chỗ 3 tên, làm bị thương nhiều tên khác. công, Tiểu khu Bắc Mê được thành lập gồm 7 xã là Yên Tổ chức phản động Nam dương Hoa kiều hiệp hội ở Phú, Phú Nam, Lạc Nông, Đường Âm, Yên Định, Giáp Bắc Mê bắt đầu hoạt động mạnh từ đầu tháng 9 năm Trung, Minh Ngọc, với khoảng 6.000 dân. Ngày 29 1945 do các tên Nguyễn Đình Phù, Nguyễn Văn Đăng, tháng 8 năm 1945, Nhật rút khỏi Hà Giang, ngay sau đó Khâu Lùng Ngấn chỉ huy. Chúng tuyên truyền rằng ai ngày 30/8/1945 quân Tưởng Giới Thạch đã nhảy vào vào “Nam dương Hoa kiều hiệp hội” thì không phải đi chiếm đóng dưới danh nghĩa quân đồng minh vào giải phu, không đóng thuế, tính mạng và tài sản được bảo hộ. giáp quân Nhật gây cho ta nhiều khó khăn trở ngại. Ngược lại, nếu ai giết một hội viên của Nam dương Hoa Chúng lập ra chính quyền tay sai phản động Việt Nam kiều hiệp hội sẽ phải đền mạng và phải bồi thường 8 vạn Quốc dân Đảng ở thị xã Hà Giang do Hoàng Quốc Chính làm chủ nhiệm. Đồng thời, chúng lôi kéo quần 23 Nam dương Hoa kiều hiệp hội là tổ chức của những người Hoa (Hán) ở 22 đ/c Minh Ngọc đã anh dũng hy sinh tại thôn Nà Sai xã Minh Ngọc. hải ngoại – biển phía nam Trung Hoa. 27 28
- đồng quan kim24. Với luận điệu đó, chúng đã lôi kéo bên cạnh Uỷ ban khu để trực tiếp chỉ đạo và điều hành được một số dân chúng nhẹ dạ cả tin vào tổ chức này. công việc. Ngay sau đó, Uỷ ban hành chính các xã cũng được tổ chức, đi vào hoạt động. Ngày 8 tháng 12 năm 1945, Quốc dân Đảng ở thị xã Hà Giang bị tiêu diệt, thị xã Hà Giang được giải phóng. Như vậy, cuộc đấu tranh gian khổ, giành chính Thắng lợi của phong trào cách mạng ở thị xã và các quyền về tay nhân dân ở Bắc Mê được bắt đầu từ tháng 9 châu, tổng trong tỉnh đã gián tiếp làm tan rã chính quyền năm 1943, kết thúc thắng lợi tháng 12 năm 1945. Sau phản động ở Bắc Mê. Bang tá Nông Văn Tông và cộng hơn hai năm gây dựng, phát triển lực lượng cách mạng sự đầu hàng cách mạng, Bắc Mê hoàn toàn giải phóng. và tiến hành đấu tranh đầy gian khổ, hi sinh, quân dân Bắc Mê đã đập tan nền thống trị của thực dân Pháp, phát Nếu như thắng lợi của cuộc đấu tranh giành chính xít Nhật và Quốc dân Đảng, đồng thời kết thúc cả chế độ quyền ở thị xã Hà Giang và các địa phương trong tỉnh là phong kiến tồn tại hàng nghìn năm. Từ đây dưới chính thắng lợi của sự kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị quyền dân chủ nhân dân, đồng bào các dân tộc Bắc Mê và đấu tranh vũ trang thì thắng lợi của cuộc đấu tranh đã trở thành người chủ quê hương đất nước. Một thời kỳ giành chính quyền ở Tiểu khu Bắc Mê là thắng lợi của mới đã mở ra: Thời kỳ xây dựng và bảo vệ chính quyền đấu tranh bền bỉ kiên trì với địch bằng tuyên truyền vận cách mạng, chuẩn bị kháng chiến chống thực dân Pháp. động cách mạng. Chúng ta đã khôn khéo lôi kéo, sử dụng có hiệu quả những thành phần cốt cán trong xã hội, 2. Nhân dân Bắc Mê xây dựng, củng cố chính những người có uy tín trong từng dân tộc, làng, bản (cho quyền cách mạng, phát triển kinh tế, văn hóa, tham dù họ từng làm việc cho chế độ cũ). Động viên giúp đỡ gia kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954) họ lập công chuộc tội, thực tâm làm cách mạng. Để kiện toàn bộ máy hành chính dân chủ, hợp pháp, Ngày 15 tháng 12 năm 1945, tại Bản Sáp (xã Yên ngày 06 tháng 01 năm 1946 cùng với nhân dân cả nước, Phú), cán bộ Việt Minh và nhân dân các xã đã họp, bầu nhân dân các dân tộc Tiểu khu Bắc Mê tiến hành bầu cử ra Uỷ ban hành chính lâm thời Tiểu khu Bắc Mê do ông đại biểu Quốc hội khóa I của nước Việt Nam dân chủ Nông Văn Tông làm trưởng ban khu, ông Nông Văn cộng hòa25. Đây là lần đầu tiên đồng bào các dân tộc Tường làm phó ban, ông Nguyễn Văn Thọ làm uỷ viên được tự tay cầm phiếu bầu những người đại diện cho thư ký. Uỷ ban hành chính huyện Vị Xuyên cử đại diện quyền lợi của mình nên ai ai cũng bồi hồi, xúc động, 24 25 Quan kim là đơn vị tiền tệ của Quốc dân Đảng (Trung Quốc) sử dụng Theo ông Ngọc Văn Hiến ở thôn Nà Xá xã Yên Định và tấm thẻ cử tri lúc bấy giờ. mà ông còn giữ được thì Bắc Mê tiến hành bầu cử ngày 23/12/1945. 29 30
