Những vấn đề chung<br />
<br />
HIỆN TRẠNG VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ<br />
QUAN TRẮC MÔI TRƯỜNG TẠI VIỆT NAM VÀ TRÊN THẾ GIỚI<br />
Nguyễn Thế Tiến*, Trần Tuấn Việt<br />
Tóm tắt: Viện Nhiệt đới môi trường được Nhà nước và Bộ Quốc phòng giao<br />
nhiệm vụ xây dựng Trạm quan trắc môi trường nằm trong mạng lưới quan trắc môi<br />
trường Quốc gia từ năm 1995, với nhiệm vụ cụ thể được xác định hàng năm là quan<br />
trắc môi trường (QTMT) khu vực miền Trung bao gồm nước, không khí và mưa a xít.<br />
QTMT là công cụ quan trọng trong công tác quản lý Nhà nước về bảo vệ môi<br />
trường. Trong những năm gần đây, Việt Nam đã tích cực đầu tư xây dựng mạng lưới<br />
QTMT rộng khắp cả nước, tuy nhiên số lượng các trạm QTMT ứng dụng công nghệ<br />
tiên tiến còn ít. Đồng thời hệ thống quản lý và chia sẻ dữ liệu còn hạn chế dẫn đến<br />
sự lãng phí các số liệu.<br />
Trên thế giới từ những thập niên trước đã tập trung phát triển các công nghệ<br />
QTMT liên tục theo thời gian thực và ngày càng hoàn thiện hơn về độ nhanh cũng<br />
như độ chính xác. Song song đó, xu hướng quan trắc bằng chỉ thị sinh học, sử dụng<br />
các công cụ đo nhanh, công nghệ viễn thám, ứng dụng GIS và công cụ quản lý chia<br />
sẻ dữ liệu đang được chú trọng nghiên cứu sâu hơn và ứng dụng rộng rãi hơn.<br />
Bài viết này sẽ giới thiệu về hiện trạng, xu hướng phát triển công nghệ QTMT tại<br />
Việt Nam và trên thế giới giúp cho người đọc có cái nhìn tổng quan hơn về vấn đề này.<br />
Từ khóa: Môi trường, Quan trắc môi trường, Công nghệ quan trắc.<br />
<br />
1. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Quan trắc môi trường là sự theo dõi và nghiên cứu về môi trường [1], nó có thể phục vụ<br />
cho nhiều mục đích quản lý và bảo vệ môi trường khác nhau. Cụ thể như việc xây dựng dữ<br />
liệu môi trường nền, diễn biến chất lượng môi trường hay các ảnh hưởng do tích lũy môi<br />
trường nhằm mục đích mang lại thông tin về điều kiện môi trường cho cộng đồng hay thiết<br />
lập chính sách, xây dựng văn bản pháp luật hoặc đánh giá ảnh hưởng do các hoạt động của<br />
con người tới tài nguyên thiên nhiên,...[2]. Công nghệ quan trắc có thể ở mọi dạng từ cơ bản<br />
tới tinh vi. Phát triển công nghệ sẽ làm gia tăng sự hoàn thiện của hệ thống lấy mẫu và phân<br />
tích, nâng cao khả năng lưu trữ dữ liệu, mở rộng phạm vi quan trắc về cả không gian, thời<br />
gian (tốc độ), mật độ, số lượng, chất lượng hay độ chính xác của kết quả [3].<br />
Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng quan trắc môi trường là một công cụ quan trọng để giảm<br />
khí thải nhà kính và xây dựng môi trường tốt hơn. Cụ thể các nghiên cứu ước tính nếu số<br />
liệu môi trường được quan trắc định kỳ liên tục và sử dụng những công nghệ phù hợp thì<br />
có thể góp phần giảm trên 60% khí thải cacbon [4]. Một điều quan trọng làm cho môi<br />
trường dần trở thành một trong những lĩnh vực nghiên cứu quan trọng là vì nó tác động<br />
trực tiếp đến việc tiêu thụ năng lượng và sức khỏe con người.<br />
Tùy thuộc vào từng mục đích khác nhau mà có thể xây dựng các chương trình quan<br />
trắc ngắn hoặc dài. Tuy nhiên, những chương trình quan trắc dài và liên tục mới phát huy<br />
hết ý nghĩa của việc QTMT. Mặc dù những chương trình quan trắc môi trường dài hơi<br />
cung cấp những số liệu giá trị cho việc nghiên cứu hệ sinh thái, diễn biến môi trường và<br />
quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên nhưng nó thường rất khó triển khai hiệu quả. Một<br />
trong những thách thức lớn nhất là việc duy trì kinh phí dài lâu và liên tục cho các dự án<br />
này thường không được sự ủng hộ mạnh mẽ từ các tổ chức tài trợ [5].<br />
Ngày nay QTMT và những hệ thống kiếm soát môi trường đang ngày càng trở nên quan<br />
trọng hơn. Trong bối cảnh các nguồn gây ô nhiễm và độc chất ngày một gia tăng về cả số<br />
lượng lẫn độ nguy hại thì những hệ thống QTMT cũng cần thiết phải đủ hiện đại để nhận<br />
<br />
<br />
<br />
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số Kỷ niệm 55 năm Viện KHCNQS, 10 - 2015 59<br />
Những vấn đề chung<br />
<br />
diện và định lượng nhanh chúng. Những hệ thống QTMT được kì vọng phải thật hoàn thiện,<br />
ra số liệu theo thời gian thực và có hệ thống lưu trữ và chia sẻ dữ liệu đủ lớn [4].<br />
Nhận thức được tầm quan trọng của QTMT, Việt Nam đã bắt tay vào phát triển từng<br />
bước xây dựng mạng lưới này từ những năm 90 của thể kỷ trước. Trong đó, Viện NĐMT<br />
là một trong 21 trạm QTMT quốc gia phụ trách khu vực vùng đất liền 2 – Miền Trung. Từ<br />
năm 1995 trở lại đây, hàng năm Viện NĐMT thực hiện quan trắc môi trường nước mặt,<br />
nước ngầm, nước biển ven bờ và không khí xung quanh tại các vùng trọng điểm trong khu<br />
vực là Đà Nẵng, Đắk Lắk, Bình Dương, Đồng Nai và Bà Rịa Vũng Tàu. Ngoài ra từ năm<br />
1999, Viện NĐMT trở thành 1 trong 3 trạm quan trắc mưa a xít phụ trách khu vực miền<br />
trung với 3 điểm lấy mẫu tại Quảng Ngãi, Nha Trang và Đạt Lạt.<br />
Bài viết này không tham vọng có thể đi chi tiết được đầy đủ mọi thông tin về QTMT<br />
mà chỉ muốn giúp cho người đọc có cái nhìn tổng quan hơn về hiện trạng và xu hướng<br />
phát triển công nghệ QTMT tại Việt Nam và trên thế giới.<br />
<br />
2. HIỆN TRẠNG HỆ THỐNG QUAN TRẮC MÔI TRƯỜNG<br />
Hệ thống QTMT về cơ bản có ba phần chính: (1) Bộ phận đo đạc và thu mẫu hiện<br />
trường; (2) Bộ phận phân tích và xử lý số liệu; và (3) Bộ phận khai thác, quản lý và chia sẻ<br />
dữ liệu.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 1. Hệ thống quan trắc môi trường cơ bản.<br />
Hiện nay các trạm QTMT thường xuyên, cố định thường được lắp đặt các hệ thống lấy<br />
mẫu tự động, định kì kết hợp với đo đạc nhanh một số các chỉ thị ô nhiễm đặc trưng. Ưu<br />
điểm của dạng này là nhanh, kịp thời và tích lũy lượng dữ liệu liên tục, lâu dài. Tuy nhiên<br />
rào cản lớn nhất cho hệ thống này là việc vận hành thường rất tốn kém. Đặc biệt ở Việt<br />
Nam còn vướng một rào cản khác là trình độ quản lý và chưa có đầy đủ quy phạm pháp<br />
luật cho vấn đề này. Cụ thể có thể kể đến một hệ thống quan trắc lâu đời bậc nhất thế giới<br />
là Mỹ đã bắt đầu quan tâm đến QTMT từ năm 1950. Hiện nay tại các khu vực đô thị cứ<br />
200.000 dân được đặt một trạm quan trắc tự động, các số liệu được cập nhật liên tục và<br />
công bố rộng rãi trên các trang mạng của bang và liên bang. Tại Nhật Bản hiện có 1.987<br />
trạm QTMT tự động, trong đó 99% các trạm do địa phương trực tiếp quản lý. Còn ở lãnh<br />
thổ nhỏ bé như Hồng Kông thì từ năm 1999 đã xây dựng và duy trì 14 trạm quan trắc<br />
không khí tự động [6].<br />
Tính cho tới nay hệ thống QTMT của nước ta đã bao trùm toàn quốc, cụ thể Tổng cục<br />
môi trường (TCMT) triển khai 638 điểm QTMT thủ công, 8 trạm quan trắc khí tự động, 8<br />
trạm quan trắc nước tự động (đang lắp đặt thêm 17 trạm); hệ thống QTMT quốc gia có 21<br />
trạm (948 điểm); 56 tỉnh thành phố đã có trung tâm QTMT; và rất nhiều hoạt động quan<br />
trắc môi trường đặc thù được quản lý bởi các bộ, ngành trong cả nước [7].<br />
Hiện nay quan trắc tự động ở nước ta chủ yếu ứng dụng ở những khu công nghiệp, các<br />
nhà máy, các khu đô thị lớn đặc biệt là các vùng môi trường nhạy cảm nhưng vẫn dừng lại<br />
ở mức thí điểm. Đa số các trạm QTMT ở Việt Nam hiện giờ vẫn chỉ sử dụng một vài công<br />
cụ đo nhanh hiện trường, thu mẫu về phòng thí nghiệm phân tích và xử lý số liệu. Điều đó<br />
<br />
<br />
60 N. T. Tiến, T. T. Việt, “Hiện trạng và xu hướng phát triển…Việt Nam và trên thế giới.”<br />
Những vấn đề chung<br />
<br />
đồng nghĩa với việc không thể duy trì tần suất liên tục và dày như các hệ thống tự động,<br />
thường loại quan trắc này duy trì ở tần suất từ 1-6 lần/năm [8]. Với những tần suất mỏng<br />
này nguồn số liệu QTMT chỉ có ý nghĩa trong việc nghiên cứu diễn biến môi trường thông<br />
thường mà khó có thể kịp thời cảnh báo các biến động tức thời, sự cố môi trường, thảm<br />
họa môi trường,...<br />
Nếu như bộ phận đo đạc, thu mẫu hiện trường đảm bảo độ chính xác của vị trí và đối<br />
tượng cần quan trắc thì bộ phận phân tích, xử lý số liệu quyết định độ đúng và chính xác<br />
của số liệu. Hiện nay mảng phân tích môi trường ở Việt Nam tương đối mạnh với đội ngũ<br />
cán bộ trình độ cao và máy móc thiết bị hiện đại cập nhật liên tục như sắc ký lỏng ghép<br />
khối phổ (LC/MS), sắc ký khí ghép khối phổ (GC/MS) sắc ký lỏng ghép khổi phổ độ phân<br />
giải cao (HRGC/HRMS), quang phổ hấp thu nguyên tử (AAS), khối phổ plasma cao tần<br />
ghép khối phổ (ICP/MS),...(minh họa hình 2) Với sự trang bị nguồn lực công cụ và nhân<br />
lực mạnh mẽ hiện nay chúng ta có thể phân tích được hầu hết các thông số môi trường bao<br />
gồm cả chất hữu cơ bền, chất hữu cơ phức tạp, kim loại nặng, các dạng ion, enzym, vi sinh<br />
vật,...Tuy nhiên, sự phát triển mảng này không đồng đều, đa số các phòng thí nghiệm<br />
(PTN) ở các thành phố lớn được trang bị và đầu tư các thiết bị công nghệ cao và có đội<br />
ngũ cán bộ phân tích được đào tạo bài bản hơn các trạm QTMT địa phương. Cụ thể nếu<br />
xét đến kinh phí quan trắc năm 2014 cho các tỉnh thành phố thì có địa phương chỉ được<br />
khoảng 300-400 triệu như Đắk Nông, Bến Tre, Yên Bái nhưng có nơi lại được trên 10 tỉ<br />
như Bình Dương (52 tỉ), Đồng Nai (16 tỉ), Hà Nội (15 tỉ), TPHCM (12 tỉ) [7].<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 2. Một số thiết bị phân tích tiên tiến (Viện Nhiệt đới môi trường)<br />
Nhìn một cách tổng thể, phần khai thác, quản lý và chia sẽ dự liệu trong hệ thống<br />
QTMT nước ta còn yếu kém. Mặc dù các số liệu quan trắc còn ít và rời rạc nhưng việc<br />
quản lý số liệu còn thủ công và không hiệu quả dẫn tới lãng phí số liệu. Về mặt lý thuyết,<br />
mô hình quản lý, khai thác và chia sẻ dữ liệu QTMT của nước ta cũng tương tự như những<br />
nước khác (xem chi tiết hình 3) với đầy đủ các thành phần tổng hợp, phân loại quản lý,<br />
báo cáo, chia sẻ, công bố,...[9]. Việc quản lý số liệu được thông qua phần mềm “quản lý số<br />
liệu quan trắc môi trường” đã bắt đầu phát triển từ năm 2003 nhưng cho đến nay phần<br />
mềm này vẫn chưa được phổ biến trong toàn bộ hệ thống quan trắc mà vẫn tiếp tục trong<br />
thời gian hoàn thiện! Toàn bộ các số liệu QTMT theo hệ thống quan trắc quốc gia và địa<br />
phương hiện này chỉ được tập hợp lại trong báo cáo quan trắc, một phần được công khai<br />
trong báo cáo hiện trạng môi trường hàng năm, sự chia sẻ hầu như được thực hiện qua các<br />
kênh nhỏ lẻ. Chính hiện trạng này dẫn đến sự lãng phí trong QTMT do nhiều điểm quan<br />
trắc trùng lắp, nhiều số liệu đã có nhưng khi cần lại phải thực hiện quan trắc lại do thiếu<br />
thông tin và khả năng tiếp cận số liệu. Xét riêng về hệ thống kết nối, truyền và khai thác số<br />
liệu quan trắc tự động hiện nay thì mặc dù được ứng dụng những công nghệ tiên tiến<br />
(truyền số liệu qua internet hay GMS-GPRS) nhưng các trạm tự động lại không đồng bộ,<br />
mỗi dự án lại có một máy chủ riêng quản lý dự liệu riêng mà chưa có sự kết nối, chia sẻ.<br />
Tóm lại công nghệ QTMT ở nước ta hiện nay mặc dù đã có đầu từ nhiều và định hướng<br />
phát triển rõ ràng nhưng vẫn chưa phát triển tương xứng, đặc biệt là khâu khai thác, quản<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số Kỷ niệm 55 năm Viện KHCNQS, 10 - 2015 61<br />
Những vấn đề chung<br />
<br />
lý và chia sẻ dữ liệu. Công nghệ chưa đáp ứng được so với nhu cầu thực tiễn ngoài rào cản<br />
về tài chính và khung pháp lý còn do trình độ nhân lực, cơ sở hạ tầng còn chưa đồng đều.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 3. Mô hình quản lý, chia sẻ và công khai số liệu QTMT [9]<br />
<br />
3. XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ QUAN TRẮC MÔI TRƯỜNG<br />
Về cơ bản các công nghệ QTMT dù phát triển hiện đại đến đâu cũng là một phần hoặc<br />
toàn bộ hệ thống quan trắc môi trường cơ bản như trình bày trong hình 1. Ngày nay công<br />
nghệ QTMT trên thế giới đang phát triển theo hướng nhanh và kịp thời hơn, chính xác<br />
hơn, tiết giảm chi phí hơn, đa dạng hơn, thân thiện hơn và tầm quan trắc rộng lớn hơn<br />
(mang tính chất toàn cầu). Bên cạnh đó xu hướng ứng dụng các công nghệ quan trắc môi<br />
trường cho các hoạt động đặc thù cũng là hướng đi được nhiều nước quan tâm hiện nay.<br />
Để phát triển công nghệ quan trắc tự động liên tục thì cần phải phát triển những<br />
phương pháp đo đạc nhanh và chính xác. Một trong số đó là ứng dụng các cảm biến<br />
(sensor) vào trong các công tác đo đạc và phân tích môi trường. Mục đích chính của cảm<br />
biến hóa học là cung cấp thông tin chính xác theo thời gian thực về các thành phần hóa<br />
học trong môi trường [10]. Hiện nay các loại sensor có thể phục vụ đo đạc nhanh ngoài<br />
các thông số cơ bản như pH, EC, độ đục, DO, COD, SS, độ mặn,...trong nước hay SO2,<br />
NOx, CO, nhiệt độ, bụi,... trong không khí mà nó có thể đo nhanh được nhiều loại thông số<br />
khác như kim loại, đồng vị phóng xạ, VOC, vi sinh vật [11]. Kết nối đồng bộ với sensor là<br />
hệ thống lưu trữ và truyền tải dữ liệu trực tuyến theo thời gian thực. Các công nghệ chính<br />
áp dụng hiện nay ở Việt Nam cũng như trên thế giới là sử dụng internet hay GMS-GPRS<br />
kết nối với các trung tâm xử lý số liệu. Những hệ thống này thường tích hợp khả năng xử<br />
lý cơ bản là thu thập số liệu, phát cảnh báo khi có các dấu hiệu bất thường của các thông<br />
số quan trắc và tự động kích hoạt việc lấy mẫu để phục vụ phân tích khi cần thiết. Cần<br />
phải xác định rằng các hệ thống quan trắc theo thời gian thực kết nối trực tuyến có kết quả<br />
phân tích và đo dạc với độ nhạy, độ chính xác khác nhau theo các mẻ mẫu và biên độ nồng<br />
độ và cũng khác nhau so với các thiết bị phân tích trong phòng thí nghiệm [12].<br />
Ngày này, người dân đô thị đang phải đối đầu với nhiều loại ô nhiễm trong đó ô nhiễm<br />
không khí xung quanh là có ảnh hưởng nhiều nhất đến cuộc sống của họ. Chính vì vây,<br />
ngoài việc phát triển các công nghệ chia sẻ, công bố kết quả nhanh và trực tiếp đến người<br />
dân (hiện thị kết quả quan trắc theo thời gian thực trên các bảng điện tử, trên các cổng<br />
thông tin qua internet, nhắn tín qua điện thoại, cập nhật qua các phần mềm điện thoại di<br />
động,...) thì các nước hiện đang chú trọng đến các thiết bị QTMT cá nhân. Các thiết bị này<br />
<br />
<br />
62 N. T. Tiến, T. T. Việt, “Hiện trạng và xu hướng phát triển…Việt Nam và trên thế giới.”<br />
Những vấn đề chung<br />
<br />
hướng tới sự đơn giản, gọn nhẹ, chi phí thấp và tính kết nối, chia sẻ cao (thường được<br />
đồng bộ với các thiết bị di động) [13]. Tất nhiên những thông số quan trắc chỉ dừng lại ở<br />
mức cơ bản nhất nhưng đủ để làm vừa lòng mong muốn cật nhật các thông tin về môi<br />
trường sống xung quanh người dân.<br />
Xét về phương pháp QTMT gồm 3 thành phần chính: quan trắc vật lý; quan trắc hóa<br />
học và quan trắc sinh học. Quan trắc dựa vào sinh vật chỉ thị (Biomonitor) là công cụ hiệu<br />
quả hỗ trợ đáng kể cho việc quan trắc vật lý và hóa học với ưu điểm là chi phí vận hành<br />
thấp, không yêu cầu trình độ chuyên môn cao [14]. Kỹ thuật quan trắc dựa và sinh vật và<br />
những cảm biến, thiết bị phân tích liên quan có thể chia ra làm 3 loại chính là off-line (lấy<br />
mẫu thủ công hoặc tự động mang về PTN phân tích), at-line (lấy mẫu thủ công hoặc tự<br />
động và phân tích tại chỗ), on-line (thu mẫu và phân tích tự động gửi tín hiệu theo thời<br />
gian thực về trung tâm) [15]. Trong thời gian gần đây một số nước đã ứng dụng chỉ thị<br />
sinh học trong quan trắc theo thời gian thực theo hình thức on-line. Một số chỉ thị sinh học<br />
được ứng dụng trong QTMT theo thời gian thực có thể kể đến rận nước (daphnia) - được<br />
tích hợp vào hệ thống phân tích hành vi bơi sau đó đưa ra các dự báo về chất lượng nước;<br />
tảo (algae) – được lắp đặt vào hệ thống rồi đo ức chế quang hợp trong môi trường có độc<br />
tố và phát ra cảnh báo [14].<br />
Một trong những công nghệ hỗ trợ QTMT mở rộng phạm vi lên mức quốc gia, khu vực<br />
và toàn cầu đó là sự kết hợp viễn thám và hệ thống thông tin địa lý (GIS). Công nghệ viễn<br />
thám cho phép thu nhận thông tin về tiềm năng, hiện trạng các đối tượng cần quan trắc<br />
trên diện rộng và trong thời gian ngắn. GIS sẽ hỗ trợ đắc lực trong việc tách chiết, tổng<br />
hợp, lưu trữ thông tin chính xác, nhanh chóng và hiệu quả. Việc ứng dụng công nghệ này<br />
vào QTMT có thể kể đến là quan trắc tài nguyên rừng và môi trường, giám sát sự cố tràn<br />
dầu, giám sát biến động lớp phủ mặt đất, giám sát sụt lún, giám sát các công trình lớn,...<br />
theo thời gian thực [16].<br />
Tiếp theo, một hình thức QTMT đang ngày càng phát triển mạnh hiện nay là hoạt động<br />
quan trắc dựa vào cộng đồng (Community-based monitoring, CBM). Trong những năm<br />
gần đây các nhà hoạch định chính sách và các tổ chức phi chính phủ đang tăng cường việc<br />
sử dụng các tình nguyện viên địa phương để nâng cao khả năng của họ trong quan trắc và<br />
quản lý tài nguyên thiên nhiên, theo dõi các loài gặp nguy hiểm và bảo tồn các khu vực địa<br />
phương. Mặc dù các kết quả quan trắc từ những chương trình này ít khi được công bố trên<br />
các tạp chí khoa học truyền thống nhưng nó gần như vẫn được thừa nhận theo những cách<br />
khác nhau. Có thể kể đến những chương trình CBM thành công như The Waterkeeper<br />
Alliance (Liên minh bảo vệ tài nguyên nước) có mặt trên 15 quốc gia với nhiều hình thức<br />
khác nhau như Riverkeeper (bảo vệ sông), Lakekeeper (bảo vệ hồ), Baykeeper (bảo vệ<br />
vịnh),...; Mạng lưới CBM có văn phòng tại đại học Saint Mary – Canada; Liên minh quan<br />
trắc tài nguyển thủy sinh tại đại học Dickinson – Mỹ; Tổ chức quan trắc cộng đồng toàn<br />
cầu (Global Community Monitor) chuyên quan trắc chất lượng khí và nước dựa vào cộng<br />
đồng trên toàn thế giới và có nhiều dự án thành công ở Ấn Độ [17].<br />
Cuối cùng, việc phát triển các công nghệ QTMT hiện nay đang có xu hướng chuyên<br />
biệt hóa. Nói một cách khác, mỗi hoạt động khác nhau đều có những tác động đặc thù<br />
khác nhau đến môi trường nên nó cần được nghiên cứu công nghệ QTMT riêng. Có thể<br />
liệt kê một vài các hoạt động đặc thù yêu cầu những kỹ thuật và công nghệ quan trắc riêng<br />
biệt như QTMT cho các hoạt động hạt nhân, hoạt động quân sự, hoạt động khai khoáng,...<br />
<br />
4. KẾT LUẬN<br />
<br />
Có thể khẳng định QTMT là một hoạt động quan trọng trong nghiên cứu bảo vệ và<br />
quản lý môi trường. Việt Nam trong nhưng năm gần đây đã và đang đầu tư cả về tài chính,<br />
<br />
<br />
<br />
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số Kỷ niệm 55 năm Viện KHCNQS, 10 - 2015 63<br />
Những vấn đề chung<br />
<br />
con người, khoa học và đẩy mạnh xây dựng cơ sở pháp lý nhằm phát triển QTMT theo kịp<br />
với khu vực và thế giới. Tuy nhiên các hoạt động QTMT có khả năng tiếp cận và ứng<br />
dụng các công nghệ tiên tiến còn ít và phân bổ chưa đồng đều, đồng thời hệ thống quản lý,<br />
chia sẻ và công bố các dữ liệu quan trắc còn nhiều bất cập. Trong khi đó, hoạt động<br />
QTMT trên thế giới đang phát triển mạnh mẽ và đa dạng. Các công nghệ quan trắc theo<br />
thời gian thực ngày càng chính xác với chi phí ngày càng giảm, phạm vi quan trắc mở<br />
rộng tới quy mô toàn cầu, quan trắc phát triển theo hướng thân thiện và có tính kết nối cao<br />
và tương tác với cộng đồng.<br />
Lời cảm ơn: Nhóm tác giả cảm ơn sự hỗ trợ của các đồng nghiệp hoạt động trong lĩnh<br />
vực quan trắc môi trường đã cung cấp tài liệu, thông tin để bài viết đạt chất lượng cao<br />
hơn. Xin cảm ơn sự hỗ trợ của đơn vị tạo điều kiện tiếp cận tài liệu và cơ sở vật chất để<br />
bài tham luận được hoàn thiện.<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
[1]. J. Artiola, I.L. Pepper, and M.L. Brusseau, "Environmental Monitoring and<br />
Characterization," Elsevier Science and Technology Books (2004), 410p.<br />
[2]. B. Mitchell, "Resource and Environmental management," The 2nd Ed., NXB<br />
Routledge (2001), 392p.<br />
[3]. "New technologies for monitoring: Status and Prospects", 2001, Reported by<br />
Environmental Protection Agency and Environment and Heritage Service.<br />
[4]. A. Kumar, H. Kim, and G.P. Hancke, "Environmental Monitoring Systems: A<br />
review," IEEE Sensors, Vol. 13 (2013), pp. 1329-1339.<br />
[5]. T.W. Lohner and D.A. Dixon, "The value of long-term environmental monitoring<br />
programs: an Ohio River case study," Environ Monit Assess, Vol. 185 (2013), pp.<br />
9385-9396.<br />
[6]. N.T.N. Ánh, "Giới thiệu hệ thống quan trắc môi trường tự động, liên tục", Trung<br />
tâm quan trắc môi trường/Tổng cục môi trường, Hội thảo thường niên về quan trắc<br />
môi trường, 21-22/4/2011, Huế-Việt Nam (2011).<br />
[7]. N.T.N. Ánh, "Tổng quan hoạt động quan trắc môi trường-cơ hội và thách thức",<br />
Trung tâm quan trắc môi trường/Tổng cục môi trường, Hội thảo quan trắc môi<br />
trường lần 5, 20/6/2014, Hải Phòng-Việt Nam (2014).<br />
[8]. N.V. Thùy, "Hiện trạng công nghệ quan trắc môi trường tại Việt Nam - Xu hướng<br />
phát triển của thế giới hiện nay", Trung tâm quan trắc môi trường-Tổng cục môi<br />
trường, Hội thảo quan trắc môi trường lần 5, 20/6/2014, Hải Phòng-Việt Nam<br />
(2014).<br />
[9]. L.H. Anh, "Quản lý, công bố và công khai thông tin, số liệu quan trắc môi trường",<br />
Trung tâm quan trắc môi trường/Tổng cục môi trường, Hội thảo thường niên về<br />
quan trắc môi trường, 21-22/4/2011, Huế-Việt Nam (2011).<br />
[10]. J. Wang and K. Rogers, "Electrochemical sensors for environmental monitoring: a<br />
review of recent technology," U.S. Environmental Protection Agency, Office of<br />
Research and Development, Environmental Monitoring and Support Laboratory<br />
(1995), 17p.<br />
[11]. C.K. Ho, et al., "Overview of sensors and needs for environmental monitoring,"<br />
Sensors, Vol. 5 (2005), pp. 4-37.<br />
[12]. A.G. Capodaglio and A. Callegari, Online Monitoring Technologies For Drinking<br />
Water Systems Security, in Risk Management of Water Supply and Sanitation<br />
Systems. 2009, Springer Netherlands. pp. 153-179.<br />
[13]. N.C. Watton, "New technologies for environmental monitoring", 2013, Reported by<br />
Scottish Environment Protection Agency.<br />
<br />
<br />
64 N. T. Tiến, T. T. Việt, “Hiện trạng và xu hướng phát triển…Việt Nam và trên thế giới.”<br />
Những vấn đề chung<br />
<br />
[14]. L.H. Anh, "Ứng dụng chỉ thị sinh học trong quan trắc môi trường", Trung tâm quan<br />
trắc môi trường/Tổng cục môi trường, Hội thảo quan trắc môi trường lần 5, Hải<br />
Phòng - Việt Nam (2014).<br />
[15]. N.D. Lourenco, et al., "Bioreactor monitoring with spectroscopy and chemometrics: a<br />
review," Anal Bioanal Chem, Vol. 404 (2012), pp. 1211-1237.<br />
[16]. N.Q. Khánh and N.T.T. Hương, "Một số ứng dụng công nghệ viễn thám trong quan<br />
trắc môi trường", Trung tâm thông tin và tu liệu môi trường - Tổng cục môi trường,<br />
Hội thảo quan trắc môi trường lần 5, Hải Phòng - Việt Nam (2014).<br />
[17]. C.C. Conrad and K.G. Hilchey, "A review of citizen science and community-based<br />
environmental monitoring: issues and opportunities," Environ Monit Assess, Vol.<br />
176 (2011), pp. 273-291.<br />
ABSTRACT<br />
STATUS AND PROSPECTS OF ENVIRONMENTAL MONITORING TECHNOLOGY<br />
IN THE WORLD AND VIETNAM<br />
Institute for Tropical and Environment was tasked to build the Environmental<br />
monitoring station within the National environmental monitoring networks by the<br />
State and the Ministry of National Defense. Since 1995, its main mission has been to<br />
monitor the water, ambient air and acid rain in the Highland and middle of Vietnam.<br />
Environmental monitoring is an important tool in the environmental management<br />
and protection. In the recent years, Vietnam has created a huge environmental<br />
monitoring network. However, the number of environmental monitoring stations,<br />
which have modern technologies, is still small. Moreover, the management system<br />
and monitoring data sharing in our network are not really working well which cause<br />
waste of monitoring data.<br />
In the recent decays, there were many researches in the real-time remote<br />
monitoring technologies around the world. Those technologies greatly enhance<br />
rapid detection of monitoring parameters and accuracy of data. In more details,<br />
some research fields have been developed for new environmental technologies such<br />
as bio-monitoring, on-site measurement, remote sensing, GIS application, data<br />
sharing and management system, etc.<br />
This article will introduce the current situation and development trend of<br />
environmental monitoring technology in Vietnam and around the world to help the<br />
readers have a better overview in this topic.<br />
Keywords: Environment, Environmental monitoring, Monitoring technology.<br />
<br />
<br />
<br />
Nhận bài ngày 21 tháng 07 năm 2015<br />
Hoàn thiện ngày 10 tháng 08 năm 2015<br />
Chấp nhận đăng ngày 07 tháng 09 năm 2015<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Địa chỉ: * Viện trưởng Viện Nhiệt đới môi trường, Viện KH-CNQS.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số Kỷ niệm 55 năm Viện KHCNQS, 10 - 2015 65<br />