Khóa luận tốt nghiệp: Nghệ thuật thể hiện phong cảnh làng quê trong thơ Đặng Huy Trứ (khảo sát qua tập Đặng Huy Trứ - con người và tác phẩm)
lượt xem 8
download
Mục tiêu của đề tài là tìm hiểu khóa luận này người viết nhằm vào mục đích chính là thấy được nghệ thuật của Đặng Huy Trứ khi miêu tả về thiên nhiên và cuộc sống con người làng quê qua thơ. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp: Nghệ thuật thể hiện phong cảnh làng quê trong thơ Đặng Huy Trứ (khảo sát qua tập Đặng Huy Trứ - con người và tác phẩm)
- TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ====== DƢƠNG THỊ KIM CHI NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN PHONG CẢNH LÀNG QUÊ TRONG THƠ ĐẶNG HUY TRỨ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Hà Nội, 2018
- TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ====== DƢƠNG THỊ KIM CHI NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN PHONG CẢNH LÀNG QUÊ TRONG THƠ ĐẶNG HUY TRỨ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Ngƣời hƣớng dẫn khoa học ThS. AN THỊ THÚY Hà Nội, 2018
- LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến ThS. An Thị Thúy đã tận tình hướng dẫn, động viên, giúp đỡ, chỉ dạy, tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thành việc nghiên cứu đề tài này. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Bộ môn Văn học Việt Nam, khoa Ngữ văn, nhờ sự nhiệt tình chỉ dẫn của các thầy cô, tôi đã học tập và khắc phục được những thiếu sót trong khóa luận. Xin cảm ơn sự hỗ trợ quý báu về mặt tinh thần của gia đình và sự giúp đỡ của bạn bè đã chia sẻ, động viên tôi trong suốt thời gian vừa qua. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2018 Sinh viên Dƣơng Thị Kim Chi
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đề tài: Nghệ thuật thể hiện phong cảnh làng quê trong thơ Đặng Huy Trứ và toàn bộ nội dung khóa luận là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn trực tiếp của giáo viên hướng dẫn. Các tài liệu và kết quả nghiên cứu trong khóa luận là trung thực, không trùng lặp đề tài và chưa từng được công bố trong bất kì một công trình nào. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước lời cam đoan của mình. Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2018 Sinh viên Dƣơng Thị Kim Chi
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2 3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 3 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 3 5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 4 6. Cấu trúc khóa luận ........................................................................................ 4 NỘI DUNG....................................................................................................... 5 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ........................................................ 5 1.1. Tác giả Đặng Huy Trứ ............................................................................... 5 1.1.1. Thời đại ................................................................................................... 5 1.1.2. Cuộc đời và con người ............................................................................ 7 1.2. Sự nghiệp sáng tác ................................................................................... 12 1.3. Thống kê, phân loại thơ viết về làng quê trong thơ Đặng Huy Trứ......... 15 1.3.1. Thơ viết về thiên nhiên làng quê ........................................................... 15 1.3.2. Thơ viết về cuộc sống sinh hoạt làng quê ............................................. 15 1.3.3. Nhận xét rút ra từ số liệu thống kê ........................................................ 16 Chƣơng 2: BÚT PHÁP THỂ HIỆN PHONG CẢNH LÀNG QUÊ TRONG THƠ ĐẶNG HUY TRỨ ................................................................ 17 2.1. Bút pháp ước lệ ........................................................................................ 17 2.2. Bút pháp tả thực ....................................................................................... 20 2.2.1. Bút pháp tả thực qua miêu tả thiên nhiên làng quê ............................... 20 2.2.2. Bút pháp tả thực qua miêu tả cuộc sống sinh hoạt làng quê ................. 25 Chƣơng 3: HÌNH TƢỢNG NGHỆ THUẬT VÀ NGÔN NGỮ MIÊU TẢ PHONG CẢNH LÀNG QUÊ TRONG THƠ ĐẶNG HUY TRỨ ............. 42 3.1. Hình tượng nghệ thuật.............................................................................. 42 3.1.1. Hình tượng thiên nhiên ......................................................................... 42
- 3.1.2. Hình tượng con người ........................................................................... 46 3.2 Ngôn ngữ ................................................................................................... 52 KẾT LUẬN .................................................................................................... 57 TÀI LIỆU THAM KHẢO
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Đặng Huy Trứ (1825-1874) là nhà văn hóa, nhà thơ lớn giữ vị trí quan trọng trong nền văn học Việt Nam thế kỉ XIX. Đặng Huy Trứ là một trí thức Nho học, ông sống và chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, các sáng tác của ông chủ yếu là bằng chữ Hán. Về sự nghiệp văn học, Đặng Huy Trứ bắt đầu sáng tác văn chương từ khi còn rất trẻ và để lại một số lượng tác phẩm đáng kể. Theo như nhóm Trà Lĩnh đã thống kê bước đầu thì ông đã để lại 12 tập thơ với hơn 1.200 bài, 4 tập văn bao gồm nhiều thể loại, 1 tập hồi kí và một số loại sách khác. Thơ văn Đặng Huy Trứ phản ánh chân thực xã hội Việt Nam thế kỉ XIX, đặc biệt là đã khắc họa nhiều khía cạnh của làng quê Việt Nam. Làng quê là một đề tài quen thuộc và gắn bó với nhiều tác giả và Đặng Huy Trứ cũng không ngoại lệ. Trong số lượng thơ Đặng Huy Trứ để lại, những bài thơ về đề tài làng quê chiếm số lượng không nhỏ. Viết về làng quê, Đặng Huy Trứ đã phản ánh mọi mặt đời sống nơi làng quê. Các ngành nghề, phong tục tập quán, con người đều được nhắc đến. Từ người vú nuôi trẻ đến nhà nho nghèo bán chữ, từ người phụ nữ chăn tằm đến người thợ cày, từ việc ma chay cúng giỗ đến trồng cây nêu ngày tết,....đều được thể hiện. Có thể nói làng quê là nguồn cảm hứng vô tận đối với ông. Và chính những yếu tố đó đã khiến ông trở thành một nhà thơ hiện thực về làng quê trước cả Nguyễn Khuyến – người được mệnh danh là nhà thơ của quê hương, làng cảnh Việt Nam. Tuy vậy, đến nay Đặng Huy Trứ và các tác phẩm của ông vẫn còn ít được biết đến. Trên đây là những lí do khích lệ tác giả khóa luận lựa chọn đề tài Nghệ thuật thể hiện phong cảnh làng quê trong thơ Đặng Huy Trứ (khảo sát qua tập Đặng Huy Trứ - con người và tác phẩm). Qua đó, giúp chúng ta có cái nhìn 1
- đầy đủ hơn về con người và sự nghiệp của Đặng Huy Trứ đồng thời khẳng định vị trí, vai trò, đóng góp của tác giả với nền văn học dân tộc. 2. Lịch sử vấn đề Đặng Huy Trứ là nhà thơ còn được ít người biết đến, các tác phẩm của ông chỉ đến gần bạn đọc hơn sau khi được nhóm Trà Lĩnh sưu tầm và công bố nên đến giờ vẫn còn khá ít các công trình nghiên cứu về ông. Mới chỉ có một số ít công trình nghiên cứu và giới thiệu về Đặng Huy Trứ như: Nhóm Trà Lĩnh, Đặng Huy Trứ - con người và tác phẩm. Đây là nhóm đã có công đầu tiên nghiên cứu, sưu tầm, tổng hợp và giới thiệu về cuộc đời cũng như các tác phẩm của Đặng Huy Trứ. Võ Thị Quỳnh, Đặng Huy Trứ và Trăng. Trong bài báo này tác giả đề cập đến trăng trong thơ Đặng Huy Trứ và cũng khẳng định tình cảm của Đặng Huy Trứ với vầng trăng “rất yêu. Yêu rất nhiều” Theo Nguyễn Hữu Sơn, Đặng Huy Trứ - tác gia lớn của thế kỷ 19 viết: “Ngay từ những bài thơ đầu tay buổi thiếu thời, ông đã hướng sự quan tâm về các đề tài gần gũi đời sống hiện thực như Kiến lão ông đài than (Thấy ông lão vác than), Quý du tử hữu tiên mạ nô tì giả (Con nhà giàu có kẻ đánh mắng kẻ ăn, người ở)... Theo suốt chặng đường sáng tác, thế giới hiện thực được diễn tả trong thơ ông chính là cuộc sống thường ngày diễn ra chung quanh mà ông từng trải nghiệm, chứng kiến” [10, tr4] Biện Minh Điền, Phong cách nghệ thuật Nguyễn Khuyến, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội (2008). Theo đó tác giả đánh giá thơ Đặng Huy Trứ ngồn ngộn các chi tiết của hiện thực đời sống nông thôn: đàn lợn béo, phân chất cao như thành, hạt cải rơi vào là nở mầm nhanh,.. Tác giả cũng khẳng định Đặng Huy Trứ là nhà thơ viết nhiều và sâu sắc nhất về nông thôn trước cả Nguyễn Khuyến nhưng còn rất ít người biết đến và xa lạ với hậu thế. 2
- Mai Thị Hiền, Nông thôn trong thơ Đặng Huy Trứ. Bài nghiên cứu này đã đi tìm hiểu, khảo sát thơ về đề tài nông thôn trong thơ Đặng Huy Trứ và đưa ra đánh giá “Có thể thấy trước Nguyễn Khuyến, Đặng Huy Trứ là nhà thơ viết nhiều và thể hiện đậm nét nhất về nông thôn Việt Nam với hàng trăm bài thơ có giá trị. Mỗi bài thơ là bức tranh chân thực sinh hoạt, ở đó con người, phong tục tập quán, không khí đều được khắc họa tài hoa nông thôn trong thơ Đặng Huy Trứ ta như cảm nhận được đó chính là con người lao động của chính nơi mình đang sống, đồng cảm với họ. Với những thói quen sinh hoạt với phong tục tập quán…đã dành vị trí lớn trong trang thơ của Đặng Huy Trứ” [7, tr87] Có thể thấy, hầu hết các công trình, tư liệu nghiên cứu, giới thiệu về Đặng Huy Trứ và các tác phẩm của ông chỉ mang tính chất gợi mở, chưa đầy đủ, và việc tìm hiểu nghệ thuật thể hiện phong cảnh làng quê trong thơ Đặng Huy Trứ chưa được bàn đến một cách tập trung. Trên cơ sở kế thừa ý kiến của những người đi trước, chúng tôi lựa chọn đề tài Nghệ thuật thể hiện làng quê trong thơ Đặng Huy Trứ là đề tài nghiên cứu cho khóa luận tốt nghiệp của mình. 3. Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu khóa luận này người viết nhằm vào mục đích chính là thấy được nghệ thuật của Đặng Huy Trứ khi miêu tả về thiên nhiên và cuộc sống con người làng quê qua thơ. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Như tên đề tài đã xác định khóa luận tập trung tìm hiểu những bài thơ viết về làng quê trong thơ Đặng Huy Trứ. Văn bản thơ chúng tôi dựa vào để khảo sát là tuyển tập Đặng Huy Trứ, con người và tác phẩm (Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, năm 1990) do nhóm Trà Lĩnh sưu tầm và tổng hợp. 3
- 4.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu theo các phạm vi sau: - Thứ nhất là bút pháp thể hiện phong cảnh làng quê trong thơ Đặng Huy Trứ - Thứ hai là hình tượng nghệ thuật và ngôn ngữ miêu tả phong cảnh làng quê trong thơ Đặng Huy Trứ. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để triển khai đề tài này chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu chính sau: - Phương pháp thống kê phân loại. - Phương pháp phân tích bình giảng. - Phương pháp so sánh. Trong quá trình triển khai luận văn, người viết không tuyệt đối hóa phương pháp nào, lúc cần thiết có thể sử dụng tổng hợp cả ba phương pháp trên. 6. Cấu trúc khóa luận Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung chính của khóa luận gồm 3 chương: Chƣơng 1: Những vấn đề chung Chƣơng 2: Bút pháp thể hiện phong cảnh làng quê trong thơ Đặng Huy Trứ Chƣơng 3: Hình tượng nghệ thuật và ngôn ngữ miêu tả phong cảnh làng quê trong thơ Đặng Huy Trứ 4
