Khóa luận tốt nghiệp đại học ngành Triết học: Đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về mô hình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam
lượt xem 9
download
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở hệ thống hóa những nội dung liên quan đến tư duy lý luận và đổi mới tư duy lý luận, khóa luận làm rõ quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về mô hình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam nhằm tìm ra tính quy luật của quá trình này. Từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục thúc đẩy hơn nữa sự nghiệp đổi mới tư duy lý luận về mô hình phát triển kinh tế thị trường của nước ta hiện nay.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp đại học ngành Triết học: Đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về mô hình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------------- NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG ĐỔI MỚI TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG VỀ MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2015-X Hà Nội – 2019
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------------- NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG ĐỔI MỚI TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG VỀ MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2015-X Người hướng dẫn: TS. Lương Thùy Liên Hà Nội – 2019
- LỜI CẢM ƠN Hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, trước hết em xin chân thành cảm ơn sự dạy dỗ nhiệt tình của các thầy cô giáo trong khoa Triết học, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội trong suốt thời gian em học tập tại khoa, tại trường. Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn TS. Lương Thùy Liên đã trực tiếp hướng dẫn tận tình và chu đáo trong quá trình em thực hiện và hoàn thiện khóa luận tốt nghiệp này. Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng chắc chắn khóa luận sẽ không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy, các cô, cùng toàn thể các bạn để khóa luận này được hoàn thiện hơn. Hà Nội, ngày 26 tháng 4 năm 2019 Nguyễn Thị Lan Hương
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TƯ DUY LÝ LUẬN VÀ ĐỔI MỚI TƯ DUY LÝ LUẬN VỀ MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ......................................................................................................... 8 1.1. Một số vấn đề lý luận chung về tư duy lý luận và đổi mới tư duy lý luận .. 8 1.1.1. Tư duy lý luận.......................................................................................... 8 1.1.2. Đổi mới tư duy lý luận........................................................................... 21 1.2. Tính tất yếu của đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về mô hình xây dựng kinh tế thị trường ở Việt Nam. ........................................................... 27 1.2.1. Điều kiện khách quan. ........................................................................... 27 1.2.2. Nhân tố chủ quan. ................................................................................. 31 Tiểu kết chương 1............................................................................................ 36 Chương 2. QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI TƯ DUY LÝ LUẬN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ TIẾP TỤC ĐỔI MỚI TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG VỀ MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM. ............. 38 2.1. Quá trình đổi mới tư duy lý luận về mô hình kinh tế thị trường của Đảng từ 1986 đến nay ................................................................................... 38 2.1.1. Đổi mới tư duy lý luận về kết cấu, thành phần kinh tế. ........................ 40 2.1.2. Đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế. ........................................................ 50 2.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục đổi mới tư duy lý luận của Đảng về mô hình kinh tế thị trường ở Việt Nam ....................................... 54 Tiểu kết chương 2............................................................................................ 67 KẾT LUẬN .................................................................................................... 69 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 72
- MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Mô hình Chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô (cũ) sụp đổ đã đem đến những tổn thất vô cùng to lớn cho các phong trào cách mạng Xã hội chủ nghĩa trên thế giới. Điều này đã khiến cho sự phát triển của hình thái kinh tế xã hội Cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là Chủ nghĩa xã hội trở nên thụt lùi so với trước kia. Chiến tranh lạnh kết thúc, Mỹ và Tây Âu chiến thắng. Tuy nhiên, họ cũng phải chịu những tổn thất vô cùng nặng nề do chiến tranh gây ra. Chính vì vậy, các nước Mỹ và Tây Âu càng phải gấp rút phát triển kinh tế và trang bị sức mạnh quân sự cho mình ngày càng hoàn bị hơn. Sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã và đang thúc đẩy các nước Tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ trên các lĩnh vực kinh tế, quân sự... Các nước này đang tiến hành đẩy mạnh âm mưu diễn biến hòa bình trên tất cả các lĩnh vực đặc biệt là kinh tế, chính trị. Chính tình hình đó đã làm nảy sinh tư tưởng hoang mang ở một số nhà lãnh đạo, nhà nghiên cứu. Họ bắt đầu nghi ngờ về tính khả thi của Chủ nghĩa xã hội, họ đòi xem xét lại con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội, đồng thời ca tụng Chủ nghĩa tư bản. Nhiều khuynh hướng cải lương đã xuất hiện và có không ít người cho rằng việc phát triển theo Tư bản chủ nghĩa sẽ đem lại một tương lai xán lạn hơn đối với những nước Chủ nghĩa xã hội còn lại, cũng như các nước thuộc thế giới thứ ba. Điều này đã đặt ra những yêu cầu và thách thức lớn trong sự kiên định chọn lựa mục tiêu và định hướng xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Việt Nam đã áp dụng mô hình xây dựng Chủ nghĩa xã hội của Liên Xô (cũ) trong những năm 1960, 1970 và nửa đầu những năm 1980 của thế kỷ XX một cách thụ động, máy móc. Đường lối đó đã gây ra cuộc khủng hoảng trên nhiều lĩnh vực của đời sống, đặc biệt là kinh tế. Biểu hiện cụ thể của sự khủng 1
- hoảng này được thể hiện rõ qua các vấn đề xã hội như sau: kinh tế tụt hậu, kém phát triển; sản phẩm tiêu dùng nghèo nàn, không đa dạng; khoa học- kĩ thuật và công nghệ lạc hậu, quan liêu trong tổ chức hành chính... Những thực tiễn trên đã dần dần đánh mất và làm giảm dần lòng tin vào chế độ Xã hội chủ nghĩa của một bộ phận quần chúng nhân dân. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên. Trong đó phải kể đến một nguyên nhân quan trọng là do xuất phát từ tư duy, nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ về những khó khăn, phức tạp trên con đường phát triển lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Do đó, thực tiễn yêu cầu phải có tư duy mới, phải đổi mới tư duy lý luận về Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội. Đây là vấn đề cấp bách trong sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời là vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với sự tồn tại và phát triển của mô hình Xã hội chủ nghĩa hiện thực ở nước ta. Do những nguyên nhân nêu trên, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã đánh dấu bước ngoặt trong đổi mới tư duy lý luận của Đảng về Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Từ đó cho đến nay, nội dung của vấn đề này ngày càng được Đảng ta làm rõ hơn. Trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã nhấn mạnh: “Đối với nước ta, đổi mới đang là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn...Vì vậy, phải đổi mới- trước hết là đổi mới tư duy" [12,132- 133]. Đại hội này đã đánh dấu bước ngoặt trong quá trình đổi mới tư duy của Đảng về con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội đặc biệt trong vấn đề đổi mới tư duy lý luận về mô hình kinh tế thị trường ở nước ta. Đổi mới tư duy lý luận của Đảng là một trong những yêu cầu cấp bách đối với sự lãnh đạo Đảng, đồng thời đây cũng là một vấn đề cơ bản, lâu dài, có ý nghĩa chiến lược đối với cách mạng nước ta. Chính sự coi trọng việc đổi mới tư duy của Đảng đã thúc đẩy sự hoạt động của các nhà nghiên cứu, của đội ngũ cơ quan nghiên cứu lý luận cách mạng Đảng. Để nghiên cứu về quá 2
- trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về mô hình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam. Thông qua đó, thấy được ý nghĩa của tư duy lý luận trong nhận thức xã hội, trong hoạt động thực tiễn và đặc biệt đưa ra được những giải pháp cơ bản để tiếp tục đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về mô hình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam trong thời gian tới, nhằm góp phần đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả việc xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh... Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề này nhưng tôi nhận thấy vẫn cần có thêm những nghiên cứu một cách toàn diện và cấp thiết hơn. Do đó, tôi chọn đề tài “Đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về mô hình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam” làm đề tài khóa luận của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài. Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/ 1986) với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật. Đảng ta đã tiến hành đổi mới toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Đã có nhiều tác giả và tập thể tác giả, nhiều công trình nghiên cứu và nhiều bài viết liên quan đến vấn đề này. Có thể điểm qua một số công trình nghiên cứu sau: Lại Văn Toàn: “Đổi mới tư duy lý luận- tư duy lý luận trong sự nghiệp đổi mới”, tạp chí triết học, số 1-1988; tác giả đề cập vấn đề đổi mới tư duy lý luận đã được đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đề ra, cũng như tính cấp thiết của vấn đề đổi mới được thông qua, để thấy được vai trò của tư duy lý luận trong sự nghiệp đổi mới đất nước- đó là một nhân tố không nhỏ trong việc định hướng các sách lược, chiến lược phát triển đất nước. Trong cuốn sách: “Đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta” của TS. Nguyễn Đức Tài, Nxb Chính trị quốc gia, 2005: Tác giả đã khảo sát quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở nghiên cứu sự đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta trong các lĩnh vực cụ thể như kinh tế, văn hoá... Từ đó, chứng minh việc 3
- đổi mới tư duy lý luận là tất yếu để phát triển đất nước trong bối cảnh mới của thực tiễn. Trong cuốn sách: “Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta từ 1986 đến nay” do tập thể các tác giả Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo, Trần Khắc Việt, Lê Ngọc Tòng (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, 2006: Đây là cuốn sách tập hợp sự đóng góp của rất nhiều nhà nghiên cứu, là một công trình nghiên cứu có uy tín với sự tổng kết những hạn chế và thành tựu trong công cuộc đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về Chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Đồng thời chỉ ra những hạn chế trong nhận thức, tư duy về Chủ nghĩa xã hội trước đổi mới. Các tác giả đi vào khảo sát vấn đề đổi mới tư duy lý luận trong từng lĩnh vực cụ thể. Để từ đó, rút ra những bài học kinh nghiệm và yêu cầu tiếp tục đổi mới. Qua các công trình nghiên cứu, các tác giả đều cho rằng cách tư duy máy móc, siêu hình, chủ quan, duy ý chí v.v... là nguyên nhân cản trở quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Do vậy, việc đòi hỏi phải đổi mới tư duy lý luận là tất yếu. Đồng thời các bài viết, các công trình nghiên cứu cũng nhận định quá trình đổi mới phải dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, cần bổ sung và phát triển những thành tựu lý luận đã đạt được để đổi mới phương pháp tư duy, khắc phục lối tư duy kinh nghiệm... Các tác giả đã chỉ ra trong quá trình đổi mới cần phải bám sát vào thực tiễn, tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận, đây là yêu cầu mang tính chiến lược mà thực tiễn đặt ra cho hoạt động lý luận của Đảng. Như vậy, đổi mới tư duy lý luận đã nhận được nhiều sự quan tâm trong việc nhận thức, tổng kết, khái quát thực tiễn để từ đó tìm ra mô hình kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Vì thế, vấn đề đổi mới tư duy lý luận của Đảng về mô hình kinh tế thị trường là phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi phát triển của đất nước, là vấn đề mang tính cấp thiết hiện nay. 4
- Có thể nói, khi nghiên cứu về vấn đề đổi mới tư duy kinh tế của Đảng qua việc khảo sát các văn kiện của Đảng, mỗi tác giả sẽ có những phương pháp, cách thức tiếp cận vấn đề khác nhau. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu đó vẫn chỉ dừng lại ở cấp độ khái quát vấn đề một cách chung nhất, chưa có những nghiên cứu cụ thể đối với từng vấn đề, đặc biệt trong vấn đề đổi mới tư duy kinh tế của Đảng còn ít được đề cập đến. Trong khi đó, đời sống kinh tế- xã hội ở các nước nói chung và ở Việt Nam nói rieng đang không ngừng vận động, biến đổi và phát triển. Chính vì vậy mà đã làm xuất hiện rất nhiều vấn đề mới cần nghiên cứu. Từ những phân tích nêu trên, khóa luận muốn tiếp cận và làm rõ hơn quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về mô hình kinh tế thị trường, góp phần làm phong phú hơn kho tàng lý luận và thực tiễn về kinh tế trong giai đoạn hiện nay 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. - Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở hệ thống hóa những nội dung liên quan đến tư duy lý luận và đổi mới tư duy lý luận, khóa luận làm rõ quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về mô hình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam nhằm tìm ra tính quy luật của quá trình này. Từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục thúc đẩy hơn nữa sự nghiệp đổi mới tư duy lý luận về mô hình phát triển kinh tế thị trường của nước ta hiện nay. - Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích như đã nêu ở trên, khóa luận có những nhiệm vụ cụ thể như sau: Thứ nhất làm rõ các vấn đề lý luận chung về: lý luận, tư duy lý luận và đổi mới tư duy lý luận; tính tất yếu của việc đổi mới tư duy lý luận của Đảng về mô hình kinh tế thị trường ở Việt Nam. Thứ hai, làm rõ quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về mô hình kinh tế thị trường ở Việt Nam thông qua các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ từ năm 1986 đến nay. 5
- Từ đó đề ra một số giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục đổi mới tư duy lý luận của Đảng về mô hình kinh tế thị trường ở Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. - Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về mô hình phát triển kinh tế thị trường ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. - Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu các quan điểm đổi mới thông qua các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ về đổi mới và định hướng con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu. - Cơ sở lý luận: Cơ sở lý luận của đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, nhất là các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng về nhận thức và tư duy. - Phương pháp nghiên cứu: Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Phương pháp chủ yếu là phân tích- tổng hợp, thống nhất lịch sử- logic, khái quát hoá, trừu tượng hoá, so sánh, thống kê... Các phương pháp được sử dụng đan xen để làm rõ mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. 6. Đóng góp của đề tài. Đề tài đã hệ thống hoá và phân tích ở góc độ triết học vấn đề đổi mới tư duy lý luận về mô hình phát triển kinh tế thị trường của Đảng, thông qua các văn kiện Đại hội Đảng và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ. Từ đó đề tài kiến nghị một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục thực hiện đổi mới tư duy lý luận về mô hình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam trong giai đoạn sắp tới. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn. - Ý nghĩa lý luận: Khóa luận đã góp phần làm rõ vai trò của lý luận đối với việc chỉ đạo hoạt động thực tiễn trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội. 6
- - Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của khóa luận có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, giảng dạy, học tập môn học “Những nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin”, “Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam” cho sinh viên đại học, cao đẳng; hoặc môn học “giáo dục lý luận chính trị” ở các trường trung cấp, dạy nghề. 8. Kết cấu của đề tài. Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung chính của đề tài gồm 2 chương, 4 tiết. 7
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TƯ DUY LÝ LUẬN VÀ ĐỔI MỚI TƯ DUY LÝ LUẬN VỀ MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 1.1. Một số vấn đề lý luận chung về tư duy lý luận và đổi mới tư duy lý luận. 1.1.1. Tư duy lý luận. 1.1.1.1. Khái niệm của tư duy lý luận Tư duy được nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau và cũng là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau như: triết học, tâm lý học, lịch sử, ngôn ngữ học, logic học...Ví dụ như: triết học nghiên cứu tư duy trong quá trình nhận thức tri thức và hiện thực, trong mối liên hệ giữa chủ thể với khách thể; tâm lý học nghiên cứu tư duy trong các mối liên hệ với hành vi của con người, sự tác động của hệ thần kinh cấp cao não người với môi trường xung quanh; ngôn ngữ học nghiên cứu tư duy trong mối liên hệ với các tín hiệu ngôn ngữ; trong khi đó logic học nghiên cứu tư duy dưới góc độ tính chân thực hay tính giả đối của tư tưởng, nghiên cứu hình thức hay tính quy luật của tư duy…Mỗi ngành khoa học đều muốn khám phá tư duy dưới những góc độ riêng và thông qua những khám phá đó có thể chứng minh được vai trò to lớn của tư duy trong hoạt động thực tiễn cũng như trong nhận thức của con người. Vậy tư duy là gì? Có nhiều cách định nghĩa tư duy khác nhau. Trong cuốn giáo trình Lôgic học đại cương tư duy được định nghĩa như sau: “Tư duy là sự phản ánh gián tiếp và khái quát hiện thực khách quan vào đầu óc con người, được thực hiện bởi con người xã hội trong quá trình hoạt động thực tiễn cải biến thế giới xung quanh” [40,9]. Với tư cách là sự phản ánh gián tiếp và khái quát hiện thực khách quan vào đầu óc con người nên tư duy đóng vai trò vô cùng quan trọng không chỉ trong nhận thức mà ngay cả trong hoạt động thực tiễn của con người. Nhờ có tư duy mà con người có thể hoạt động theo những mô hình đã dự kiến, hoạch định sẵn. Nếu không có tư duy 8
- thì con người không thể hoạt động được. Cũng nhờ có tư duy không ngừng được đổi mới và biến đổi nên con người có thể cải biến các hoạt động nhận thức sao cho phù hợp với hoạt động trong thực tiễn. Tư duy góp phần tạo ra trong đời sống con người hình ảnh của toàn bộ thế giới với những chuẩn mực sống và các hệ giá trị phong phú, phức tạp. Cũng chính tư duy góp phần làm xóa bỏ những chuẩn mực cũ, hình thành nên những chuẩn mực mới cao hơn, phù hợp và hợp lý với nhu cầu xã hội hơn. Tư duy có khả năng phản ánh hiện thực khách quan nhưng nếu không sử dụng đúng cách tư duy có thể cản trở sự vận động của đời sống khách quan cũng như trong hoạt động kinh tế của con người. Trong hoạt động sống của mình con người chịu tác động của môi trường tự nhiên, đồng thời chính con người tại tác động trở lại môi trường tự nhiên ấy nhằm cải tạo thiên nhiên và phục vụ cho đời sống của chính bản thân mình. Trong mối quan hệ ấy, con người với tư cách là chủ thể đã tác động vào đối tượng khách quan bằng phương thức riêng biệt đặc trưng riêng cho loài của mình, đó chính là quá trình tư duy. Thực chất, tư duy chính là chức năng riêng có, riêng biệt của não người. Đó chính là quá trình ý thức con người tiếp cận và nắm bắt hiện thực. Tư duy là hình thức cao trong sự phản ánh hiện thực khách quan, trong đó con người qua các tài liệu thu được từ nhận thức cảm tính, thực hiện thông qua các thao tác tư duy (phân tích, tổng hợp, so sánh, phán đoán, suy lý...) phân tích các dữ kiện, tài liệu để đưa kết luận cuối cùng trong chuỗi phản ánh. Mỗi kết luận được đưa ra thường đem lại những tri thức mới. Nội dung của tư duy hình thành trên cơ sở các tài liệu của cảm giác, tri giác, biểu tượng về các sự vật và hiện tượng của thế giới bên ngoài tác động vào chủ thể tư duy. Nhưng quá trình tư duy không phải là sự tổng hợp đơn giản các cảm giác và tri giác ấy. Tư duy giúp cho chủ thể nhận thức phản ánh được những thuộc tính và mối liên hệ cơ bản không chỉ có ở những sự vật riêng lẻ, mà còn ở một nhóm sự vật. Tư duy có khả năng nắm bắt, phát hiện được bản chất của sự vật 9
- ngày càng sâu sắc hơn. Tư duy con người có nhiều đặc trưng, trong đó phải kể đến những đặc trưng cơ bản sau: tính gián tiếp, khái quát hoá, trừu tượng hoá, tính tích cực và sáng tạo. Thế giới khách quan là vô cùng phong phú và đa dạng mà tư duy là kết quả của sự tác động bởi yếu tố khách quan và chủ quan. Vì vậy, quá trình tư duy là một quá trình phức tạp, nó không tiến hành phản ánh một lần mà phải thực hiện cả một chuỗi phản ánh để đi đến nhận thức sâu sắc về đối tượng. Khả năng “tư duy của con người vừa tối cao vừa không tối cao, và khả năng nhận thức của con người vừa vô hạn vừa có hạn. Tối cao và vô hạn là xét theo bản tính, sứ mệnh, khả năng và mục đích lịch sử cuối cùng; không tối cao và có hạn là xét theo sự thực hiện riêng biệt và thực tế trong mỗi thời điểm nhất định” [27, 127]. Do đó, tư duy của con người với sản phẩm của nó, không phải tất cả đều là chân lý, và không thể là một “chân lý vĩnh cửu”. Trên thực tế, vì tư duy có tính sáng tạo; do đó, nó có khả năng vượt trước thực tiễn, đi trước hiện thực khách quan. Tuy nhiên, cũng vì sự linh động này mà đôi khi tư duy dễ mắc phải những sai lầm trong quá trình phản ánh. Điều này làm cho tư duy được thể hiện ra rất phong phú về độ phản ánh cũng như phương pháp phản ánh. Ở đây, chúng ta xem xét đến mối quan hệ giữa tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận để xem xét và trả lời cho câu hỏi: Vậy thì trình độ tư duy có mối liên hệ như thế nào với phương pháp tư duy và nó có vai trò như thế nào trong đời sống hiện thực, điểm khác biệt của chúng là ở đâu? Trong mối quan hệ giữa tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận, chúng ta thấy rõ được sự tác động qua lại giữa hai trình độ tư duy này, chúng không hoàn toàn phủ định nhau một cách sạch trơn mà đó là sự phủ định có tính kế thừa, mặc dù có sự khác biệt rõ nét. Tư duy kinh nghiệm là một giai đoạn tất yếu của nhận thức lý tính, nó có vai trò quan trọng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người. Việc đánh giá đúng vai trò, vị trí của tư duy kinh nghiệm để có thể phát huy 10
- những ưu điểm, khắc phục những hạn chế của nó là việc làm cần thiết trong quá trình phát triển kinh tế- xã hội. Tư duy kinh nghiệm được hình thành một cách trực tiếp trong quá trình hoạt động thực tiễn của chủ thể nhằm mục đích cải biến khách thể. Nó thường phản ánh những thuộc tính, tính chất của các đối tượng có tác động trực tiếp tới chủ thể. Đối tượng phản ánh của nó là những thuộc tính, tính chất của khách thể hiện thực; ngược lại, đối tượng của tư duy lý luận là những khách thể trừu tượng. Sự khác nhau về mặt đối tượng được xem là dấu hiệu căn bản để phân biệt hai giai đoạn kinh nghiệm và lý luận trong nhận thức. Từ những phân tích ở trên, có thể rút ra định nghĩa như sau: Tư duy lý luận là giai đoạn cao nhất của tư duy, là quá trình mà tư duy tiếp cận, nắm bắt, nhận thức và tái tạo hiện thực khách quan bằng lý luận và thường được thể hiện ra ở các giả thuyết, các lý thuyết có quan hệ tương hỗ với nhau. Tư duy lý luận có những đặc trưng cơ bản sau: Là giai đoạn cao nhất của tư duy. Tư duy lý luận không phản ánh hiện thực bằng các khái niệm thông thường mà nó phản ánh thông qua các khái niệm lý luận. Sản phẩm hay hình thức biểu hiện của tư duy thường được biểu hiện thông qua các giả thuyết khoa học. Tư duy lý luận là trình độ cao hơn về chất so với tư duy kinh nghiệm. Sản phẩm của tư duy lý luận là những tri thức lý luận, trong khi đó sản phẩm của tư duy kinh nghiệm lại là những mảnh đoạn rời rạc. Tư duy lý luận phản ánh bản chất, quy luật ở các cấp độ, các giai đoạn, các hình thức của sự vật, hiện tượng. Nó nghiên cứu một cách kỹ càng các tầng lớp bên trong của sự vật và bóc tách các vấn đề để phản ánh một cách sâu nhất về đối tượng, phản ánh xu thế vận động của đối tượng nên tư duy lý luận có khả năng bao quát, bám sát sự vận động của đối tượng cũng như có khả năng vượt lên trên và dẫn đường, định hướng cho sự vận động và phát triển của đối tượng. Tư duy lý luận có thể được hiểu theo 3 cách là động từ, tính từ và danh từ. 11
- Với tư cách là động từ: tư duy lý luận được hiểu là quá trình mà tư duy lý luận đang vận động để khám phá, nắm bắt, tái tạo hiện thực. Với tư cách là danh từ: Tư duy lý luận được hiểu như là một quá trình, một kết quả đã có, đã hình thành. Với tư cách là tính từ: tư duy lý luận thường được hiểu thông qua các cặp đối lập của nó. Có hai yếu tố chủ yếu để cấu thành nên tư duy lý luận là chủ thể và khách thể của tư duy lý luận. Mặt khách thể của tư duy lý luận là toàn bộ những mối liên hệ chung nhất bên trong, tất yếu làm nên bản chất và quy luật của tự nhiên, xã hội và của chính con người. Mặt chủ thể của tư duy lý luận là những thứ liên quan đến hoạt động của não người và thường được thể hiện ra ở ba chủ thể chính là cá nhân, tập thể, dân tộc. Tư duy lý luận cần đáp ứng được các đặc trưng và yêu cầu sau: Thứ nhất, tư duy đó phải có một hệ thống ngôn ngữ chọn lọc là ngôn ngữ lý luận; thứ hai, về yêu cầu: tư duy lý luận mỗi thời đại bao giờ cũng đạt đến trình độ khái quát và tính chân lý cao nhất. Chính vì vậy mà chủ thể của tư duy lý luận cần thỏa mãn bốn yêu cầu sau: Một là, chủ thể của tư duy lý luận phải là những người có khả năng trí tuệ cao bao gồm khả năng quan sát, ghi nhớ tốt, năng lực tư duy trừu tượng cao, năng lực tưởng tượng và năng lực thực tiễn duy lý; hai là, chủ thể tư duy lý luận phải được đào tạo, rèn luyện, trang bị về tri thức, ngôn ngữ, logic toán, và các phương pháp khoa học; ba là, chủ thể tư duy lý luận phải được trang bị các điều kiện vật chất như là các công cụ, thiết bị, phương tiện và các điều kiện vật chất khác vào trong phương tiện kĩ thuật; bốn là, chủ thể tư duy lý luận phải được rèn luyện trong phong trào Cách mạng, thực tiễn và quần chúng. Đặc trưng riêng của tư duy lý luận đó là: hệ thống ngôn ngữ và kí hiệu này được xây dựng rất khái quát, chặt chẽ, chính xác, rõ ràng và được sử dụng tương đối thống nhất; ngôn ngữ lý luận là ngôn ngữ được chuyên môn hóa sâu sắc để giúp cho tư duy lý luận phản ánh ngày càng đầy đủ hơn đối tượng nghiên cứu của mình. 12
- Cũng giống tư duy thông thường tư duy lý luận sử dụng các thao tác sau: Phân tích- tổng hợp; so sánh- phân loại; trừu tượng hóa; lý tưởng hóa; trung gian hóa và cụ thể hóa; hệ thống hóa; khái quát hóa. Các thao tác này trong tư duy lý luận được sử dụng đầy đủ nhất, chính xác nhất và có hiệu quả nhất vì: Các thao tác này trong tư duy lý luận thường lặp đi lặp lại gần như chuyên dụng trong tư duy lý luận. Trong tư duy lý luận, các thao tác này thường được sắp xếp thành một hệ thống chặt chẽ, tương ứng với các phương pháp tư duy khoa học. Trong việc vận động và phát triển của các thao tác này, từ việc mở rộng phạm vi ứng dụng đến việc nâng cao năng lực của các thao tác đã biết, đồng thời còn phát hiện ra những khả năng mới của các thao tác đó hoặc phát hiện, xây dựng và sử dụng những thao tác mới hoàn toàn của tư duy đều nhờ tư duy lý luận đóng vai trò là chất xúc tác chủ yếu. Là những cấp độ khác nhau của cùng một quá trình nhận thức lý tính, nhưng tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận không đối lập, tách rời nhau, mà thống nhất với nhau thông qua hoạt động thực tiễn. V.I.Lênin đã từng khẳng định: “Muốn hiểu biết thì phải bắt đầu tìm hiểu, nghiên cứu từ kinh nghiệm, từ kinh nghiệm mà đi đến cái chung” [21,220]. Ở nước ta, một số công trình nghiên cứu đã đồng nhất tư duy kinh nghiệm với nhận thức cảm tính; hoặc chỉ coi “tư duy kinh nghiệm là thứ tư duy tiền khoa