- càng quyết tâm đi theo cách mạng dù muôn vàn khó dịch cũ nắm giữ, ta đang trong thời gian thuyết phục khăn vẫn còn ở phía trước. cảm hoá. Mặt khác Bắc Mê vẫn là vùng xung yếu của Sau khi thành lập chính quyền, các chủ trương, tỉnh Hà Giang, nơi tiếp giáp các tỉnh Cao Bằng và Tuyên nhiệm vụ lớn của Đảng và Chính phủ được triển khai Quang, Bắc Cạn rất thuận lợi cho bọn phản động ẩn náu thực hiện khá tích cực như: Bãi bỏ những thứ thuế của hoạt động. Tuy nhiên, lực lượng an ninh và dân quân du chế độ cũ, phát động các phong trào tăng gia sản xuất, kích các làng bản được xây dựng từ đầu năm 1946 bình dân học vụ; vận động địa chủ, phú nông giảm bớt tô không ngừng được củng cố, đã tích cực hoạt động tuần tức cho nhân dân. Những việc làm hữu ích trên của chế tra canh gác, khám phá, đấu tranh, bắt các tên cầm đầu, độ mới được các tầng lớp nhân dân hưởng ứng tích cực, làm mất dần tác dụng tổ chức Nam dương Hoa kiều hiệp trở thành cao trào mạnh mẽ của quần chúng, góp phần hội ở địa bàn Bắc Mê. cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới trên tất cả các Để chống giặc đói, nhân dân các dân tộc Bắc Mê lĩnh vực. thực hiện nhường cơm, sẻ áo, tiết kiệm tiêu dùng, giúp Trong bối cảnh khó khăn chung của đất nước26, Tiểu đỡ người nghèo, ra sức tăng ra sản xuất, noi theo gương khu Bắc Mê còn có những khó khăn riêng như: Đội ngũ sáng “nhịn bữa cứu đói” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Các cán bộ chính quyền các cấp chủ yếu vẫn do các chức tổ chức quần chúng cứu quốc như thanh niên, phụ nữ, nông dân đã vận động thuyết phục được nhiều gia đình có tiền của, thóc gạo cho chính quyền vay hoặc cứu trợ 26 Từ sau cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước tháng 8 cho đồng bào bị đói; phát huy hình thức đổi công, giúp năm 1945 thắng lợi, đất nước chuyển sang kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội. Nhưng, vừa ra đời, nước ta đã phải nhau sản xuất. Bằng các biện pháp tích cực, toàn dân đã đương đầu với những khó khăn thách thức hết sức nghiêm trọng. Cùng hăng hái tham gia đẩy lùi nạn đói. một lúc, chính quyền nước Việt Nam dân chủ cộng hoà phải đối phó với cả thù trong lẫn giặc ngoài. Ở miền Bắc, quân đội Tưởng Giới Thạch vào Cùng với việc chống đói, phong trào bình dân học dưới danh nghĩa tước vũ khí quân đội Nhật nhưng có mưu toan lật đổ vụ, được mọi người, mọi lứa tuổi hưởng ứng tích cực. chính quyền dân chủ nhân dân. Ở miền Nam, quân đội Anh vào là chỗ dựa cho thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta. “Giặc ngoài” đã Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Muốn trực tiếp thành lập và nuôi dưỡng các tổ chức như “Việt quốc”, “Việt giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân mạnh, nước cách” cũng như kích động địa chủ, cường hào, bang tá… chống phá cách giàu, mỗi người Việt Nam phải biết bổn phận của mình, mạng. Bên cạch đó, nạn đói hoành hành trong khi nền kinh tế kiệt quệ, tài chính trống rỗng; hơn 90% dân số mù chữ đặt nước ta vào tình thế “ngàn quyền lợi của mình, phải có kiến thức để có thể tham gia cân treo sợi tóc”. xây dựng nước nhà và trước hết phải biết đọc biết viết 31 32
- chữ Quốc ngữ”27 . Cán bộ và nhân dân Tiểu khu Bắc Mê kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Quân dân Bắc Mê đã đều tích cực tham gia vào công cuộc xoá nạn mù chữ. quán triệt đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, Hơn hai trục học sinh trường Hương học trước đây được trường kỳ và tự lực cánh sinh của Đảng và chính phủ, ra huy động làm giáo viên xoá mù chữ; người biết chữ dạy sức chuẩn bị tinh thần và lực lượng bước vào cuộc người không biết chữ. Hầu hết các thôn bản đều có lớp kháng chiến. Nhiệm vụ trước mắt của Tiểu khu Bắc Mê học bình dân, các cụ già 60 - 70 tuổi vẫn chống gậy đến là phát huy thế mạnh của một tiểu khu miền núi nằm lớp học. Những “cổng mù”, “cổng quang” được dựng trong vùng tự do, tích cực củng cố chính quyền, xây lên khắp nơi. Thôn Bản Sáp xã Yên Phú trở thành đơn vị dựng lực lượng, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ hậu phương, đầu tiên của tỉnh hoàn thành xoá mù chữ cho những chi viện cho tiền tuyến tạo điều kiện thuận lợi cho đồng bào miền xuôi tản cư đến. người từ 15 đến 60 tuổi. Từ đầu năm 1947, lực lượng dân quân du kích các Việc thực hiện nếp sống mới, xoá bỏ các tập tục lạc xã được củng cố và phát triển một bước mới, hàng trăm hậu, phổ biến văn hoá, văn nghệ các mạng cũng được thanh niên các dân tộc xung phong vào dân quân du chú trọng. Những khẩu hiệu, áp phích vận động đi học, kích, một số người được tuyển chọn vào bộ đội tỉnh, xây dựng nếp sống mới, phê bình thói hư tật xấu... được huyện. Tuy trang bị vũ khí của dân quân du kích còn thô dán ở khắp các công sở, đầu làng, bến chợ, nơi đông sơ, thiếu thốn (chủ yếu là súng kíp, dao, gậy) nhưng tinh người qua lại. Các đoàn thể quần chúng cứu quốc vận thần của anh em rất hăng hái. Công tác huấn luyện quân động nhân dân đóng góp tiền của, công sức xây dựng sự, tuần tra canh gác được triển khai tích cực, khẩn trường lớp quy mô nhỏ, thích hợp với từng vùng để kịp trương, rộng khắp. đón con em đồng bào các dân tộc vào học trong năm đầu tiên dưới chế độ mới. Đáp ứng yêu cầu đào tạo đội ngũ cán bộ đảng viên cốt cán cho địa phương, từ đầu năm 1947, Tiểu khu Bắc Trước những hành động gây hấn ngày một trắng Mê đã lựa chọn một số cán bộ tích cực trong các phong trợn của thực dân Pháp, ngày 17/12/1946, thường vụ trào cách mạng của quần chúng gửi đi các lớp đào tạo, Trung ương Đảng quyết định phát động cả nước kháng đồng thời tăng cường bồi dưỡng quần chúng tích cực chiến và đề ra những vấn đề cơ bản của đường lối kháng ngay tại cơ sở, làm nguồn kế cận sau này. Do làm tốt chiến. Đêm 19 tháng 12 năm 1946, cả nước bước vào công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, từ cuối năm cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lần thứ 2 theo lời 1947, đầu năm 1948, những quần chúng tích cực đầu 27 tiên ở Bắc Mê đã được kết nạp vào Đảng cộng sản. Ngày Hồ Chí Minh, Tuyển tập – NXB Sự thật – tập 1, tr. 37. 33 34
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ huyện Yên Minh (1944-2020): Phần 2
271 p | 8 | 4
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ huyện Mèo Vạc (1962-2015): Phần 2
191 p | 13 | 3
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ huyện Sơn Hà (1945-1990): Phần 1
118 p | 3 | 3
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ huyện Mèo Vạc (1962-2015): Phần 1
74 p | 11 | 3
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ huyện Yên Minh (1944-2020): Phần 1
203 p | 8 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ huyện Núi Thành (1975-2020): Phần 1
162 p | 12 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì (1947-2017): Phần 1
57 p | 13 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì (1947-2017): Phần 2
79 p | 9 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ huyện Phú Lương (1946-2015): Phần 1
280 p | 9 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ huyện Đồng Văn (1944-2020): Phần 2
365 p | 10 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ huyện Đồng Văn (1944-2020): Phần 1
124 p | 10 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ huyện Thăng Bình (1930-1975): Phần 1
122 p | 14 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ huyện Quế Sơn (1975-2000): Phần 1
139 p | 12 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ huyện Phước Sơn (1975-2005): Phần 1 (Tập 2)
231 p | 11 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ huyện Đông Giang (1945-2005): Phần 2
240 p | 11 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ huyện Tuy Phong (1975-2000): Phần 2 (Tập 3)
123 p | 9 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ huyện Núi Thành (1975-2020): Phần 2
286 p | 11 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ huyện Thạnh Trị (1975-2000): Phần 1 (Tập 2)
109 p | 6 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn