intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh doanh: Bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật Việt Nam

Chia sẻ: Caphesuadathemhanh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:64

56
lượt xem
16
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là phân tích các quy định pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia trong lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan, để từ đó đánh giá hiệu quả áp dụng các quy định pháp luật trong thực tiễn. Các tranh chấp thực tế cũng được phân tích nhằm làm nổi bật các vấn đề thực tế gặp phải trong quá trình thực thi pháp luật và từ đó đề ra các biện pháp cải thiện cụ thể.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh doanh: Bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT Nguyễn Phương Nhung TÊN ĐỀ TÀI: BẢO VỆ QUYỀN TÁC GIẢ VÀ QUYỀN LIÊN QUAN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH: LUẬT KINH DOANH Hệ đào tạo: Chính quy Khoá học: QH-2013-L Hà Nội, 2017
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT Nguyễn Phương Nhung TÊN ĐỀ TÀI: BẢO VỆ QUYỀN TÁC GIẢ VÀ QUYỀN LIÊN QUAN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH: LUẬT KINH DOANH Hệ đào tạo: Chính quy Khoá học: QH-2013-L NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS. Vũ Công Giao Hà Nội, 2017 1
  3. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................ 4 PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................. 5 1. Tính cấp thiết của đề tài .............................................................................. 5 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ................................................ 5 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài ....................................................... 6 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 6 5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................. 6 6. Những điểm mới và ý nghĩa của đề tài ....................................................... 7 7. Cấu trúc của khoá luận................................................................................ 7 Chương 1. Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật Việt Nam ..................................................................................... 8 1.1. Lý luận chung về quyền tác giả và quyền liên quan .............................. 8 1.1.1. Khái niệm quyền tác giả và quyền liên quan ........................................ 8 1.1.2. Các điều kiện bảo hộ đối với quyền tác giả và quyền liên quan......... 12 1.1.3. Nội dung, giới hạn quyền đối với quyền tác giả và quyền liên quan . 20 1.1.4. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan ............................ 26 1.2. Xử lý vi phạm quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật Việt Nam.................................................................................................................. 30 1.2.1. Khái niệm vi phạm quyền tác giả và quyền liên quan ........................ 30 1.2.2. Chế tài với vi phạm quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật hiện hành của Việt Nam ............................................................................... 33 Chương 2. Bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật Việt Nam ..................................................................................................................... 37 2.1. Các biện pháp bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật Việt Nam ......................................................................................................... 37 2
  4. 2.1.1. Các biện pháp tự bảo vệ của chủ sở hữu ............................................ 37 2.1.2. Các biện pháp pháp lý......................................................................... 38 2.1.3. Các biện pháp thương mại do nhà nước thực hiện ............................. 42 2.2. Thực trạng bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan tại Việt Nam.... 43 2.2.1. Khuôn khổ pháp luật hiện hành của Việt Nam về bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan ........................................................................................ 43 2.2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật về bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan ở Việt Nam hiện nay ............................................................................ 46 2.2.3. Kết luận và những vấn đề đặt ra với việc bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan ở Việt Nam hiện nay .......................................................... 53 Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan ở Việt Nam hiện nay ................................................................................ 57 3.1. Các giải pháp hoàn thiện chính sách, pháp luật................................... 57 3.1.1. Hoàn thiện chính sách về bảo hộ và thực thi quyền tác giả, quyền liên quan............................................................................................................... 57 3.1.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo hộ và thực thi quyền tác giả, quyền liên quan ............................................................................................. 58 3.1.3. Hoàn thiện cơ chế tổ chức thực thi chính sách, pháp luật về bảo hộ và thực thi quyền tác giả, quyền liên quan ........................................................ 59 3.2. Giải pháp nâng cao nhận thức của chủ sở hữu quyền ......................... 60 Kết luận chung ................................................................................................... 61 Danh mục tài liệu tham khảo ........................................................................... 62 3
  5. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các thông tin và số liệu mà tác giả sử dụng trong khoá luận là trung thực. Các luận điểm, dữ liệu được trích dẫn đầy đủ, nếu không là ý tưởng hoặc kết quả tổng hợp của chính bản thân tôi. Hà Nội, ngày 30 tháng 04 năm 2017 TÁC GIẢ KHOÁ LUẬN Nguyễn Phương Nhung 4
  6. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong sự phát triển nhanh chóng của công nghệ số hiện nay, quyền sở hữu trí tuệ đặc biệt là quyền tác giả và quyền liên quan ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm. Tại Việt Nam, sự ra đời của Luật Sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung 2009 đã đánh dấu sự phát triển, tiến bộ của hệ thống pháp luật sở hữu trí tuệ, đặc biệt là trong vấn đề bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan. Trong nền kinh tế hội nhập hiện nay, quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền tác giả và quyền liên quan ngày càng có giá trị cao, đặc biệt khi chủ sở hữu quyền có nhận thức được về giá trị quyền. Vì vậy, việc xây dựng một cơ chế bảo hộ khả thi và hiệu quả, đảm bảo quyền và các lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan đã trở thành một vấn đề cấp thiết. Hơn nữa, thực tiễn áp dụng pháp luật sở hữu trí tuệ tại Việt Nam vẫn còn là một thách thức lớn dù Nhà nước đã có nhiều nỗ lực cải cách chính sách và pháp luật. Hiện tượng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là vi phạm quyền tác giả và quyền liên quan vẫn còn diễn ra phổ biến, tràn lan. Từ đó, việc nghiên cứu, phát hiện những tồn tại để đề ra giải pháp khắc phục các bất cập của pháp luật trong việc bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan sẽ góp phần cải thiện thực tiễn áp dụng và hoàn thiện pháp luật, đảm bảo cơ chế và nâng cao năng lực giải quyết tranh chấp của các cơ quan chức năng trong lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan. Xuất phát từ tình hình đó, tác giả xin lựa chọn đề tài: “Bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật Việt Nam”. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, phân tích các vấn đề pháp lý về quyền tác giả và một số bài báo, luận văn nghiên cứu các khía cạnh của quyền liên quan. Tuy nhiên đánh giá thực tiễn giải quyết tranh chấp, các phân tích cụ thể về các vấn 5
  7. đề còn tồn tại hiện nay và giải pháp hoàn thiện chính sách, quy định pháp luật vẫn là một vấn đề cần thêm nhiều đóng góp để cải thiện. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài Phân tích các quy định pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia trong lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan, để từ đó đánh giá hiệu quả áp dụng các quy định pháp luật trong thực tiễn. Các tranh chấp thực tế cũng được phân tích nhằm làm nổi bật các vấn đề thực tế gặp phải trong quá trình thực thi pháp luật và từ đó đề ra các biện pháp cải thiện cụ thể. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Bởi giới hạn về thời gian và dung lượng của khoá luận tốt nghiệp, tác giả tập trung nghiên cứu những quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam cùng các điều ước quốc tế để từ đó tìm ra những mâu thuẫn và các hạn chế trong việc bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan. Phạm vi nghiên cứu đề tài gồm những nội dung như sau: - Nghiên cứu sâu các quy định pháp luật Việt Nam về sở hữu trí tuệ. - So sánh quy định pháp luật Việt Nam với các điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ mà Việt Nam là thành viên. - Phân tích những vụ việc cụ thể để làm sáng tỏ thực tiễn áp dụng pháp luật, nhận biết các tồn tại và đề ra phương hướng giải quyết. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau như phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, … Luận văn sử dụng thêm phương pháp nghiên cứu tình huống thực tế tiêu biểu liên quan tới tranh chấp quyền tác giả, quyền liên quan với mong muốn có thể rút ra kinh nghiệm cho chủ sở hữu quyền trong việc bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp đối với sản phẩm trí tuệ của mình. 6
  8. 6. Những điểm mới và ý nghĩa của đề tài Luận văn bao gồm một số kiến nghị giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan, với mong muốn góp phần hoàn thiện chính sách và quy định pháp luật Việt Nam, cũng như hỗ trợ chủ sở hữu quyền trong việc bảo vệ quyền lợi của mình. Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu về pháp luật, giúp ích cho chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan và đóng góp nhỏ trong việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam. 7. Cấu trúc của khoá luận Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật Việt Nam Chương 2: Bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật Việt Nam Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan ở Việt Nam hiện nay 7
  9. Chương 1. Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật Việt Nam 1.1. Lý luận chung về quyền tác giả và quyền liên quan 1.1.1. Khái niệm quyền tác giả và quyền liên quan • Khái niệm quyền tác giả trên thế giới Khái niệm quyền tác giả đã nhen nhóm được hình thành từ khi phát minh in ra đời, khi con người nhận thấy sự bất công khi tác phẩm của mình sáng tạo bị sao chép, in lại và chào bán với giá rẻ hơn. Nhằm bảo vệ quyền lợi của người sáng tạo ra tác phẩm, luật về quyền tác giả đã dần được hình thành. Văn bản pháp luật đầu tiên trên thế giới về quyền tác giả là Đạo luật Anne, được ban hành tại Anh vào năm 1710. Đạo luật này lần đầu tiên giới thiệu quyền của tác giả cho tác phẩm của riêng mình và đề ra những điều khoản để bảo vệ quyền đó. Cũng theo đạo luật này, lần đầu tiên quyền của tác giả đối với tác phẩm được coi trọng và bảo vệ hơn quyền của những nhà xuất bản, cho phép tác giả kiểm soát được việc tái sản xuất tác phẩm của họ sau khi xuất bản. Quyền tác giả trong Liên minh châu Âu được thống nhất trong Chỉ thị phần mềm ra đời vào năm 1991, theo đó thì các chương trình máy tính được bảo vệ như là các tác phẩm văn học theo ý nghĩa về quyền tác giả. Còn theo công ước Berne, quyền tác giả là tự động, không cần phải đăng ký tác quyền, không cần phải viết trong thông báo tác quyền. Định nghĩa về quyền tác giả của WIPO – Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới có thể được coi là định nghĩa chung và chuẩn xác nhất: “Quyền tác giả là phần cốt lõi của pháp luật nhằm trao cho tác giả, nghệ sỹ và các nhà sáng tạo khác sự bảo hộ cho những sáng tạo văn học và nghệ thuật của họ - gọi chung là tác phẩm. Các tác phẩm đủ điều kiện bảo hộ quyền tác giả là các sáng tạo trí tuệ gốc. Chúng được bảo hộ bất kể chất lượng của chúng và bao gồm các hướng dẫn kỹ thuật hoặc các hình vẽ kỹ thuật đơn thuần. Nhìn chung, pháp luật về quyền tác giả không liệt kê 8
  10. danh mục đầy đủ các loại tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả, nhưng trên thực tiễn pháp luật của tất cả quốc gia đều quy định sự bảo hộ cho các đối tượng: Tác phẩm văn học, tác phẩm âm nhạc, Tác phẩm nghệ thuật, Bản đồ và các bản vẽ kỹ thuật, Các tác phẩm nhiếp ảnh, Tác phẩm điện ảnh, Chương trình máy tính, Các sản phẩm đa phương tiện”. Hiệp định TRIPS khẳng định phạm vi bảo hộ quyền tác giả bao gồm sự thể hiện và không bao gồm các ý tưởng, trình tự, phương pháp tính hoặc các khái niệm toán học [5, Điều 9.2]. Các chương trình máy tính, dù dưới dạng mã nguồn hay mã máy, đều phải được bảo hộ quyền tác giả như những tác phẩm văn học [5, Điều 10.1]. Các cơ sở dữ liệu, bộ sư tập dữ liệu hoặc tư liệu khác đều phải được bảo hộ quyền tác giả thậm chí cơ sở dữ liệu chứa đựng dữ liệu không được bảo hộ quyền tác giả [5, Điều 10.2]. Ít nhất là đối với chương trình máy tính và tác phẩm điện ảnh, các nước thành viên phải dành cho tác giả và người thừa kế hợp pháp của họ quyền cho phép hoặc cấm việc cho công chúng thuê bản gốc hoặc bản sao các tác phẩm của họ nhằm mục đích thương mại [5, Điều 11]. Điều 4 Chương II Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ quy định như sau: “Mọi loại chương trình máy tính đều được coi là các tác phẩm viết theo nghĩa quy định tại Công ước Berne và bảo hộ các đối tượng này như tác phẩm viết. Mọi sưu tập dữ liệu hoặc sưu tập tư liệu khác, bất kể dưới dạng có thể đọc được bằng máy hoặc dưới dạng khác, mà việc lựa chọn và sắp xếp nội dung là sự sáng tạo trí tuệ, đều được bảo hộ như tác phẩm”. Từ các định nghĩa trên ta có thể rút ra “quyền tác giả” là quyền được pháp luật, xã hội, quần chúng, … công nhận cho cá nhân, tập thể, tổ chức đối với một tác phẩm văn học, khoa học, phần mềm, … do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Các tác phẩm đó phải là sản phẩm trí óc của tác giả mà không đơn thuần là sự sao chép từ nguồn đã biết. • Định nghĩa quyền tác giả tại Việt Nam 9
  11. Khoản 2 điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung 2009 quy định: “Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu.” Như vậy, Việt Nam cũng thống nhất quan điểm với các nước trên thế giới về quyền tác giả là quyền của cá nhân, tổ chức được xã hội, pháp luật công nhận cho các tác phẩm do chính mình sáng tạo ra và sở hữu, dùng để bảo vệ các sáng tạo tinh thần có tính chất văn hoá không bị vi phạm bản quyền, bảo vệ các quyền lợi cá nhân và lợi ích kinh tế của tác giả trong mối liên quan với tác phẩm. • Khái niệm quyền liên quan trên thế giới Ngày nay, lĩnh vực mới về các quyền liên quan đến quyền tác giả đã phát triển rất nhanh chóng. Những quyền được gọi là “Quyền liên quan” ngày càng gia tăng xung quanh các tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả và tạo ra các quyền tương tự. Theo WIPO, quyền này dành cho Nghệ sỹ biểu diễn trong hoạt động ghi âm của họ, Nhà sản xuất bản ghi âm trong hoạt động ghi âm của họ, Tổ chức phát sóng trong các chương trình phát thanh và truyền hình của họ. “Quyền liên quan” khác với “quyền tác giả” vì chúng thuộc sở hữu của những người được coi là trung gian trong quá trình sản xuất, ghi âm và phổ biến tác phẩm. Sự liên quan đến quyền tác giả được thể hiện ở ba loại quyền liên quan là sự tương hỗ trong quá trình sáng tạo và phổ biến trí tuệ vì chúng hỗ trợ các tác giả sáng tạo trong quá trình quyền tải tác phẩm đến với công chúng. Một nhạc công thể hiện một tác phảm âm nhạc do một nhạc sỹ sáng tác; một diễn viên vào vai trong vở kịch được sáng tác bởi một nhà viết kịch, một nhà sản xuất bản ghi âm – hay thường được gọi là “ngành công nghiệp ghi âm” – ghi âm hoặc sản xuất bài hát và bản nhạc do nhà thơ và nhạc sỹ sáng tác, được nhạc công hoặc ca sỹ thể hiện; tổ chức phát sóng phát sóng các tác phẩm và bản ghi âm trên các đài phát thanh và/hoặc truyền hình của họ. Theo hiệp định TRIPS, người biểu diễn có quyền ngăn cấm ghi thu, lưu định cuộc biểu diễn bằng phương tiện ghi âm. Quyền ghi thu, lưu định của người biểu diễn 10
  12. chỉ liên quan đến âm thanh chứ không liên quan đến cả âm thanh và hình ảnh. Người biểu diễn còn có quyền ngăn cấm tái tạo, nhân bản bản ghi âm. Người biểu diễn cũng có quyền ngăn cấm phát qua phương tiện vô tuyến và truyền cho công chúng buổi biểu diễn trực tiếp của họ [5, Điều 14.1]. Hiệp định TRIPS yêu cầu các nước thành viên WTO cho phép nhà sản xuất bản ghi âm độc quyền sao chép các bản ghi âm của họ [5, Điều 14.2]. Thêm vào đó, theo Điều 14.4, nhà sản xuất bản ghi âm còn có độc quyền cho thuê bản ghi âm. Các tổ chức phát thanh, truyền hình phải có quyền ngăn cấm các hành vi sau đây nếu thực hiện mà không được họ cho phép: ghi, sao chép bản ghi, phát lại qua phương tiện vô tuyến chương trình, cũng như truyền hình cho công chúng các chương trình [5, Điều 14.3]. • Định nghĩa quyền liên quan tại Việt Nam Khái niệm quyền liên quan đến quyền tác giả được pháp luật Việt Nam đề cập đến một cách gián tiếp bằng phương pháp liệt kê. Cụ thể, khái niệm này được đưa ra tại Khoản 3 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi bổ sung 2009) như sau: “Quyền liên quan đến quyền tác giả (sau đây gọi là quyền liên quan) là quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa”. Nghị định số 100/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự và Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan cũng đã giải thích theo hướng liệt kê tương tự tại Khoản 2 Điều 3 về bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan, theo đó, quyền liên quan được hiểu là “các quyền của người biểu diễn đối với cuộc biểu diễn; các quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình; các quyền của tổ chức phát sóng đối với chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa được quy định tại Điều 745, 746, 747 và Điều 748 của Bộ luật Dân sự và Điều 29, 30 và 31 của Luật Sở hữu trí tuệ ”. 11
  13. Như vậy, so với những quyền liên quan được bảo hộ ở cấp độ toàn cầu theo các điều ước quốc tế như Công ước Rome hay Hiệp ước của WIPO về biểu diễn và bản ghi âm năm 1996 (WPPT), khái niệm quyền liên quan được quy định trong pháp luật Việt Nam có phạm vi rộng hơn, bao gồm cả quyền của nhà sản xuất bản ghi hình và quyền của tổ chức phát sóng đối với tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa. Điều này không trực tiếp phản ánh năng lực bảo hộ của pháp luật sở hữu trí tuệ quốc gia trong mối tương quan với điều ước quốc tế mà là vấn đề quan điểm lập pháp cũng như đặc điểm của hệ thống pháp luật mỗi nước. 1.1.2. Các điều kiện bảo hộ đối với quyền tác giả và quyền liên quan • Điều kiện bảo hộ quyền tác giả Điều 13, 14, 15 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005 sửa đổi bổ sung 2009 quy định về điều kiện bảo hộ quyền tác giả cụ thể như sau: “Điều 13. Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả có tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả 1. Tổ chức, cá nhân có tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả gồm người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm và chủ sở hữu quyền tác giả quy định tại các điều từ Điều 37 đến Điều 42 của Luật này. 2. Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả quy định tại khoản 1 Điều này gồm tổ chức, cá nhân Việt Nam; tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm được công bố lần đầu tiên tại Việt Nam mà chưa được công bố ở bất kỳ nước nào hoặc được công bố đồng thời tại Việt Nam trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày tác phẩm đó được công bố lần đầu tiên ở nước khác; tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm được bảo hộ tại Việt Nam theo điều ước quốc tế về quyền tác giả mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Điều 14. Các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả 1. Tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học được bảo hộ bao gồm: 12
  14. a) Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác; b) Bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác; c) Tác phẩm báo chí; d) Tác phẩm âm nhạc; đ) Tác phẩm sân khấu; e) Tác phẩm điện ảnh và tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự (sau đây gọi chung là tác phẩm điện ảnh); g) Tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng; h) Tác phẩm nhiếp ảnh; i) Tác phẩm kiến trúc; k) Bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ liên quan đến địa hình, kiến trúc, công trình khoa học; l) Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian; m) Chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu. 2. Tác phẩm phái sinh chỉ được bảo hộ theo quy định tại khoản 1 Điều này nếu không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh. 3. Tác phẩm được bảo hộ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này phải do tác giả trực tiếp sáng tạo bằng lao động trí tuệ của mình mà không sao chép từ tác phẩm của người khác. 4. Chính phủ hướng dẫn cụ thể về các loại hình tác phẩm quy định tại khoản 1 Điều này. Điều 15. Các đối tượng không thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả 1. Tin tức thời sự thuần túy đưa tin. 2. Văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, văn bản khác thuộc lĩnh vực tư pháp và bản dịch chính thức của văn bản đó. 13
  15. 3. Quy trình, hệ thống, phương pháp hoạt động, khái niệm, nguyên lý, số liệu.” Đối tượng của quyền tác giả là các tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian và khoa học. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, tác phẩm là sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học thể hiện bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào. Như vậy, sản phẩm lao động trí tuệ của con người trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học được công nhận là tác phẩm khi thỏa mãn 2 điều kiện: (a) mang tính sáng tạo; (b) được thể hiện dưới hình thức vật chất nhất định. Khi ý tưởng sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học có chứa đựng yếu tố sáng tạo và được thể hiện dưới hình thức vật chất được công nhận là tác phẩm và được bảo hộ tự động chứ không bắt buộc phải thông qua thủ tục đăng ký như các đối tượng sở hữu công nghiệp. Do đó đây cũng chính là hai điều kiện để tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả. • Điều kiện bảo hộ quyền liên quan Điều 16, 17 Luật sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung 2009 quy định rõ điều kiện bảo hộ quyền liên quan như sau: “Điều 16. Tổ chức, cá nhân được bảo hộ quyền liên quan 1. Diễn viên, ca sỹ, nhạc công, vũ công và những người khác trình bày tác phẩm văn học, nghệ thuật (sau đây gọi chung là người biểu diễn). 2. Tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu cuộc biểu diễn quy định tại khoản 1 Điều 44 của Luật này. 3. Tổ chức, cá nhân định hình lần đầu âm thanh, hình ảnh của cuộc biểu diễn hoặc các âm thanh, hình ảnh khác (sau đây gọi là nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình). 4. Tổ chức khởi xướng và thực hiện việc phát sóng (sau đây gọi là tổ chức phát sóng). Điều 17. Các đối tượng quyền liên quan được bảo hộ 1. Cuộc biểu diễn được bảo hộ nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: 14
  16. a) Cuộc biểu diễn do công dân Việt Nam thực hiện tại Việt Nam hoặc nước ngoài; b) Cuộc biểu diễn do người nước ngoài thực hiện tại Việt Nam; c) Cuộc biểu diễn được định hình trên bản ghi âm, ghi hình được bảo hộ theo quy định tại Điều 30 của Luật này; d) Cuộc biểu diễn chưa được định hình trên bản ghi âm, ghi hình mà đã phát sóng được bảo hộ theo quy định tại Điều 31 của Luật này; đ) Cuộc biểu diễn được bảo hộ theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. 2. Bản ghi âm, ghi hình được bảo hộ nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Bản ghi âm, ghi hình của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình có quốc tịch Việt Nam; b) Bản ghi âm, ghi hình của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình được bảo hộ theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. 3. Chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa được bảo hộ nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa của tổ chức phát sóng có quốc tịch Việt Nam; b) Chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa của tổ chức phát sóng được bảo hộ theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. 4. Cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa chỉ được bảo hộ theo quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này với điều kiện không gây phương hại đến quyền tác giả.” Từ điều 16 cũng như các quy định cụ thể khác về quyền liên quan, có thể thấy pháp luật Việt Nam phân biệt chủ thể quyền liên quan thành ba loại cơ bản: - Người biểu diễn: So với những chủ thể quyền liên quan khác, có thể nói người biểu diễn là nhóm chủ thể được ghi nhận và bảo vệ quyền liên quan sớm nhất, và 15
  17. dường như cũng là nhóm chủ thể được quan tâm chú ý nhiều nhất. Trước đây, pháp luật Việt Nam định nghĩa trực tiếp người biểu diễn. Cụ thể, Điều 773 Bộ luật dân sự 1995 quy định: “Người biểu diễn bao gồm các cá nhân, tổ chức biểu diễn, người dàn dựng, đạo diễn chương trình ca, múa nhạc, chương trình phát thanh - truyền hình, đạo diễn, diễn viên sân khấu và các loại hình biểu diễn nghệ thuật khác”. Tuy nhiên, hiện nay, Luật sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi bổ sung 2009) không có quy định nào nêu ra khái niệm người biểu diễn với tư cách chủ thể quyền liên quan, cũng không chỉ rõ người đạo diễn, dàn dựng chương trình cũng được coi là người biểu diễn. Dựa trên Khoản 1 Điều 16 nói trên, có thể hiểu người biểu diễn theo pháp luật Việt Nam hiện hành là những người “trình bày tác phẩm văn học nghệ thuật”, bao gồm diễn viên, ca sĩ, nhạc công, vũ công... Như vậy, người biểu diễn được hiểu là những người sử dụng tác phẩm của người khác một cách sáng tạo trong sự thể hiện các tác phẩm văn học nghệ thuật, truyền đạt tác phẩm tới công chúng. Cách quy định này tỏ ra phù hợp với Công ước Rome và các điều ước quốc tế khác về quyền liên quan. - “Nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình” được hiểu là “tổ chức, cá nhân định hình lần đầu âm thanh, hình ảnh cuộc biểu diễn hoặc các âm thanh, hình ảnh khác”. Một điểm cần lưu ý là nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình không đồng nhất với chủ sở hữu đối với bản ghi âm, ghi hình đó. Theo Khoản 2 Điểu 44 Luật sở hữu trí tuệ, “tổ chức, cá nhân sử dụng thời gian, đầu tư tài chính và cơ sở vật chất – kỹ thuật của mình để sản xuất bản ghi âm, ghi hình là chủ sở hữu đối với bản ghi âm, ghi hình đó, trừ trường hợp có thỏa thuận khác với bên liên quan”. Như vậy, nếu tổ chức, cá nhân là người “định hình lần đầu âm thanh, hình ảnh cuộc biểu diễn hoặc âm thanh, hình ảnh khác” nhưng công việc này của họ được tiến hành trên cơ sở một hợp đồng với chủ thể khác, họ chỉ thực hiện việc định hình với các thao tác mang tính chất kỹ thuật và được nhận thù lao từ việc định hình của mình theo hợp 16
  18. đồng đó, thì không được coi là chủ sở hữu bản ghi âm, ghi hình đó - chủ sở hữu ở đây chính là đối tác đã thuê và trả thù lao cho việc định hình nói trên. - Tổ chức phát sóng: Quyền liên quan chỉ dành sự bảo hộ cho những chủ thể là tổ chức khởi xướng và thực hiện việc phát sóng, bao gồm các tổ chức phát thanh, tổ chức truyền hình, phát tín hiệu vệ tinh. Sự giới hạn này là kết quả của việc cân nhắc đến tính “nguyên gốc” của chương trình phát sóng. Bởi chỉ có tổ chức khởi xướng và thực hiện việc phát sóng mới là chủ thể có quyền lợi cần được bảo hộ trong việc chống lại việc phát sóng lại, tái tạo, nhân bản, và truyền đạt tới công chúng những chương trình phát sóng tốn kém của họ. Việc phát sóng lại hay việc ghi thu các chương trình vô tuyến tại những nơi công cộng có thể đem lại rất nhiều lợi nhuận, đặc biệt là khi chủ đề của chương trình phát sóng gốc là một sự kiện nổi bật. Tuy nhiên, tổ chức phát sóng không luôn luôn là chủ sở hữu chương trình phát sóng. Khoản 3 Điều 44 Luật sở hữu trí tuệ quy định: “Tổ chức phát sóng là chủ sở hữu đối với chương trình phát sóng của mình, trừ trường hợp có thỏa thuận khác với bên liên quan”, và Nghị định 100/2006/NĐ-CP quy định tại Điều 36: “Chủ sở hữu chương trình phát sóng quy định tại khoản 3 Điều 44 của Luật sở hữu trí tuệ là tổ chức phát sóng đầu tư tài chính và cơ sở vật chất – kỹ thuật của mình để phát sóng”. Như vậy vẫn có thể tồn tại khả năng tổ chức phát sóng và chủ sở hữu đối với chương trình phát sóng là hai chủ thể riêng biệt, nhưng trên thực tế trường hợp này không nhiều. Từ đó, ta có thể hiểu các điều kiện bảo hộ quyền liên quan như sau: - Điều kiện bảo hộ đầu tiên: Cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng được định hình hoặc thực hiện lần đầu (điều kiện về định hình hoặc thực hiện). Định hình bản ghi âm, ghi hình là sự biểu hiện bằng âm thanh, hình ảnh hoặc sự tái hiện âm thanh, hình ảnh dưới dạng vật chất nhất định để từ đó có thể nhận biết, sao chép hoặc truyền đạt. Chương trình phát sóng phát sinh quyền khi được thực hiện phát sóng lần đầu bởi chính tổ chức phát sóng có quyền phát sóng 17
  19. chương trình phát sóng đó. Điều này thể hiện tính nguyên gốc của tác phẩm, được xem xét trên hai phương diện chủ yếu sau. Thứ nhất, tính nguyên gốc xác định trên cơ sở lao động sáng tạo mang dấu ấn cá nhân của chủ thể. Việc quyền liên quan phát sinh trên cơ sở hành vi sử dụng tác phẩm đã có từ trước không ảnh hưởng tới tính nguyên gốc của các đối tượng mà nó bảo hộ. Không khó để nhận ra rằng, sự trình diễn của người nghệ sĩ là kết quả của những cống hiến nghệ thuật mang tính chất sáng tạo của họ. Cùng là một tác phẩm, nhưng mỗi người biểu diễn sẽ thể hiện theo cách của riêng mình, thậm chí cũng chính người nghệ sĩ ấy nhưng mỗi lần biểu diễn lại đem đến những cảm nhận riêng cho khán giả. Chính sự sử dụng tác phẩm một cách sáng tạo và mang đậm dấu ấn cá nhân của chủ thể quyền liên quan đòi hỏi việc sử dụng ấy cũng phải được pháp luật bảo vệ. Thứ hai, tính nguyên gốc được thể hiện ở việc quyền liên quan chỉ được xác định theo các đối tượng của quyền liên quan được tạo ra lần đầu tiên. Việc xác định tính nguyên gốc từ góc độ này thường được áp dụng đối với các bản ghi, chương trình phát thanh truyền hình. Cụ thể, quyền liên quan đối với bản ghi âm, ghi hình chỉ được xác định cho người tạo ra bản ghi âm, ghi hình lần đầu âm thanh, hình ảnh của cuộc biểu diễn hoặc các âm thanh, hình ảnh khác; quyền liên quan đối với tổ chức phát sóng chỉ được xác định cho tổ chức khởi xướng và thực hiện việc phát sóng. Theo đó, trong trường hợp: một công ty ghi âm ký hợp đồng thu âm phần biểu diễn của ca sĩ dưới dạng đĩa CD (compact disc), sau đó một công ty khác sao chép lại đĩa CD đó và cũng đưa ra thị trường, thì ta sẽ có hai dạng bản ghi âm cho cùng một phần trình diễn gốc, tuy nhiên, chỉ dạng bản ghi thứ nhất được coi là có tính nguyên gốc (là sự định hình lần đầu) và là đối tượng bảo hộ của quyền liên quan, dạng bản ghi thứ hai không đảm bảo tính nguyên gốc và không những không được bảo hộ mà còn bị coi là hành vi xâm phạm quyền liên quan và tuỳ theo tính chất, mức độ của sự xâm phạm mà sẽ bị xử lý theo quy định 18
  20. pháp luật. Tương tự, một tổ chức phát sóng đã đầu tư tài chính và các điều kiện cần thiết để làm một chương trình truyền hình, hoặc đã mua bản quyền phát sóng trực tiếp một sự kiện văn hoá nào đó... thì việc phát sóng các chương trình đó của họ được xác định là thoả mãn điều kiện về tính nguyên gốc của đối tượng quyền liên quan, và nếu tổ chức phát sóng nào khác tiến hành tiếp sóng, phát sóng đồng thời, hoặc phát lại các chương trình này thì việc phát sóng của tổ chức thứ hai này là không có tính nguyên gốc và cũng như trường hợp trên, có thể bị xác định là hành vi xâm phạm quyền liên quan theo pháp luật sở hữu trí tuệ. Nếu như đặc trưng thứ nhất của quyền liên quan (tính chất sử dụng các tác phẩm đã có) là điểm quan trọng phân biệt nó với các loại quyền sở hữu trí tuệ khác, thì tính nguyên gốc của quyền liên quan cho phép xác định đâu là quyền liên quan được pháp luật bảo hộ, và khi nào xảy ra sự xâm phạm quyền liên quan. Khi tính nguyên gốc được thoả mãn, ta có thể xác định được đối tượng được bảo hộ bởi quyền liên quan, chủ thể của quyền liên quan, và ngược lại, việc không đảm bảo tính nguyên gốc đó là căn cứ để nhận định đã có hành vi xâm phạm đến quyền liên quan. - Điều kiện bảo hộ thứ hai: cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa được bảo hộ khi cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa được thực hiện bởi công dân, tổ chức mang quốc tịch Việt Nam [16, điểm a khoản 1,2,3 Điều 17]. - Điều kiện bảo hộ thứ ba: đối tượng của quyền liên quan được bảo hộ theo pháp luật Việt Nam khi đối tượng đó được phát sinh trên lãnh thổ Việt Nam (cuộc biểu diễn). Cuộc biểu diễn được thực hiện tại Việt Nam sẽ được pháp luật Việt Nam bảo hộ là đối tượng của quyền liên quan [16, điểm a, b khoản 1 Điều 17], cho dù chủ thể thực hiện cuộc biểu diễn là công dân Việt Nam hay người nước ngoài. 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2