intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Hiệu quả và sự an toàn trong Điều trị bệnh cường giáp trạng và bệnh basedow bằng iốt phóng xạ (I-131)

Chia sẻ: Nguyen Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

116
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Năm 1942, lần đầu tiên trên thế giới, tại bệnh viện Massachusett – Hoa Kỳ, hai Bác sỹ Herts và Roberts đã sử dụng iốt phóng xạ (I-131) để điều trị bệnh cường giáp trạng. Cho đến nay trải qua hơn 60 năm sử dụng I – 131, hàng triệu bệnh nhân mắc bệnh này trên thế giới đã được điều trị thành công bằng iốt phóng xạ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Hiệu quả và sự an toàn trong Điều trị bệnh cường giáp trạng và bệnh basedow bằng iốt phóng xạ (I-131)

  1. Hiệu quả và sự an toàn trong Điều trị bệnh cường giáp trạng và bệnh basedow bằng iốt phóng xạ (I-131) Năm 1942, lần đầu tiên trên thế giới, tại bệnh viện Massachusett – Hoa Kỳ, hai Bác sỹ Herts và Roberts đã sử dụng iốt phóng xạ (I-131) để điều trị bệnh cường giáp trạng. Cho đến nay trải qua hơn 60 năm sử dụng I – 131, hàng triệu bệnh nhân mắc bệnh này trên thế giới đã được điều trị thành công bằng iốt phóng xạ. ở Việt Nam, năm 1978 lần đầu tiên tại khoa Y học hạt nhân và Ung bướu – Bệnh viện Bạch Mai, I-131 đã được sử dụng để điều trị bệnh Basedow và cường giáp trạng. Cho đến nay hầu hết các khoa Y học hạt nhân trong cả n ước đã tiến hành trị bệnh này bằng I-131, và đã có tới hàng vạn bệnh nhân đã được áp dụng phương pháp điều trị này. Do tính chất đơn giản, hiệu quả, kinh tế và thẩm mỹ… nên hiện nay I-131 đang có xu hướng ngày càng được sử dụng rộng rãi trong điều trị bệnh cường giáp trạng và bệnh Basedow. Bệnh cường giáp trạng nói chung và bệnh Basedow nói riêng là loại bệnh khá phổ biến trong các bệnh lý tuyến giáp.
  2. Biểu hiện lâm sàng của bệnh Basedow (trong những trường hợp điển hình) thường là có bướu cổ to ra; mạch nhanh; hay có những cơn nóng bừng ở mặt, lòng bàn tay thường hâm hấp mồ hôi; mắt lồi; rối loạn tiêu hoá (đi lỏng…); tính tình thay đổi, hay cáu gắt, dễ nổi nóng; run tay… Về điều trị: hiện có 3 phương pháp chính để điều trị bệnh cường giáp và Basedow, đó là dùng thuốc kháng giáp trạng tổng hợp (điều trị nội khoa), phẫu thuật và iốt phóng xạ. Mỗi phương pháp đều có những ưu nhược điểm riêng. Điều trị bằng iốt phóng xạ th ường được chỉ định rất rộng rãi: Tất cả các bệnh nhân (thuộc mọi lứa tuổi, kể cả trẻ em) được chẩn đoán xác định là có cường giáp trạng hay Basedow chưa qua bất kỳ phương pháp điều trị nào (như điều trị nội khoa, phẫu thuật); hoặc tái phát sau điều trị nội khoa, tái phát sau phẫu thuật; biến chứng sau điều trị nội khoa (dị ứng, nhiễm độc gan, giảm bạch cầu, suy tuỷ x ương sau điều trị bằng thuốc kháng giáp), hoặc bệnh nhân không còn chỉ định phẫu thuật… Quy trình điều trị bằng I-131 khá đơn giản. Bệnh nhân sau khi được chẩn đoán xác định và có chỉ định điều trị sẽ được uống I-131 dưới dạng dung dịch lỏng hoặc dưới dạng viên con nhộng. Sau đó được trở về sinh hoạt tại gia đình và có thể đi lại trên các phương tiên giao thông công cộng như xe buýt, taxi, tàu hoả…, nếu những bệnh nhân này không có các biến chứng nặng, tình trạng bệnh không ở mức quá nặng.
  3. Với những bệnh nhân có các biến chứng tim mạch nặng, hoặc bị nhiễm độc gan, tuỷ xương do điều trị bằng thuốc kháng giáp, thể trạng quá yếu… thì cần được nằm viện từ 3 đến 7 ngày, hoặc lâu hơn tuỳ tình trạng bệnh của mỗi bệnh nhân. Thông thường mỗi bệnh nhân chỉ cần một lần uống thuốc ( một liều I-131) là khỏi bệnh, tuy nhiên có những trường hợp phải uống 2 hoặc hoặc 3 lần do tình trạng bệnh quá nặng hoặc người thầy thuốc chủ động phân ra nhiều liều I-131 để người bệnh có thể dung nạp được thuốc hoặc nhằm tránh những biến chứng nguy hiểm khác. Do vậy sau điều trị I-131 thì việc tái khám là một việc rất quan trọng đối với mỗi bệnh nhân. I-131 thường phát huy hiệu quả điều trị từ 6-8 tuần sau khi uống thuốc. Vì vậy nên đánh giá kết quả điều trị sau 3-4 tháng. Theo nhiều thống kê cho thấy có tới hơn 85 % bệnh nhân hết các triệu chứng cường giáp sau 3-5 tháng nhận liều điều trị bằng I-131. Số lần điều trị trung bình cho mỗi bệnh nhân là khoảng 6,2 ±1,1 lần. Hơn 95 % bệnh nhân có bướu cổ trở về bình thường hoặc nhỏ lại, và trên 80 % bệnh nhân lên cân. Các triệu chứng run tay, rối loạn tiêu hoá, … được cải thiện rõ rệt ở 100 % các bệnh nhân sau uống I-131. Một điểm đặc biệt của phương pháp điều trị này là I-131 có thể làm nhỏ bướu giáp và làm mất các triệu chứng cường giáp để đưa bệnh nhân về tình trạng bình giáp (trở về bình thường). Người ta gọi đây là phương pháp phẫu thuật không cần dao. Bướu cổ nhỏ lại và trở về bình thường sau uống I-131 là một ưu điểm đặc
  4. biệt của I-131, nó tạo nên tính thẩm mỹ cao, không để lại bất kỳ một vết sẹo nào trên cổ người bệnh. Sở dĩ I-131 có thể làm được như vậy vì nó phát ra bức xạ bêta (b), tia bêta này có tác dụng làm giảm mức sinh sản tế bào tuyến giáp, làm xơ hoá các mạch máu trong tuyến do đó làm giảm lượng máu tới tuyến giáp, kết quả là làm giảm chức năng của tuyến giáp và bướu cổ nhỏ lại. Một điểm rất ưu việt nữa của iốt phóng xạ là tia bêta chỉ có thể đâm xuyên trong tổ chức tuyến giáp khoảng vài milimét, trong khi đó hầu như toàn bộ lượng iốt phóng xạ được uống vào chỉ tập trung tại tuyến giáp còn các cơ quan khác (như tuỷ xương, tinh hoàn, buòng trứng…) chỉ tập trung một lượng rất nhỏ nên tác dụng điều trị có tính chất chọn lọc rất cao và các cơ quan khác rất ít bị ảnh hưởng. Tuy nhiên bất kỳ một phương pháp điều trị nào cũng có những ưu nhược điểm của nó. Điều trị cường giáp trạng và bệnh Basedow bằng iốt phóng xạ cũng có những biến chứng của nó. Tất cả những biến chứng như viêm tuyến giáp do bức xạ, cơn cường giáp kịch phát, suy giáp… đều có thể tránh được nếu như người bệnh được chuẩn bị tốt trước khi điều trị hoặc được tính toán liều lượng I-131 chính xác. Hiện nay ở nước ta chưa gặp một trường hợp nào bị cường giáp kịch phát hay viêm tuyến giáp sau điều trị I-131. Song một vấn đề luôn làm nhiều người lo lắng, kể cả bệnh nhân, người nhà bệnh nhân và thậm chí cả các cán bộ y tế là sau điều trị bệnh cường giáp trạng và bệnh
  5. Bascdow bằng I-131 có gây ra ung thư (như ung thư tuyến giáp, ung thư máu…) và các đột biến di truyền hay không?. Để giải đáp câu hỏi này, cho đến nay đã có hàng loạt các công trình nghiên cứu của nhiều nhà nghiên cứu ở hầu hết các quốc gia đã từng sử dụng I-131 để điều trị bệnh c ường giáp trạng nói riêng và một số bệnh tuyến giáp khác nói chung. Nhiều công trình nghiên cứu đã tiến hành so sánh tỷ lệ ung thư cũng như khả năng xuất hiện các đột biến di truyền ở cả 3 nhóm bệnh nhân Basedow và cường giáp trạng sau điều trị bằng thuốc kháng giáp trạng tổng hợp (điều trị nội khoa), phẫu thuật và bằng I-131. Các kết quả nghiên cứu đều cho thấy: không có bất kỳ bằng chứng nào để khẳng định với liều điều trị I-131 cho các bệnh nhân cường giáp lại có thể gây ra bệnh bạch cầu. Khi so sánh về tỉ lệ ung thư máu giữa điều trị bằng I- 131 và điều trị phẫu thuật cho các bệnh nhân cường giáp trạng, nhiều tác giả nhận thấy không có sự khác biệt về về tỉ lệ ung thư máu giữa hai phương pháp điều trị nói trên. Nói cách khác, những bệnh nhân Basedow và cường giáp được điều trị bằng I-131 và bằng phẫu thuật thì có tỉ lệ ung thư máu là tương đương nhau. Người ta đã rút ra kết luận là với liều điều trị I-131 cho bệnh nhân cường giáp trạng sẽ không làm tăng nguy cơ ung thư tuyến giáp. Dobyns B.M, Sheline G.E, Workman J.B và một số tác giả khác đã theo dõi từ 10- 20 năm sau điều trị bệnh Basedow nhận thấy tỉ lệ ung thư tuyến giáp ở nhóm điều trị thuốc kháng giáp cao gấp 5 lần so với nhóm điều trị bằng I-131 và 8 lần cao
  6. hơn ở nhóm phẫu thuật. Belfiore A. và Rivkees nhận thấy tỉ lệ ung thư giáp cao nhất ở nhóm điều trị bằng thuốc kháng giáp so với nhóm bệnh nhân đ ược điều trị bằng I-131 và phẫu thuật. Để đánh giá nguy cơ và các tổn thương về di truyền do sử dụng các đồng vị phóng xạ trong điều trị bệnh, người ta thường đánh giá trên những đối tượng trong lứa tuổi sinh đẻ. Việc đánh giá này ở nữ thường dễ và thuận lợi hơn là ở nam giới. Hàng loạt các công trình nghiên cứu cho thấy là các bệnh nhân bị cường giáp trạng đã được điều trị bằng I-131 có tỉ lệ sinh con bị dị tật bẩm sinh tương đương vớinhững người không được điều trị bằng I-131 (tỷ lệ này là khoảng 4 %). Như vậy, với một tỉ lệ khuyết tật bẩm sinh thấp và tương đương như trong cộng đồng dân chúng thì chúng ta có thể nói rằng việc điều trị I-131 cho các bệnh nhân cường giáp trạng là an toàn về mặt di truyền. Cho đến nay người ta không chứng minh được tác hại của nó với các thế hệ con cái được đẻ ra từ những người cha, người mẹ bị cường giáp đã từng được điều trị bằng I-131. Hamburger J.I.; Freitas J.E… đã nghiên cứu trên 500 đứa trẻ được sinh ra từ 370 bà mẹ (ông bố) đã được điều trị cường giáp bằng I-131 trong thời kỳ niên thiếu (lứa tuổi học đường). Kết quả cho thấy tỉ lệ dị tật bẩm sinh ở những đứa trẻ n ày tương đương như những đứa trẻ là con của các ông bố, bà mẹ bình thường (không dùng I-131).
  7. Để thay cho lời kết , chúng tôi xin trích dẫn lời khuyến cáo của Tổ chức y tế thế giới (WHO) và Uỷ ban năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) như sau: “Điều trị bệnh cường giáp trạng và bệnh Basedow bằng I-131 là một phương pháp điều trị an toàn, hiệu quả, kinh tế, dễ thực hiện. Đây là phương pháp đáng được lựa chọn trong các ph ương pháp điều trị bệnh Basedow và cường giáp trạng hiện nay”. PGS.TS. Mai Trọng Khoa Trưởng Khoa Y học hạt nhân và Điều trị ung bướu - BV Bạch Mai Phó Trưởng Bộ môn Y học hạt nhân – Đại học Y Hà Nội Ungthu.net.vn
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
11=>2