học” [24,55]. Quan niệm đó đã dẫn đến việc tuyệt đối hoá vai trò của tư duy lý luận; coi thường tư duy kinh nghiệm. Thực chất, tư duy kinh nghiệm là giai đoạn tất yếu của nhận thức lý tính. Do vậy, nó cũng có khả năng phát hiện các quy luật và định hướng hoạt động thực tiễn của con người, chứ không chỉ tư duy lý luận mới có thể làm được việc này. Có thể thấy, vai trò của tư duy kinh nghiệm đối với hoạt động nhận thức và thực tiễn kém hơn tư duy lý luận, tuy nhiên không vì thế mà chúng ta có thể tuyệt đối hoá vai trò của tư duy lý luận, hoặc xem nhẹ vai trò của tư duy kinh nghiệm. Tư duy kinh nghiệm hướng tới giải quyết những nhiệm vụ trước mắt, cụ thể, đang đặt ra; phát hiện và giải quyết vấn đề một cách trực tiếp. Do có 13
- khả năng trực tiếp phản ánh hiện thực khách quan, nên tư duy kinh nghiệm rất mềm dẻo, linh hoạt, năng động và nhạy cảm trước thực tiễn, dễ thích nghi với những thay đổi của thực tiễn. Giữa lý luận và thực tiễn vẫn còn là một khoảng cách, tư duy kinh nghiệm là nhịp cầu nối quan trọng giữa tư duy lý luận và thực tiễn, gắn lý luận với thực tiễn. Tư duy lý luận có khoảng cách rất xa thực tiễn nên nhiều khi các phương án giải quyết vấn đề của tư duy lý luận thiếu tính đặc thù, nghĩa là thiếu sự phù hợp giữa khách thể trừu tượng, chung với khách thể hiện thực cụ thể. Do vậy, tư duy lý luận có thể dẫn đến những giải pháp không phù hợp để giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra. Việc trong một thời gian dài, chúng ta quan niệm cần phải phát triển quan hệ sản xuất trước một bước nhằm tạo điều kiện, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển đã dẫn đến kết quả ngược lại, là một ví dụ. Hiện nay, do tư duy lý luận ở nước ta còn nhiều yếu tố giáo điều, tư biện, nên chưa đưa ra được giải pháp phù hợp trong việc giải quyết những vấn đề mà thực tiễn đang đặt ra một cách hiệu quả. Ví dụ, việc quy hoạch mạng lưới giao thông ở các thành phố lớn, các chiến lược giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực, một số chương trình phát triển kinh tế… Về vấn đề này, tác giả Ngô Đình Xây đã viết: “Kiểu tư duy lý luận một cực là sách vở giáo điều và cực kia là thực tiễn vụn vặt là nét nổi bật thứ ba trong tư duy lý luận và cũng là của tư duy lý luận ở nước ta hiện nay. Khi lý tưởng hoá đi đến tuyệt đối hoá chức năng trừu tượng, tuyệt đối hoá khía cạnh lý thuyết thuần tuý tư duy lý luận đã bỏ rơi nguyên tắc: sức mạnh có thể có ở lý luận là ở chỗ nó gắn liền với thực tiễn và khi tư duy lý luận đã quên mất nguyên tắc đó, nó chỉ có thể tạo dựng những lý thuyết trừu tượng cách biệt quá lớn với thực tiễn, và như vậy nó giúp ích được gì cho thực tiễn?” [41, 34]. Chính vì vậy, nếu kết hợp tư duy lý luận và tư duy kinh nghiệm một cách hợp lý thì chắc chắn chúng ta sẽ đưa ra được những giải pháp phù hợp hơn với thực tiễn. 14
- Trong mối quan hệ với tư duy lý luận, tư duy kinh nghiệm không những là cơ sở, tiền đề cho tư duy lý luận, mà còn đóng vai trò trung gian để lý luận thực hiện có hiệu quả vai trò định hướng và chỉ đạo thực tiễn. Lý luận không có thực tiễn là lý luận suông, thực tiễn không có lý luận là thực tiễn mù quáng. Những tri thức khoa học có mức độ trừu tượng hoá và khái quát hoá rất cao, nhưng trong thực tiễn hầu như hoàn toàn không có những khách thể trừu tượng như vậy. Trải qua hơn ba mươi năm tiến hành đổi mới, sự phát triển, bổ sung lý luận về xây dựng Chủ nghĩa xã hội của Đảng qua các kỳ đại hội đã khẳng định rằng, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn là nhiệm vụ hết sức quan trọng, là cơ sở khoa học để đẩy mạnh đổi mới tư duy lý luận của Đảng. Qua quá trình phân tích ở trên, chúng ta có thể thấy rằng, tư duy kinh nghiệm là nấc thang tất yếu và không thể thiếu của tư duy trong quá trình nhận thức và chỉ đạo hoạt động thực tiễn cải biến thế giới khách quan của con người. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng, bên cạnh những ưu điểm, tư duy kinh nghiệm cũng còn có những mặt hạn chế nhất định. Trong quá trình phát triển và hội nhập hiện nay, nếu chúng ta không khắc phục một cách kịp thời những tác động tiêu cực đó, thì chúng sẽ gây ra nhiều hậu quả hết sức nghiêm trọng. Do được hình thành trực tiếp trong quá trình con người nhận thức và cải tạo thế giới khách quan, nên tư duy kinh nghiệm vẫn mang tính tự phát trong việc giải quyết những vấn đề cụ thể của thực tiễn đặt ra. Một hạn chế khác của tư duy kinh nghiệm là tính duy lý yếu. Vì vậy, tư duy kinh nghiệm thường có độ chính xác không cao, ít có khả năng định hướng, chỉ đạo hoạt động thực tiễn ở tầm chiến lược một cách hiệu quả. Do yếu về tính duy lý, tư duy kinh nghiệm thường mang tính định tính nhiều hơn định lượng, thiếu chính xác hơn tư duy lý luận. Đồng thời, do ít có khả năng phân tích, phê phán và tự phê phán, người tư duy kinh nghiệm thường suy nghĩ đơn giản, máy móc, thụ động, ít sáng tạo. Chính điều này đã dẫn đến việc áp dụng một 15
- cách máy móc kinh nghiệm của người khác, địa phương khác mà không tính đến những yếu tố đặc thù của địa phương mình. Trong hoạt động thực tiễn, nếu người ta chỉ dừng lại ở trình độ tư duy kinh nghiệm sẽ không có khả năng nhận thức được bản chất của các sự vật và hiện tượng, do đó sẽ không nắm được những biến đổi phong phú, đa dạng của hiện thực để cải biến nó phục vụ lợi ích của con người. Do đó, muốn cải biến hiện thực theo nghĩa sáng tạo ra hiện thực mới, con người phải nhận thức, khám phá được bản chất, quy luật vận động khách quan của nó bằng tính chặt chẽ, chính xác và sáng tạo của tư duy lý luận. Hơn nữa, cần phải kết hợp nhuần nhuyễn tư duy lý luận với tư duy kinh nghiệm để phát huy những mặt mạnh, cũng như khắc phục những mặt hạn chế của mỗi loại hình tư duy. Đó là cách để phát huy vai trò định hướng và chỉ đạo của lý luận đối với hoạt động thực tiễn nhằm cải tạo hiện thực khách quan một cách có hiệu quả. Ph. Ăngghen nói: “Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận” [26, 489]. Bởi vì, tư duy lý luận cho phép nhà nghiên cứu vạch mở được bản chất phát triển của khách thể nghiên cứu, tạo bước chuyển về chất của đối tượng từ trạng thái này sang trạng thái khác phát hiện và phản ánh vào khoa học các luận điểm, lý thuyết, quy luật tồn tại và phát triển của nó mà nhận thức cảm tính không thể tiếp cận được. “Nhưng làm thế nào khoa học tự nhiên đã chuyển sang lĩnh vực lý luận và trong lĩnh vực này những phương pháp kinh nghiệm trở nên bất lực, chỉ có tư duy lý luận mới có thể giúp ích được” [26, 487]. Bằng tư duy lý luận con người khám phá bản chất, khoan sâu đến bản chất của hiện tượng. Tư duy lý luận đóng vai trò là chất keo dính các sự kiện, hiện tượng, các mối liên hệ, quan hệ của sự vật, hiện tượng. “Dù người ta tỏ ý khinh thường tư duy lý luận như thế nào đi nữa, nhưng không có tư duy lý luận thì người ta cũng không thể liên kết hai sự kiện trong giới tự nhiên với nhau được, hay không thể hiểu được mối liên hệ giữa hai sự liên kết đó” [26, 508]. Tư duy lý luận gắn kết 16
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Khóa luận tốt nghiệp Đại học: Khảo sát ảnh hưởng của một số yếu tố trong quá trình lên men tỏi đen và phân tích một số hoạt chất trong tỏi đen
51 p | 380 | 104
-
Đề cương Khóa luận Tốt nghiệp Đại học: Hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Xuất Nhập Khẩu An Giang Angimex
71 p | 705 | 71
-
Khóa luận tốt nghiệp đại học: Nghiên cứu khả năng sinh trưởng và phát triển của chủng nấm sò trắng (Pleurotus florida) trên giá thể mùn cưa bồ đề
48 p | 326 | 68
-
Khóa luận tốt nghiệp Đại học: Thực trạng kế toán nguyên vật liệu tại Công ty Cổ phần Việt Trì Viglacera
89 p | 288 | 51
-
Khóa luận tốt nghiệp Đại học: Thiết kế phần mở đầu và củng cố bài giảng môn Hóa học lớp 11 THPT theo hướng đổi mới
148 p | 186 | 40
-
Khóa luận tốt nghiệp đại học: Người kể chuyện trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh
72 p | 201 | 27
-
Tóm tắt Khóa luận tốt nghiệp Đại học: Quản lý rác thải tại bệnh viện đa khoa Thủ Đức hiện trạng một số giải pháp
20 p | 177 | 24
-
Khóa luận tốt nghiệp Đại học ngành Công nghệ thông tin: Phân đoạn từ Tiếng Việt sử dụng mô hình CRFs
52 p | 191 | 24
-
Khóa luận tốt nghiệp Đại học: Khảo sát khả năng hấp phụ Amoni của vật liệu đá ong biến tính
59 p | 134 | 23
-
Khóa luận tốt nghiệp Đại học: Kỹ năng nhập vai của nhà báo viết điều tra - Nguyễn Thùy Trang
127 p | 179 | 22
-
Khóa luận tốt nghiệp Đại học ngành Công nghệ sinh học: Khảo sát hiệu quả của thanh trùng lên một số chỉ tiêu chất lượng của rượu vang
53 p | 188 | 21
-
Khóa luận tốt nghiệp đại học: Nghiên cứu tình trạng methyl hóa một số chỉ thị phân tử ở bệnh nhân ung thư đại trực tràng Việt Nam
47 p | 77 | 15
-
Khóa luận tốt nghiệp Đại học: Khảo sát hiệu ứng trùng phùng tổng trong đo phổ Gamam
74 p | 92 | 12
-
Khóa luận tốt nghiệp Đại học: Xác định hoạt động phóng xạ trong mẫu môi trường bằng phương pháp FSA
65 p | 93 | 12
-
Khóa luận tốt nghiệp Đại học: Xây dựng quy trình chế tạo mẫu chuẩn Uran và Kali để xác định hoạt độ phóng xạ trong mẫu đất
54 p | 110 | 11
-
Khóa luận tốt nghiệp Đại học: Xây dựng chương trình mô phỏng vận chuyển Photon Electron bằng phương pháp Monte Carlo
71 p | 94 | 11
-
Khóa luận tốt nghiệp đại học: Nghiên cứu tình trạng methyl hoá chỉ thị phân tử SEPT9 ở bệnh nhân ung thư đại trực tràng Việt Nam
84 p | 69 | 11
-
Khóa luận tốt nghiệp Đại học: Xây dựng chương trình hiệu chỉnh trùng phùng cho hệ phổ kế gamma
69 p | 104 | 10
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn