intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khóa luận tốt nghiệp đại học ngành Triết học: Quan niệm của Jean Jacques Rousseau trong tác phẩm “Bàn về khế ước xã hội”

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:61

80
lượt xem
18
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Khóa luận tập trung làm rõ quan niệm về tự do của Rousseau trong tác phẩm Bàn về khế ước xã hội, từ đó đưa ra đánh giá về giá trị và hạn chế của quan niệm đó. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp đại học ngành Triết học: Quan niệm của Jean Jacques Rousseau trong tác phẩm “Bàn về khế ước xã hội”

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN KHOA TRIẾT HỌC ----------------------- NGUYỄN XUÂN QUANG QUAN NIỆM VỀ TỰ DO CỦA JEAN JACQUES ROUSSEAU TRONG TÁC PHẨM “BÀN VỀ KHẾ ƢỚC XÃ HỘI” KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2016-X HÀ NỘI, 2020
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN KHOA TRIẾT HỌC ----------------------- NGUYỄN XUÂN QUANG QUAN NIỆM VỀ TỰ DO CỦA JEAN JACQUES ROUSSEAU TRONG TÁC PHẨM “BÀN VỀ KHẾ ƢỚC XÃ HỘI” KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2016-X NGƯỜI HƯỚNG DẪN: CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG: PGS.TS NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN PGS.TS NGUYỄN THỊ THÚY VÂN HÀ NỘI, 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn về đề tài Quan niệm của Jean Jacques Rousseau trong tác phẩm “Bàn về khế ước xã hội” là công trình nghiên cứu nghiêm túc của tôi. Các kết quả trình bày trong luận văn là trung thực. Các thông tin trích dẫn trong luận văn có xuất xứ rõ ràng và được phép công bố. Hà Nội, ngày 29 tháng 5 năm 2020 Sinh viên Nguyễn Xuân Quang 1
  4. LỜI CẢM ƠN Trước hết, em xin được tỏ lòng biết ơn và gửi lời cảm ơn chân thành đến Cô giáo PGS.TS Nguyễn Thị Thanh Huyền đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn, động viên trong suốt quá trình nghiên cứu để em có thể hoàn thành luận văn của mình. Em xin cảm ơn quý Thầy, Cô khoa Triết học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tận tình chỉ dạy và trang bị cho em những kiến thức cần thiết trong suốt thời gian ngồi trên ghế giảng đường, làm nền tảng cho em có thể hoàn thành được bài luận văn này. Và cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến bạn bè tập thể lớp K61-Triết học, những người đã từng đồng hành, sẻ chia và giúp đỡ trong học tập cũng như trong cuộc sống. Em xin trân trọng cảm ơn! Hà Nội, ngày 29 tháng 5 năm 2020 Sinh viên Nguyễn Xuân Quang 2
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 4 NỘI DUNG....................................................................................................... 10 CHƢƠNG 1: ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ CHO SỰ RA ĐỜI QUAN NIỆM VỀ TỰ DO CỦA J.J ROUSSEAU TRONG TÁC PHẨM BÀN VỀ KHẾ ƢỚC XÃ HỘI ..................................................................................... 10 1.1. Những điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa cho sự ra đời quan niệm về tự do của Rousseau ..................................................................................... 10 1.2. Những tiền đề lý luận cho sự ra đời của quan niệm về tự do của Jean Jacques Rousseau ........................................................................................ 13 1.3. Jean Jacques Rousseau – cuộc đời và tác phẩm Bàn về khế ước xã hội25 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ......................................................................... 33 CHƢƠNG 2: NỘI DUNG CƠ BẢN QUAN NIỆM VỀ TỰ DO CỦA JEAN JACQUES ROUSSEAU TRONG TÁC PHẨM BÀN VỀ KHẾ ƢỚC XÃ HỘI ............................................................................................... 34 2.1 Quan niệm về tự do trong trạng thái tự nhiên ....................................... 34 2.2. Quan niệm về tự do của con người trong trạng thái xã hội công dân . 37 2.3. Biện pháp thực hiện quyền tự do của con người ................................. 40 2.4. Đánh giá quan niệm về tự do của Rousseau ........................................ 51 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ......................................................................... 54 KẾT LUẬN ...................................................................................................... 55 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 57 3
  6. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Tự do là chủ đề xuyên suốt trong tư tưởng triết học chính trị, đạo đức trong lịch sử. Khái niệm tự do luôn gắn liền với khái niệm con người. Trong suốt chiều dài lịch sử của nhân loại, hai khái niệm này tạo thành một mối quan hệ cực kỳ mật thiết, quan hệ biện chứng và phát triển. “Có thể khẳng định rằng, triết học là sự tìm tòi những con đường giải phóng con người (khỏi sự thống trị của thần linh, khỏi những cám dỗ của dục vọng cơ thể, khỏi cảm tính, khỏi áp bức và bóc lột, khỏi sự thống trị tuyệt đối của lý tính…) và tự do (như là kết quả của sự giải phóng ấy) chính là cái đích mà triết học cố gắng tìm ra và luận chứng những con đường đưa con người tới đó” [5, 152]. Vì vậy mà các nhà triết học phương Tây Cận đại, trong đó có các nhà triết học Khai sáng thể kỷ XVIII đã bàn nhiều tới vấn đề này. Với ý tưởng chung là lý tưởng về sự tiến bộ xã hội, những tác phẩm của họ như là vũ khí lý luận của giai cấp tư sản trong thời kỳ chuẩn bị cách mạng, đòi hỏi quyền tự do, bình đẳng. Chính vì vậy, trào lưu tư tưởng tiến bộ và cách mạng đó không chỉ ảnh hưởng ở Pháp mà còn ảnh hưởng khá rộng đến châu Âu lúc bấy giờ. Điều đó góp phần tạo nên vị thế và sức ảnh hưởng không nhỏ của triết học Khai sang Pháp thế kỷ XVIII đến tiến trình phát triển của lịch sử triết học phương Tây. Jean Jacques Rousseau là một trong những đại diện tiêu biểu của triết học Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII, đồng thời cũng là một trong những người đã đặt nền móng tư tưởng cho cuộc đại cách mạng tư sản Pháp (1789-1794) và cho cuộc đấu tranh vì tự do, dân chủ ở khắp nơi trên thế giới. Với tinh thần đấu tranh cho sự phát triển xã hội, ông đã dành toàn bộ thời gian, sức lực viết những tác phẩm để bênh vực quyền tự do, bình đẳng. Tư tưởng về ý chí chung, khế ước xã hội, về quyền lực tối cao hay quyền lập pháp đã trở thành 4
  7. chất xúc tác cho tư tưởng cách mạng của giai cấp tư sản Pháp. Đặc biệt tư tưởng về tự do và bình đẳng của Rousseau đã trở thành một nội dung cơ bản của Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1791. Tư tưởng về tự do của Rousseau là đóng góp vô cùng quan trọng trong học thuyết triết học chính trị - xã hội của ông. Theo đó quyền tự do như là quyền tất yếu, tự nhiên của con người. Tác phẩm Bàn về khế ước xã hội là tác phẩm chính trị nổi bật nhất trong số các tác phẩm của Rousseau, thể hiện nội dung chính trong toàn bộ quan niệm về tự do của ông. Như một thứ vũ khí dùng đấu tranh, tác phẩm đã phê phán, lên án những thói hư tật xấu của thiết chế phong kiến đương thời đang đi đến suy vong. Ngày nay, nhiều nội dung tư tưởng triết học trong tác phẩm này vẫn được kế thừa và được nhắc đến trong các văn kiện chính trị quan trọng như là biểu hiện của một tinh thần cách mạng mang tính nhân loại. Việc đi sâu nghiên cứu quan niệm về tự do của Rousseau góp phần khẳng định giá trị tư tưởng triết học chính trị của ông, cũng như ý nghĩa hiện thời của tư tưởng đó trong bối cảnh thế giới hiện nay khi mà nhiều nơi quyền tự do của con người vẫn bị xâm phạm. Với những lý do trên, tôi quyết định chọn vấn đề: Quan niệm về tự do của Jean Jacques Rousseau trong tác phẩm “Bàn về khế ƣớc xã hội” làm đề tài khóa luận mình. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Ở Việt Nam, những công trình nghiên cứu về các tư tưởng triết học của Rousseau xuất hiện khá nhiều, đặc biệt là nghiên cứu về tư tưởng chính trị - xã hội. Tuy nhiên, việc nghiên cứu chuyên sâu tư tưởng cũng như quan niệm về tự do của ông là chưa nhiều. Thông thường, người đọc thường rút ra những khía cạnh về quan niệm tự do từ những nội dung tư tưởng triết học của 5
  8. Rousseau. Do đó, về đề tài tư tưởng tự do của Rousseau trong tác phẩm Bàn về khế ước xã hội vẫn chủ yếu là các công trình nghiên cứu gián tiếp. Các công trình nghiên cứu trực tiếp bằng tiếng Việt về quan niệm tự do của Rousseau trong tác phẩm Bàn về khế ước xã hội có thể kế đến như phần giới thiệu của học giả Hoàng Thanh Đạm trong cuốn Bàn về khế ước xã hội do chính ông dịch và tái bản năm 2018. Tiếp đến, trong một số luận văn tiến sỹ, thạc sĩ, một số bài báo, cụ thể như: “Tư tưởng của J.J Rousseau về quyền con người” (2014), bài đăng Tạp chí Triết học số 6 của Nguyễn Thị Thanh Huyền; “Đôi nét về triết lý “phản khai sáng” của J.J Rousseau (2017), bài đăng Tạp chí triết học số 6 của Đỗ Minh Hợp; “Quan niệm về con người trong triết học khai sáng Pháp” (2007), luận văn thạc sĩ triết học của Phạm Thị Thu Hương; “Tư tưởng của J.J Rousseau về giáo dục qua tác phẩm “Émile hay là về giáo dục” (2010), luận văn thạc sĩ triết hoc của Nguyễn Thị Tuyết Thanh; “Triết học chính trị J.J Rousseau và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay” (2014), luận án tiến sĩ triết học của Nguyễn Thị Châu Loan; “Quan niệm của J.J Rousseau về quyền lực và sự phân chia quyền lực nhà nước trong tác phẩm Bàn về khế ước xã hội” (2015), luận văn thạc sĩ triết học của Phạm Thị Huyên “Tư tưởng triết học chính trị của Rútxô trong tác phẩm “Bàn về khế ước xã hội” (2008), luận văn thạc sĩ triết học của Nguyễn Thị Châu Loan; “Tư tưởng của Rútxô về quyền tự do, về bình đẳng và về nhà nước”, luận văn thạc sĩ triết học của Nguyễn Thị Thanh Minh. Như vậy, có thể nói, ở Việt Nam dù đã có nhiều công trình nghiên cứu về tư tưởng chính trị - xã hội của Rousseau nhưng quan niệm về tự do chỉ được bàn đến như một phần nhỏ trong quan niệm chính trị - xã hội hay quan niệm về quyền con người; vẫn còn thiếu vắng các công trình nghiên cứu 6
  9. chuyên sâu và hệ thống về quan niệm tự do của Rousseau trong tác phẩm “Bàn về khế ước xã hội”. Các công trình nghiên cứu gián tiếp có liên quan đến đề tài khóa luận có một số lượng không nhỏ. Có thể kể đến các cuốn giáo trình, bài giảng, sách tham khảo và bài viết như cuốn “Lịch sử các tư tưởng chính trị” (2001) của Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, cuốn “Triết học thời kỳ tiền tư bản chủ nghĩa, Triết học khai sáng từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XIX” (1962) của Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô, cuốn “Lịch sử triết học” (1998) do GS. Nguyễn Hữu Vui làm chủ biên, cuốn “Triết học chính trị Môngtexkiơ với việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam” (2006) của Lê Tuấn Huy, cuốn “Đại cương lịch sử triết học phương Tây” (2006) của Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn Thanh, cuốn “Lịch sử các học thuyết chính trị trên thế giới” (1993) do Lưu Kiếm Thanh, Phạm Hồng Thái dịch, “Quan niệm về con người trong Triết học Khai sáng Pháp” (2007), luận văn thạc sĩ triết học của Phạm Thị Thu Hương,… Các tư liệu trên chỉ dừng lại ở những khái quát chung về phong trào Khai sáng Pháp và về các tư tưởng triết học cơ bản của các đại biểu của nó, trong đó có đề cập đến quan niệm về tự do mà chưa phân tích một cách chuyên sâu và có tính hệ thống về quan niệm về tự do của ông. Như vậy, có thể thấy số lượng các công trình nghiên cứu về tư tưởng tự do của Rousseau trong tác phẩm “Bàn về khế ước xã hội” chủ yếu mới chỉ dừng lại ở những thông tin khái quát chung về phong trào Khai sáng Pháp và về các tư tưởng triết học cơ bản của các đại biểu của nó, hoặc tư tưởng triết học chính trị - xã hội của Rousseau nói chung. Vì vậy việc tiếp tục đi sâu nghiên cứu hệ thống quan niệm về tự do của Rousseau trong tác phẩm “Bàn về khế ước xã hội” góp phần tiếp tục khẳng định giá trị lịch sử và hiện thời 7
  10. của tư tưởng triết học Rousseau. Những công trình nghiên cứu trên là tài liệu tham khảo quý giá và những gợi mở quan trọng cho việc hoàn thành khóa luận. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu: Khóa luận tập trung làm rõ quan niệm về tự do của Rousseau trong tác phẩm Bàn về khế ước xã hội, từ đó đưa ra đánh giá về giá trị và hạn chế của quan niệm đó. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích trên, khóa luận tập trung giải quyết những nhiệm vụ cơ bản sau: - Trình bày những điều kiện, tiền đề cho sự ra đời quan niệm về tự do của Rousseau trong tác phẩm Bàn về khế ước xã hội - Phân tích những nội dung cơ bản của quan niệm về tự do của Rousseau được thể hiện trong triết học chính trị của ông - Đánh giá những mặt tích cực, hạn chế trong quan niệm về tự do của Rousseau trong tác phẩm Bàn về khế ước xã hội. 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của khóa luận Khóa luận được thực hiện dựa trên quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người, xã hội và trên cơ sở kế thừa các công trình nghiên cứu đã có. 8
  11. Khóa luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: Phương pháp phân tích, tổng hợp, qui nạp, diễn dịch, thống nhất lịch sử và logic, khái quát hóa và phương pháp nghiên cứu văn bản. 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Khóa luận có đối tượng nghiên cứu là quan niệm về tự do của Rousseau. Phạm vi nghiên cứu: khóa luận tập trung làm rõ những tư tưởng cơ bản, giá trị, hạn chế của quan niệm về tự do của Rousseau chủ yếu trong tác phẩm Bàn về khế ước xã hội. 6. Điểm mới của đề tài: Từ những di sản tư tưởng của Jean Jacques Rousseau, khóa luận đi sâu nghiên cứu hệ thống quan niệm về tự do của ông; chỉ ra những giá trị, hạn chế của quan niệm về tự do nói riêng và của triết học chính trị Rousseau nói chung 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận Khóa luận góp phần làm phong phú thêm kho tàng tri thức về lịch sử triết học phương Tây nói chung và triết học Jean Jacques Rousseau nói riêng Khóa luận có thể làm tài liệu tham khảo cho những người quan tâm nghiên cứu về lịch sử triết học phương Tây nói chung, triết học Khai sang Pháp và quan niệm về tự do của Rousseau nói riêng. 8. Kết cấu của khóa luận Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của khóa luận bao gồm 02 chương, 07 tiết. 9
  12. NỘI DUNG CHƢƠNG 1: ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ CHO SỰ RA ĐỜI QUAN NIỆM VỀ TỰ DO CỦA J.J ROUSSEAU TRONG TÁC PHẨM BÀN VỀ KHẾ ƯỚC XÃ HỘI 1.1. Những điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa cho sự ra đời quan niệm về tự do của Rousseau * Điều kiện kinh tế - xã hội: Thời kỳ cận đại ở Tây Âu được xác lập bằng các cuộc cách mạng tư sản, đánh dấu sự suy tàn và chấm dứt của phương thức sản xuất phong kiến và thay bằng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Cuộc cách mạng tư sản diễn ra đầu tiên tại Hà Lan, tiếp đến là Anh đã mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển ở Châu Âu. Các cuộc cách mạng chính là hệ quả của một quá trình lâu dài từ hình thành dưới dạng mầm mống tiềm tàng cho tới khi phát triển, đủ sức để thay thế cho hình thái xã hội đương thời và tiến tới một nấc thang cao hơn trong hình thái kinh tế - xã hội. Đó là quá trình mang tính tất yếu trong sự phát triển của lịch sử xã hội loài người, đúng như Karl Marx đã kết luận: “Tôi coi sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên” [11, 21]. Để chứng minh sự chuyển tiếp về hình thái kinh tế - xã hội ấy như là một sự tất yếu khách quan thì có thể nhìn lại những sự kiện đã diễn ra trong lịch sử. Nhờ sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp tư sản đã kịp trở thành một lực lượng kinh tế hùng hậu. Khi đó, giới phong kiến quý tộc và tăng lữ vẫn nắm quyền và là giai cấp thống trị trong xã hội. Đến thế kỷ XVIII, nước Anh đã tiến hành cuộc cách mạng công nghiệp, thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh, vững chắc, trở thành một cường quốc hàng đầu thế giới thì tại Pháp, dù nền kinh tế đang bước vào thời kỳ phát triển song bị kìm hãm bởi sự thống trị của thể chế chuyên chế phong kiến. Về kinh tế, nước 10
  13. Pháp trước cách mạng vẫn duy trì một nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, hình thức địa tô lạc hậu với 90% nông dân, khoảng 30% đất đai bị bỏ hoang, chế độ phong kiến đã khiến các vùng quê ở Pháp trở nên nghèo nàn bởi chính sách thuế và chế độ lao động bắt buộc hà khắc. Trong khi đó nền công nghiệp Pháp thì có sự vượt bậc hơn so với nông nghiệp xét về tốc độ phát triển, chủ yếu ở những ngành công nghiệp sản xuất bông, dệt tơ lụa, luyện kim, thương nghiệp… Tầng lớp quý tộc phong kiến thể hiện rõ sự bạc nhược khi không còn đủ khả năng giải quyết vấn đề của quốc gia dân tộc, chỉ dựa vào quyền hành sẵn có để đưa ra những chính sách mở rộng thêm những đặc quyền đặc lợi của họ và tìm cách duy trì quyền lực chính trị. Sự xuất hiện ngày càng nhiều những phong trào phản phong kiến như là một hệ quả tất yếu cho sự kìm hãm của chế độ đương thời, vẫn có sự phản kháng và đàn áp của giai cấp thống trị nhưng điều đó chỉ cho thấy rằng chế độ chuyên chế phong kiến đã trở thành lực lượng phản động và không còn phù hợp với tiến bộ xã hội nữa. Vậy nên sự ra đời, phát triển của mầm mống chủ nghĩa tư bản ở Pháp (cũng như ở châu Âu) lúc đó đặt ra yêu cầu phải xóa bỏ chế độ phong kiến đang kìm hãm sự phát triển của nó. Tầng lớp tư sản Pháp lúc này trở thành lực lượng đứng đầu đẳng cấp thứ ba trong xã hội, có khả năng vận động các thành phần khác trong xã hội như quần chúng nông dân, công nhân, thợ thủ công để đấu tranh chống chế độ phong kiến và trở thành lực lượng có thể đại diện cho lợi ích của những người bị áp bước trong chế độ phong kiến. Những mâu thuẫn nảy sinh trong lòng xã hội phong kiến Pháp lúc đó giữa lực lượng sản xuất đang phát triển với hình thức lạc hậu của quan hệ sản xuất phong kiến giống như luận giải của Marx về mâu thuẫn đó trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩa sau này: “Sự tập trung tư liệu sản xuất và xã hội hoá lao động đạt đến cái điểm mà chúng không còn thích hợp với cái vỏ tư bản chủ nghĩa của chúng nữa... nền sản xuất tư bản chủ nghĩa 11
  14. lại đẻ ra sự phủ định bản thân nó, với tính tất yếu của một quá trình tự nhiên” [12, 15]. Ở đây, Karl Marx muốn nói đến tính tất yếu của việc nảy sinh ra một cuộc cách mạng Xã hội chủ nghĩa để thay thế cho quan hệ sản xuất tư bản đã không còn phù hợp với thời cuộc, nhưng xét luận điểm trên trong bối cảnh hiện thực xã hội Pháp (cũng như phương Tây) thế kỷ XVI-XVIII để thấy rằng sự chuyển biến lên một hình thái xã hội cao hơn là Tư bản chủ nghĩa là sự chuyển biến mang tính tất yếu khách quan. *Bối cảnh văn hóa: Trước những sự chuyển biến ngày càng mạnh mẽ của đời sống kinh tế - xã hội đó thì văn hóa cũng phải có sự thay đổi để thích nghi và phù hợp với thực tiễn xã hội lúc bấy giờ. Tư tưởng nhân văn và khai sáng trong quan điểm lịch sử - xã hội và con người chiếm vị trí quan trọng vào thời kỳ này. Tư tưởng đó có nguồn gốc sâu xa từ thời cổ đại, bùng nổ vào thời Phục hưng, được tiếp tục phát triển, cải biến và hoàn thiện trong các học thuyết triết học thế kỷ XVII-XVIII [22, 539] mà chủ thể của nó chính là lực lượng xã hội mới, được tạo nên bởi sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và khoa học, kỹ thuật. Bắt đầu với phong trào Khai sáng ở Anh, ở đây đã có khuynh hướng văn hóa thế tục sau khi kết thúc thời kỳ Cải cách tôn giáo, bắt đầu quá trình duy lý hóa tôn giáo ở thế kỷ XVIII, “đã có sự cảm nhận về Thượng đế như kiến trúc sư vĩ đại, ngưng công việc của mình vào ngày thứ bảy. Thượng đế ban cho con người hai quyển sách – Kinh thánh và quyển sách về thiên nhiên. Vậy là đẳng cấp các nhà khoa học nổi lên cùng với đẳng cấp các linh mục” [22, 825]. Như một sự tiếp nối tư tưởng nhân văn, thời kỳ Khai sáng Pháp đã xây dựng nên một nền tảng văn hóa dựa trên chủ nghĩa duy lý. Điều đó được thể hiện qua một số tác phẩm của các nhà khai sáng tiêu biểu như trong Những ghi nhận về tác phẩm “Suy tư” của Pascal, Voltaire tranh luận 12
  15. với chủ nghĩa bi quan Kito giáo, tiến tới xác lập thứ triết lý về con người trên cơ sở thừa nhận hạnh phúc trần gian. Trong Luận về những nguyên nhân hưng thịnh và suy vong của người La Mã, Montesquieu nêu ra những nguy hại của Kito giáo đối với xã hội, mà nguyên nhân của nó là sự thủ tiêu tự do và đàn áp con người [22, 829]. Vậy nên văn hóa thời kỳ cận đại một mặt là văn hóa thực dụng, mặt khác là văn hóa mang ý nghĩa giải phóng cá nhân khỏi tính phổ quát của Kito giáo. Đó là nền văn hóa chú trọng con người hoạt động, tự thích nghi và luôn sáng tạo, đề cao lý tính con người. Tóm lại, sự lớn mạnh của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và sự lớn mạnh của giai cấp tư sản Pháp trong bối cảnh nước Pháp lúc bấy giờ gây nên sự bùng nổ các phong trào đấu tranh của giai cấp tư sản trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Phong trào Khai sáng Pháp đã ra đời trong hoàn cảnh đang diễn ra cuộc tranh luận của tư tưởng tự do với chủ nghĩa thần quyền, mà Jean Jacques Rousseau là một trong những nhà tư tưởng tiêu biểu của nó. 1.2. Những tiền đề lý luận cho sự ra đời của quan niệm về tự do của Jean Jacques Rousseau *Tư tưởng về tự do trước Jean Jacques Rousseu Cũng như nhiều học thuyết, tư tưởng khác, chúng không thể tự hình thành trên một mảnh đất trống mà cần trải qua quá trình tích lũy để sâu sắc hơn về mặt lý luận. Quan niệm về tự do của Rousseau cũng vậy, để thấy được Rousseau đã tiếp thu và phát triển quan niệm về tự do trong lịch sử như thế nào cần phải xét các quan niệm về tự do trong lịch sử triết học trước đó và đặc biệt là thời kỳ Khai sáng. Ở Hy Lạp đã tồn tại một nền dân chủ sơ khai nhất dưới chế độ chiếm hữu nô lệ thế kỷ V TCN. Trong nền dân chủ chủ nô đó, cùng với sự quan tâm đến giới tự nhiên và vũ trụ, các vấn đề về con người, xã hội cũng đã được tìm 13
  16. hiểu một cách sâu sắc. Con người giờ đây không chỉ là chủ thể, mà còn là đối tượng nghiên cứu. Các triết gia đầu tiên như Protagoras đã khẳng định rằng con người làm hệ quy chiếu giải quyết các vấn đề về tồn tại và nhận thức bằng luận điểm nổi tiếng: “Con người là thước đo tất thảy mọi vật”. Protagoras xem nghệ thuật tranh luận như là phương thức chứng minh vai trò của chủ thể, “để có một lập trường nhất quán con người buộc phải lựa chọn giữa các ý kiến trái ngược nhau, lấy một trong số chúng. Họ được hoàn toàn tự do lựa chọn” [25, 180]. Socrates đã chọn cách tiếp cận khác khi nhấn mạnh rằng sự tự do mang tính tự ý thức được đề cao chỉ trong chừng mực nó được gắn với mục đích đạo đức cao nhất – cái Thiện phổ quát Aristotle - nhà triết học Hy Lạp cổ đại nổi tiếng đã đề cập đến năng lực lựa chọn tự do từ bình diện đạo đức - chính trị. Ông cho rằng, con người với tư cách sinh vật xã hội, luôn biết chọn cho mình cách sống và lối ứng xử phù hợp với lý trí. Năng lực lựa chọn tự do không có nghĩa là vượt quá khuôn khổ của các quy tắc, các chuẩn mực truyền thống, là sự khẳng định cái tôi một cách vô nguyên tắc. Theo Aristotle, con người có sự tự do ý chí, tự do lựa chọn hành động chính trị, đạo đức của mình và vì vậy, con người phải chịu trách nhiệm trước những hành động đó. Epicurus là người đã đem lại những suy nghĩ mới về vấn đề tự do. Tự do trước hết phải được hiểu như sự giải thoát của con người khỏi mọi sự ràng buộc của số phận, lấy sự tĩnh tâm làm điều kiện cho đời sống cá nhân. Tự do là tự chủ, tự quyết định hành động vươn tới hạnh phúc, tránh mọi khổ đau và không bị cám dỗ bởi những thú vui vật chất tầm thường. Theo ông tự do như thế mới là tự do mang tính người. Rằng, tự do là không bị lệ thuộc vào thói quen ý thức và tín ngưỡng truyền thống, không bận tâm đến cái chết, không thừa nhận vai trò của thần thánh cả trên trời lẫn dưới đất. 14
  17. Cần nhận thấy rằng, chế độ chiếm hữu nô lệ trong quá trình tồn tại và phát triển của nó đã biến 3/4 dân số trở thành nô lệ, thành “công cụ biết nói”. Họ bị đối xử như hàng hóa có thể trao đổi của các chủ nô. Cùng với đó, quan niệm về “công dân” và “nô lệ” cũng được xem xét từ góc độ người tự do và người không tự do. Nô lệ đồng nghĩa với thế giới động vật không có tinh thần [20, 153]. Vậy nên sự ra đời và phổ biến của Kito giáo được xem như một sự giải thoát tinh thần. Quá trình hợp pháp hóa Kito giáo diễn ra song song với quá trình thay thế quan hệ xã hội chủ nô – nô lệ bằng quan hệ xã hội phong kiến cuối thế kỷ IV – đầu thế kỷ V. Lấy Kinh thánh làm nền tảng, làm chân lý bất biến, các Giáo phụ xem lý trí chỉ để phụng sự cho đức tin. Đại diện tiêu biểu cho triết học Kito giáo là Agustine và Thomas Aquinas. Theo thuyết Sáng thế, con người là hình ảnh của Thiên chúa, nên tự do cũng là món quà mà Thiên chúa ban cho con người, tự do tinh thần được coi trọng hơn tự do thân xác. Thậm chí, ngay cả khi con người bị biến thành nô lệ thì sự nô lệ thân xác vẫn không ngăn cản được ý chí tự do. Bước sang thời kỳ Phục hưng, có một sự chuyển biến tích cực so với thời kỳ trung cổ trước đó khi xã hội chịu ảnh hưởng nặng nề bởi thế giới quan tôn giáo, sự can thiệp và tác động sâu sắc của tôn giáo trên mọi mặt của đời sống xã hội. Thời kỳ Phục hưng tuy nhà nước thần quyền vẫn còn quá mạnh, các phong trào đấu tranh đòi quyền con người của thời Phục hưng vẫn mang màu sắc tôn giáo, nhưng đã gợi mở tinh thần yêu chuộng tự do. Thời kỳ này quan niệm con người tự do trước hết là tự do trong sự lựa chọn phương thức sống và tín ngưỡng. Khi đó, chủ nghĩa thầy tu khổ hạnh được thay bằng chủ nghĩa hạnh phúc, thuyết định mệnh được thay bằng thuyết tự do cá nhân. Và, chủ nghĩa nhân văn đã mở đường cho cuộc đấu tranh thật sự chống lại cả thần quyền lẫn thế quyền trong thời Cận đại. 15
  18. Bước sang thời kỳ Cận đại, quan niệm về tự do luôn gắn kết với sự hình thành và khẳng định tư tưởng về con người cá nhân, về xã hội công dân và nhà nước pháp quyền. Quá trình chuyển từ thời đại phong kiến Trung cổ sang Cận đại là quá trình đánh giá lại vị trí và vai trò của con người trong xã hội, đề cao tự do như phẩm giá cao nhất, như bản tính cố hữu của con người. Tại Pháp, khoảng giữa thế kỷ thứ XVI đã nổi lên tên tuổi của một đấu tranh vì tự do qua những tác phẩm như Luật về chế độ nô lệ tự nguyện. Đó là Boetie (1530 – 1563), qua tác phẩm trên, ông không những phản kháng nền chính trị bạo lực của chế độ phong kiến mà còn ca ngợi sự tự do tự nhiên của con người. Boetie cho rằng: Về mặt tự nhiên, con người được tự do. Tư tưởng tự do trước hết là tự do chính trị, là tư tưởng trung tâm trong tác phẩm. Sự ca ngợi tự do chiếm nhiều chỗ trong đó. Tự do, bình đẳng, đó là trạng thái tự nhiên của con người. Đây là điểm mà ông đem ra để đối lập với chế độ quân chủ chuyên chế [8, 23]. Thêm vào đó, ông đã lý giải nguồn gốc của sự mất tự do và bình đẳng ở con người, đến từ sự bị ép buộc hoặc bị lừa bịp bởi những tên bạo chúa trong xã hội phong kiến chuyên chế. Từ đó con người quen dần với hoàn cảnh của mình và thôi không đấu tranh để tự giải phóng mình nữa. Vì vậy, ông đặc biệt hy vọng vào sự tăng cường giáo dục, vào sức mạnh lý trí, đó là điều làm khơi dậy khát vọng tự do trong tim mỗi con người. Bước sang thế kỷ XVII – XVIII, xuất hiện các nhà tư tưởng lên tiếng mạnh mẽ về vấn đề quyền con người, yêu cầu sự tự do và bình đẳng trong xã hội, từ đó yếu cầu phải thiết lập một nhà nước chân chính đảm bảo các quyền cơ bản đó như: Thomas Hobbes (1588 – 1679), John Locke (1632 – 1704), Montesquieu (1689 – 1755), Voltaire (1694 – 1778). Các nhà tư tưởng này đã giành một sự quan tâm đặc biệt cho học thuyết chính trị - xã hội, phản ánh như cầu của một xã hội đang đi vào kỷ nguyên phát triển mới. 16
  19. Thomas Hobbes đưa ra luận điểm về trạng thái tự nhiên và trạng thái xã hội công dân của con người. Những con người ở trạng thái tự nhiên thiếu vắng mọi tổ chức nhà nước, được xem như là trạng thái vô chính phủ, con người không có quyền và xuất hiện quyền lực đám đông. Sự thiết lập của trạng thái xã hội công dân với quyền lực nhà nước chấm dứt tình trạng trên. Theo Hobbes, để đảm bảo hòa bình cần phải có ý chí thống nhất của tất cả mọi người mà mỗi người phải bắt ý chỉ của mình tuân thủ ý chí thống nhất. Sự thống nhất được tạo ra bằng cách đó gọi là nhà nước hay xã hội công dân. Vậy nên ý chí của nhà nước trên cơ sở thỏa thuận của nhiều người cần phải được coi là ý chí của tất cả mọi người sao cho nó có thể sử dụng các khả năng và năng lực của mỗi người để bảo vệ hòa bình. Tư tưởng về trạng thái tự nhiên và trạng thái dân sự ở con người, tư tưởng về ý chí chung là tiền đề lý luận cho sự hình thành và phát triển tư tưởng về tự do và rộng hơn là triết học chính trị của Rousseau. Phê phán quan niệm của Hobbes về trạng thái tự nhiên như là trạng thái chiến tranh của “tất cả mọi người chống lại tất cả”, Rousseau cho rằng trạng thái tự nhiên là trạng thái thuận lợi nhất cho hòa bình và thích hợp nhất cho nhân loại bởi vì ở trạng thái đó, sự tự vệ của chúng ta gây thiệt hại ít nhất đến sự tự vệ của những người khác. Khi chuyển từ trạng thái tự nhiên sang trạng thái xã hội, con người có được tự do đạo đức, bởi vì tự do chính là hành động tuân theo luật do chính mình tạo ra. Tiếp nối tư tưởng của Thomas Hobbes, John Locke cũng tập trung vào học thuyết về nhà nước trên cơ sở quan niệm về quyền tự nhiên và khế ước xã hội. Theo ông, nhà nước sẽ thay thế trạng thái tự nhiên, trạng thái mà trong đó con người hoàn toàn tự do, không phải tuân thủ ý chí của bất cứ ai, tất cả mọi người đều bình đẳng, không có sự áp bức. Con người ở trong trạng thái tự nhiên hoàn toàn tự do, bình đẳng và tự chủ. Trạng thái tự nhiên đó, theo ông, cũng không phải là trạng thái tùy tiện, bởi vì trong trạng thái đó mọi người 17
  20. phải tuân theo quy luật tự nhiên. Việc con người từ bỏ trạng thái tự nhiên và tạo nên xã hội là để tránh tình trạng chiến tranh chống lại con người. Một tư tưởng quan trọng khác của Locke là luận điểm cho rằng cơ sở đầu tiên cho tự do con người và nguyên nhân đầu tiên cho sự xuất hiện của nhà nước là sở hữu. Theo ông, con người sinh ra tự do và được tạo hóa ban cho quyền bảo vệ cuộc sống, tự do và tài sản của mình.Vì vậy, mục đích và nhiệm vụ của một chính quyền dân sự chân chính là đảm bảo “quyền sống, quyền tự do, sức khỏe và sở hữu của thần dân, là truy tố và trừng phạt những người xâm phạm vào quyền của người khác” [10, 17] . Chính vì lẽ đó, theo Locke, mục đích vĩ đại và cơ bản của việc con người liên kết với nhau trong nhà nước và của việc trao quyền lực cho chính phủ chính là đảm bảo sở hữu của mọi người. Như vậy, hoàn toàn khác với các nhà tư tưởng thời kỳ cổ đại và trung cổ, Locke cho rằng, việc các cá nhân con người được tạo hóa ban cho các quyền không thể tách rời như quyền sống, quyền tự do và quyền sở hữu là có tính ưu tiên hàng đầu. Một chính quyền dân sự chân chính cần phải đảm bảo các quyền về tự do, sức khỏe, sở hữu của công dân đồng thời trừng phạt những người xâm phạm vào quyền của người khác. Nếu không thực hiện được nhiệm vụ trên thì chính quyền đó nghiễm nhiên không còn tác dụng và nhân dân có quyền lật đổ chính phủ để tham gia vào khế ước mới với chính phủ mới. Như vậy, John Locke đặt sự ưu tiên đối với xã hội hơn là nhà nước. Nếu Thomas Hobbes bác bỏ việc phân chia quyền lực nhà nước vì cho rằng các quyền lực được phân chia sẽ hủy hoại lẫn nhau thì John Locke đã đưa ra tư tưởng về phân chia quyền lực, mặc dù ở dạng sơ khai nhưng là cơ sở tiền đề để hình thành nên tư tưởng về “tam quyền phân lập” như Montesquieu và Rousseau đã nêu ra. Như vậy, các quan niệm về nguồn gốc của quyền lực nhà nước là từ nhân dân, từ chủ quyền nhân dân, nhằm bảo vệ tự do của nhân dân của John Locke được Rousseau kế thừa và phát triển trong các tư tưởng triết học chính trị của ông. 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2