intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình Miễn dịch học thú y - TS. Đinh Thị Bích Lân

Chia sẻ: Nguyen Lan | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:162

781
lượt xem
251
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Giáo trình Miễn dịch học thú y có kết cấu gồm 11 chương, trình bày: Khái niệm về đáp ứng miễn dịch, các cơ quan miễn dịch, các tế bào tham gia vào đáp ứng miễn dịch, kháng nguyên, các globulin miễn dịch, phức hợp hòa hợp mô chủ yếu, phản ứng kết hợp kháng nguyên - kháng thể, bổ thể và các cytokine, tương tác và điều hòa đáp ứng miễn dịch, miễn dịch trong bệnh lý, điều trị miễn dịch.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình Miễn dịch học thú y - TS. Đinh Thị Bích Lân

  1. TS. ĐINH THỊ BÍCH LÂN GIÁO TRÌNH MIỄN DỊCH HỌC THÚ Y
  2. 1 Chương 1 KHÁI NIỆM VỀ ĐÁP ỨNG MIỄN DỊCH I. Đại cương Sinh vật sống trong môi trường và buộc phải trao đổi tích cực với môi trường đó để tồn tại, phát triển và sinh sản. Sự trao đổi này là cần thiết song chính nó cũng thường xuyên mang lại cho sinh vật các nguy cơ đe dọa đến sự sống còn. Để thoát được các nguy cơ này, trong quá trình tiến hóa của sinh vật đã hình thành và hoàn thiện dần một hệ thống để bảo vệ cho mình, đó chính là hệ thống miễn dịch. Miễn dịch là khả năng của cơ thể nhận ra và loại bỏ các vật lạ. Đáp ứng miễn dịch bao gồm miễn dịch đặc hiệu và miễn dịch không đặc hiệu. Sự phân chia này hoàn toàn không có nghĩa là 2 loại đáp ứng miễn dịch này tách biệt với nhau, mặc dù chúng có nhiều điểm khác nhau. Để thực hiện chức năng bảo vệ cơ thể, hai loại đáp ứng miễn dịch bổ túc cho nhau, lồng ghép vào nhau, khuyếch đại và điều hòa hiệu quả của chúng. Trong lịch sử tiến hóa của hệ miễn dịch, các đáp ứng miễn dich không đặc hiệu được hình thành rất sớm và phát triển, đến lớp động vật có xương sống thì các đáp ứng miễn dịch đặc hiệu tự nhiên và thu được mới được hình thành. II. Miễn dịch không đặc hiệu (nonspecific immunity) còn có các tên gọi khác như miễn dịch tự nhiên (natural immunity) hay miễn dịch bẩm sinh (innate immunity). 1. Khái niệm Miễn dịch không đặc hiệu hay miễn dịch tự nhiên là khả năng tự bảo vệ sẵn có và mang tính di truyền. Đó là khả năng tự bảo vệ của một cá thể có ngay từ lúc mới sinh, không đòi hỏi phải có sự tiếp xúc trước của cơ thể với các vật lạ (kháng nguyên), tức là không cần phải có giai đoạn mẫn cảm. Miễn dịch tự nhiên phát huy tác dụng khi kháng nguyên xâm nhập từ lần đầu và cả các lần sau nhưng nó có vai trò đặc biệt quan trọng ở lần đầu tiên, vì lúc này đáp ứng miễn dịch thu được chưa phát huy tác dụng. Trong nhiều trường hợp miễn dịch tự nhiên là giai đoạn mở đầu cho miễn dịch thu được. 2. Các hàng rào của đáp ứng miễn dịch không đặc hiệu 2.1. Hàng rào vật lý (Cơ chế cơ học) Da và niêm mạc có tác dụng ngăn cách nội môi của cơ thể với ngoại môi xung quanh.
  3. 2 Da lành lặn, không bị xây xát sẽ cản trở sự xâm nhập của kháng nguyên. Da gồm rất nhiều lớp tế bào, trong đó có lớp tế bào ngoài cùng đã sừng hóa, luôn được bong ra và đổi mới có tác dụng cản trở sự xâm nhập của kháng nguyên. Niêm mạc tuy chỉ có một lớp tế bào nhưng cũng có tác dụng cản trở tốt, vì ngoài tính đàn hồi như da nó còn bao phủ bởi lớp chất nhầy do những tuyến dưới niêm mạc tiết ra. Lớp chất nhầy này tạo nên một màng bảo vệ làm cho vi khuẩn và các vật lạ không thể bám thẳng được vào tế bào, mà sự bám này là điều kiện tiên quyết để chúng có thể xâm nhập vào sâu hơn. Một số niêm mạc (mắt, miệng, đường tiết niệu) thường xuyên được rửa sạch bằng các dịch tiết (nước mắt, nước bọt, nước tiểu). Một số niêm mạc khác, đặc biệt là niêm mạc ở đường hô hấp lại có các vi nhung mao luôn rung động, có tác dụng cản bụi mang theo vi khuẩn và các vật lạ, không cho chúng di chuyển vào phế nang và đẩy dần chúng ra khỏi phế quản cùng phản xạ ho và hắt hơi. Sự lưu thông và nhu động của đường tiêu hóa, đường tiết niệu và đường mật vv.. đều có tác dụng hạn chế sự nhiễm khuẩn. Tổn thương bề mặt da, tắc khí-phế quản, tắc đường tiểu, đường mật, tắc ruột đều dẫn đến tình trạng nhiễm khuẩn. Cần chú ý là niêm mạc với diện tích gấp 200 lần diện tích da, lại là chỗ hay có tiếp xúc với nhiều vật lạ nhất (ăn, uống, thở) nên đã hình thành một tổ chức chống đỡ rất hiệu quả, hiện nay đang được quan tâm nghiên cứu. 2.2. Hàng rào hóa học Trong các dịch tiết tự nhiên có chứa các hóa chất có tác dụng diệt khuẩn không đặc hiệu. Trên da, nhờ có các chất tiết tạo độ toan như acid lactic, acid béo của mồ hôi và tuyến mỡ dưới da làm các vi khuẩn không tồn tại lâu được. Tuy nhiên có 1 số trường hợp ngoại lệ cần chú ý: Như tụ cầu khuẩn lại có thể chống lại được tác dụng của các acid béo. Tularemia, brucella hay schistosoma có thể dễ dàng vượt qua được da để xâm nhập vào bên trong cơ thể mà gây bệnh. Tại niêm mạc, chất nhầy che chở bề mặt tế bào khỏi bị enzyme của virus tác động. Dịch tiết của các tuyến như: nước mắt, nước bọt, nước mũi, sữa.. có chứa nhiều lysozym, một loại enzym muramidase có tác dụng phá hoại vỏ của một số vi khuẩn. Chất BPI (Bacterial Permeability Increasing Protein- Protein làm tăng tính thấm của vi khuẩn) có thể liên kết với vách LPS của vi khuẩn rồi chọc thủng màng của chúng, phong bế các enzyme vi khuẩn làm chúng mất khả năng hoạt động. Ngoài ra, cũng có những chất của huyết thanh chuyển từ lòng mao mạch và gian bào ra niêm mạc như bổ thể, interferon cũng tham gia vào sự chống đỡ hóa học.
  4. 3 Trong các dịch sinh học (huyết thanh, dịch bạch huyết, dịch gian bào) có các chất tiết của nhiều loại tế bào khác nhau, những sản phẩm chuyển hóa của nhiều cơ quan. Huyết thanh có chứa lysozym (hàm lượng thấp), protein phản ứng C, các thành phần của bổ thể, interferon.. * Lysozym: Là một enzyme có khả năng cắt cầu nối giữa phân tử N-acetyl glucosamin và N-acetyl muramin có trong cấu tạo của màng vi khuẩn. Chính nhờ hoạt tính trên mà lysozym có thể làm ly giải được một số vi khuẩn gram dương. Các vi khuẩn gram âm nhờ có vỏ bọc ngoài là peptidoglycan nên không bị ly giải trực tiếp. Tuy nhiên khi vỏ ngoài bị thủng do tác dụng của bổ thể thì lysozym sẽ hiệp lực tấn công màng vi khuẩn. * Protein phản ứng C (CRP): CRP là một protein thuộc nhóm protein của pha cấp, bình thường có mặt trong huyết thanh ở mức độ thấp, có trọng lượng 105 đến 140 KDa và do tế bào gan sản xuất ra. Khi có tình trạng viêm CRP được nhanh chóng sản xuất (sau 6h) làm cho nồng độ trong huyết thanh tăng cao. CRP có thể liên kết với các gốc phosphoryl choline, phosphatidyl choline, các polyamin mucopolysaccharide có trên bề mặt nhiều loại vi khuẩn (Ví dụ: phế cầu trùng) qua đó hoạt hóa bổ thể theo con đường cổ điển làm cho vi khuẩn bị ly giải và/ hay bị thực bào dễ dàng hơn (cơ chế opsonin hóa). * Interferon (IFN) là một nhóm các polypeptide được sản xuất ra ở tế bào khi bị nhiễm virus (IFN- alpha và IFN-beta) hay từ lympho bào T khi tiếp nhận kháng nguyên đặc hiệu (IFN-gamma). Các IFN có nhiều hoạt tính sinh học như làm cản trở sự xâm nhập và nhân lên của virus, kìm hãm sự tăng sinh của một số tế bào u, có khả năng hoạt hóa các đơn nhân thực bào, các tế bào NK (natural killer) và làm tăng biểu lộ kháng nguyên hòa hợp mô vv..(Các hoạt tính này không có tính đặc hiệu về kháng nguyên hay tác nhân gây bệnh.) * Bổ thể: Hệ thống bổ thể bao gồm gần 30 thành phần có mặt bình thường trong huyết tương ở dạng tiền hoạt động. Khi được hoạt hóa, chúng trở nên hoạt động theo các chuỗi dây chuyền của các enzyme làm nhanh chóng khuyếch đại phản ứng và tạo ra rất nhiều hoạt tính sinh học đặc biệt quan trọng của tình trạng viêm. Đồng thời chúng cũng có một cơ chế điều hòa để giới hạn hoạt động ở mức cần thiết. Điểm lý thú là hệ thống bổ thể cùng với hệ thống đông máu tiêu sợi huyết và hệ thống kinin có liên quan với nhau trong quá trình hoạt hóa và cùng thuộc nhóm được kích hoạt theo kiểu dòng thác. Các chức năng sinh học quan trọng của hệ thống bổ thể khi được hoạt hóa là: - Tăng tuần hoàn tại chỗ và tăng tính thấm thành mạch.
  5. 4 - Kết dính miễn dịch - Opsonin hoá (C3b) - Chiêu mộ bạch cầu - Làm thủng màng tế bào, màng vi khuẩn dẫn đến ly giải. 2.3. Hàng rào tế bào Các tế bào thuộc miễn dịch không đặc hiệu bao gồm: -Bạch cầu đa nhân (múi )hay bạch cầu hạt -Các tế bào mast -Các đơn nhân thực bào -Tế bào NK. III. Miễn dịch đặc hiệu (MDĐH-specific immunity) hay miễn dịch thu được (acquired immunity). MDĐH được đặc trưng bởi 3 đặc tính quan trọng: Tính phân biệt cấu trúc bản thân và cấu trúc ngoại lai, tính đặc hiệu, trí nhớ miễn dịch. Tính phân biệt cấu trúc bản thân và cấu trúc ngoại lai: Bình thường, hệ thống miễn dịch của mỗi cá thể không tạo ra các đáp ứng miễn dịch gây tổn thương cho các cấu trúc kháng nguyên của bản thân trong lúc đó chúng lại loại thải các cấu trúc tương tự từ các cá thể khác (không chung thuộc tính di truyền). Tính đặc hiệu: Đáp ứng miễn dịch được gọi là đặc hiệu vì nó chỉ xảy ra với cùng chính kháng nguyên hay quyết định kháng nguyên đã tạo ra nó mà thôi. Trí nhớ miễn dịch: Sau khi cơ thể đã tiếp xúc với một kháng nguyên nhất định thì khi tiếp xúc lại với kháng nguyên ấy có một số tế bào lympho B và T đã được mẫn cảm sẽ trở thành tế bào trí nhớ, nếu tiếp xúc lại với kháng nguyên đã gây mẫn cảm các lần sau, sẽ tạo ra đáp ứng miễn dịch lần 2 hay thứ phát. Trong đáp ứng thứ phát và các lần sau đó, các tế bào trí nhớ sẽ phát triển rất nhanh và mạnh, tạo thành một dòng tế bào chuyên sản xuất ra kháng thể đặc hiệu. Vì thế mà đáp ứng thứ phát có thời gian tiềm tàng ngắn hơn, cường độ đáp ứng mạnh hơn và thời gian duy trì đáp ứng dài hơn. 1. Yếu tố tham gia vào đáp ứng miễn dịch đặc hiệu 1.1. Yếu tố dịch thể trong miễn dịch đặc hiệu Yếu tố dịch thể trong miễn dịch đặc hiệu chính là kháng thể. 1.2. Thành phần tế bào trong miễn dịch đặc hiệu : Tế bào thuộc về miễn dịch đặc hiệu là các lympho bào.
  6. 5 2. Ba giai đoạn của đáp ứng miễn dịch đặc hiệu Đáp ứng MDĐH gồm 3 giai đoạn chính: nhận diện, cảm ứng và hiệu ứng. 2.1. Giai đoạn nhận diện kháng nguyên Giai đoạn đầu của đáp ứng miễn dịch là làm biến đổi một kháng nguyên (KN) có cấu trúc phức tạp thành ra những peptid nhỏ để các tế bào có thẩm quyền miễn dịch có thể nhận biết được. Chỉ có 1 số KN là chất đa đường hay protein có cấu trúc lặp đi lặp lại nhiều lần (KN không phụ thuộc tuyến ức) có khả năng được nhận diện trực tiếp bởi tế bào lympho B, còn lại các KN khác đều được xử lý và trình diện bởi các tế bào trình diện kháng nguyên (Antigen Presenting Cell- APC) và được nhận biết bởi tế bào lympho T nhờ những cơ quan cảm thụ có sẵn trên mặt các tế bào ấy trong khuôn cảnh của các phân tử phức hợp hoà hợp mô chính (Major histocompatibility complex- MHC). 2.2. Giai đoạn cảm ứng gồm hoạt hóa, tương tác và ghi nhớ Kháng nguyên sau khi bị xử lý thành các mảnh peptit nhỏ (epitop) thì được APC trình diện cho tế bào lympho T tại các hạch. Nếu phản ứng đầu của đáp ứng miễn dịch (hoạt hóa) có tính chất đặc hiệu với kháng nguyên thì khi tế bào được hoạt hóa tiết ra cytokine để tác động lên các tế bào khác tính chất đáp ứng không còn đặc hiệu mà mang tính chất điều hòa phát triển (tương tác). Dưới tác dụng của cytokine nhiều tế bào khác được hoạt hóa và đáp ứng được khuyếch đại, nhưng do mỗi cytokine có thể có tác dụng trên nhiều tế bào nên tạo nên mạng lưới có tính chất điều hòa nữa. Những tế bào nhận thông tin, tham gia vào đáp ứng miễn dịch lần đầu hay tiên phát trở thành mẫn cảm, tức là chúng đã được tiếp xúc với kháng nguyên và tham gia vào quá trình đáp ứng miễn dịch, sản xuất những chất có khả năng kết hợp đặc hiệu với kháng nguyên ấy. Những chất đó được gọi là kháng thể . Kháng thể có thể là kháng thể dịch thể, được đổ vào dịch nội môi, có thể là kháng thể tế bào, nằm ngay trên màng tế bào sinh ra nó. Kháng thể dịch thể do tế bào lympho B sản xuất, còn kháng thể tế bào do quần thể tế bào lympho T sản xuất. Đáp ứng miễn dịch lần đầu có thời gian tiệm phát dài, cường độ đáp ứng kém và thời gian duy trì đáp ứng ngắn. Có một số tế bào lympho B và T đã được mẫn cảm sẽ trở thành tế bào trí nhớ, nếu tiếp xúc lại với kháng nguyên đã gây mẫn cảm các lần sau, sẽ tạo ra đáp ững miễn dịch lần 2 hay thứ phát. Trong đáp ứng thứ phát và các lần sau đó, các tế bào trí nhớ sẽ phát triển rất nhanh và mạnh, tạo thành một dòng tế bào chuyên sản xuất ra
  7. 6 kháng thể đặc hiệu. Vì thế mà đáp ứng thứ phát có thời gian tiềm tàng ngắn hơn, cường độ đáp ứng mạnh hơn và thời gian duy trì đáp ứng dài hơn. 2.3. Giai đoạn hiệu ứng Là giai đoạn các tế bào lympho đã được mẫn cảm sản xuất ra kháng thể và kháng thể này kết hợp với kháng nguyên dẫn đến loại thải và tiêu diệt kháng nguyên ấy. 3. Phân loại miễn dịch đặc hiệu 3.1. Miễn dịch chủ động (active immunity) Là trạng thái miễn dịch của một cơ thể do bộ máy miễn dịch của bản thân cơ thể đó sinh ra khi được kháng nguyên kích thích. Miễn dịch chủ động có thể chia làm 2 loại: * Miễn dịch chủ động tự nhiên: Khi cơ thể tiếp xúc với kháng nguyên một cách vô tình, ví dụ như trong quá trình sống, tình cờ cơ thể tiếp xúc với một loại vi khuẩn nào đó và đã được mẫn cảm mà có được tình trạng miễn dịch. * Miễn dịch chủ động thu được: Khi kháng nguyên được người ta đưa vào cơ thể để chủ động tạo ra tình trạng miễn dịch chống lại một yếu tố gây bệnh nào đó, ví dụ như tiêm vaccine. 3.2. Miễn dịch thụ động (passive immunity) Là trạng thái miễn dịch của một cơ thể nhờ các kháng thể chuyển từ ngoài vào, không phải do cơ thể tự sản xuất ra được. Miễn dịch thụ động cũng gồm 2 loại: * Miễn dịch thụ động tự nhiên- Khi kháng nguyên được truyền một cách tự nhiên từ cơ thể này sang cho cơ thể khác, ví dụ như mẹ truyền kháng thể cho con qua nhau thai, qua sữa. * Miễn dịch thụ động thu được: Khi kháng thể được chủ ý đưa vào cơ thể, ví dụ như khi dùng liệu pháp huyết thanh, tức là khi tiêm kháng huyết thanh hoặc kháng thể chiết xuất từ kháng huyết thanh vào cơ thể để tạo ra miễn dịch thụ động nhằm mục đích phòng bệnh hoặc chữa một số bệnh do nhiễm vi sinh vật. Cần phân biệt loại miễn dịch này với miễn dịch mượn (adoptive immunity) là trạng thái miễn dịch của một cơ thể nhờ các lympho bào đã được mẫn cảm chuyển từ ngoài vào, không phải do các lympho bào của bản thân cơ thể thực hiện.
  8. 8 Chương 2 CÁC CƠ QUAN MIỄN DỊCH I. Đại cương Đáp ứng miễn dịch là một quá trình bảo vệ vô cùng quan trọng và hết sức phức tạp của cơ thể sinh vật, là kết quả của sự hoạt động và hợp tác của nhiều cơ quan, tổ chức và tế bào khác nhau tạo nên một hệ thống ngày càng được bổ sung phong phú. Hệ thống miễn dịch rất phát triển ở loài có vú và loài chim, ở người thì chiếm 1/60 trọng lượng của cơ thể. Hệ thống miễn dịch bao gồm các cơ quan tiên phát (cơ quan lympho trung ương, cơ quan gây biệt hóa), cơ quan thứ phát (cơ quan lympho ngoại vi, cơ quan tác động). II. Các cơ quan lympho trung ương Là nơi sản sinh ra các tế bào gốc (stem cell), nơi huấn luyện, biệt hóa các tế bào gốc thành các tế bào chín. Sự trưởng thành, biệt hóa của các tế bào gốc ở các cơ quan lympho trung ương không cần sự có mặt của kháng nguyên. 1. Tủy xương (Bone marrow) Tủy xương có một hê thống phức tạp các huyết quản, bên cạnh nhiệm vụ là cơ quan tạo máu, tủy xương còn có vai trò quan trọng trong việc sản sinh các tế bào gốc đa năng, tiền thân của các tế bào có thẩm quyền miễn dịch. 2. Tuyến ức Tuyến ức không tham gia trực tiếp quá trình đáp ứng miễn dịch, nhưng tạo ra vi môi trường tối cần thiết cho sự phân chia biệt hóa của dòng lympho bào T. Tuyến ức nằm ngay sau xương ức, gồm 2 thùy lớn. Mỗi thùy lại chia thành nhiều tiểu thùy. Mỗi tiểu thùy được chia làm 2 vùng: vùng vỏ và vùng tủy. Vùng vỏ: Chiếm phần lớn khối lượng tuyến, gồm chủ yếu là các tế bào dạng lympho gọi là thymo bào, ngoài ra còn có các tế bào biểu mô nằm xen kẽ và một ít đại thực bào nằm ở ranh giới giữa vỏ và tủy tuyến. Các tế bào lympho nhỏ và nhỡ tập trung dày đặc ở vùng vỏ, chúng có tỷ lệ
  9. 9 gián phân cao gấp 5-10 lần so với các mô lympho khác. Tại vùng vỏ các tiền thymo bào chuyển thành thymo bào chưa chín và đi vào vùng tủy. Vùng tủy: Là nơi trưởng thành của các thymo bào chưa chín thành các lympho bào T chín và rời tuyến đi vào máu. Các tế bào biểu mô ở vùng tủy hình thành những cấu trúc đặc biệt gọi là tiểu thể Hassal. Trong các tiểu thể Hassal tế bào biểu mô có thể bị sừng hóa, can xi hóa hay hoại tử. Ngoài các tế bào biểu mô, tiểu thể Hassal, còn có 1 ít đại thực bào và mảnh vụn của tế bào. Tuyến ức đảm nhận được chức năng huấn luyện, phân chia, biệt hóa các lympho bào dòng T là nhờ các tế bào biểu mô của tuyến đã sản xuất ra một số yếu tố hòa tan (Các yếu tố hòa tan đó đã được chiết tách, tinh khiết và đánh giá tác dụng invitro và invivo như: thymulin, thymosin α1, thymosin β4, thymopoetin...,), có tác dụng hóa hướng động các tế bào tiền thân dòng lympho T đến, rôì giúp chúng phân chia, biệt hóa ngay tại tuyến. Tại phần vỏ tiền tế bào T được biệt hóa và phân chia nhiều lần thành tế bào T chín. Trước khi vào máu và đến các mô lymphô ngoại vi, các tiền thân của dòng lympho bào T được đổi mới các dấu ấn bề mặt, dần dần có những dấu ấn của tế bào lympho trưởng thành như các phân tử CD2, CD4, CD8, thụ thể T với kháng nguyên. Sau đó có một sự chọn lọc kép dương tính và âm tính cho phép sự phân triển những tế bào lymphô có 2 đặc tính: Không nhận biết những kháng nguyên của mình nhưng vẫn nhận ra các phân tử MHC lớp I và lớp II của bản thân. - Chọn lọc dương tính - Chọn lọc âm tính Đa số các tế bào T (95%) có đời sống ngắn (3-5 ngày) rồi chết tại chỗ. Chỉ có 5% là trở thành tế bào T chín, chúng rời tuyến ức vào mạch máu để đến các cơ quan lympho ngoại vi để tiếp nhận kháng nguyên và tham gia vào đáp ứng miễn dịch 3. Túi huyệt (Bursa Fabricius) Riêng loài chim có một cơ quan đặc biệt là túi huyệt, một cơ quan lympho-biểu mô, có nguồn gốc nội bì nằm ở mặt trong của lỗ huyệt, phía , trên trực tràng, sát hậu môn, có cuống là ống rỗng thông ra trực tràng, túi có cấu tạo hình múi khế, kích thước to bằng hạt đỗ hoặc hạt lạc, bên ngoài túi có màng bao bọc, bên trong có niêm mạc bao bọc hoạt động mạnh nhất vào lúc 3 tháng tuổi, teo hoàn toàn sau 1 năm tuổi. Túi huyệt chứa các nang lympho và cũng được chia thành vùng vỏ và vùng tủy. Vùng vỏ chứa
  10. 10 các tế bào lympho, tế bào plasma và các đại thực bào. Ranh giới giữa vùng vỏ và vùng tủy có màng cơ bản và hệ thống mao mạch, phía trong chúng là lớp tế bào biểu mô. Đi dần vào trung tâm vùng tủy, những tế bào biểu mô này dần dần được thay thế bởi lymphoblast và tế bào lympho. Gà bị phá bỏ túi huyệt thì lượng globulin miễn dịch trong máu giảm, không có tương bào, tổn thương các trung tâm mầm của dòng lympho bào B ở các mô lympho ngoại vi, có nghĩa là giảm miễn dịch dịch thể. Có thể nói rằng túi huyệt là cơ quan tiên phát, là nơi các tế bào sản xuất kháng thể (Tế bào lympho B) trưởng thành và biệt hóa. Tuy nhiên, những nghiên cứu gần đây lại có những giả thiết khác. Chẳng hạn, nếu truyền tế bào lách của gà đã bị cắt bỏ túi huyệt sang gà bình thường sẽ làm cho gà nhận các tế bào đó bị mất khả năng sản xuất kháng thể. Điều này chứng tỏ rằng trong cơ thể gà bị cắt bỏ túi huyệt đã phát triển một dòng tế bào ức chế quá trình tổng hợp kháng thể. Xem xét kỹ thì thấy rằng túi huyệt không chỉ là cơ quan lympho tiên phát vì nó cũng có khả năng bắt giữ kháng nguyên và ít nhiều tham gia vào sản xuất kháng thể. Mặt khác nó cũng có một trung tâm chứa các tế bào lymphô T. Có thể tách chiết được 1 vài loại hocmon từ túi huyệt. Quan trọng nhất là hocmon bursin, có khả năng hoạt hóa tế bào lympho B. Ở động vật có vú không có túi huyệt nhưng lại có các cơ quan tương đương, đó là tủy xương và các cơ quan lympho hệ tiêu hóa. Người ta tìm thấy tiền lympho B ở tủy xương và gan. Các tế bào B chín được chuyển từ túi huyệt đến cơ quan lympho ngoại vi , ở đó chúng tiếp xúc với kháng nguyên, biệt hóa để trở thành tế bào plasma sản xuất kháng thể. 4. Mảng payer Loài nhai lại có mảng payer có chức năng như là cơ quan tiên phát, có lẽ là tương đương với túi huyệt ở loài chim. III. Các cơ quan lympho ngoại vi (Cơ quan lympho thứ phát) Cơ quan lympho thứ phát chịu kích thích của kháng nguyên và ít phát triển ở cơ thể không mang trùng. Cắt bỏ cơ quan thứ phát làm giảm khả năng miễn dịch nhưng không đáng kể. Cơ quan thứ phát bao gồm hạch lympho, lách, tuỷ xương, mô lympho không có vỏ bọc. Các cơ quan này giàu đại thực bào và các tế bào tua (dendritic) có khả năng bắt giữ và xử lý kháng nguyên và các tế bào lympho T và B có khả năng tạo ra đáp ứng miễn dịch.
  11. 11 1. Hạch lymphô Hạch lympho còn gọi là hạch bạch huyết, có hình hạt đậu hoặc hình tròn, được bọc trong một vỏ liên kết. Các hạch lympho nằm rải rác trên đường đi của mạch bạch huyết, và thường tập trung tại những chỗ giao nhau của mạch bạch huyết như ở cổ, nách, bẹn. Hạch lympho có đường kính từ 1-25 mm, chúng to lên rõ rệt khi bị nhiễm khuẩn, bị kháng nguyên kích thích, bị u ác tính. Các mạch bạch huyết đi vào hạch qua những điểm nằm trên đường cong lớn của hạch và đi ra từ rốn hạch. Còn các mạch máu thì đi vào rốn hạch đồng thời cũng đi ra từ rốn hạch. Hạch bao gồm 3 vùng: vùng vỏ, vùng tủy và vùng cận vỏ. Tế bào B tập trung ở vùng vỏ tạo thành các nang lympho. Khi chưa có kháng nguyên xâm nhập các nang này được gọi là nang nguyên phát. Vùng vỏ còn được gọi là vùng không phụ thuộc tuyến ức. Sau khi có sự xâm nhập của kháng nguyên thì các nang lympho nguyên phát sẽ phát triển rộng ra, xuất hiện các trung tâm mầm và trở thành nang lympho thứ phát. Trung tâm mầm chứa các lympho bào non có kích thước lớn. Chỉ có rất ít các tế bào T nằm trong vùng vỏ, rải rác xung quanh các trung tâm mầm. Hình 1: Cấu trúc của hạch lympho (Theo Ian R. Tizard. 2004) Vùng cận vỏ gồm một thảm lympho T và đại thực bào tạo thành khu vực phụ thuộc tuyến ức của hạch.
  12. 12 Vùng tủy chứa các tế bào lympho T và B (tương bào), đại thực bào nằm xen kẽ với các mạch bạch huyết tạo nên các hang bạch huyết, từ đây các tế bào rời hạch đi ra ngoài.. Hạch lymphô được coi như là một cái lọc đối với phân tử lạ ngoại lai và các mảnh vụn tổ chức, đồng thời đóng vai trò là một trung tâm của sự tuần hoàn của các lym phô bào, nơi tế bào tiếp xúc với kháng nguyên. Khi kháng nguyên xâm nhập, đại thực bào bắt và xử lý, truyền thông tin cho các lymphô bào ở vùng cận vỏ và ở các nang lympho. Nếu kháng nguyên gây đáp ứng miễn dịch tế bào thì bị thu gom tại vùng cận vỏ và sau 24 h (sau khi bị bắt giữ) bắt đầu có sự chuyển dạng tế bào T thành nguyên bào T. Nếu là kháng nguyên gây đáp ứng miễn dịch dịch thể phụ thuộc tuyến ức (protein) thì gây ra ở vùng tuỷ của hạch một tương tác giữa tế bào lympho T và B dẫn đến sự xuất hiện những tương bào. Nếu là kháng nguyên gây đáp ứng miễn dịch dịch thể không phụ thuộc tuyến ức (polysaccharide) sẽ kéo theo những thay đổi tại các nang lympho nguyên phát ở vùng vỏ hạch trở thành nang thứ phát. Dịch bạch huyết rời hạch đem theo các kết quả của đáp ứng miễn dịch vào trong tuần hoàn chung, lan ra toàn cơ thể thông qua những tế bào lymphô T độc hay tế bào quá mẫn chậm, kháng thể hay những tế bào nhớ. Như vậy, về mặt sinh lý học, hạch có các chức năng: * Cô đặc các kháng nguyên * Sản xuất kháng thể và các tế bào mẫn cảm tương ứng với đáp ứng miễn dịch và chuyển chúng sang tuần hoàn máu Tuần hoàn của tế bào lymphô Bạch huyết từ tổ chức đi vào hạch bằng mạch bạch huyết đến, và đi ra khỏi hạch bằng mạch đi qua rốn hạch. Các mạch nhỏ này hợp thành mạch lớn hơn, sau đó các mạch thu gom bạch huyết từ ruột và phần dưới của cơ thể cùng đổ vào ống ngực, sau đó vào tĩnh mạch chủ trên. Ở bê, bạch huyết từ ống ngực đổ vào tĩnh mạch chủ trên với tốc độ 500ml/h và với số lượng 108 tế bào/ml. Các tế bào T rời khỏi máu bằng 2 cách: * Các tế bào T chưa tiếp xúc với kháng nguyên gắn vào tế bào nội mạc mạch quản của vùng cận tủy, sau đó lách qua những tế bào này để đi vào hạch. Những mạch quản này có lớp tế bào nội mô khá cao nên có tên gọi là high endothelial venules (HEVs), số lượng và độ dài của các mạch
  13. 13 quản này thay đổi phụ thuộc vào hoạt động miễn dịch. Khi hạch bị kích thích bởi kháng nguyên thì chiều dài của mạch quản này tăng lên rõ rệt. * Các tế bào T trí nhớ thì di chuyển theo mạch máu bình thưòng vào mô bào, sau đó vào hạch theo dịch mô bào bằng mạch bạch huyết đến. 90% tế bào lympho trong mạch đi ra từ hạch là tế bào đi theo cách 1, chỉ có 10% đi theo cách 2. Có 1 phần nhỏ tế bào T trong máu tuần hoàn qua mô lympho của phổi và ruột. Những tế bào này có vai trò quan trọng trong đáp ứng miễn dịch tại bề mặt của cơ thể. Cần lưu ý rằng lượng tế bào lympho trong máu chỉ chiếm 2% tổng số tế bào lympho có trong cơ thể. Một thay đổi nhỏ trong tuần hoàn lympho qua các cơ quan lympho cũng có thể làm thay đổi rất lớn về số lượng tế bào lympho trong máu. Điều khiển tuần hoàn lympho là một đặc điểm của hệ thống miễn dịch. Để đi vào mô lympho các tế bào lympho cần phải bám vào tế bào nội mô nhờ tác dụng của một loại protein bám dính (addressins) có mặt trong các HEVs. Addressins được tìm thấy trong hạch, lách, mảng Peyer, mô lymphô của phổi. Trên bề mặt các lympho bào có 1 loại protein có tên là homing receptor, protein này sẽ gắn vào addressins, nhờ vậy các tế bào lympho bám được vào tế bào nội mạc mạch quản. Hạch lymphô của lợn, voi, cá heo có nhiều tiểu thùy và các tiểu thùy này sắp xếp sao cho miền vỏ quay vào trung tâm hạch và miền tủy quay ra ngoài (ngược với hạch của các gia súc khác) 2. Lách Lách giữ vai trò quan trọng trong việc thanh lọc và dự trữ máu, đồng thời là nơi tập trung kháng nguyên nhất là những kháng nguyên vào cơ thể bằng đường máu, là cơ quan chính sản xuất kháng thể. Sau khi xâm nhập và bị đại thực bào xử lý, kháng nguyên được cố định tại các xoang của tuỷ đỏ, sau đó vào tuỷ trắng (nơi có nhiều nang lymphô) kích thích các lympho bào phân chia, biệt hoá thành tưong bào. Khác với hạch lympho, các lympho bào đi vào và ra khỏi lách chủ yếu bằng đường mạch máu. (Không có mạch bạch huyết đến cơ quan này). Sự phân bố máu tại lách rất đặc biệt. Động mạch lách đi vào vùng rốn của cơ quan này và các nhánh của nó đi theo các vách liên kết. Chúng tách ra thành động mạch bè liên quan với tuỷ trắng. Từ những động mạch bè đẻ ra những nhánh: động mạch trung tâm bảo đảm máu tới các nang lymphô và động mạch hình bút lông tiếp xúc thẳng với các xoang tĩnh mạch của tủy đỏ. Tiểu động mạch tách ra các mao mạch đi sang tiểu tĩnh
  14. 14 mạch ở vùng trung gian hay xoang cạnh. Tại lách chỉ có mạch bạch huyết đi từ giữa các nang lympho và các dải bao quanh mạch để đến rốn lách và ống ngực. Nhu mô lách được chia làm 2 phần: Tuỷ đỏ chiếm tới 4/5 khối lượng lách và tuỷ trắng là những điểm rải rác nằm xen vào khối tuỷ đỏ. Tuỷ đỏ là nơi tạo và dự trữ hồng cầu và bắt giữ kháng nguyên, có nhiều xoang tĩnh mạch chứa hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu và lympho bào. Tuỷ đỏ đóng vai trò như một cái lọc đối với các hồng cầu bị huỷ hoại do bị tổn thương hoặc do già, các mảnh tế bào chết. Tủy trắng tương ứng với mô lympho, được cấu tạo chủ yếu bởi các mô lympho có nhiều tiểu động mạch xen kẽ, có 2 vùng: một vùng có các nang lympho chứa các tâm điểm mầm của dòng lymphô bào B gọi là vùng không phụ thuộc tuyến ức, một vùng chứa các lymphô bào T gọi là vùng phụ thuộc tuyến ức. Điểm đặc biệt ở đây là : Dọc theo mạch ngoài của tiểu động mạch có rất nhiều lympho bào, tạo nên bao lympho. Có những chỗ bao lympho phình ra tạo nên các nang lympho, là nơi diễn ra các đáp ứng miễn dịch. Vùng ngoài rìa hay trung gian giữa tuỷ trắng và tuỷ đỏ là khu vực trao đổi, các kháng nguyên thường được bắt giữ ở vùng này. Phản ứng của lách đối với kháng nguyên: Phần lớn các kháng nguyên xâm nhập vào cơ thể qua đường máu sẽ bị giữ lại ở lách. Chúng được các đại thực bào của vùng rìa hoặc của các xoang tủy đỏ bắt giữ. Sau đó chúng được đưa về các nang lympho tiên phát trong tủy trắng, sau vài ngày thấy có tế bào tạo kháng thể di chuyển đến cư trú tại vùng rìa và vùng tuỷ đỏ và bắt đầu quá trình sản xuất kháng thể. Tại những nang lympho tiên phát bắt đầu hình thành trung tâm mầm.. Khi kháng nguyên xâm nhập vào lách hoặc hạch sẽ gây ra hiện tượng lymphocyte trapping, có nghĩa là, bình thường các tế bào lympho có thể di chuyển một cách tự do qua lách và hạch lympho nhưng sau khi có kháng nguyên xâm nhập thì dưới tác động của kháng nguyên chúng bị giữ lại và không di chuyển ra khỏi các cơ quan này. Cơ chế của hiện tượng này chưa được hiểu rõ nhưng có lẽ là do kháng nguyên kích thích đại thực bào tiết ra yếu tố ngăn cản sự di chuyển của các tế bào lympho. Các tế bào lympho tập trung tại chỗ có kháng nguyên và tăng đáp ứng miễn dịch ở đó. 24h sau thì hạch bắt đầu giải phóng các tế bào đã bị giữ và quá trình này kéo dài khoảng 7 ngày. Nhiều tế bào được giải phóng ra trở thành tế bào sản xuất kháng thể hoặc tế bào trí nhớ.
  15. 15 3. Tuỷ xương Tuỷ xương chiếm khối lượng lớn nhất trong các cơ quan lympho thứ phát. Nếu đưa kháng nguyên vào cơ thể qua tĩnh mạch thì chúng sẽ bị bắt giữ ở gan, lách và tuỷ xương. Trong đáp ứng miễn dịch tiên phát, kháng thể được sản xuất chủ yếu ở lách và hạch lympho. Đến giai đoạn cuối của đáp ứng miễn dịch tiên phát thì các tế bào trí nhớ rời khỏi lách và đến tập trung ở tuỷ xương. Khi kháng nguyên được đưa vào lần 2 thì tuỷ xương sản xuất một lượng rất lớn kháng thể và là nguồn sản xuất IgG chính ở loài gặm nhấm. Có đến 70% kháng thể chống lại 1 số kháng nguyên được sản xuất từ tuỷ xương. 4. Mô lympho không có vỏ bọc Các mô lympho không có vỏ liên kết bao bọc được gọi là các mô lympho không có vỏ bọc. Chúng nằm rải rác ở niêm mạc đường tiêu hóa, hô hấp, tiết niệu. 4.1. Các mô lympho ở ruột (Gut associated lymphoid tissues; GALT) GALT bao gồm mảng Peyer và các nang lymphô nằm rải rác, riêng rẽ hoặc thành chuỗi ở niêm mạc ruột, đặc biệt là niêm mạc ở kết tràng, dưới lamina propria. Mảng Peyer là nơi kết tụ các tế bào dạng lympho tạo nên các nang, trung tâm nang là các lympho bào B, bao quanh nang là các lympho bào T và đại thực bào. Các lympho bào B ở đây sau khi được biệt hóa chuyển thành tương bào sản xuất IgA, IgG và có cả IgM. Các lympho bào T gồm chủ yếu là các tế bào T gây độc tế bào và điều hòa miễn dịch. Hệ thống lymphô của ruột trực tiếp tiếp xúc với kháng nguyên vào cơ thể bằng đường tiêu hóa, có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ cơ thể với cơ chế phòng vệ tại chỗ. 4.2. Các mô lympho ở phế quản (Bronchus associated lymphoid tissues- BALT) BALT có cấu trúc và chức năng giống mảng Peyer và các mô lympho của GALT. Các mô lympho ở đây nằm dọc theo khí quản, phế quản, tiểu phế quản và các tiểu thuỳ phổi. Trong một số trường hợp đặc biệt, các nang lymphô của BALT nhô vào lòng ống phế quản lớn và khí quản.
  16. 16 4.3. Hạch hạnh nhân Hạch hạnh nhân là các mô lympho có kích thước khác nhau ở họng, bao gồm chủ yếu các lympho bào, có nang nguyên phát và nang thứ phát. Lympho bào B chiếm khoảng 40-50% tổng số lymphô bào của hạch. Các trung tâm mầm của các nang lymphô là vùng lymphô bào B phụ thuộc kháng nguyên, ở đó có các quần thể tế bào nhớ miễn dịch trải rộng và biệt hóa thành các tương bào.
  17. Chương 3 CÁC TẾ BÀO THAM GIA VÀO ĐÁP ỨNG MIỄN DỊCH I. Những tế bào tham gia vào đáp ứng miễn dịch không đặc hiệu 1. Đại thực bào Đại thực bào giữ một vai trò trung tâm trong đáp ứng miễn dịch. Chúng vừa tham gia vào đáp ứng miễn dịch không đặc hiệu ban đầu vừa tham gia vào đáp ứng miễn dịch đặc hiệu. Trong đáp ứng miễn dịch không đặc hiệu đại thực bào làm nhiệm vụ bắt giữ và tiêu diệt các vật lạ, còn trong đáp ứng miễn dịch đặc hiệu, chúng gây cảm ứng các đáp ứng qua vai trò trình diện kháng nguyên cho tế bào T, đồng thời tham gia vào pha hiệu ứng của đáp ứng qua vai trò tiêu diệt tế bào u và vi sinh vật. Chúng còn có những chức năng điều hòa đáp ứng miễn dịch. Đại thực bào có mặt ở mọi khu vực tiếp giáp với bên ngoài: phổi, gan, hạch. Người ta cũng thấy chúng ở trong lách, trong máu (tế bào mono), trong thanh mạc, não. Đại thực bào trong máu có tên là monocyte, chiếm 5 % tổng số bạch cầu. Đại thực bào trưởng thành có mặt trong các cơ quan, tổ chức với các tên gọi khác nhau. Đại thực bào là loại tế bào to có những hình thái khác nhau tại những nơi khác nhau. Chúng có thể di chuyển hoặc cố định tại mô.
  18. Tất cả các đơn nhân thực bào có nguồn gốc từ các tế bào gốc trong tủy xương (monoblast). Monoblast phát triển thành promonocyte, và promonocyte phát triển thành monocyte dưới tác dụng của 1 loại protein có tên là colony-stimulating factor. Sau đó monocyte vào máu. Khoảng 3 ngày sau monocyte rời máu đi vào mô bào và phát triển thành đại thực bào (Macrophage). Đang có nhiều tranh cãi về nguồn gốc của các đại thực bào trong các tổ chức. Có lẽ chúng vừa có nguồn gốc từ tế bào monocyte vừa là sản phẩm của quá trình tăng sinh tại chỗ. Đại thực bào trong các tổ chức có đời sống tương đối dài. Nếu không bị hoạt hóa bởi quá trình viêm hoặc hủy hoại tổ chức thì mỗi ngày có khoảng 1% đại thực bào bị thay thế. Sau khi thực bào thì đời sống của đại thực bào bị thay đổi, tùy thuộc vào tính chất của đối tượng thực bào. Nếu đối tượng thực bào có tính độc đối với đại thực bào thì đại thực bào có thể bị chết ngay sau khi nuốt đối tượng thực bào. * Thụ thể của đại thực bào. Trên bề mặt của đại thực bào có rất nhiều thụ thể. + Thụ thể cho kháng thể: CD 64 có trên bề mặt của đại thực bào, bạch cầu đơn nhân, bạch cầu đa nhân trung tính ( ít hơn ở ĐTB), và không có ở tế bào lympho, CD 32, CD 16. + Thụ thể cho bổ thể : CD 35 (cho C3b), CD 11b/18 cho sản phẩm phân chia của C3b. + Thụ thể cho IL-2: CD 25. + Thụ thể cho transferrin: CD 71. Số lượng các thụ thể của các đại thực bào khác nhau sẽ khác nhau. Đại thực bào ở lách có nhiều thụ thể cho kháng thể, trong khi đó các tế bào Kupffer lại giàu thụ thể cho bổ thể. Có receptor với mảnh Fc của Ig và với bổ thể nên chúng bắt giữ kháng nguyên càng dễ dàng nếu kháng nguyên đã được opsonin hóa. * Chức năng của đại thực bào + Thực bào Đại thực bào bị hấp dẫn không những chỉ bới các sản phẩm của vi khuẩn, sản phẩm của đáp ứng miễn dịch (C5a, Cytokine) mà cả với những yếu tố được giải phóng ra sau khi tế bào bị chết, bao gồm những sản phẩm phân hủy các mô liên kết như những mảnh collagen, elastin, fibrinogen. Bạch cầu đa nhân trung tính chết tiết ra elastase và collagenase, vì vậy tạo ra những chất hóa ứng động bạch cầu. Như vậy bạch cầu đa nhân trung tính đóng vai trò tiên phong trong đáp ứng miễn dịch: Chúng xuất hiện và tấn công vật lạ trước, sau khi bị chết chúng hấp dẫn đại thực bào đến nơi có vật ngoại lai. Đại thực bào phá hủy vật lạ bằng 2 cơ chế: Phụ thuộc và không phụ thuộc oxy. Đại thực bào còn có khả năng sản xuất ra oxyde nitơ và các sản phẩm trao đổi nitơ, có khả năng tiêu diệt vi khuẩn. Hoạt hóa đại thực bào Sau khi bạch cầu đơn nhân di chuyển đến ổ viêm chúng được hoạt hóa ở nhiều mức độ khác nhau: Tăng lượng enzyme của lysosome, tăng khả năng thực bào, biểu lộ thêm nhiều thụ thể dành cho kháng thể, bổ thể, transferrin, tăng tiết protease trung tính. Lúc này chúng được gọi là các đại thực bào viêm. Nếu tiếp tục bị kích thích (bởi sản phẩm của vi khuẩn, interferons) thì các đại thực bào viêm sẽ phát triển thành đại thực bào đã được hoạt hóa.
  19. Khi vật lạ tồn tại lâu trong cơ thể, đại thực bào sẽ tập trung nhiều xung quanh vật lạ và nếu soi kính hiển vi nhìn giống tế bào biểu mô nên được gọi là tế bào dạng biểu mô (epithelioid cells). Các tế bào dạng biểu mô này thường nằm rất sát nhau nên nhìn chúng có hình đa giác, hoặc chúng có thể hợp lại với nhau tạo thành tế bào khổng lồ nhiều nhân. Những tế bào này thường gặp trong các hạt lao. + Chế tiết Đại thực bào có khả năng tổng hợp và chế tiết khoảng 100 loại protein, trong đó có enzyme lysozyme và 1 số thành phần của bổ thể được tiết thường xuyên, liên tục, trong khi đó 1 số protein khác (lysosomal enzyme, platelet-activating factor, leucotriens) thì chỉ được tiết ra trong khi đại thực bào làm nhiệm vụ thực bào. Đại thực bào còn tiết ra nhiều yếu tố điều hòa đáp ứng miễn dịch (IL-1-tăng cường) hoặc (IL-6- ức chế), TNF, IFN, prostaglandins. + Đại thực bào tu sửa vết thương Đại thực bào có đặc tính thâm nhập nhờ vào tính bám dính, nuốt ăn nên gọi là thực bào. Đại thực bào ăn các hạt, tiêu chúng chính là nhờ các men peroxydase và esterase. Nhưng quá trình tiêu ấy không hoàn toàn và sau đó các đại thực bào sẽ trình những kháng nguyên ấy cho tế bào T. + Đại thực bào trình diện kháng nguyên Đại thực bào trình diện kháng nguyên dưới hình thức những mảnh nhỏ là các peptid khi kháng nguyên là một protein. Những peptid ấy được trình diện trong khuôn khổ các phân tử hoà hợp mô (MHC) lớp II, điều đó có nghĩa là tín hiệu do đại thực bào truyền cho tế bào lympho gồm mảnh kháng nguyên nằm gọn trong lòng của phân tử MHC lớp II + Đại thực bào điều hòa đáp ứng miễn dịch Đại thực bào tiết ra những yếu tố không đặc hiệu hoạt hoá (IL-1) hay ức chế (prostaglandin - PGE2) đáp ứng miễn dịch. Bản thân chúng lại có thể được hoạt hoá bởi các tế bào lympho T (Qua trung gian của Macrophage Activating Factor - MAF). Như vậy Đại thực bào là tế bào chủ chốt của đáp ứng miễn dịch. 2. Bạch cầu đa nhân ( BCĐN)
  20. Bạch cầu đa nhân có nguồn gốc từ tuỷ xương và chiếm đến 60-70% số bạch cầu ở máu. Chúng có thể bám dính vào các tế bào nội mô và đi qua thành mạch. Chúng được phân thành trung tính, toan tính và kiềm tính tuỳ theo phản ứng các hạt đối với các chất nhuộm màu khác nhau. Bạch cầu đa nhân không có bất kỳ tính chất đặc hiệu nào đối với kháng nguyên nhưng chúng giữ vai trò chủ yếu trong quá trình viêm cấp cùng với các kháng thể và bổ thể trong sự đề kháng chống các vi sinh vật. Chức năng chủ yếu của bạch cầu đa nhân là thực bào. Tuy là một quá trình liên tục nhưng thực bào có thể được chia làm 4 giai đoạn: Hóa ứng động, bám dính, nuốt và tiêu. Hóa ứng động là sự di chuyển có hướng của bạch cầu dưới ảnh hưởng của một yếu tố hóa học (bên ngoài), vì vậy bạch cầu sẽ di chuyển về phía nguồn của yếu tố hóa học đó. Trong vùng tế bào bị tổn thương hoặc tại nơi vi khuẩn xâm nhập, có hiện tượng tăng tính dính của bạch cầu đa nhân trung tính và của tế bào nội mạc mạch quản làm cho bạch cầu đa nhân trung tính dính vào nội mạc các mạch quản nhỏ trước khi nó di chuyển vào mô bào. Sự xâm nhập của vi khuẩn và sự tổn thương của mô bào dẫn đến sụ hình thành nhiều yếu tố gây ứng động bạch cầu, trong đó quan trọng nhất là yếu tố C5a, một yếu tố được hình thành khi hoạt hóa hệ thống bổ thể. Bạch cầu ái kiềm và dưỡng bào: Bạch cầu ái kiềm và dưỡng bào có các hạt đặc hiệu chứa các chất có hoạt tính sinh học như histamin, serotonin, heparin. Các tế bào này có thụ thể với Fc của IgE, giúp cho IgE bám trên bề mặt của chúng. Khi có kháng nguyên tương ứng xâm nhập thì kháng nguyên sẽ kết hợp với IgE làm mất hạt, giải phóng nhiều hoạt chất của chúng. Vì vậy chúng có vai trò quan trọng trong phản vệ và dị ứng. Bạch cầu ái kiềm còn tiết yếu tố hóa ứng động bạch cầu ái toan- ECF (Eosinophil chemotactic Factor) Bạch cầu ái toan. Bào tương của bạch cầu ái toan chứa các hạt đặc hiệu ưa acid. Các hạt này chứa các enzyme như histaminase, arylsulfatase, có tác dụng tiêu các hoạt chất do các hạt của bạch cầu ái kiềm và dưỡng bào tiết ra. Gần đây người ta thấy rằng bạch cầu ái toan cũng có khả năng thực bào và gây độc đối với ấu trùng của một số ký sinh trùng khi ấu trùng đã gắn với kháng thể đặc hiệu. 3. Tiểu cầu Tiểu cầu bắt nguồn từ các mẫu tiểu cầu lớn trong tuỷ xương. Ngoài vai trò chủ chốt của chúng trong quá trình đông máu, tiểu cầu còn tham gia vào trong đáp ứng miễn dịch, đặc biệt trong viêm. Chúng có biểu lộ các phân tử MHC lớp I, các thụ thể có ái tính yếu với IgE. 4. Những tế bào NK và K. Tế bào NK (Natural killer). Đó là những tế bào lympho to có hạt ( Larger Granular Lymphocytes ) chứa perforin và granzym, chiếm khảng 4-10% tổng số những tế bào lympho tuần hoàn trong máu của người.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0