intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khóa luận Tốt nghiệp: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ qua thực tiễn tại huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam

Chia sẻ: Nguyễn Phước Trung | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:96

335
lượt xem
49
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Khóa luận Tốt nghiệp: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ qua thực tiễn tại huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam được nghiên cứu nhằm mục đích nâng cao nhận thức sâu sắc hơn về pháp luật PCBLGĐ đối với phụ nữ; đánh giá thực trạng PCBLGĐ đối với phụ nữ ở huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam; tìm ra những hạn chế trong việc PCBLGĐ đối với phụ nữ huyện Nông Sơn; đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả PCBLGĐ đối với phụ nữ huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam;...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khóa luận Tốt nghiệp: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ qua thực tiễn tại huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam

  1. ĐẠI HỌC HUẾ KHOA LUẬT ­­­­­­­­­­ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CHUYÊN NGÀNH: DÂN SỰ KHÓA HỌC: 2010 ­ 2014 PHÒNG CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI PHỤ NỮ QUA THỰC TIỄN TẠI HUYỆN NÔNG SƠN, TỈNH QUẢNG NAM Giáo viên hướng dẫn:  Sinh viên thực hiện: Th.S Đào Mai Hường Nguyễn Phước Trung
  2. Huế, 03/2014
  3. Lời Cảm Ơn Để hoàn thành khóa luận này, đầu tiên em xin gửi lời cảm  ơn đến Quý thầy giáo, cô giáo trong Khoa Luật­ Đại Học Huế  đã truyền đạt kiến thức cho em trong 4 năm học tập tại trường.  Với vốn kiến thức được tiếp thu trong quá trình học tập là nền  tảng quan trọng giúp hoàn thành khóa luận này. Em xin trân trọng bày tỏ  lòng biết  ơn sâu sắc đến cô giáo   Thạc sĩ Đào Mai Hường đã giúp đỡ, hướng dẫn em tận tình và  đầy trách nhiệm trong suốt quá trình hoàn thành khoán luận này. Chân thành cảm ơn gia đình và bạn bè đã đóng góp ý kiến  cũng như sự động viên, khích lệ trong quá trình học tập, nghiên  cứu và thực hiện khóa luận. Bài khóa luận được hoàn thành, bước đầu đi vào tìm hiểu,   nghiên cứu khoa học, kiến thức của em còn hạn chế  và còn  nhiều bỡ  ngỡ  nên không thể  tránh khỏi những điều thiếu sót.  Kính mong Quý thầy giáo, cô giáo, bạn bè nhiệt tình đóng góp ý  kiến để bài khóa luận của em có thể hoàn thiện hơn. Sau cùng, em xin kính chúc Quý thầy giáo, cô giáo thật dồi  dào sức khỏe, niềm tin để tiếp tục thực hiện sứ mệnh cao đẹp  của mình là truyền đạt kiến thức cho thế hệ mai sau. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn! Huế tháng 03/2014 Sinh viên Nguyễn Phước Trung
  4. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLGĐ:  Bạo lực gia đình PCBLGĐ:  Phòng chống bạo lực gia đình HNGĐ:  Hôn nhân gia đình LHQ:  Liên hợp quốc UBND:  Ủy ban nhân dân HĐND:  Hội đồng nhân dân HLHPN:  Hội liên hiệp phụ nữ HPN:  Hội phụ nữ BĐG:  Bình đẳng giới CEDAW:  Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt   đối xử với phụ nữ PN:  Phụ nữ
  5. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Gia đình là tế bào xã hội, là tổ ấm thân yêu của mỗi con người, như Bác  Hồ đã từng nói: "Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, gia đình tốt thì xã  hội  mới  tốt, xã  hội  tốt  thì  gia   đình càng  tốt. Hạt nhân của xã  hội là gia   đình”[3]. Gia đình là tế  bào của xã hội, nơi duy trì nòi giống, là môi trường quan  trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và  phát   huy văn   hóa truyền   thống   tốt   đẹp,   chống   lại   các   tệ   nạn   xã   hội,   tạo  nguồn  nhân   lực  phục  vụ  sự  nghiệp  xây   dựng  và   bảo  vệ   Tổ   quốc.   Ngày  2/9/1945, Chủ  tịch Hồ  Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước   Việt Nam Dân Chủ  Cộng Hòa, trong Tuyên ngôn Người đã đặt ra vấn đề  quan tâm hàng đầu là “Nam nữ bình quyền”. Tuy nhiên, vấn đề hiện nay tiềm ẩn trong mọi gia đình là vấn nạn vi phạm   pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ  nữ  và việc phòng, chống  bạo lực gia đình đối với phụ nữ là hết sức cần thiết.  Bạo lực gia đình đối với  phụ nữ là vấn đề mang tính lịch sử toàn cầu, gây nhức nhối cho nhân loại, để  lại nhiều hậu quả nghiêm trọng cho con người, nhất là đối với phụ nữ. Bước   sang thế  kỷ  XXI, phòng, chống bạo lực giới đang là một trong những mục   tiêu của thiên niên kỷ. Tổng Thư  ký Liên hiệp quốc Ban Ki Moon đã tuyên   bố: "Bạo lực đối với phụ  nữ  là không bao giờ  được chấp nhận, không bao   giờ  được khoan dung, tha thứ  ." [16]. Chúng ta những con người của thế  kỷ  21 cần phải đặc biệt quan tâm đến vấn đề  bảo vệ  quyền lợi cho phụ  nữ  và  
  6. lên án nạn bạo lực với phụ  nữ  góp phần vào nâng cao địa vị  và quyền con   người chính đáng của phụ nữ ở trong gia đình và ngoài xã hội. Thể  chế  hoá quy định của Hiến pháp năm 1992, việc bảo vệ  phụ  nữ  khỏi các hình thức bạo lực gia đình được quy định cụ thể, chi tiết trong nhiều   văn bản pháp luật khác như  Luật Hôn nhân gia đình; Bộ  Luật Hình sự; Luật  Bình đẳng giới; Luật Phòng, chống bạo lực gia đình...Mặc dù Đảng và Nhà  nước ta đã có nhiều cố  gắng trong việc PCBLGĐ, để các quy định pháp luật  về  PCBLGĐ  được thực thi trong đời sống xã hội nhưng trên thực tế, tình  trạng vi phạm pháp luật về  PCBLGĐ vẫn diễn ra thường xuyên ở nhiều nơi.  Thống kê của Bộ  Văn hoá ­ Thể thao và Du lịch, Tổng cục thống kê và Quỹ  nhi đồng LHQ công bố  ngày 26/6/2008 với điều tra của 93 ngàn hộ  gia đình  trên khắp mọi miền đất nước thì có tới 21,2% cặp vợ chồng đã trải qua một   hình thức bạo lực gia đình như đánh, mắng, nhục mạ, ép quan hệ tình dục và  như  vậy cứ  5 cặp vợ  chồng thì đã có một cặp đã có hình thức bạo lực gia   đình. Chúng ta đều biết bạo lực gia đình đối với phụ nữ là một hiện tượng xã  hội không mới, nhưng lại nổi lên như  một căn bệnh xã hội hết sức nan giải   trong giai đoạn hiện nay. Qua các kết quả nghiên cứu cũng cho thấy khả năng   phụ  nữ  bị  chồng mình lạm dụng nhiều hơn gấp 3 lần so với khả  năng bị  người khác lạm dụng. Bạo lực gia đình đình đối với phụ nữ đã gây hậu quả  hết sức nghiêm trọng đối với thể chất và tinh thần của người phụ nữ.  Nông Sơn là huyện miền núi phía Tây của tỉnh Quảng Nam. Đây là một  huyện nghèo, 4/7 xã được xét là đặc biệt khó khăn. Mặc dù dân số  ít nhưng   địa bàn phức tạp, trình độ dân trí thấp, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.  Đời sống nhân dân còn duy trì những phong tục tập quán lạc hậu. Đó chính là  những nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tình trạng bạo lực  ở  vùng cao. Tuy  
  7. nhiên, hiện nay vẫn chưa có những công trình chuyên sâu để tìm hiểu rõ hơn   về việc PCBLGĐ đối với phụ nữ miền núi. Trong những năm qua Đảng và nhà nước Việt Nam đã rất quan tâm đến  công tác đấu tranh PCBLGĐ đối với phụ  nữ . Từ  năm 1980, chính phủ  Việt  Nam đã ký kết gia nhập Công  ước về  loại bỏ  các tất cả  các hình thức phân  biệt đối xử  với phụ  nữ  (CEDAW). Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đã   được Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ  Nghĩa Việt Nam thông qua vào tháng  11/2007 và có hiệu lực từ  ngày 1/7/2008. Quá trình thực hiện đã đạt đươc   những kết quả  đáng khích lệ. Tuy nhiên tình trạng bạo lực gia đình đối với  phụ nữ vẫn diễn biến phức tạp cả về số vụ và mức độ nghiêm trọng, và việc   PCBLGĐ đối với phụ nữ và vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết. Với   những   lí   do  nêu  trên,  mà  em   đã  mạnh  dạn  chọn   đề  tài  “Phòng   chống bạo lực gia đình đối với phụ  nữ  qua thực tiễn tại huyện Nông   Sơn, tỉnh Quảng Nam”  làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.  2. Mục đích nghiên cứu của đề tài  Đề tài hướng đến những mục đích như sau: ­ Nâng cao nhận thức sâu sắc hơn về  pháp luật  PCBLGĐ  đối với phụ  nữ. ­ Đánh giá thực trạng PCBLGĐ đối với phụ nữ ở huyện Nông Sơn, tỉnh  Quảng Nam. ­ Tìm ra những hạn chế trong việc PCBLGĐ đối với phụ nữ huyện Nông  Sơn. ­ Đề  xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả  PCBLGĐ  đối với  phụ nữ huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam. Từ những mục đích trên đề tài hướng tới những nhiệm vụ sau: ­ Làm sáng rõ khái niệm đặc điểm của bạo lực gia đình đối với phụ nữ.
  8. ­ Chỉ ra và phân tích các đặc điểm các hình thức  bạo lực gia đình đối với  phụ nữ . ­ Nêu lên các hình thức và phương pháp đấu tranh  PCBLGĐ đối với phụ  nữ. ­ Chỉ  rõ những hậu quả  mà bạo lực gia đình đối với phụ  nữ   đã để  lại  cho phụ nữ, cho trẻ em và cho cả toàn xã hội. ­ Đề xuất những kiến nghị và giải pháp để nâng cao hiệu quả đấu tranh   PCBLGĐ đối với phụ nữ tại huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung phân tích, đánh giá và xem xét về  thực tiễn PCBLGĐ đối với phụ  nữ  địa bàn huyện Nông Sơn nói riêng, Tỉnh  Quảng Nam nói chung. Phạm vi nghiên cứu: Trong khuôn khổ  có hạn của một bài Khóa Luận,   em chỉ đi sâu vào nghiên cứu một số vấn đề  lý luận về  bạo lực gia đình đối   với phụ nữ và thực tiễn thực hiện pháp luật PCBLGĐ đối với phụ nữ huyện  Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam. 4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài  Để  thực hiện đề  tài “Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ  nữ   qua thực tiễn tại  huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam ”. Em  đã sử  dụng  phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử. Ngoài ra  em còn sử dụng một số phương pháp cụ thể như: phân tích, giải thích, thống   kê, tổng hợp, khảo sát thực tế. 5. Cơ cấu của đề tài. Lời mở đầu: Nêu lên tính cấp thiết của đề tài, mục đích nghiên cứu, đối  tượng và phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và kết quả  nghiên  cứu. Nội dung: Gồm có 2 chương.
  9. ­ Chương 1: Quy định của pháp luật Việt Nam về phòng chống bạo lực   gia đình đối với phụ nữ và trách nhiệm pháp lý đối với những vi phạm. ­ Chương 2: Thực trạng phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ  nữ  tại huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam. Kết luận Tài liệu tham khảo NỘI DUNG CHƯƠNG 1  QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ PHÒNG CHỐNG  BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI PHỤ NỮ VÀ TRÁCH NHIỆM  PHÁP LÝ ĐỐI VỚI NHỮNG VI PHẠM 1.1. Một số khái niệm 1.1.1. Khái niệm gia đình  Dưới góc độ xã hội học, gia đình được coi là tế bào xã hội. Không giống   bất cứ  nhóm xã hội nào khác, gia đình đan xen các yếu tố  sinh học, kinh tế,   tâm lý, văn hóa…những mối liên hệ cơ  bản của gia đình bao gồm vợ  chồng,  cha mẹ  và con, ông bà và cháu, những mối liên hệ  khác: cô, dì, chú, bác với  
  10. cháu, cha mẹ chồng và con dâu, cha mẹ vợ và con rễ…Mối quan hệ gia đình  được thể  hiện  ở  khía cạnh như: có đời sống tình dục, sinh con và nuôi dạy  con cái, lao động tạo ra của cái vật chất để  duy trì đời sống gia đình và đóng  góp cho xã hội. Mối liên hệ này có thể dựa trên những căn cứ pháp lý hoặc có   thể dựa trên những căn cứ thực tế một cách tự nhiên, tự  phát. Theo đó gia đình được định nghĩa “là một thiết chế xã hội đặc thù, một   nhóm xã hội  thu nhỏ mà các thành viên của nó gắn bó với nhau bởi quan hệ  hôn nhân, quan hệ  huyết thống hoặc quan hệ con người bởi tính cộng đồng  về sinh hoạt trách nhiệm đạo đức với nhau nhằm đáp ứng nhu cầu riêng của   thành viên cũng như  để  thể  hiện tính tất yếu của xã hội về  phát triển sản   xuất con người”. Dưới góc độ  pháp lý, gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau  hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh nghĩa  vụ và quyền giữa họ với nhau theo quy định của luật này (Điều 8, Luật Hôn   nhân và gia đình năm 2000). Tuy nhiên, trong thực tế  đời sống cũng có nhiều cách hiểu khác nhau   về  khái niệm gia đình: gia đình là tập hợp những người cùng có tên trong  sổ  hộ  khẩu; gia đình là tập hợp những người cùng chung sống với nhau   dưới một mái nhà… Từ  những góc độ  nghiên cứu khác nhau, gia đình được chia tách thành  nhiều dạng thức khác nhau: gia đình hiện đại và gia đình truyền thống, gia  đình hạt nhân và gia đình đa thế hệ; gia đình khuyết thiếu và gia đình đầy đủ. 1.1.2.  Khái niệm bạo lực gia đình Trong tiếng Việt, bạo lực được hiểu là “sức mạnh dùng để cưỡng bức,   lấn áp hoặc lật đổ”[3]. Khái niệm này dễ  làm người ta liên tưởng tới các  hoạt động chính trị, nhưng trên thực tế  bạo lực được coi như  một phương   thức hành xử trong quan hệ xã hội nói chung. Các mối quan hệ xã hội vốn rất  
  11. phức tạp nên hành vi bạo lực cũng rất phong phú, được chia thành nhiều dạng   khác nhau, tùy theo từng góc độ  nhìn nhận: bạo lực nhìn thấy và bạo lực   không nhìn thấy được; bạo lực với trẻ em… Còn theo chủ  nghĩa cộng sản khoa học: “Bạo lực là một giai cấp (các  nhóm chính trị­ xã hội) nào đó áp dụng những hình thức cưỡng bức khác nhau,  kể cả sự tác động bằng vũ trang, đối với giai cấp (các nhóm chính trị­ xã hội)  khác nhau nhằm mục đích giành lấy hoặc duy trì sự  thống trị  về  kinh tế,   chính trị những quyền hay đặc quyền khác nhau” [4]. Bạo lực gia đình là một dạng thức của bạo lực xã hội, là “hành vi cố ý của   các thành viên gia đình gây tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại với các thành viên   khác trong gia đình” (Điều 1, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình). Nói cách   khác, đó là việc  “ các thành viên trong gia đình vân dụng sức mạnh để  giải   quyết các vấn đề gia đình”. Theo định nghĩa của Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc thông qua năm 1993  được các tổ chức cũng như các nhà khoa học trên thế giới chấp nhận rộng rãi.  Theo đó, bạo lực gia đình bao gồm bất kỳ một hành động bạo lực dựa trên cơ sở  một giới nào dẫn đến, hoặc có khả  năng dẫn đến những tổn hại về  thân thể,  tình dục hay tâm lý, hay những đau khổ  của phụ nữ bao gồm cả sự đe dọa có   những hành động như vậy, sự cưỡng bức hay tước đoạt một cách tỳ tiện sự tự  do, dù xảy ra nơi công cộng hay cuộc sống riêng tư. Như  vậy, bạo lực gia đình bao gồm các yếu tố  bạo hành về  thể  chất,  bạo hành về tinh thần, bạo hành tình dục và cả  bạo hành về  kinh tế. Những   hành vi bạo lực gia đình gây ra để  lại nhiều tổn hại đối với cộng đồng xã  hội, đối với con người, đặc biệt đối với phụ  nữ­ đối tượng chịu ảnh hưởng  trực tiếp của bạo lực gia đình. 1.1.3. Khái niệm bạo lực gia đình đối với phụ nữ
  12. Tuyên bố  của Liên hợp quốc về  việc loại bỏ  bạo lực đối với phụ  nữ,   ngày 20/12/1993, đã định nghĩa: “Bạo lực đối với phụ nữ là bất kỳ hành động  bạo lực nào dựa trên cơ  sở  giới gây ra hậu quả  hoặc có thể  gây ra hậu quả,   làm tổn hại hoặc gây đau khổ cho phụ nữ về thân thể, tình dục hay tâm lý, kể  cả  những lời đe doạ  hay độc đoán tước quyền tự  do, dù xảy ra  ở  nơi công  cộng hay trong đời sống riêng tư”. Theo định nghĩa trên, bạo lực gia đình đối   với phụ nữ bao gồm: các hành vi bạo lực trên cơ sở giới gây ra hậu quả hoặc  có thể gây ra hậu quả, làm tổn hại hoặc gây đau khổ cho phụ nữ về thân thể,  tình dục và tâm lý xảy ra trong gia đình.  Bạo lực chống lại phụ nữ trong gia đình: Quan hệ  giới trong gia đình là  một trong những quan hệ  cơ  bản tạo nên sự  tồn tại của một gia đình. Về  thực chất nó là mối quan hệ giữa nam giới và nữ giới trong gia đình mà trung  tâm là mối quan hệ vợ chồng. Trong mối quan hệ về giới, mặc dù thủ  phạm  của hành vi bạo lực gia đình có thể bao gồm cả phụ  nữ  và nạn nhân của nó  có thể  bao gồm cả  đàn ông. Tuy nhiên, các nghiên cứu về  vấn đề  này cho   phép kết luận rằng, bạo lực gia đình về  cơ bản là bạo lực chống lại phụ nữ  và thủ  phạm cơ  bản là đàn ông. Phần lớn bạo lực chống lại phụ  nữ xảy ra   trong gia đình và người gây ra bạo lực gần như luôn luôn là nam giới, thường   là chồng, người tình, hoặc chồng cũ, người tình cũ, hay những người đàn ông  quen biết của phụ nữ. "Bạo lực trên cơ  sở  giới là bạo lực giữa nam giới và phụ  nữ, trong đó  phụ nữ  thường là nạn nhân và điều này bắt nguồn từ các mối quan hệ quyền   lực bất  bình đẳng giữa nam giới và phụ  nữ. Bạo lực thường nhằm vào phụ  nữ  vì họ  là  phái yếu hoặc  ảnh hưởng lớn đến phụ  nữ. Bạo lực trên cơ  sở  giới bao gồm,  những tổn hại về thân thể, tình dục và tâm lý (bao gồm cả sự  đe doạ, gây đau  khổ, cưỡng bức, hoặc tước đoạt sự  tự  do xảy ra trong gia   đình hoặc trong  cộng đồng, nhưng nó không hạn chế chỉ  ở những dạng này. 
  13. Bạo lực trên cơ sở  giới bao gồm cả bạo lực do Nhà nước gây ra hoặc bỏ qua   "[15].    Bạo lực gia đình đối với phụ  nữ  ngoài những đặc điểm của bạo lực gia   đình nói chung còn mang một đặc điểm rất quan trọng để chúng ta nhận biết và   phân biệt với bạo lực gia đình nói chung, đó là, nạn nhân của bạo lực gia đình  đối với phụ nữ chỉ là nữ giới (nạn nhân của bạo lực gia đình có thể là tất cả đối   tượng: nữ giới, nam giới, trẻ em, người già, người tàn tật...). Chủ thể thực hiện   hành vi bạo lực gia đình đối với phụ nữ thường là nam giới và thường là người   chồng trong hôn nhân, chồng cũ hay bạn tình. 1.1.4. Khái niệm phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ Phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ là việc thực hiện các biện   pháp nhằm ngăn chặn và đẩy lùi bạo hành đối với phụ nữ trong gia đình, giúp  cho người phụ nữ tránh được bạo lực gia đình, bảo đảm các quyền con người   và có cuộc sống hạnh phúc.   Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ là một công việc khó khăn  và lâu dài. Để  bảo vệ  người phụ  nữ, bảo vệ quyền và vị  trí của người phụ  nữ trong xã hội, việc phòng chống bạo lực gia đình đối với người phụ nữ cần  thiết phải có sự điều chỉnh của pháp luật. Việc PCBLGĐ đối với người phụ  nữ  chỉ đạt được hiệu quả khi nó được đặt dưới sự  bảo vệ  của pháp luật và  phù hợp với pháp luật, phù hợp với truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Cho  đến nay, Việt Nam đã xây dựng được một hệ  thống pháp luật về  PCBLGĐ  đặc biệt, lần đầu tiên, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đã ra đời. Đây  chính là cơ sở  pháp lý để bảo vệ con người trong đó có người phụ nữ  trước   bạo hành gia đình.   Chính phủ Việt Nam đã tham gia rất mạnh mẽ phong trào quốc tế trong việc   bảo vệ người phụ nữ và đẩy lùi bạo lực gia đình. Việt Nam đã phê chuẩn Công  ước về Xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ (CEDAW) năm 
  14. 1981 và cam kết với kế hoạch hành động của Hội nghị quốc tế về Dân số và Phát   triển tại Cai­rô năm 1994 và Cương lĩnh hành động của Hội nghị quốc tế về phụ  nữ  tại Bắc Kinh năm 1995. Với tư  cách là quốc gia thành viên của công  ước   CEDAW, Việt Nam đã có những tiếp cận theo đúng cách tiếp cận của công ước  đối với bình đẳng và bình đẳng giới. Điều này được thể hiện trong hệ thống pháp   luật của Việt Nam, từ đạo luật gốc là Hiến pháp đến các đạo luật và các văn bản  pháp luật khác đều khẳng định một nguyên tắc bình đẳng nam nữ và không có bất   kỳ sự phân biệt nào trên cơ sở giới trên mọi lĩnh vực. Từ những phân tích trên, phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ   nữ  được hiểu là  phòng ngừa những hành vi trái pháp luật   phòng, chống   bạo lực gia đình, có lỗi, do chủ  thể  có năng lực trách nhiệm pháp lý thực   hiện, xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ trong lĩnh vực   PCBLGĐ mà nạn nhân của bạo hành gia đình là người phụ nữ.  Như vậy, PCBLGĐ đối với phụ nữ là phòng ngừa các hành vi bạo hành  gia đình đối với phụ nữ mà trong đó nạn nhân là người phụ nữ, người gây ra  bạo hành chủ yếu là nam giới. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng, trong xu   thế gia đình ở Việt Nam là gia đình mở, người phụ nữ không chỉ bị bạo hành  từ phía người chồng mà còn bị bạo hành từ phía gia đình nhà chồng, bố, mẹ  chồng, anh em của chồng. Mặt khác, trong thực tế  cũng có nhiều người  chồng cũng phải chịu bạo lực gia đình như  phụ  nữ  nhưng trong khuôn khổ  khóa luận này, tác giả nghiên cứu việc phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và  xử lý các vụ bạo lực gia đình đối với phụ  nữ trái với pháp luật  PCBLGĐ và  là nội dung cơ bản tác giả đề cập tới việc PCBLGĐ đối với phụ nữ.   1.2. Các hình thức của bạo lực gia đình đối với phụ nữ 1.2.1.  Bạo lực thể xác Người phụ nữ đã phải chịu đựng nhiều hình thức bạo lực gia đình. Bạo   lực thân thể  là hình thức khá phổ  biến trong các dạng bạo lực gia đình trên 
  15. thế  giới nói chung,  ở  Việt Nam nói riêng. Bạo lực thể  chất là một trong   những nguyên nhân hàng đầu gây ra thương tích cho phụ nữ. Người phụ nữ là  nạn nhân của bạo hành gia đình dưới hình thức bạo lực thân thể, họ phải chịu   sự đánh đập của người chồng, người bạn tình ở nhiều mức độ khác nhau, có   trường hợp người chồng đấm, đá, tát, xô ngã vợ; có trường hợp dùng cả  vũ  khí để hành hung vợ để lại những hậu quả nghiêm trọng như  để  lại thương   tích trên thân thể, xảy thai, thậm chí tử vong... Theo luật mẫu của Liên hợp quốc bạo lực thể xác bao gồm bất cứ hành  vi nào gây ra thương tích về mặt thể chất hoặc tổn thương thân thể ở bất kỳ  mức độ nào. Theo tài liệu của Viện Khoa học xã hội: Bạo lực thể  xác là hành vi   cưỡng bức thân thể, đánh đập nhằm gây thương tích cho nạn nhân hoặc ngăn   cấm phụ nữ tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cũng như ngăn ngừa họ  không  được  tiếp cận các  nhu cầu vật chất thiết yếu như:  ăn uống, nghĩ  ngơi,... Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 của Việt Nam cũng đã  nêu: Hành vi “hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại   đến sức khỏe, tính mạng” được xem là hành vi bạo lực gia đình về  mặt thể  xác. Những hành vi bạo lực về  thể  xác thường sử  dụng sức mạnh cơ  bắp   hoặc công cụ (thậm chí cả vũ khí ) để gây ra sự đau đớn về thân thể đối với  nạn nhân và mức độ có thể từ nhẹ tới nặng: thờ ơ; đánh đau, gây thương tích  ở khu vực khó phát hiện; đấm đá; gây thương tích nặng không cho nạn nhân  đi chữa trị; dùng phương tiện có dự định( dao, súng...)...;giết. Phụ nữ bị tát, xô, đẩy (không có những hành vi nghiêm trọng hơn) được  xếp vào nhóm bị  bạo lực  ở  mức độ  nhẹ  và những người bị  đấm đá kéo lê   hoặc đe dọa dùng vũ khí được coi là bị  bạo lực  ở  mức độ  nghiêm trọng. 
  16. Thường thì phụ  nữ  phải gánh chịu nhiều hành vi bạo lực thể xác chứ  không  phải đơn thuần một hành vi. Trên thực tế  không chỉ  có những người trình độ  văn hóa thấp mà cả  những người có trình độ văn hóa tương đối cao, có địa vị trong xã hội cũng là  nạn nhân của bạo lực trong gia đình. Trong đó bạo lực thể xác đối với người   phụ nữ là rõ nhất. Mặt khác, bạo lực về thể xác đối với phụ nữ ở nông thôn  cao hơn so với thành thị  và phần lớn là tập trung vào các gia đình có chồng  trình độ học vấn thấp, làm nông nghiệp. Bạo lực thể xác để lại hậu quả rất nghiêm trọng, nó không chỉ tác động trực   tiếp đến sức khỏe, tinh thần của người phụ nữ mà còn gây ảnh hưởng đến sự  phát triển tình cảm của trẻ con trong gia đình. Gia đình không hòa thuận, cha mẹ  đánh đập nhau sẽ tác động không không tốt đến tư tưởng, làm mất niềm tin của   con trẻ vào cha mẹ của mình. Như  vậy, có thể  thấy rằng bạo lực thể  xác là một trong những nguyên  nhân chính của tình trạng ly hôn hiện nay, đẩy nhiều gia đình đến bờ  vực   khủng hoảng và tan vỡ, trẻ em thì xa vào con đường tội phạm. 1.2.2. Bạo lực tinh thần Bạo lực về tinh thần đối với phụ nữ là loại hình bạo lực không sử dụng   đến vũ lực để tác động lên thể xác của nạn nhân mà chỉ tác động lên tinh thần   của nạn nhân như: chì chiết, mắng chửi, lăng mạ, xỉ  nhục, tỏ  thái độ  lạnh  lùng, không nói chuyện, không quan tâm. Cùng với bạo lực về  thân thể, bạo lực về  tinh thần đối với phụ  nữ  là  hình thức bạo lực đối với phụ nữ ngày càng phổ  biến ở nước ta. Những vết   thương về  thân thể  của người phụ  nữ, với thời gian có thể  lành lại nhưng   những vết thương về tinh thần do bạo lực gia đình gây ra cho người phụ  nữ  sẽ  rất khó lành. Bạo lực về  tinh thần đã gây cho người phụ  nữ  những chấn   động mạnh và lâu dài về tâm lý, họ phải chịu đựng những chấn thương tâm lý 
  17. mà không dễ gì chữa khỏi. Nạn nhân bị bạo lực tinh thần thường tự dằn vặt   mình, trầm cảm và sợ  sệt, ăn không ngon, ngủ  không yên, nóng giận vô cớ,  luôn bị  ám  ảnh về  bạo lực, có trường hợp bị   ảnh hưởng nghiêm trọng đến   tâm lý, thần kinh suốt đời, có trường hợp thì tự tử. Bạo lực về  tinh thần cũng là một loại hình bạo lực không kém phần   nghiêm trọng so với bạo lực về thể xác, số  động phụ  nữ  đếu cho rằng: ảnh   hưởng của bạo lực tinh thần thường nặng nề hơn bạo l ực th ể xác. Liên quan  đến vấn đề  này thì Luật Phòng, chống bạo lực gia đình có nêu lên một số  hành vi bạo lực tinh thần như: “Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về  tâm lý và gây hậu   quả  nghiêm trọng; lăng mạ  hoặc hành vi cố  ý khác xúc phạm danh dự, nhân  phẩm...”   Một số những hành vi bạo lực tinh thần : ­ Dùng lời nói để mắng nhiếc nạn nhân; ­ Chửi mắng, lăng mạ, chì chiết; ­ Xúc phạm nhân phẩm, hạ thấp uy tín ( tiết lộ đời tư, phát tán tờ rơi làm   ảnh hưởng đến danh dự, cưỡng ép lột bỏ quần áo trước mặt người khác...). ­   Cấm đoán ( quyền được chăm sóc con cái, người thân,dược làm việc,   được tham gia vào công tác xã hội, quyền được giao tiếp, quyền được quyết   định...). ­ Xua đuổi, quấy rối hoặc gây áp lực thường xuyên về  mặt tâm lý gây  hậu quả nghiêm trọng; ­ Buộc tội, nghi ngờ, theo dõi; ­ Phớt lờ cảm xúc của người khác, không quan tâm, đối xử lạnh nhạt; ­ Chê bai, chế nhạo, hạ thấp giá trị trước mặt người khác… Với bạo lực thể xác, nỗi đau đớn thể hiện rõ ràng trên cơ thể người phụ  nữ  nhưng với bạo lực về  tinh thần thì vết thương  ấy nông sâu như  thế  nào 
  18. không ai có thể  đo đếm được. Bạo lực tinh thần từng ngày từng giờ  gặm   nhấm ý chí, tâm can của người phụ nữ khiến những nạn nhân này luôn trong  tình trạng căng thẳng dẫn đến “stress”, tâm thần ở thể nhẹ hoặc thần kinh và   hậu quả đau lòng nhất là nhiều người do quá bế tắc đã phải tìm đến cái chết  để giải tỏa. Bạo lực tinh thần đối với phụ nữ đang dần làm mai một đi bản chất tốt   đẹp vốn có của mỗi một thành viên trong gia đình, gây tan vỡ hạnh phúc lứa  đôi của các cặp vợ chồng, gây đỗ vỡ cuộc sống gia đình. Bạo lực tinh thần đối với phụ  nữ  trong gia đình là hình thức bạo lực   không nhìn thấy được. Trong nhiều trường hợp, nó là nguyên nhân trực tiếp   cướp đi sinh mạng của người phụ nữ. Rất nhiều phụ nữ không chịu nổi bạo   hành tinh thần đã tìm đến với cái chết. Một trường hợp vi phạm pháp luật   phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ  nữ  dưới hình thức bạo hành tinh  thần đăng trên báo VnExpress ngày 23/10/2008 đã nói lên nỗi đau của mà   người phụ  nữ phải chịu đựng khi bị  bạo lực tinh thần: Một người chồng đã   không đánh đập vợ  khi bắt gặp vợ  ngoại tình và chỉ  xin 10 nghìn của người   tình vợ, sau đó, cứ  mỗi lần đến bữa ăn, người chồng lại đặt 10 nghìn lên  mâm cơm và giải thích với con đó là số tiền mà mẹ khó nhọc kiếm được. Ba   tháng sau, không chịu nổi áp lực về mặt tâm lý, người vợ đã tự vẫn chết. Có rất nhiều lý do dẫn đến bạo lực tinh thần đối với phụ nữ, một trong   những lý do khá nổi bật là ngoại tình. Phần lớn những người chồng khi ngoại   tình về  thường bỏ rơi, chửi mắng, ngược đãi vợ  con. Cùng với sự  tra tấn dã  man đó là mục đích mong cho vợ chết mòn, chết dần. Trong những hoàn cảnh   như vậy, người phụ nữ thật đau khổ và nhiều khi họ đã không làm chủ được   bản thân mình nữa, mắc phải những sang chấn tâm lý ám ảnh suốt cuộc đời   họ. 1.2.3.  Bạo lực tình dục
  19. Một hình thức bạo lực gia đình đối với người phụ nữ hiện nay làm ảnh  hưởng rất lớn đến tâm lý của người phụ  nữ  là bạo lực tình dục. Hình thức   bạo lực này rất khó phát hiện bởi tất cả các nạn nhân rất ít khi nói ra. Theo  Tổ chức Y tế thế giới, bạo lực tình dục được xem là vấn đề ưu tiên trong các   vấn đề sức khoẻ cộng đồng và quyền con người bởi vì vấn đề này tồn tại ở  nhiều nước trên thế  giới và gây  ảnh hưởng đến sức khoẻ  phụ  nữ. Cưỡng   bức tình dục trong hôn nhân là một hình thức bạo lực đối với phụ nữ, là hành  vi vi phạm pháp luật phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ  nữ, đây là  điều mà bấy lâu nay nhiều người không nhận thức được.  Ở  nước ta, theo   quan niệm truyền thống, việc người vợ đáp ứng nhu cầu tình dục của chồng   là việc bình thường như là một bổn phận của người vợ để giữ gìn hạnh phúc   gia đình. Nhiều người chồng coi đó là trách nhiệm đương nhiên của người   vợ, người vợ không có quyền kháng cự và đã có rất nhiều người được hỏi đã   khẳng định rằng đây không phải là việc bạo hành vợ, vì thế  không phải là vi  phạm pháp luật. Chính vì vậy mà hình thức bạo lực này bị xem nhẹ. Điều này  dẫn đến tình trạng bạo lực tình dục trong gia đình đối với vợ  còn xảy ra   nhiều với con số  khá cao mà trong thực tế, con số  đó còn nhiều hơn rất   nhiều. Quan hệ  tình dục giữa vợ  và chồng là quan hệ  tình dục đồng thuận,  nhưng không phải lúc nào cũng là quan hệ tình dục được mong muốn. Vì vậy,  không phải cứ là vợ  chồng thì đương nhiên chồng được quan hệ  và vợ  phải   chiều chồng, mà cần có sự mong muốn và đồng thuận của đôi bên. Hành vi ép  buộc tình dục có thể  xảy ra trong hôn nhân giữa vợ  và chồng, kể  cả  khi ly   thân, ly hôn và ngay cả trong tình yêu giữa bạn tình với nhau. Bạo lực tình dục được định nghĩa là: hành vi sử dụng vũ lực, cưỡng bức   hoặc chấn áp về  tâm lý nhằm ép buộc một người phụ  nữ  quan hệ  tình dục  ngoài ý muốn cho dù có đạt mục đích hay không. Bạo lực tình dục bao gồm   hiếp dâm, quấy rối tình dục và các hình thức bạo lực tình dục khác trong hôn  
  20. nhân mà đối tượng gây ra là các thành viên trong gia đình, người quen, cưỡng   ép kết hôn, cưỡng ép làm nghề  mại dâm, chủ  thể  của hành vi bạo lực tình  dục thường xử dụng vũ lực để  ép buộc người kia có quan hệ  tình dục, hoặc  hành vi cố  lôi kéo họ  vào hoạt động tình dục ngay cả  khi họ  không có khả  năng tử chối bởi các lý do như: sức khỏe, bị   ảnh hưởng của chất kích thích,  chưa đủ năng lực để hiểu biết về hậu quả của quan hệ tình dục đó, hoặc sự  hăm doa, quấy rối tình dục. Trong Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 của Việt Nam cũng  có nêu rõ “...cưỡng ép quan hệ tình dục” cũng là một trong những hành vi bạo  lực gia đình. Chúng ta có thể xác định bạo lực tinh dục qua một số hành vi cụ  thể sau: ­ Đùa cợt về phụ nữ và về tình dục trước mặt nạn nhân; ­ Xem phụ nữ như một đồ vật để thỏa mãn; ­ Làm mất cảm xúc và nhu cầu sinh lý của nạn nhân; ­ Sờ mó bộ phận sinh dục của nạn nhân khi nạn nhân không đồng ý; ­ Sử dụng những hình thức quan hệ tình dục gây đau đớn; ­ Sử dụng những lời lẽ liên quan tới dục tính gây khó chịu về tâm lý; ­ Cưỡng ép thực hiện hành vi khiêu dâm, các thuốc kích dục; ­ Ép buộc quan hệ tình để làm nhục, gây đau; ­ Buộc cởi bỏ y phục trước mặt con cái, công chúng… Trong đời sống vợ  chồng  ở  nhiều gia đình, hôn nhân được hiểu như  là  sự cho phép người đàn ông có quyền tiếp cận tình dục với người vợ vô điều   kiện và họ  có sức mạnh để  củng cố  sự  tiếp cận này thông qua cưỡng bức  nếu thấy cần thiết. Không ít phụ nữ khi không đồng ý quan hệ với chồng đã  bị  chồng chì chiết, chửi mắng thậm tệ. Bị  bạo hành về  tình dục khiến cho  người phụ nữ cảm giác như mình chỉ là công cụ giải quyết sinh lý của chồng  nên họ cảm thấy sợ mỗi khi gần gũi chồng. Trong quan hệ “phòng the” lẽ ra  người phụ nữ có quyền được trân trọng thì trái lại bị  tước đi quyền làm vợ,  
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2