intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh doanh: Học thuyết xuyên màn trách nhiệm hữu hạn công ty

Chia sẻ: Caphesuadathemhanh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:65

48
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của đề tài khi thực hiện công trình nghiên cứu này để: Người đọc có những cái nhìn cơ bản nhất về học thuyết; và Thông qua việc phân tích các vụ kiện thực tế để hiểu hơn về cách áp dụng của học thuyết này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh doanh: Học thuyết xuyên màn trách nhiệm hữu hạn công ty

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ NGỌC CẨM HỌC THUYẾT “XUYÊN MÀN TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN CÔNG TY” KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH: LUẬT KINH DOANH Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH – 2013 LKD Hà Nội, 2017
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ NGỌC CẨM HỌC THUYẾT “XUYÊN MÀN TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN CÔNG TY” KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH: LUẬT KINH DOANH Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH – 2013 LKD NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. Phan Thị Thanh Thủy Hà Nội, 2017
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan khóa luận Học thuyết “Xuyên màn trách nhiệm hữu hạn công ty” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các thông tin và số liệu mà tôi sử dụng trong khóa luận là trung thực. Các luận điểm được trích dẫn đầy đủ, nếu không là ý tưởng hoặc kết quả tổng hợp của chính bản thân tôi. Tôi đã hoàn thành các môn học và các nghĩa vụ khác theo quy định của Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Khóa luận. Tôi xin chân thành cảm ơn. Hà Nội, ngày 05 tháng 05 năm 2017 Người cam đoan Lê Ngọc Cẩm
  4. LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành khóa luận này, tôi xin chân thành cảm ơn giảng viên hướng dẫn TS. Phan Thị Thanh Thủy, người đã hết sức nhiệt tình hướng dẫn và chỉ bảo tôi thực hiện khóa luận này. Tôi xin được trân trọng cảm ơn Khoa Luật – ĐHQGHN đã tạo điều kiện để tôi được thực hiện đề tài mình ấp ủ: Học thuyết “Xuyên màn trách nhiệm hữu hạn công ty” Mặc dù đã có nhiều cố gắng để hoàn thành đề tài một cách hoàn chỉnh nhất, song không tránh khỏi những thiếu sót về cả kinh nghiệm và kiến thức trong suốt quá trình nghiên cứu. Tác giả hi vọng rằng sẽ nhận được sự góp ý quý báu từ quý thầy cô và các bạn để khóa luận này được hoàn chỉnh hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn!
  5. MỤC LỤC MỤC LỤC .................................................................................................................................5 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT..........................................................................................8 MỞ ĐẦU ....................................................................................................................................9 1. Tính cấp thiết của đề tài ....................................................................................................9 2. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu ...................................................................10 3. Đối tượng nghiên cứu ......................................................................................................11 4. Phương pháp nghiên cứu đề tài .......................................................................................11 5. Bố cục đề tài ....................................................................................................................11 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỌC THUYẾT “XUYÊN MÀN TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN CÔNG TY” ...........................................................................12 1.1 Tính trách nhiệm hữu hạn và tư cách pháp nhân của công ty .........................................12 1.1.1. Nguồn gốc pháp lý của tính trách nhiệm hữu hạn...........................................................13 1.1.2. Vai trò và ý nghĩa của tính trách nhiệm hữu hạn của Công ty ......................................16 1.1.3. Tư cách pháp nhân – Công cụ hợp lý và hợp pháp hóa tính “trách nhiệm hữu hạn” .18 1.1.4. Việc lợi dụng tính “trách nhiệm hữu hạn” của người góp vốn......................................20 1.2. Học thuyết “Xuyên màn trách nhiệm hữu hạn công ty” .................................................22 1.2.1. Khái niệm về Học thuyết “Xuyên màn trách nhiệm hữu hạn công ty” ........................22 1.2.2. Sự hình thành và phát triển của Học thuyết “Xuyên màn trách nhiệm hữu hạn công ty” .....................................................................................................................................................25 CHƯƠNG 2: ÁP DỤNG HỌC THUYẾT “XUYÊN MÀN TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN CÔNG TY” .............................................................................................................................. 31 2.1. Tổng quan về việc áp dụng học thuyết “Xuyên màn trách nhiệm hữu hạn công ty” .......31
  6. 2.1.1.Việc áp dụng học thuyết “Xuyên màn trách nhiệm hữu hạn công ty” của các nhà nghiên cứu .......................................................................................................................................31 2.1.2.Việc áp dụng học thuyết “Xuyên màn trách nhiệm hữu hạn công ty” của các tòa án.33 2.1.3. Đánh giá ................................................................................................................................34 2.2.Ví dụ minh họa về việc áp dụng “Xuyên màn trách nhiệm hữu hạn công ty” - Vụ kiện Oriental Commercial and Shipping Co. vs. Rosseel .................................................................35 2.2.1. Tóm tắt nội dung vụ kiện Oriental Commercial and Shipping Co. vs. Rosseel..........35 2.2.2. Lập luận của tòa án..............................................................................................................36 CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG HỌC THUYẾT “XUYÊN MÀN TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN CÔNG TY” TẠI VIỆT NAM ............................................................ 41 3.1. Học thuyết “Xuyên màn trách nhiệm hữu hạn công ty” trong pháp luật doanh nghiệp Việt Nam ...................................................................................................................................41 3.2. Học thuyết “Xuyên màn trách nhiệm hữu hạn công ty” trong áp dụng pháp luật doanh nghiệp tại Việt Nam ..................................................................................................................44 3.2.1. Thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên để lừa đảo .............................44 3.2.2. Các tập đoàn đa quốc gia thành lập công ty để trốn thuế ...............................................46 3.3. Đánh giá ..........................................................................................................................48 KẾT LUẬN .............................................................................................................................. 49 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................50 1. Văn bản pháp luật ............................................................................................................50 2. Tài liệu tiếng Việt ............................................................................................................50 3. Tài liệu tiếng nước ngoài .................................................................................................51 PHỤ LỤC: NỘI DUNG ĐẦY ĐỦ VỤ KIỆN ORIENTAL COMMERCIAL V. SHIPPING CO. VS. ROSSEEL ............................................................................................ 55 1. Về nguyên đơn Rosseel, N.V. và Charles Rosseel ..........................................................55
  7. 2. Về bị đơn Oriental S.A. và Oriental U.K. .......................................................................55 3. Về giao dịch giữa Oriental và Rosseel ............................................................................58
  8. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT CTCP : Công ty cổ phần TNHH : Trách nhiệm hữu hạn PCV : Học thuyết “Xuyên màn trách nhiệm hữu hạn công ty”
  9. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trải qua một quá trình hình thành và phát triển, pháp luật công ty đã có một chặng đường dài để định hình hai nguyên tắc cơ bản, được coi là nền tảng: “tính trách nhiệm hữu hạn” và “tính độc lập của pháp nhân”. Tuy vậy, tiến trình lịch sử này phản ánh không ít những vụ tranh chấp liên quan đến vấn đề hai nguyên tắc này bị các thương nhân lợi dụng với mong muốn đem lại lợi ích riêng cho mình và gây phương hại đến các chủ thể khác trong nền kinh tế. Các luật gia trên khắp thế giới đã nỗ lực để tìm gia giải pháp nhằm hạn chế vấn đề nêu trên. Và một trong số đó là việc áp dụng Học thuyết “Xuyên màn trách nhiệm hữu hạn công ty” (Piercing the Corporate Veil doctrine - PCV). Điều đó đồng nghĩa với việc, khi tòa án áp dụng học thuyết này, tức là họ đã thực hiện một ngoại lệ của đồng thời hai nguyên tắc cơ bản: “tính trách nhiệm hữu hạn” và “tính độc lập của pháp nhân”.1 Tuy vậy, câu chuyện chưa bao giờ là đơn giản bởi cho đến nay, việc áp dụng học thuyết này như thế nào vẫn là một “cuộc chiến tranh tư duy” còn dang dở. Lý do cho những sự mâu thuẫn này, một phần vì kết quả của bài toán ngoại lệ cho một nguyên tắc đã có bề dày lịch sử cũng như những lợi ích đáng kể về mặt kinh tế và pháp lý – tính trách nhiệm hữu hạn - chưa bao giờ là đơn giản, một phần khác được hình thành từ sự đa dạng, khác biệt trong cách tiếp cận, nhìn nhận nguyên tắc “pháp nhân độc lập” của các nền tài phán. Bằng cách học hỏi và tiếp nhận pháp luật, dù chưa có một nền tảng lý thuyết vững chắc nào, nhưng pháp luật công ty Việt Nam cũng đã và đang thừa nhận và tiếp thu sự tồn tại của học thuyết này, biểu hiện qua những điều luật tản mạn trong luật doanh nghiệp các thời kỳ. Tuy vậy, Việt Nam chưa từng ghi nhận một thực tiễn áp dụng pháp lý nào về việc người góp vốn hoặc người quản lý chịu trách nhiệm cho hành vi của pháp nhân được tiếp cận dưới góc độ của học thuyết này. 1 Alexandra Horváthová & Catalin Gabriel Stanescu (2016) - Piercing the corporate veil: US lessons for romania & slovakia - Journal of International and Comparative Law 9
  10. Có thể nói rằng PCV, một học thuyết đã gây nên sự tranh cãi từ những thập nhiên 80 của thế kỉ XIX trên thế giới, hiện còn vô cùng mới mẻ với cả pháp luật thực định cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật tại Việt Nam. Chính sự mới mẻ này đã khuyến khích cho việc nghiên cứu để hoàn thiện pháp luật công ty cũng như việc áp dụng pháp luật đó trên thực tế. Vì lý do nêu trên, tác giả quyết định lựa chọn HỌC THUYẾT “XUYÊN MÀN TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN CÔNG TY” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp chương trình đào tại cử nhân luật kinh doanh của mình. 2. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu Như đã trình bày ở trên, cho đến nay, cuộc tranh luận về cách áp dụng PCV một cách hợp lý vẫn chưa đến hồi kết, vẫn tồn tại nhiều ý kiến trái chiều về học thuyết này, thậm chí có những nghiên cứu còn nhận định việc áp dụng nó như một bãi đầm lầy (“morass”).2 Với mục tiêu và thời gian có hạn của một khóa luận, bài luận này không tham vọng tìm ra giải pháp cho những cuộc tranh luận nêu trên. Mục đích của tác giả khi thực hiện công trình nghiên cứu này để: (1) Người đọc có những cái nhìn cơ bản nhất về học thuyết; và (2) Thông qua việc phân tích các vụ kiện thực tế để hiểu hơn về cách áp dụng của học thuyết này. Để đạt được mục đích này, tác giả đặt ra những nhiệm vụ nghiên cứu đồng thời cũng là phạm vi nghiên cứu của đề tài này như sau: (1) Trình bày nền tảng pháp lý của Học thuyết – Lịch sử hình thành, vai trò của “tính trách nhiệm hữu hạn” và cách tiếp cận chế định “pháp nhân độc lập” trên thế giới; (2) Giới thiệu và phân tích khái niệm học thuyết PCV; (3) Trình bày lịch sử hình thành của học thuyết PCV; 2 Jonathan Macey (2014) - "FINDING ORDER IN THE MORASS: THE THREE REAL JUSTIFICATIONS FOR PIERCING THE CORPORATE VEIL" - Faculty Scholarship Series. Paper 4925. 10
  11. (4) Giới thiệu về việc áp dụng học thuyết và đưa ra các vụ việc (“case study”) để minh chứng; (5) Phân tích các quy định về PCV trong pháp luật doanh nghiệp Việt Nam và đánh giá các hiện tượng pháp lý có thể áp dụng PCV trong thực tiễn áp dụng pháp luật tại Việt Nam. Tác giả mong muốn rằng, khóa luận này có thể đem đến cho những người quan tâm đến lĩnh vực pháp luật doanh nghiệp, có thêm những góc nhìn về một vấn đề còn ít được tìm hiểu và khai thác tại Việt Nam, về một học thuyết đã được thừa nhận trong Luật doanh nghiệp mà ít nhiều còn gây tranh cãi trên thế giới. Đồng thời, thông qua khóa luận này, tác giả hy vọng rằng đây sẽ là một nguồn tham khảo hữu ích cho các bạn sinh viên có quan tâm đến PCV. 3. Đối tượng nghiên cứu Học thuyết “Xuyên màn trách nhiệm hữu hạn công ty” và sự tiếp thu học thuyết này trong pháp luật công ty ở Việt Nam cũng như thế giới. 4. Phương pháp nghiên cứu đề tài Phương pháp so sánh, phân tích và tổng hợp. Đề tài sử dụng tài liệu tham khảo từ các án lệ, sách, bài nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến đề tài này. Từ những phân tích các tài liệu nêu trên, tác giả sẽ so sánh với tình hình thực tế của Việt Nam và đưa ra những kiến nghị phù hợp 5. Bố cục đề tài Kết cấu của đề tài bao gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về Học thuyết “Xuyên màn trách nhiệm hữu hạn công ty” Chương 2: Áp dụng Học thuyết “Xuyên màn trách nhiệm hữu hạn công ty” Chương 3: Học thuyết “Xuyên màn trách nhiệm hữu hạn công ty” tại Việt Nam 11
  12. CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỌC THUYẾT “XUYÊN MÀN TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN CÔNG TY” 1.1 Tính trách nhiệm hữu hạn và tư cách pháp nhân của công ty Lịch sử phát triển của pháp luật công ty gắn liền với hai nguyên tắc cơ bản là “tính trách nhiệm hữu hạn” (“limited liability”) và “tính độc lập của pháp nhân độc lập” (“separate legal personality”). Ban đầu, những người góp vốn tập hợp lại với nhau như một hội đoàn, cùng nhau làm ăn, cùng nhau chia sẻ lợi ích và rủi ro. Công ty lúc này nếu tồn tại chỉ như một cơ chế giúp cho việc hoạt động và phân chia lợi nhuận giữa những người góp vốn được dễ dàng và thuận tiện.3 Khi này, người tham gia góp vốn phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với những nghĩa vụ của công ty. Song hành cùng sự phát triển của kinh tế, việc kinh doanh dần trở nên phức tạp và rủi ro hơn, khiến người góp vốn phải đối mặt với tâm lý e ngại khi bỏ vốn vào nền kinh tế. Để thúc đẩy việc đầu tư, các nhà làm luật đã từng bước trao cho người góp vốn vào công ty những đặc quyền nhất định để bảo vệ họ trước những rủi ro người góp vốn có thể gặp phải trong những giao dịch của công ty. Từ đó, tính trách nhiệm hữu hạn của người góp vốn ra đời. Người góp vốn khi này chỉ phải chịu trách nhiệm với các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn mình đã góp. Để đảm bảo được tính trách nhiệm hữu hạn này, công ty đã được các nhà lập pháp trao cho một tư cách: Tư cách pháp nhân – Một “tấm màn” (“corporate veil”) bảo vệ người góp vốn.4 [Cách thức mà “tấm màn” này đảm bảo sự hợp lý và hợp pháp của tính “trách nhiệm hữu hạn” qua đó bảo vệ người góp vốn sẽ được phân tích cụ thể tại Mục 1.1.4]. 3 Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Đình Cung (2009) – “Công ty, vốn, quản lý và tranh chấp” - NXB Tri thức, Hồ Chí Minh – Tr.32 4 Cathy S. Krendl & James R. Krendl (1978) – “Piercing the Corporate Veil: Focusing the Inquiry” 55 DEN. L.J 1, 2 12
  13. Như vậy, có thể nhận định rằng, “tính trách nhiệm hữu hạn” và “tư cách pháp nhân” là công cụ để bảo vệ hữu hiệu cho công việc làm ăn kinh doanh của các thương nhân. Tuy nhiên, tâm lý “được voi đòi tiên” đã khiến người góp vốn có xu hướng lạm dụng các nguyên tắc này để tạo ra những hành vi lừa gạt (“fraud”), che giấu (“concealment”), lẩn tránh (“evasion”) khỏi các trách nhiệm thực sự của mình. Hệ quả là làm phương hại đến các chủ thể khác trong nền kinh tế. Trong những trường hợp này, một trong những cách mà tòa án có thể giải quyết vấn đề là thực hiện việc xuyên thủng tấm màn (“corporate veil”). Học thuyết “Xuyên màn trách nhiệm hữu hạn công ty” về cơ bản ra đời trên nền tảng như vậy.5 Với mục đích phần nào đó giúp người đọc sáng tỏ về nền tảng của PCV, bài luận này dành một phần để trình bày sơ qua những điểm trong nội dung của hai nền tảng này mà tác giả nhận định là quan trọng, liên quan đến học thuyết này. 1.1.1 Nguồn gốc pháp lý của tính trách nhiệm hữu hạn Sự phát triển kinh tế luôn đi kèm với mong muốn mở rộng sản xuất của chủ doanh nghiệp. Muốn thế họ cần phải huy động vốn từ nhiều người khác nhau và phải sẵn sàng chia sẻ quyền điều hành với những người đó. Điều này phát sinh nhu cầu góp vốn. Đối với chính quyền thì nhu cầu này có lợi cho nền kinh tế nói chung. Tuy nhiên, quy định về “trách nhiệm vô hạn” là một rào cản quá lớn để người đầu tư có thể bước qua tâm lý ngần ngại bỏ vốn. Bởi một khi doanh nghiệp thua lỗ, họ không chỉ phải mang tài sản góp vào công ty để trả nợ mà thậm chí còn phải về nhà lấy thêm tiền nuôi vợ con để trả khoản nợ ấy. Và vì vậy, bằng cách tạo ra các loại hình công ty khác nhau mà độc lập về mặt địa vị pháp lý với người góp vốn, chính quyền trao cho người tham gia góp vốn “trách nhiệm hữu hạn”, ban đầu là những người góp vốn không tham gia quản lý sau đó là tất cả những người góp vốn. Bằng 5 Robert B. Thompson (1991) – “Piercing the Corporate Veil: An Empirical Study” - 76 CORNELL L.REV – P.1036 - 1041 13
  14. cách này, nếu khi kinh doanh thua lỗ, người tham gia góp vốn chỉ mất số tiền họ đã bỏ vào công ty (hữu hạn). Và vì thế, khái niệm về “trách nhiệm hữu hạn” đã ra đời.6 Cho đến nay, nội dung về tính trách nhiêm hữu hạn của công ty dường như trở thành lý thuyết căn bản trong khoa học pháp lý và được thừa nhận rộng rãi ở Việt trong Luật Công ty đầu tiên ra đời năm 1990, Luật Doanh nghiệp 2000 và Luật Doanh nghiệp 2005. Luật doanh nghiệp 20147 tiếp tục khẳng đinh nguyên tắc này tại Điểm a, Khoản 1, Điều 47: “Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp”; Khoản 1, Điều 73: “Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là doanh nghiệp do một tổ chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu (sau đây gọi là chủ sở hữu công ty); chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty” và Điểm c, Khoản 1, Điều 110 “Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp” Nội dung tưởng chừng cơ bản này đã được thừa nhận trong pháp luật về công ty ở Việt Nam từ những thập niên 90 của thế kỉ trước và tất yếu là một sự kế thừa từ các nền lập pháp tiên tiến trên thế giới. Tuy nhiên, việc xác định lịch sử trong câu chuyện hình thành của tính “tính trách nhiệm hữu hạn” chưa bao giờ là dễ dàng. Theo J.Mickletwait và A.Woolridge (2003)8, dấu hiệu về loại hình lâu đời nhất của Công ty được ghi nhận từ khoảng 3.000 năm trước Công nguyên, từ người Assyria, Phoenicia rồi người Hy Lạp.9 Nhưng mãi đến thời La Mã cổ đại, tính trách nhiệm hữu hạn mới được nhen nhóm hình thành trong các corpora hay collegia (công ty). Sự phát triển của tính trách nhiệm hữu hạn sau đó song hành cùng với sự ra đời và bánh trướng mạnh mẽ của công ty cổ phần (CTCP) ở Mỹ và khắp châu Âu. 6 Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Đình Cung (2009) – “Công ty, vốn, quản lý và tranh chấp” - NXB Tri thức, Hồ Chí Minh – Tr.40 7 Luật doanh nghiệp số 68/2014/QH13 của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ban hành ngày ngày 26 tháng 11 năm 2014, có hiệu lực ngày 1 tháng 7 năm 2015. 8 John Mickletwait và Adrian Woolridge, The Company – A short History of a revolutionary Idea, (New York: The Morden Library, 2003), được trích từ Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Đình Cung (2009) – “Công ty, vốn, quản lý và tranh chấp” - NXB Tri thức, Hồ Chí Minh – Tr32 – 37 9 Được trích từ PGS. TS. Ngô Huy Cương (2013) – “Giáo trình Luật Thương mại – Phần chung và thương nhân” – NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội – Tr. 157 14
  15. Tuy vậy, việc các công ty bán cổ phần trên thị trường tạo ra những sự lũng loạn, cơn sốt giá và phá sản do những người đầu cơ gây ra khiến Quốc hội Anh phải ban hành việc hạn chế thành lập CTCP và tính trách nhiệm hữu hạn khi này tại Anh cũng chỉ được áp dụng cho lĩnh vực kinh doanh quốc tế. Cho đến năm 1441, chỉ có một vài trường hợp thành viên của một công ty đủ tư cách được trao tính trách nhiệm hữu hạn đầy đủ trong tư duy pháp lý ở Anh.10 Trong khi ở Mỹ, CTCP vẫn phát triển rất mạnh mẽ. Năm 1811, bang New York còn ban bố luật để mở rộng tính trách nhiệm hữu hạn sang cả các công ty sản xuất. Tiền vì thế ùn ùn đổ về bang này và tính trách nhiệm hữu hạn trở nên phổ biến vì bang nào không dùng đến nó sẽ không thu hút được đồng vốn. Đến năm 1855, Anh cũng không thể đứng ngoài cuộc cuộc chơi này, và vì vậy trước nỗi sợ mất doanh nghiệp, cùng năm đó Anh đã ra Luật về trách nhiệm hữu hạn (“Limited Liability Act”). Do có sự khác biệt về văn hóa, Pháp có những bước tiến chậm hơn vì thế khi đến năm 1863, luật công ty trách nhiệm hữu hạn mới ra đời ở nước này.11 Tuy nhiên, ngay cả khi có Đạo luật về trách nhiệm hữu hạn thì vẫn xảy ra nhiều cuộc tranh luận nảy lửa trước khi đưa ra được kết luận cuối cùng về ý niệm trọn vẹn của tính trách nhiệm hữu hạn trong công ty 12. Cho đến khi có phán quyết của Thượng Nghị viện Anh (“House of Lords”) trong vụ kiện Salomon vs. Salomon & Co. (1897), các ý niệm về tính trách nhiệm hữu hạn trong công ty mới được củng cố. Vụ kiện này được xem như là một vụ kiện mang tính bước ngoặt (“a landmark case”) và là hòn đá tảng (“keystone”) của pháp luật về công ty hiện đại.13 Trong vụ này, Thẩm phán Halsbury đã đưa ra những nhận định nổi tiếng: “Công ty hoặc là một thực thể pháp lý hoặc không phải là thế. Nếu là một thực thể thì công việc kinh doanh là của nó chứ không phải của ông Salmon. Nếu nó 10 FREDERICK G. KEMPIN, JR (1960) – “Limited Liability in historical perspective”- Bulletin – American Business Law Association – P. 13 11 John Mickletwait và Adrian Woolridge, The Company – A short History of a revolutionary Idea, (New York: The Morden Library, 2003), được trích từ Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Đình Cung (2009) – “Công ty, vốn, quản lý và tranh chấp” - NXB Tri thức, Hồ Chí Minh - Tr32 – 37 12 Limited Liability Act issued by United Kingdom on 27 th November 1855 13 Phillip Lipton (2014) – “The mythology of Salomon’s case and the law dealing with the tort liabilities of corporate groups: an historical perspective” - 40(2) Monash University Law Review 452 15
  16. không phải là một thực thể thì không có một ai hay một vật nào được nó ủy quyền cho một quyền hành gì; và không thể cùng lúc nói rằng vừa có một công ty và vừa không có một công ty.”14 hay “Một công ty là một thực thể pháp lý, phân biệt với chủ sở hữu và người điều hành, thì cá nhân không phải chịu nghĩa vụ đối với các nghĩa vụ của công ty. Do đó, các chủ nợ không thể đi ra sau tấm màn công ty (“the corporate veil”) để theo đuổi các cổ đông cũng như người điều hành công ty hoặc các công ty con của công ty cho các khoản nợ của công ty đó. Một cách công bằng, các chủ nợ của người quản lý công ty cũng không thể theo đuổi công ty đối với các khoản nợ của cá nhân người quản lý đó.” 15 Như vậy, trong ngôn ngữ của khoa học pháp lý, trách nhiệm vô hạn là khi một người phải dùng tất cả tài sản mình đang có để thực hiện nghĩa vụ và/hoặc trách nhiệm với một người khác. Một người chịu trách nhiệm hữu hạn trong công ty tức là chỉ phải dùng số tài sản mình đã bỏ vào công ty để thực hiện nghĩa vụ và/hoặc trách nhiệm với chủ thể khác.16 1.1.2. Vai trò và ý nghĩa của tính trách nhiệm hữu hạn của Công ty Mở đầu bài viết “Trách nhiệm hữu hạn trong bối cảnh lịch sử” (“Limited Liability in historical perspective”)17, G. KEMPIN, JR.18 khẳng định rằng: “Đối với công chúng, không có thuộc tính nào của công ty hiện đại gắn liền với nó hơn là 14 Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Đình Cung (2009) – “Công ty, vốn, quản lý và tranh chấp” - NXB Tri thức, Hồ Chí Minh – Tr. 69 15 Dr Aleka Mandaraka-Sheppard (2013) – “New trends in piercing the corporate veil – the conservative versus the liberal approaches” - Modern Maritime Law (3rd edition, 2013) - Informa Law from Routledge. 16 Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Đình Cung (2009) – “Công ty, vốn, quản lý và tranh chấp” - NXB Tri thức, Hồ Chí Minh – Tr. 70 17 American Business Law Association Volume 4, Number 1 (3/1960) – “Bulletin” – P.11 – 34. 18 FREDERICK G. KEMPIN, JR., Associate Professor of Business Law, Wharton School of Finance and Commerce, University of Pennsylvania. B.S.C., 1942, Temple University; LL.B., 1944, University of Pennsylvania. Member Pennsylvania bar, American Business Law Association; contributor to legal periodicals. 16
  17. tính trách nhiệm hữu hạn của các cổ đông”.19 Điều này đủ cho ta thấy phần nào đó vai trò quan trọng của tính trách nhiệm hữu hạn trong đời sống của các công ty. Xét về mặt kinh tế, đặt chế độ trách nhiệm hữu hạn vào công ty khiến cho hiệu quả kinh tế được đẩy lên cao nhất. Hai tác giả Reiner R. Kraakman và Henry Hansmann (2004)20 đã có những bình luận khá hay về khía cạnh này. Hai ông cho rằng:  Cách làm này thuận tiện khi cho phép chủ nợ của doanh nghiệp có quyền ưu tiên tiếp cận tài sản doanh nghiệp, trong khi chủ nợ của người góp vốn có quyền ưu tiên tiếp cận tài sản của người góp vốn. Việc đặt chế độ trách nhiệm hữu hạn lên công ty để tách bạch nợ công ty và nợ của người góp vốn khiến cho chủ nợ xác định được mình phải đòi ai, và đòi ở đâu. Từ đó tiết kiệm đáng kể những chi phí trong việc thu hồi nợ.  Nó giúp cho các doanh nghiệp làm ăn lớn, có nhiều công ty con, có khả năng chia rủi ro khi giao dịch ra làm nhiều phần nhỏ. Điều này cũng giúp các doanh nghiệp lớn có khả năng thế chấp một phần tài sản làm đảm bảo khi vay nợ dễ dàng hơn, từ đó giúp chủ nợ khoanh vùng khối lượng tài sản cần theo dõi.  Bằng việc quy định trách nhiệm hữu hạn, phần nào đó, luật công ty đã chuyển rủi ro về tài chính từ nhà đầu tư sang cho chủ nợ. Nhà đầu tư đã sẵn sàng mất tiền, trong khi chủ nợ có động cơ hơn để đòi giám sát hoạt động của công ty. Từ đó buộc chủ nợ phải tham gia giám sát hoạt động của công ty một cách chặt chẽ hơn. Xét về tính công bằng, công ty và người góp vốn là hai chủ thể tách biệt nhau. Hàng chục, hàng trăm người góp vốn có thể cùng tham gia một công ty, nhưng những người thực sự vận hành nó lại ít hơn con số này, thậm chí chỉ có thể đếm trên 19 “There is no attribute of the modern business corporation more closely connected with it, in the thinking of the general public, than the limited liability of its shareholders” - FREDERICK G. KEMPIN, JR (1960) – “Limited Liability in historical perspective”- Bulletin – American Business Law Association – P. 11 20 R. Kraakman, H. Hansmann and co-writers - The Anatomy of Corporate Law: A Comparative and Functional Approach, Oxford University Press [2004] – Tr. 8-10 trích từ Nguyễn Lê Duy Hậu (2010) – “Trách nhiệm hữu hạn và Luật công ty” 17
  18. đầu ngón tay. Hệ quả là, sẽ có những nhà đầu tư rơi vào thế đặt tài sản của mình vào tay người khác quản lý. Để các nhà đầu tư hạn chế các rủi ro mình phải đối mặt (do đã biết trước được cái giá đắt nhất họ phải trả) khi bỏ vốn, đồng thời nhằm thu hút nhiều nhà đầu tư bỏ vốn hơn nữa, pháp luật đặt ra vấn đề giới hạn trách nhiệm cho những người góp vốn.21 Và khi này, công ty trở nên tách biệt với người bỏ vốn, trở thành một “tấm màn”, một “công cụ” bảo vệ người góp vốn.22 Về vấn đề này luật sư Nguyễn Ngọc Bích đã có một ví von rất hay: “Bỏ vốn vào một loại hình công ty mà được hưởng chế độ trách nhiệm hữu hạn với bỏ vốn vào một loại hình công ty mà phải chịu trách nhiệm vô hạn y như khi nói lên xe đạp thì phải đạp, còn lên xe máy thì khỏi đạp.” 23 1.1.3. Tư cách pháp nhân của công ty – Công cụ hợp lý và hợp pháp hóa tính “trách nhiệm hữu hạn” Cho đến nay, mặc dù chưa có một định nghĩa chính xác nào về pháp nhân nhưng các quốc gia đều thừa nhận sự tồn tại của nó. 24 Hiểu một cách đơn giản, pháp luật bằng những quy định của mình tạo ra cơ sở để hình thành một “con người”, mặc dù không có tứ chi, ngũ quan nhưng về mặt pháp lý có địa vị pháp lý bình đẳng như một “tự nhiên nhân”. Có nhiều các học thuyết pháp lý khác nhau để các quốc gia sử dụng làm cơ sở cho các quan điểm của mình về pháp nhân.25 Hiện nay, có hai quan niệm quan trọng và cơ bản: Quan điểm thứ nhất, quan điểm thắng thế trong nền tài phán Hoa Kỳ, cho rằng quá trình thành lập một công ty là đặc quyền (“privilege”) mà chính phủ trao cho công dân của họ. Dưới cách tiếp cận của quan điểm này, việc một công ty được 21 Nguyễn Lê Duy Hậu (2010) – “Trách nhiệm hữu hạn và Luật công ty” 22 Nguyễn Lê Duy Hậu (2010) – Khóa luận tốt nghiệp: “Học thuyết “Piercing the corporate veil” trong pháp luật các nước: so sánh với pháp luật Việt Nam” - Người hướng dẫn: Luật sư – Thạc sĩ luật học Nguyễn Ngọc Bích - Hồ Chí Minh. – Tr.5 23 Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Đình Cung (2009) – “Công ty, vốn, quản lý và tranh chấp” - NXB Tri thức, Hồ Chí Minh – Trang 70 24 PGS. TS. Ngô Huy Cương (2013) – “Giáo trình Luật Thương mại – Phần chung và thương nhân” – NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội – Tr. 76 25 PGS. TS. Ngô Huy Cương (2013) – “Giáo trình Luật Thương mại – Phần chung và thương nhân” – NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội – Tr. 76 18
  19. thành lập là dựa trên một sự cho phép của chính phủ. Hệ quả là, chính phủ có quyền điều chỉnh tất cả các vấn liên quan đến sự tồn tại hay chấm dứt của các công ty. Như vậy, quyền sử dụng hình thức công ty để kinh doanh luôn tồn tại song hành cùng với nghĩa vụ vận hành công ty một cách có trách nhiệm. Trường hợp công ty bị lạm dụng, thì chính phủ có nghĩa vụ phải tước đi “đặc quyền” đó. Tư duy này đã đưa đến việc hình thành khái niệm “trách nhiệm xã hội” của doanh nghiệp như là một tiêu chuẩn hành vi đối với các công ty, đặc biệt là các tập đoàn xuyên quốc gia, trong bối cảnh hiện nay xuất hiện những chỉ trích mạnh mẽ đối với việc sử dụng công ty như một lá chắn của các thương nhân và trách nhiệm hữu hạn bị cho là gây ra sự vô trách nhiệm về tài chính. Lý thuyết này tạo ra những bước đi quan trọng trong tư duy của người dân Mỹ qua nhiều năm. Đứng ở một góc độ khác, dưới góc nhìn của các lý thuyết về hợp đồng, quan điểm thứ hai giải thích bản chất của công ty là một thỏa thuận giữa các cá nhân riêng rẽ hay nói cách khác là một bản hợp đồng. Theo đó, trách nhiệm hữu hạn của các thành viên/cổ đông là kết quả của sự tự do ý chí, tự do thỏa thuận của các bên thay vì là một hành động hay một sự can thiệp của chính phủ. Lý thuyết này cũng cho rằng chính phủ nên tôn trọng sự thỏa thuận này và kết quả là tòa án chỉ nên xuyên qua bức “bình phong” trong trường hợp có sự vi phạm về hợp đồng.26 Việc hiểu rõ về cách tiếp cận của hai quan điểm này là vô cùng quan trọng vì qua đó ta có thể lý giải được tại sao có những nền tài phán rất dễ dàng chấp nhận và áp dụng PCV (như Hoa Kỳ) nhưng một số khác thì không (như Anh). Sẽ là một câu chuyện dài khi tiếp tục bàn về “tư cách pháp nhân của công ty”. Tuy nhiên, khác với lịch sử phát triển của “tính trách nhiệm hữu hạn”, quan tâm đến sự phát triển của các lý thuyết về pháp nhân có lẽ là không cần thiết trong phạm vi bài luận này. Điều quan trọng hơn cần giải quyết là bằng cách nào “tư cách pháp nhân” bảo đảm được tính “trách nhiệm hữu hạn” trong công ty? Dante Figueroa – “Comparative Aspects of Piercing the Corporate Veil in the United States and Latin 26 America” – P. 708 – 710. 19
  20. Dưới góc nhìn của tư cách pháp nhân này, tư duy của vấn đề sẽ đồng thời xảy ra hai điều sau: (1) công ty tồn tại một cách độc lập với người tham gia góp vốn hay nói cách khác công ty có quyền và nghĩa vụ tách bạch khỏi các thành viên/cổ đông của nó; và (2) việc góp vốn của thành viên/cổ đông sẽ giống như việc “trao đổi” tài sản giữa thành viên/cổ đông đó và một “người” khác – công ty, cụ thể là thành viên/cổ đông sẽ chuyển giao tài sản của mình cho công ty thông qua việc góp vốn nhờ vậy công ty có vốn để tiến hành hoạt động kinh doanh và đổi lại công ty “chấp nhận” để thành viên được hưởng một khoản lợi nhuận nếu công ty làm ăn sinh lời. Bằng cách này, khi công ty tham gia một giao dịch, quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch hoàn toàn thuộc về công ty và công ty chỉ sử dụng tài sản của mình để thực hiện các nghĩa vụ của chính nó mà không được với tay đến tài sản của người khác – thành viên/cổ đông của nó. Ngược lại, người góp vốn vì đã “trao đổi” tài sản với công ty, nên số tiền tối đa họ sẽ mất chính bằng số tiền đã “trao đổi” đó, nhờ vậy, phạm vi của rủi ro chỉ nằm trong số vốn họ đã góp vào. “Tư cách pháp nhân” vì thế được xem là một công cụ để hợp lý và hợp pháp hóa tính “trách nhiệm hữu hạn” của các thành viên/cổ đông trong công ty.27 1.1.4. Việc lợi dụng tính “trách nhiệm hữu hạn” của người góp vốn Mặc dù có rất nhiều ưu điểm [đã chỉ ra ở Mục 1.1.2], nhưng như một con dao luôn có hai lưỡi và một đồng xu luôn có hai mặt, vấn đề trách nhiệm hữu hạn không dừng lại ở những lợi ích. Chế định này cũng vấp phải những chỉ trích trái chiều. Nhiều người cho rằng, bản chất của vấn đề này thực ra chỉ là sự chuyển dịch rủi ro từ nhà đầu tư sang cho xã hội. Những lập luận được đưa ra đứng dưới góc độ tâm lý của những người bỏ vốn. Họ cho rằng, việc người góp vốn có được trách nhiệm hữu hạn tức là họ đã xác định từ trước số tài sản tối đa mà họ chắc chắn mất, vì vậy họ sẽ có xu hướng lạm dụng đặc quyền này để tham gia vào các giao dịch có tính rủi ro cao thậm chí trở nên thiếu trách nhiệm với các giao dịch của mình, gây ảnh hưởng đến các chủ thể khác trong nền kinh tế. Cũng giống như hiện tượng Moral Hazard 27 F. Easterbrook and D. Fischel (1991) - “The economic structure of corporate law” – P.41-44 Reiner R. Kraakman Et Al (2004) - “The anatomy of corporate law: a comparative and functional approach” – P. 7-8; 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2