- NỘI DUNG Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Tác giả Đặng Huy Trứ 1.1.1. Thời đại Đặng Huy Trứ sống ở một trong những giai đoạn rối ren bi thảm nhất của lịch sử dân tộc. Năm 1958, tàu chiến Pháp đến bắn phá bán đảo Sơn Trà, mở màn cho cuộc xâm lược Việt Nam. Lúc này Đặng Huy Trứ được cử đi quản thứ, và từ đó ông chính thức ra làm quan. Đứng trước mối nguy hiểm đe dọa nền độc lập của dân tộc, triều đình nhà Nguyễn, đứng đầu là Tự Đức không những không lãnh đạo nhân dân đứng lên bảo vệ đất nước mà lại sợ sệt yếu hèn trước quân thù. Kéo theo đó là hàng loạt các sự kiện đánh dấu nước ta dần dần rơi hoàn toàn vào tay giặc Pháp xâm lược. Năm 1859 Pháp chiếm Gia Định. Năm 1860 Pháp dồn toàn lực vào cuộc chiến với Trung Hoa, nhà Nguyễn không tận dụng được cơ hội giải phóng Gia Định mà án binh bất động. 1861, Pháp chiếm Định Tường nhà Nguyễn chủ trương nghị hòa. Cuối năm 1861 đầu năm 1862 Pháp đánh Biên Hòa, Bà Rịa, Vĩnh Long,.. quan quân nhà Nguyễn tháo chạy. Hiệp ước Nhâm Tuất (5-6-1862) được kí, theo đó, nhà Nguyễn nhượng 3 tỉnh miền Đông (Biên Hòa, Gia Định, Định Tường) và đảo Côn Lôn cho Pháp, cùng với những nhượng bộ rất nặng nề khác: mở cửa biển Đà Nẵng, Ba Lạt, Quảng Yên cho tư bản Pháp tự do buôn bán, bồi thường cho Pháp 4 triệu france. Năm 1867, chỉ trong vòng vài ngày, Pháp chiếm 3 tỉnh miền Tây (Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên) mà không gặp phải sự kháng cự đáng kể nào. Sau đó Pháp xúc tiến công cuộc đánh chiếm ra Bắc Kì. 5
- Năm 1873 Pháp đánh ra Bắc Kì lần I. Nhà Nguyễn không có phản ứng nên Pháp nhân cơ hội chiếm luôn các tỉnh lân cận như Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình. Quân và dân địa phương anh dũng chiến đấu nhưng lại không nhận được sự ủng hộ của triều đình trái lại còn ra lệnh bắt họ rút lui. Năm 1874 Triều đình Huế kí hiệp ước Giáp Tuất chính thức thừa nhận 6 tỉnh Nam Kì thuộc Pháp. Năm 1883 Nhân lúc triều đình Nguyễn lục đục, chia rẽ, vua Tự Đức chết… Pháp kéo quân vào cửa biển Thuận An uy hiếp, buộc triều đình ký hiệp ước Hác-măng (25-8-1883) thừa nhận quyền bảo hộ của Pháp ở Trung Kì. Đến năm 1884 Pháp tiếp tục ép triều đình Huế phải ký hiệp ước Pa- tơ-nốt (6-6-1884) đặt cơ sở lâu dài và chủ yếu cho quyền đô hộ của Pháp ở Việt Nam. Như vậy, sau ba mươi năm Việt Nam đã hoàn toàn rơi vào tay giặc. Trước cảnh nước mất nhà tan, trái ngược với sự yếu hèn nhu nhược của triều đình nhà Nguyễn, Đặng Huy Trứ là một trong số ít quan lại thời đó đứng về phe chủ chiến, kiên quyết không đầu hàng giặc. Nhưng một cánh chim không thể làm nên mùa xuân, ý chí mạnh mẽ của Đặng Huy Trứ không thể cứu vãn đất nước khỏi thảm cảnh. Bờ cõi tổ quốc dần rơi vào nạn xâm lăng. Đặng Huy Trứ là người sống gắn bó, gần gũi với nhân dân, hơn ai hết, ông thấu hiểu sâu sắc nỗi khổ của nhân dân vốn đã phải vật lộn với cuộc sống mưu sinh, ấy vậy mà nay còn phải gánh thêm nỗi đau đất nước, khổ càng khổ hơn khi bị bóc lột thêm nhiều lần. Bởi lẽ đó, thơ văn Đặng Huy Trứ như càng dày thêm niềm thương xót cho nhân dân, luôn trăn trở vì nước, vì dân: “Như kim Đà Nẵng nhất Dương di, Hạp cảnh binh dân bôn mệnh bì. Cửu nguyệt tam thu hàn lạo hậu, Thiên môn vạn hộ khiết khuy kỳ. Tây chinh sĩ khí phong sương khổ, Nam cổ thần trung tiêu cán ti (tư) 6
- Nhục thực ngã như mưu vị quốc, Chiến, hòa, dữ, thủ thục cơ nghi?” (Vãng Đà Nẵng quân thứ tức sự) (Một vùng Đà Nẵng rợ Tây dương, Giữ nước, quân dân mệt lạ thường. Cuối tiết tàn thu cơn lũ lụt, Muôn nhà thiếu bữa cảnh thê lương. Diệt thù, sương gió thương quân sĩ, Lo nước, đêm ngày bận đế vương. Ăn lộc, ví cùng lo việc nước, Tính sao? Hòa, chiến, giữ hay nhường?) (Đi quân thứ Đà Nẵng, ghi lại) 1.1.2. Cuộc đời và con người 1.1.2.1. Cuộc đời Đặng Huy Trứ, tự Hoàng Trung, hiệu Vọng Tân, Tỉnh Trai, tục gọi là bố Trứ - bố Đặng (do ông từng làm bố Chính), pháp danh Đức Hải (thuở thiếu thời ông từng quy y tại chùa Từ Hiếu) sinh ngày 16-5-1825 ở làng Thanh Lương, nay thuộc xã Hương Xuân, huyện Hương Điền tỉnh Thừa Thiên – Huế. Ông mất năm Giáp Tuất (1874) tại xã Cao Lăng, Chợ Bến, Đồn Vang thuộc tổng Mỹ Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Sau này ông được đưa về an tang tại Hiền Sĩ, nay là xã Phong Sơn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Từ nhỏ ông đã nổi tiếng thông minh, có tài học, 15 tuổi ông đã đọc xong những bộ sách tối thiểu của nhà nho, đã hiểu sâu, biết rộng và thông thạo các thể văn, đủ để ứng thi. Năm 22 tuổi, Đặng Huy Trứ đi thi hội với lòng đầy tin tưởng ở tài học của mình nhưng không may phạm húy nên ông bị đánh hỏng. Ông bị tước luôn cả học vị cử nhân, bị đánh 100 roi và cấm thi 7
- trọn đời. Nhưng bởi tài năng đã lan truyền, một vị quan lớn trong triều nghe danh đã mời ông về dạy học cho con cháu trong nhà. Và cũng nhờ vị quan này mà 8 năm sau ông được thi lại và đỗ tiến sĩ năm 1855. Đặng Huy Trứ đã lần lượt trải qua các chức quan: Thông phán Ty Bố Chính Thanh Hóa, Tri huyện Quảng Xương, Tri phủ thiên Trương Tỉnh Nam Định, Hàn Lâm Viện trước tác, Ngự sử và cho đến năm 1864 ông được bổ nhiệm làm Bố chính Quảng Nam. Đặng Huy Trứ được cử đi Trung Quốc hai lần vào năm 1865 và 1867. Trong thời gian ở nước ngoài ông gặp gỡ và trao đổi ý kiến với nhiều nhà trí thức canh tân của Trung Quốc. Ông tiếp xúc với việc chế tạo máy móc, đóng thuyền, đúc súng đạn,.. Đặng Huy Trứ đã ghi chép tỉ mỉ kỹ thuật máy hơi nước được mô tả trong cuốn sách Bác vật tân biên của người Anh và đem về nước. Trong dịp này, ông còn mua được 239 khẩu “quá sơn pháo” có thể bắn qua núi. Trong chuyến đi Trung Quốc lần thứ hai năm 1867, Đặng Huy Trứ không may bị ốm nặng, tưởng chừng như không thể qua khỏi. Tuy vậy, nằm trên giường bệnh ông vẫn đọc sách, viết sách, làm thơ, trao đổi thư từ với bè bạn trong nước. Cũng trong thời gian này ông đã viết cuốn Tự thụ yếu quy nhằm chống đối thói hối lộ, tham nhũng chốn quan trường. Sau ngày về nước, Đặng Huy Trứ chuyển sang làm công tác quân sự ở miền Bắc, giữ chức Bang biện quan vụ Lạng – Bằng – Ninh – Thái cho đến cuối năm 1873 ông lui quân về căn cứ Đồn Vàng – Hưng Hóa dưới quyền Hoàng Kế Viêm, mưu tính kháng chiến lâu dài nhưng việc trù tính còn dang dở thì vua Tự Đức đã ký Hòa ước năm Giáp Tuất (1874) Ngày 7-8-1874, Đặng Huy Trứ trút hơi thở cuối cùng trong niềm đau thương vô tận của Hoàng Kế Viêm, của bạn bè và đông đảo chiến sĩ yêu nước. Ông di chúc cho con cháu không ai được ra làm quan bởi đất nước đang 8
- rơi vào tay giặc và triều đình đã thỏa hiệp với giặc. Ông muốn được chôn tại chỗ nhưng Tự Đức ngờ ông còn mưu việc khác nên ra lệnh bắt đưa thi hài ông về Huế, bắt mở áo quan ra xem rồi mới cho chôn. Mộ ông nay ở Hạc Thú, Hòn Thông, xã Hiền Sĩ, Huyện Hương Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Về đời sống riêng tư, Đặng Huy Trứ cũng gặp nhiều thử thách khó khăn. Ông đem lòng yêu thương và quyết tâm lấy người con gái gặp nhiều bất hạnh vốn không môn đăng hộ đối với mình là một cô lái đò con nhà bình dân. Bác ruột ông là Thượng thư, gia đình không thể đồng ý cho ông lấy cô gái nhà thường dân là điều ông đã biết rõ. Nhưng bởi tình cảm tha thiết, ông quyết tâm vượt qua mọi lễ giáo và gia đình. Ông vụng trộm làm lễ cưới, chọn cuộc sống nghèo túng chồng dạy học, vợ đảm đương sinh hoạt gia đình. Tuy nghèo về vật chất nhưng tình cảm lúc nào cũng nồng đượm, luôn thủy chung son sắt. Tuy cuộc đời gặp nhiều khó khăn vất vả nhưng không thể phủ nhận Đặng Huy Trứ đã giành được những thành công nhất định. Sách Đại nam thống nhất chí xếp ông vào hàng danh nhân với nhận định: “Đặng Huy Trứ khảng khái có chí lớn đương trù tính làm nhiều việc chưa xong, mất ai cũng tiếc.” 1.1.2.2. Con người Đặng Huy Trứ sinh ra trong một gia đình trí thức nghèo ở nông thôn. Ông nội và cha đều làm nghề dạy học. Ông nội là Đặng Quang Tuấn (1752- 1825), một nhà nho nổi tiếng, suốt đời làm nghề dạy học. Truyền thống của gia đình ông là cha dạy con, anh bảo em, chú bác dìu dắt con cháu cùng nhau trau dồi đức hạnh và kiến thức. Cũng bởi lẽ này, Đặng Huy Trứ suốt đời quan tâm đến giáo dục gia đình, đề cao tình thương yêu, là đạo đức, là học vấn,.. Bởi vậy mà suốt đời ông đều một lòng một dạ yêu thương và sống với gia đình nhỏ bé của mình và cũng hết lòng lo lắng, phục vụ nhân dân. 9
- Cùng với việc xây dựng tình cảm và giáo dục đạo đức như thế, gia đình lại đặc biệt quan tâm và chăm lo cho Đặng Huy Trứ được học tập đến nơi đến chốn. Cũng nhờ đó, ông rất hiếu học và tài năng đã bộc lộ rõ ngay từ sớm. Suốt 18 năm làm quan, sự nghiệp quan trường của ông đều nhằm mục đích là canh tân đất nước. Ông là nhà cải cách, gieo mầm canh tân và khai hóa thời Nguyễn ở thế kỉ XIX. Ông lập ra các thương điếm như Lạc Sinh Điếm, Lạc Thanh Điếm và Ty Bình để giao lưu với Tây phương tạo dựng nền tảng tài chính và quân sự cho triều đình nhà Nguyễn trong những năm 1850-1870. Đặc biệt, Đặng Huy Trứ còn được biết đến với danh hiệu ông tổ của nghề nhiếp ảnh Việt Nam bởi ông là một trong những người đầu tiên có công đưa nhiếp ảnh vào Việt Nam bàng việc mở hiệu ảnh Cảm Hiếu Đường (ngày 14-3-1869) ở phố Thanh Hà, Hà Nội. Ngoài ra, sự nghiệp của ông còn để lại dấu ấn trên nhiều lĩnh vực khác: giáo dục, văn hóa, kinh tế, văn học,...lĩnh vực nào cũng có những nét đặc sắc và nhằm mục đích duy nhất là phục vụ nhân dân, đất nước. Là nhà giáo, ông có quan điểm giáo dục dân chủ, tiến bộ, chủ trương “sư đệ tương trưởng” (thầy và trò cùng trưởng thành). Quan niệm vừa là thầy vừa là bạn, cùng học với học trò, thầy trò cùng đi thi. Là nhà văn hóa, ông chú ý xây dựng nhân cách con người, coi trọng lao động và đề cao vai trò của khoa học kỹ thuật. Ông nhận rõ rằng nhân dân chính là người nuôi mình và mình phải trả nợ nhân dân. Ông đả kích mê tín dị đoan, óc thủ cựu, tệ giáo điều. Ông đề xướng và thực hành tự do yêu đương và hôn nhân không cần môn đăng hộ đối. Là một nhà kinh tế, ông nhận rõ vai trò quan trọng của công thương nghiệp. Ông tổ chức các hộ tiểu thủ công nghiệp lại cho vay để sản xuất và bản thân ông cũng đứng ra để buôn bán, một nghề bị coi là nghề mạt thời đó. Ông đặc biệt quan tâm khai thác những thành quả khoa học và kỹ thuật của 10
- nước ngoài. Ông mở nhiều hiệu buôn, không tán thành chính sách bế quan tỏa cảng; mở xưởng chế tạo gang, thép, máy móc; mời chuyên gia sang giảng dạy, cử thanh niên ra nước ngoài học tập;... Là một nhà quân sự yêu nước, “chủ chiến” kiên định. Đối với ông: “Nay việc lợi hại nhất của một quốc gia chỉ có một việc là chống Tây. Việc triều đình cần bàn nhiều nhất cũng chỉ có một việc duy nhất là chống tây. Việc sử quan cần ghi chép cũng chỉ có một việc là chống Tây.” Ông coi quân đội là nanh vuốt quyết định sự thắng lợi của trận đánh, coi dân là huyết mạch, định sự an nguy của đất nước. Không chỉ đề cập đến yếu tố tinh thần đơn thuần, ông hiện thực hóa sức mạnh bằng việc hiện đại hóa quân đội, cổ vũ đóng tàu, súng ống, xây dựng quân đội dũng cảm, có kỷ luật và nhất thiết là phải coi trọng nhân dân. Ngược với chủ trương của triều đình, ông nghiên cứu và giới thiệu ba cuốn binh thư có giá trị được viết dưới cuối triều Lê đầu Nguyễn Tây Sơn. Là nhà văn, nhà thơ, ông làm thơ từ năm 15 tuổi. Ông để lại khối lượng tác phẩm khá phong phú: 12 tập thơ với hơn 1200 bài; 4 tập văn; 1 tập hồi kí (một thể loại ít thấy trong kho tàng văn học Việt Nam trung đại); một số sách giáo khoa và nghiên cứu phần lớn đã được in và nay được lưu trữ ở Thư viện Hán Nôm. Là một vị quan, ông nhận rõ trách nhiệm của mình đối với nhân dân, phải lo giải quyết nhiều việc liên quan đến đời sống của nhân dân, càng thông cảm với muôn vàn nỗi đau khổ mà nhân dân phải gánh chịu. Ông kiên quyết tránh xa cuộc sống ô uế chốn quan trường, hết sức quý trọng những người bạn làm quan chuyên cần và liêm khiết. Ông kính phục những ông quan như Doãn Uẩn suốt đời sống thanh bạch, đến lúc chết, trong nhà không có tiền làm ma. Có kẻ đến nhà riêng của ông hối lộ, ông tống cổ nó đi. 11
- Đặng Huy Trứ là người luôn tồn tại khí phách lớn lao, dám làm, dám mở kho thóc của nhà nước phát cho dân khi chưa có lệnh của triều đình, phản đối chủ trương chỉ dựa vào đàm phán giữa các bữa tiệc của vua ban cho đoàn sứ thần đi thương lượng. Ông đã làm tất cả vì nhân dân đúng như lời tuyên bố của ông: “Muốn dân được lợi cần quyền biến, tội vạ riêng mang há sợ gì”. Có thể nói, cả cuộc đời của Đặng Huy Trứ đã dành cho nước, cho dân, hy sinh vì hạnh phúc của nhân dân. “Dân tộc ta tự hào có được người con Trung Hiếu vẹn toàn như Đặng Huy Trứ. Lịch sử Việt Nam tự hào về nhân vật lỗi lạc Đặng Huy Trứ. Văn học Việt Nam tự hào về nhà thơ lớn Đặng Huy Trứ” [9, tr53] 1.2. Sự nghiệp sáng tác Sáng tác từ khi tuổi đời còn rất trẻ và sáng tác văn chương không ngơi nghỉ cho đến tận cuối đời, Đặng Huy Trứ đã để lại khối lượng tác phẩm đáng kể. Theo thống kê của nhóm Trà Lĩnh, Đặng Huy Trứ có 12 tập thơ lớn với hơn 1.200 bài thơ, 4 tập văn và một tập hồi kí: Đặng Hoàng Trung Ngũ giới pháp Thiếp – in năm Tự Đức (1868) Trí trung đường, gồm 5 bài khuyên răn con cháu trong nhà về các mặt như không nên: rượu, chè, trai gái, chơi bời, nghiện ngập Đặng Hoàng Trung Thi sao, Thư đường Đặng Qui in năm Tự Đức – Mậu Thìn 1868, có 252 bài thơ chia thành 12 cuốn gọi là “Thảo sao” do tác giả sáng tác khi đi dạy học, thi đỗ, làm quan, đi sứ. Đặng Hoàng Trung Văn sao – gồm 266 bài văn chia thành 4 cuốn theo các thể loại như: Quyển 1: Thiếp, biểu, văn tế Quyển 2: Hành trạng, vắn chúc mừng, văn phúng viếng Quyển 3: Tán, bại, yếu báo, thư, kị, tục Quyển 4: Giả câu đố 12
- Bộ sách dày 2000 trang có tiêu đề Từ thụ quy yếu. Với nội dung chuyên chống hối lộ và tham nhũng. Ngoài ra ông còn có các tác phẩm: Tùng chinh di qui, Tứ thập bát hiệu ký sự tàn biên, Nữ giới diễn ca,.. Như vậy dựa vào sự thống kê chưa đầy đủ nhưng cũng có thể thấy số lượng tác phẩm Đặng Huy Trứ để lại khá lớn. Về đề tài phản ánh trong thơ, Đặng Huy Trứ quan niệm thơ là để nói chí. Trong bài tựa Đặng Hoàng Trung thi sao (1867), ông đã nói rõ quan niệm về việc làm thơ và tự đánh giá về thơ mình: “Thơ là để nói chí... Thơ tôi không đúng chuẩn mực, cũng chẳng hiệp âm luật, tuy không thể đưa ra lưu hành ở đời, nhưng lời răn dạy thì nhiều, lời buông tuồng thì ít, đủ làm khuôn phép cho con cháu. Tôi trộm cho là như vậy, con cháu hiền thảo chọn lấy những điều hay rồi truyền tập cho nhau, thiết tưởng cũng giúp ích cho việc lập thân giữ mình, việc gì mà đem bó lại để trên gác caỏ”. Bởi vây, đề tài trong thơ Đặng Huy Trứ mang đậm dấu ấn của ông, là những vấn đề gắn liền với cuộc sống của ông. Làm quan, ông quan niệm “Dân không chăm sóc chớ làm quan”. Ông xót thương thay cho nhân dân phải oằn mình gánh chịu trận bão: “Bạt ngược tài thư cụ mẫu sân. Nộ khí chiết dương tây hựu bắc, Bi thanh bành bái tuất nhi dần Khủng ư ấu chủ nghi công nhật, Mê tự Đô quân nạp lộc thần. Khởi thị sơn hà tiều tụy thậm, Cánh đa quai dị độc phong thần.” (Cụ phong) (Hạn tạm vừa thư, bão lại gầm. Nộ khí dập vùi tây đến bắc, 13
- Bi thanh tràn khắp tuất sang dần. Sợ như Ấu chủ ngày lâm nạn Mê tựa Đô quân lúc giữa đầm. Ngước mắt non sông tiều tụy quá! Buồn sao xã tắc bấy trầm luân!) (Bão lớn) Càng thương dân, Đặng Huy Trứ càng hết lòng tận tụy vì dân: “Tẩm dĩ thâm canh tiên lại khởi, Thực vô kiêm vị cộng dân gian.” (Công mang tự úy) (Ngủ đã khuya lơ, dậy trước lại Ăn rành một món, khổ cùng dân.” (Việc công bận, tự an ủi) Trước mối nguy của dân tộc, trước lũ giặc xâm lăng, trái với sự nhu nhược yếu hèn của vua tôi, lũ tham quan nhà Nguyễn, Đặng Huy Trứ luôn nhất kiến chủ chiến với bọn giặc. Ông đặt niềm tin nơi quân lực, ở nhân dân của mình: “Pháo thanh lôi động phong thiên lý, Hỏa đạn yên phi thủy vạn tầm. Trực đãi thiêu tàn tây tặc phủ,” (Triều tấn pháo đài hậu tùy hoàng phiên sứ thí pháo) (Pháo nổ sấm ran ngàn dặm gió Đạn bay khói tỏa vạn tầm khơi Chỉ chờ thiêu xác quân Tây hết) (Theo hầu quan Bố Chánh họ Hoàng ra thử pháo ở pháo đài Bến Triều) 14
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn hóa du lịch: Nâng cao hiệu quả khai thác nghệ thuật ca Huế trong du lịch
118 p | 271 | 48
-
Khóa luận tốt nghiệp: Tìm hiểu chính sách bảo tồn và phát huy nghệ thuật sân khấu tuồng ở nhà hát tuồng Việt Nam
6 p | 250 | 44
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn hóa du lịch: Nghệ thuật diễn xướng hát Dô (Liệp Tuyết - Quốc Oai - Hà Nội) và khả năng khai thác phục vụ du lịch
65 p | 207 | 36
-
Tóm tắt Khóa luận tốt nghiệp: Tìm hiểu nghệ thuật ca trù
9 p | 264 | 32
-
Khóa luận tốt nghiệp: Khai thác và sử dụng cái đẹp nghệ thuật truyền thống áo dài Việt Nam vào các hoạt động văn hóa du lịch - Vũ Thị Ánh Ngọc
111 p | 177 | 28
-
Tóm tắt Khóa luận tốt nghiệp: Nghề dệt thổ cẩm của người Tày ở huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay
9 p | 173 | 21
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Những đặc sắc nghệ thuật truyện ngắn Thạch Lam
71 p | 35 | 19
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong "Vang bóng một thời" của Nguyễn Tuân
69 p | 25 | 18
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Giá trị nội dung và nghệ thuật ngụ ngôn La Fontaine
80 p | 47 | 12
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn sau 1975
95 p | 27 | 12
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Đặc sắc nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1980
68 p | 21 | 12
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Nghệ thuật sáng tác trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh
75 p | 17 | 12
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn Vũ Trọng Phụng
76 p | 17 | 10
-
Tóm tắt Khóa luận tốt nghiệp: nghệ thuật xiếc Việt Nam – một sản phẩm du lịch văn hóa độc đáo
11 p | 129 | 9
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Không gian và thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Sống mòn của Nam Cao
57 p | 25 | 9
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Đặc sắc nghệ thuật thơ Xuân Quỳnh
82 p | 16 | 9
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Hình ảnh người phụ nữ trong tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng
84 p | 21 | 8
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Không gian và thời gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám 1945
70 p | 13 | 7
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn