Khóa luận Tốt nghiệp: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ qua thực tiễn tại huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam
lượt xem 49
download
Khóa luận Tốt nghiệp: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ qua thực tiễn tại huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam được nghiên cứu nhằm mục đích nâng cao nhận thức sâu sắc hơn về pháp luật PCBLGĐ đối với phụ nữ; đánh giá thực trạng PCBLGĐ đối với phụ nữ ở huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam; tìm ra những hạn chế trong việc PCBLGĐ đối với phụ nữ huyện Nông Sơn; đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả PCBLGĐ đối với phụ nữ huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam;...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Khóa luận Tốt nghiệp: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ qua thực tiễn tại huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam
- ĐẠI HỌC HUẾ KHOA LUẬT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CHUYÊN NGÀNH: DÂN SỰ KHÓA HỌC: 2010 2014 PHÒNG CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI PHỤ NỮ QUA THỰC TIỄN TẠI HUYỆN NÔNG SƠN, TỈNH QUẢNG NAM Giáo viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện: Th.S Đào Mai Hường Nguyễn Phước Trung
- Huế, 03/2014
- Lời Cảm Ơn Để hoàn thành khóa luận này, đầu tiên em xin gửi lời cảm ơn đến Quý thầy giáo, cô giáo trong Khoa Luật Đại Học Huế đã truyền đạt kiến thức cho em trong 4 năm học tập tại trường. Với vốn kiến thức được tiếp thu trong quá trình học tập là nền tảng quan trọng giúp hoàn thành khóa luận này. Em xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô giáo Thạc sĩ Đào Mai Hường đã giúp đỡ, hướng dẫn em tận tình và đầy trách nhiệm trong suốt quá trình hoàn thành khoán luận này. Chân thành cảm ơn gia đình và bạn bè đã đóng góp ý kiến cũng như sự động viên, khích lệ trong quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện khóa luận. Bài khóa luận được hoàn thành, bước đầu đi vào tìm hiểu, nghiên cứu khoa học, kiến thức của em còn hạn chế và còn nhiều bỡ ngỡ nên không thể tránh khỏi những điều thiếu sót. Kính mong Quý thầy giáo, cô giáo, bạn bè nhiệt tình đóng góp ý kiến để bài khóa luận của em có thể hoàn thiện hơn. Sau cùng, em xin kính chúc Quý thầy giáo, cô giáo thật dồi dào sức khỏe, niềm tin để tiếp tục thực hiện sứ mệnh cao đẹp của mình là truyền đạt kiến thức cho thế hệ mai sau. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn! Huế tháng 03/2014 Sinh viên Nguyễn Phước Trung
- DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLGĐ: Bạo lực gia đình PCBLGĐ: Phòng chống bạo lực gia đình HNGĐ: Hôn nhân gia đình LHQ: Liên hợp quốc UBND: Ủy ban nhân dân HĐND: Hội đồng nhân dân HLHPN: Hội liên hiệp phụ nữ HPN: Hội phụ nữ BĐG: Bình đẳng giới CEDAW: Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ PN: Phụ nữ
- MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Gia đình là tế bào xã hội, là tổ ấm thân yêu của mỗi con người, như Bác Hồ đã từng nói: "Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình”[3]. Gia đình là tế bào của xã hội, nơi duy trì nòi giống, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, chống lại các tệ nạn xã hội, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, trong Tuyên ngôn Người đã đặt ra vấn đề quan tâm hàng đầu là “Nam nữ bình quyền”. Tuy nhiên, vấn đề hiện nay tiềm ẩn trong mọi gia đình là vấn nạn vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ và việc phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ là hết sức cần thiết. Bạo lực gia đình đối với phụ nữ là vấn đề mang tính lịch sử toàn cầu, gây nhức nhối cho nhân loại, để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng cho con người, nhất là đối với phụ nữ. Bước sang thế kỷ XXI, phòng, chống bạo lực giới đang là một trong những mục tiêu của thiên niên kỷ. Tổng Thư ký Liên hiệp quốc Ban Ki Moon đã tuyên bố: "Bạo lực đối với phụ nữ là không bao giờ được chấp nhận, không bao giờ được khoan dung, tha thứ ." [16]. Chúng ta những con người của thế kỷ 21 cần phải đặc biệt quan tâm đến vấn đề bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ và
- lên án nạn bạo lực với phụ nữ góp phần vào nâng cao địa vị và quyền con người chính đáng của phụ nữ ở trong gia đình và ngoài xã hội. Thể chế hoá quy định của Hiến pháp năm 1992, việc bảo vệ phụ nữ khỏi các hình thức bạo lực gia đình được quy định cụ thể, chi tiết trong nhiều văn bản pháp luật khác như Luật Hôn nhân gia đình; Bộ Luật Hình sự; Luật Bình đẳng giới; Luật Phòng, chống bạo lực gia đình...Mặc dù Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều cố gắng trong việc PCBLGĐ, để các quy định pháp luật về PCBLGĐ được thực thi trong đời sống xã hội nhưng trên thực tế, tình trạng vi phạm pháp luật về PCBLGĐ vẫn diễn ra thường xuyên ở nhiều nơi. Thống kê của Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch, Tổng cục thống kê và Quỹ nhi đồng LHQ công bố ngày 26/6/2008 với điều tra của 93 ngàn hộ gia đình trên khắp mọi miền đất nước thì có tới 21,2% cặp vợ chồng đã trải qua một hình thức bạo lực gia đình như đánh, mắng, nhục mạ, ép quan hệ tình dục và như vậy cứ 5 cặp vợ chồng thì đã có một cặp đã có hình thức bạo lực gia đình. Chúng ta đều biết bạo lực gia đình đối với phụ nữ là một hiện tượng xã hội không mới, nhưng lại nổi lên như một căn bệnh xã hội hết sức nan giải trong giai đoạn hiện nay. Qua các kết quả nghiên cứu cũng cho thấy khả năng phụ nữ bị chồng mình lạm dụng nhiều hơn gấp 3 lần so với khả năng bị người khác lạm dụng. Bạo lực gia đình đình đối với phụ nữ đã gây hậu quả hết sức nghiêm trọng đối với thể chất và tinh thần của người phụ nữ. Nông Sơn là huyện miền núi phía Tây của tỉnh Quảng Nam. Đây là một huyện nghèo, 4/7 xã được xét là đặc biệt khó khăn. Mặc dù dân số ít nhưng địa bàn phức tạp, trình độ dân trí thấp, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Đời sống nhân dân còn duy trì những phong tục tập quán lạc hậu. Đó chính là những nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tình trạng bạo lực ở vùng cao. Tuy
- nhiên, hiện nay vẫn chưa có những công trình chuyên sâu để tìm hiểu rõ hơn về việc PCBLGĐ đối với phụ nữ miền núi. Trong những năm qua Đảng và nhà nước Việt Nam đã rất quan tâm đến công tác đấu tranh PCBLGĐ đối với phụ nữ . Từ năm 1980, chính phủ Việt Nam đã ký kết gia nhập Công ước về loại bỏ các tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW). Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đã được Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thông qua vào tháng 11/2007 và có hiệu lực từ ngày 1/7/2008. Quá trình thực hiện đã đạt đươc những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên tình trạng bạo lực gia đình đối với phụ nữ vẫn diễn biến phức tạp cả về số vụ và mức độ nghiêm trọng, và việc PCBLGĐ đối với phụ nữ và vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết. Với những lí do nêu trên, mà em đã mạnh dạn chọn đề tài “Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ qua thực tiễn tại huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình. 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài Đề tài hướng đến những mục đích như sau: Nâng cao nhận thức sâu sắc hơn về pháp luật PCBLGĐ đối với phụ nữ. Đánh giá thực trạng PCBLGĐ đối với phụ nữ ở huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam. Tìm ra những hạn chế trong việc PCBLGĐ đối với phụ nữ huyện Nông Sơn. Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả PCBLGĐ đối với phụ nữ huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam. Từ những mục đích trên đề tài hướng tới những nhiệm vụ sau: Làm sáng rõ khái niệm đặc điểm của bạo lực gia đình đối với phụ nữ.
- Chỉ ra và phân tích các đặc điểm các hình thức bạo lực gia đình đối với phụ nữ . Nêu lên các hình thức và phương pháp đấu tranh PCBLGĐ đối với phụ nữ. Chỉ rõ những hậu quả mà bạo lực gia đình đối với phụ nữ đã để lại cho phụ nữ, cho trẻ em và cho cả toàn xã hội. Đề xuất những kiến nghị và giải pháp để nâng cao hiệu quả đấu tranh PCBLGĐ đối với phụ nữ tại huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung phân tích, đánh giá và xem xét về thực tiễn PCBLGĐ đối với phụ nữ địa bàn huyện Nông Sơn nói riêng, Tỉnh Quảng Nam nói chung. Phạm vi nghiên cứu: Trong khuôn khổ có hạn của một bài Khóa Luận, em chỉ đi sâu vào nghiên cứu một số vấn đề lý luận về bạo lực gia đình đối với phụ nữ và thực tiễn thực hiện pháp luật PCBLGĐ đối với phụ nữ huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam. 4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài Để thực hiện đề tài “Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ qua thực tiễn tại huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam ”. Em đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử. Ngoài ra em còn sử dụng một số phương pháp cụ thể như: phân tích, giải thích, thống kê, tổng hợp, khảo sát thực tế. 5. Cơ cấu của đề tài. Lời mở đầu: Nêu lên tính cấp thiết của đề tài, mục đích nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và kết quả nghiên cứu. Nội dung: Gồm có 2 chương.
- Chương 1: Quy định của pháp luật Việt Nam về phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ và trách nhiệm pháp lý đối với những vi phạm. Chương 2: Thực trạng phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam. Kết luận Tài liệu tham khảo NỘI DUNG CHƯƠNG 1 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ PHÒNG CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI PHỤ NỮ VÀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ ĐỐI VỚI NHỮNG VI PHẠM 1.1. Một số khái niệm 1.1.1. Khái niệm gia đình Dưới góc độ xã hội học, gia đình được coi là tế bào xã hội. Không giống bất cứ nhóm xã hội nào khác, gia đình đan xen các yếu tố sinh học, kinh tế, tâm lý, văn hóa…những mối liên hệ cơ bản của gia đình bao gồm vợ chồng, cha mẹ và con, ông bà và cháu, những mối liên hệ khác: cô, dì, chú, bác với
- cháu, cha mẹ chồng và con dâu, cha mẹ vợ và con rễ…Mối quan hệ gia đình được thể hiện ở khía cạnh như: có đời sống tình dục, sinh con và nuôi dạy con cái, lao động tạo ra của cái vật chất để duy trì đời sống gia đình và đóng góp cho xã hội. Mối liên hệ này có thể dựa trên những căn cứ pháp lý hoặc có thể dựa trên những căn cứ thực tế một cách tự nhiên, tự phát. Theo đó gia đình được định nghĩa “là một thiết chế xã hội đặc thù, một nhóm xã hội thu nhỏ mà các thành viên của nó gắn bó với nhau bởi quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ con người bởi tính cộng đồng về sinh hoạt trách nhiệm đạo đức với nhau nhằm đáp ứng nhu cầu riêng của thành viên cũng như để thể hiện tính tất yếu của xã hội về phát triển sản xuất con người”. Dưới góc độ pháp lý, gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo quy định của luật này (Điều 8, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000). Tuy nhiên, trong thực tế đời sống cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm gia đình: gia đình là tập hợp những người cùng có tên trong sổ hộ khẩu; gia đình là tập hợp những người cùng chung sống với nhau dưới một mái nhà… Từ những góc độ nghiên cứu khác nhau, gia đình được chia tách thành nhiều dạng thức khác nhau: gia đình hiện đại và gia đình truyền thống, gia đình hạt nhân và gia đình đa thế hệ; gia đình khuyết thiếu và gia đình đầy đủ. 1.1.2. Khái niệm bạo lực gia đình Trong tiếng Việt, bạo lực được hiểu là “sức mạnh dùng để cưỡng bức, lấn áp hoặc lật đổ”[3]. Khái niệm này dễ làm người ta liên tưởng tới các hoạt động chính trị, nhưng trên thực tế bạo lực được coi như một phương thức hành xử trong quan hệ xã hội nói chung. Các mối quan hệ xã hội vốn rất
- phức tạp nên hành vi bạo lực cũng rất phong phú, được chia thành nhiều dạng khác nhau, tùy theo từng góc độ nhìn nhận: bạo lực nhìn thấy và bạo lực không nhìn thấy được; bạo lực với trẻ em… Còn theo chủ nghĩa cộng sản khoa học: “Bạo lực là một giai cấp (các nhóm chính trị xã hội) nào đó áp dụng những hình thức cưỡng bức khác nhau, kể cả sự tác động bằng vũ trang, đối với giai cấp (các nhóm chính trị xã hội) khác nhau nhằm mục đích giành lấy hoặc duy trì sự thống trị về kinh tế, chính trị những quyền hay đặc quyền khác nhau” [4]. Bạo lực gia đình là một dạng thức của bạo lực xã hội, là “hành vi cố ý của các thành viên gia đình gây tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại với các thành viên khác trong gia đình” (Điều 1, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình). Nói cách khác, đó là việc “ các thành viên trong gia đình vân dụng sức mạnh để giải quyết các vấn đề gia đình”. Theo định nghĩa của Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc thông qua năm 1993 được các tổ chức cũng như các nhà khoa học trên thế giới chấp nhận rộng rãi. Theo đó, bạo lực gia đình bao gồm bất kỳ một hành động bạo lực dựa trên cơ sở một giới nào dẫn đến, hoặc có khả năng dẫn đến những tổn hại về thân thể, tình dục hay tâm lý, hay những đau khổ của phụ nữ bao gồm cả sự đe dọa có những hành động như vậy, sự cưỡng bức hay tước đoạt một cách tỳ tiện sự tự do, dù xảy ra nơi công cộng hay cuộc sống riêng tư. Như vậy, bạo lực gia đình bao gồm các yếu tố bạo hành về thể chất, bạo hành về tinh thần, bạo hành tình dục và cả bạo hành về kinh tế. Những hành vi bạo lực gia đình gây ra để lại nhiều tổn hại đối với cộng đồng xã hội, đối với con người, đặc biệt đối với phụ nữ đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp của bạo lực gia đình. 1.1.3. Khái niệm bạo lực gia đình đối với phụ nữ
- Tuyên bố của Liên hợp quốc về việc loại bỏ bạo lực đối với phụ nữ, ngày 20/12/1993, đã định nghĩa: “Bạo lực đối với phụ nữ là bất kỳ hành động bạo lực nào dựa trên cơ sở giới gây ra hậu quả hoặc có thể gây ra hậu quả, làm tổn hại hoặc gây đau khổ cho phụ nữ về thân thể, tình dục hay tâm lý, kể cả những lời đe doạ hay độc đoán tước quyền tự do, dù xảy ra ở nơi công cộng hay trong đời sống riêng tư”. Theo định nghĩa trên, bạo lực gia đình đối với phụ nữ bao gồm: các hành vi bạo lực trên cơ sở giới gây ra hậu quả hoặc có thể gây ra hậu quả, làm tổn hại hoặc gây đau khổ cho phụ nữ về thân thể, tình dục và tâm lý xảy ra trong gia đình. Bạo lực chống lại phụ nữ trong gia đình: Quan hệ giới trong gia đình là một trong những quan hệ cơ bản tạo nên sự tồn tại của một gia đình. Về thực chất nó là mối quan hệ giữa nam giới và nữ giới trong gia đình mà trung tâm là mối quan hệ vợ chồng. Trong mối quan hệ về giới, mặc dù thủ phạm của hành vi bạo lực gia đình có thể bao gồm cả phụ nữ và nạn nhân của nó có thể bao gồm cả đàn ông. Tuy nhiên, các nghiên cứu về vấn đề này cho phép kết luận rằng, bạo lực gia đình về cơ bản là bạo lực chống lại phụ nữ và thủ phạm cơ bản là đàn ông. Phần lớn bạo lực chống lại phụ nữ xảy ra trong gia đình và người gây ra bạo lực gần như luôn luôn là nam giới, thường là chồng, người tình, hoặc chồng cũ, người tình cũ, hay những người đàn ông quen biết của phụ nữ. "Bạo lực trên cơ sở giới là bạo lực giữa nam giới và phụ nữ, trong đó phụ nữ thường là nạn nhân và điều này bắt nguồn từ các mối quan hệ quyền lực bất bình đẳng giữa nam giới và phụ nữ. Bạo lực thường nhằm vào phụ nữ vì họ là phái yếu hoặc ảnh hưởng lớn đến phụ nữ. Bạo lực trên cơ sở giới bao gồm, những tổn hại về thân thể, tình dục và tâm lý (bao gồm cả sự đe doạ, gây đau khổ, cưỡng bức, hoặc tước đoạt sự tự do xảy ra trong gia đình hoặc trong cộng đồng, nhưng nó không hạn chế chỉ ở những dạng này.
- Bạo lực trên cơ sở giới bao gồm cả bạo lực do Nhà nước gây ra hoặc bỏ qua "[15]. Bạo lực gia đình đối với phụ nữ ngoài những đặc điểm của bạo lực gia đình nói chung còn mang một đặc điểm rất quan trọng để chúng ta nhận biết và phân biệt với bạo lực gia đình nói chung, đó là, nạn nhân của bạo lực gia đình đối với phụ nữ chỉ là nữ giới (nạn nhân của bạo lực gia đình có thể là tất cả đối tượng: nữ giới, nam giới, trẻ em, người già, người tàn tật...). Chủ thể thực hiện hành vi bạo lực gia đình đối với phụ nữ thường là nam giới và thường là người chồng trong hôn nhân, chồng cũ hay bạn tình. 1.1.4. Khái niệm phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ Phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ là việc thực hiện các biện pháp nhằm ngăn chặn và đẩy lùi bạo hành đối với phụ nữ trong gia đình, giúp cho người phụ nữ tránh được bạo lực gia đình, bảo đảm các quyền con người và có cuộc sống hạnh phúc. Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ là một công việc khó khăn và lâu dài. Để bảo vệ người phụ nữ, bảo vệ quyền và vị trí của người phụ nữ trong xã hội, việc phòng chống bạo lực gia đình đối với người phụ nữ cần thiết phải có sự điều chỉnh của pháp luật. Việc PCBLGĐ đối với người phụ nữ chỉ đạt được hiệu quả khi nó được đặt dưới sự bảo vệ của pháp luật và phù hợp với pháp luật, phù hợp với truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Cho đến nay, Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống pháp luật về PCBLGĐ đặc biệt, lần đầu tiên, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đã ra đời. Đây chính là cơ sở pháp lý để bảo vệ con người trong đó có người phụ nữ trước bạo hành gia đình. Chính phủ Việt Nam đã tham gia rất mạnh mẽ phong trào quốc tế trong việc bảo vệ người phụ nữ và đẩy lùi bạo lực gia đình. Việt Nam đã phê chuẩn Công ước về Xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ (CEDAW) năm
- 1981 và cam kết với kế hoạch hành động của Hội nghị quốc tế về Dân số và Phát triển tại Cairô năm 1994 và Cương lĩnh hành động của Hội nghị quốc tế về phụ nữ tại Bắc Kinh năm 1995. Với tư cách là quốc gia thành viên của công ước CEDAW, Việt Nam đã có những tiếp cận theo đúng cách tiếp cận của công ước đối với bình đẳng và bình đẳng giới. Điều này được thể hiện trong hệ thống pháp luật của Việt Nam, từ đạo luật gốc là Hiến pháp đến các đạo luật và các văn bản pháp luật khác đều khẳng định một nguyên tắc bình đẳng nam nữ và không có bất kỳ sự phân biệt nào trên cơ sở giới trên mọi lĩnh vực. Từ những phân tích trên, phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ được hiểu là phòng ngừa những hành vi trái pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, có lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ trong lĩnh vực PCBLGĐ mà nạn nhân của bạo hành gia đình là người phụ nữ. Như vậy, PCBLGĐ đối với phụ nữ là phòng ngừa các hành vi bạo hành gia đình đối với phụ nữ mà trong đó nạn nhân là người phụ nữ, người gây ra bạo hành chủ yếu là nam giới. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng, trong xu thế gia đình ở Việt Nam là gia đình mở, người phụ nữ không chỉ bị bạo hành từ phía người chồng mà còn bị bạo hành từ phía gia đình nhà chồng, bố, mẹ chồng, anh em của chồng. Mặt khác, trong thực tế cũng có nhiều người chồng cũng phải chịu bạo lực gia đình như phụ nữ nhưng trong khuôn khổ khóa luận này, tác giả nghiên cứu việc phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý các vụ bạo lực gia đình đối với phụ nữ trái với pháp luật PCBLGĐ và là nội dung cơ bản tác giả đề cập tới việc PCBLGĐ đối với phụ nữ. 1.2. Các hình thức của bạo lực gia đình đối với phụ nữ 1.2.1. Bạo lực thể xác Người phụ nữ đã phải chịu đựng nhiều hình thức bạo lực gia đình. Bạo lực thân thể là hình thức khá phổ biến trong các dạng bạo lực gia đình trên
- thế giới nói chung, ở Việt Nam nói riêng. Bạo lực thể chất là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây ra thương tích cho phụ nữ. Người phụ nữ là nạn nhân của bạo hành gia đình dưới hình thức bạo lực thân thể, họ phải chịu sự đánh đập của người chồng, người bạn tình ở nhiều mức độ khác nhau, có trường hợp người chồng đấm, đá, tát, xô ngã vợ; có trường hợp dùng cả vũ khí để hành hung vợ để lại những hậu quả nghiêm trọng như để lại thương tích trên thân thể, xảy thai, thậm chí tử vong... Theo luật mẫu của Liên hợp quốc bạo lực thể xác bao gồm bất cứ hành vi nào gây ra thương tích về mặt thể chất hoặc tổn thương thân thể ở bất kỳ mức độ nào. Theo tài liệu của Viện Khoa học xã hội: Bạo lực thể xác là hành vi cưỡng bức thân thể, đánh đập nhằm gây thương tích cho nạn nhân hoặc ngăn cấm phụ nữ tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cũng như ngăn ngừa họ không được tiếp cận các nhu cầu vật chất thiết yếu như: ăn uống, nghĩ ngơi,... Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 của Việt Nam cũng đã nêu: Hành vi “hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khỏe, tính mạng” được xem là hành vi bạo lực gia đình về mặt thể xác. Những hành vi bạo lực về thể xác thường sử dụng sức mạnh cơ bắp hoặc công cụ (thậm chí cả vũ khí ) để gây ra sự đau đớn về thân thể đối với nạn nhân và mức độ có thể từ nhẹ tới nặng: thờ ơ; đánh đau, gây thương tích ở khu vực khó phát hiện; đấm đá; gây thương tích nặng không cho nạn nhân đi chữa trị; dùng phương tiện có dự định( dao, súng...)...;giết. Phụ nữ bị tát, xô, đẩy (không có những hành vi nghiêm trọng hơn) được xếp vào nhóm bị bạo lực ở mức độ nhẹ và những người bị đấm đá kéo lê hoặc đe dọa dùng vũ khí được coi là bị bạo lực ở mức độ nghiêm trọng.
- Thường thì phụ nữ phải gánh chịu nhiều hành vi bạo lực thể xác chứ không phải đơn thuần một hành vi. Trên thực tế không chỉ có những người trình độ văn hóa thấp mà cả những người có trình độ văn hóa tương đối cao, có địa vị trong xã hội cũng là nạn nhân của bạo lực trong gia đình. Trong đó bạo lực thể xác đối với người phụ nữ là rõ nhất. Mặt khác, bạo lực về thể xác đối với phụ nữ ở nông thôn cao hơn so với thành thị và phần lớn là tập trung vào các gia đình có chồng trình độ học vấn thấp, làm nông nghiệp. Bạo lực thể xác để lại hậu quả rất nghiêm trọng, nó không chỉ tác động trực tiếp đến sức khỏe, tinh thần của người phụ nữ mà còn gây ảnh hưởng đến sự phát triển tình cảm của trẻ con trong gia đình. Gia đình không hòa thuận, cha mẹ đánh đập nhau sẽ tác động không không tốt đến tư tưởng, làm mất niềm tin của con trẻ vào cha mẹ của mình. Như vậy, có thể thấy rằng bạo lực thể xác là một trong những nguyên nhân chính của tình trạng ly hôn hiện nay, đẩy nhiều gia đình đến bờ vực khủng hoảng và tan vỡ, trẻ em thì xa vào con đường tội phạm. 1.2.2. Bạo lực tinh thần Bạo lực về tinh thần đối với phụ nữ là loại hình bạo lực không sử dụng đến vũ lực để tác động lên thể xác của nạn nhân mà chỉ tác động lên tinh thần của nạn nhân như: chì chiết, mắng chửi, lăng mạ, xỉ nhục, tỏ thái độ lạnh lùng, không nói chuyện, không quan tâm. Cùng với bạo lực về thân thể, bạo lực về tinh thần đối với phụ nữ là hình thức bạo lực đối với phụ nữ ngày càng phổ biến ở nước ta. Những vết thương về thân thể của người phụ nữ, với thời gian có thể lành lại nhưng những vết thương về tinh thần do bạo lực gia đình gây ra cho người phụ nữ sẽ rất khó lành. Bạo lực về tinh thần đã gây cho người phụ nữ những chấn động mạnh và lâu dài về tâm lý, họ phải chịu đựng những chấn thương tâm lý
- mà không dễ gì chữa khỏi. Nạn nhân bị bạo lực tinh thần thường tự dằn vặt mình, trầm cảm và sợ sệt, ăn không ngon, ngủ không yên, nóng giận vô cớ, luôn bị ám ảnh về bạo lực, có trường hợp bị ảnh hưởng nghiêm trọng đến tâm lý, thần kinh suốt đời, có trường hợp thì tự tử. Bạo lực về tinh thần cũng là một loại hình bạo lực không kém phần nghiêm trọng so với bạo lực về thể xác, số động phụ nữ đếu cho rằng: ảnh hưởng của bạo lực tinh thần thường nặng nề hơn bạo l ực th ể xác. Liên quan đến vấn đề này thì Luật Phòng, chống bạo lực gia đình có nêu lên một số hành vi bạo lực tinh thần như: “Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý và gây hậu quả nghiêm trọng; lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm...” Một số những hành vi bạo lực tinh thần : Dùng lời nói để mắng nhiếc nạn nhân; Chửi mắng, lăng mạ, chì chiết; Xúc phạm nhân phẩm, hạ thấp uy tín ( tiết lộ đời tư, phát tán tờ rơi làm ảnh hưởng đến danh dự, cưỡng ép lột bỏ quần áo trước mặt người khác...). Cấm đoán ( quyền được chăm sóc con cái, người thân,dược làm việc, được tham gia vào công tác xã hội, quyền được giao tiếp, quyền được quyết định...). Xua đuổi, quấy rối hoặc gây áp lực thường xuyên về mặt tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng; Buộc tội, nghi ngờ, theo dõi; Phớt lờ cảm xúc của người khác, không quan tâm, đối xử lạnh nhạt; Chê bai, chế nhạo, hạ thấp giá trị trước mặt người khác… Với bạo lực thể xác, nỗi đau đớn thể hiện rõ ràng trên cơ thể người phụ nữ nhưng với bạo lực về tinh thần thì vết thương ấy nông sâu như thế nào
- không ai có thể đo đếm được. Bạo lực tinh thần từng ngày từng giờ gặm nhấm ý chí, tâm can của người phụ nữ khiến những nạn nhân này luôn trong tình trạng căng thẳng dẫn đến “stress”, tâm thần ở thể nhẹ hoặc thần kinh và hậu quả đau lòng nhất là nhiều người do quá bế tắc đã phải tìm đến cái chết để giải tỏa. Bạo lực tinh thần đối với phụ nữ đang dần làm mai một đi bản chất tốt đẹp vốn có của mỗi một thành viên trong gia đình, gây tan vỡ hạnh phúc lứa đôi của các cặp vợ chồng, gây đỗ vỡ cuộc sống gia đình. Bạo lực tinh thần đối với phụ nữ trong gia đình là hình thức bạo lực không nhìn thấy được. Trong nhiều trường hợp, nó là nguyên nhân trực tiếp cướp đi sinh mạng của người phụ nữ. Rất nhiều phụ nữ không chịu nổi bạo hành tinh thần đã tìm đến với cái chết. Một trường hợp vi phạm pháp luật phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ dưới hình thức bạo hành tinh thần đăng trên báo VnExpress ngày 23/10/2008 đã nói lên nỗi đau của mà người phụ nữ phải chịu đựng khi bị bạo lực tinh thần: Một người chồng đã không đánh đập vợ khi bắt gặp vợ ngoại tình và chỉ xin 10 nghìn của người tình vợ, sau đó, cứ mỗi lần đến bữa ăn, người chồng lại đặt 10 nghìn lên mâm cơm và giải thích với con đó là số tiền mà mẹ khó nhọc kiếm được. Ba tháng sau, không chịu nổi áp lực về mặt tâm lý, người vợ đã tự vẫn chết. Có rất nhiều lý do dẫn đến bạo lực tinh thần đối với phụ nữ, một trong những lý do khá nổi bật là ngoại tình. Phần lớn những người chồng khi ngoại tình về thường bỏ rơi, chửi mắng, ngược đãi vợ con. Cùng với sự tra tấn dã man đó là mục đích mong cho vợ chết mòn, chết dần. Trong những hoàn cảnh như vậy, người phụ nữ thật đau khổ và nhiều khi họ đã không làm chủ được bản thân mình nữa, mắc phải những sang chấn tâm lý ám ảnh suốt cuộc đời họ. 1.2.3. Bạo lực tình dục
- Một hình thức bạo lực gia đình đối với người phụ nữ hiện nay làm ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý của người phụ nữ là bạo lực tình dục. Hình thức bạo lực này rất khó phát hiện bởi tất cả các nạn nhân rất ít khi nói ra. Theo Tổ chức Y tế thế giới, bạo lực tình dục được xem là vấn đề ưu tiên trong các vấn đề sức khoẻ cộng đồng và quyền con người bởi vì vấn đề này tồn tại ở nhiều nước trên thế giới và gây ảnh hưởng đến sức khoẻ phụ nữ. Cưỡng bức tình dục trong hôn nhân là một hình thức bạo lực đối với phụ nữ, là hành vi vi phạm pháp luật phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, đây là điều mà bấy lâu nay nhiều người không nhận thức được. Ở nước ta, theo quan niệm truyền thống, việc người vợ đáp ứng nhu cầu tình dục của chồng là việc bình thường như là một bổn phận của người vợ để giữ gìn hạnh phúc gia đình. Nhiều người chồng coi đó là trách nhiệm đương nhiên của người vợ, người vợ không có quyền kháng cự và đã có rất nhiều người được hỏi đã khẳng định rằng đây không phải là việc bạo hành vợ, vì thế không phải là vi phạm pháp luật. Chính vì vậy mà hình thức bạo lực này bị xem nhẹ. Điều này dẫn đến tình trạng bạo lực tình dục trong gia đình đối với vợ còn xảy ra nhiều với con số khá cao mà trong thực tế, con số đó còn nhiều hơn rất nhiều. Quan hệ tình dục giữa vợ và chồng là quan hệ tình dục đồng thuận, nhưng không phải lúc nào cũng là quan hệ tình dục được mong muốn. Vì vậy, không phải cứ là vợ chồng thì đương nhiên chồng được quan hệ và vợ phải chiều chồng, mà cần có sự mong muốn và đồng thuận của đôi bên. Hành vi ép buộc tình dục có thể xảy ra trong hôn nhân giữa vợ và chồng, kể cả khi ly thân, ly hôn và ngay cả trong tình yêu giữa bạn tình với nhau. Bạo lực tình dục được định nghĩa là: hành vi sử dụng vũ lực, cưỡng bức hoặc chấn áp về tâm lý nhằm ép buộc một người phụ nữ quan hệ tình dục ngoài ý muốn cho dù có đạt mục đích hay không. Bạo lực tình dục bao gồm hiếp dâm, quấy rối tình dục và các hình thức bạo lực tình dục khác trong hôn
- nhân mà đối tượng gây ra là các thành viên trong gia đình, người quen, cưỡng ép kết hôn, cưỡng ép làm nghề mại dâm, chủ thể của hành vi bạo lực tình dục thường xử dụng vũ lực để ép buộc người kia có quan hệ tình dục, hoặc hành vi cố lôi kéo họ vào hoạt động tình dục ngay cả khi họ không có khả năng tử chối bởi các lý do như: sức khỏe, bị ảnh hưởng của chất kích thích, chưa đủ năng lực để hiểu biết về hậu quả của quan hệ tình dục đó, hoặc sự hăm doa, quấy rối tình dục. Trong Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 của Việt Nam cũng có nêu rõ “...cưỡng ép quan hệ tình dục” cũng là một trong những hành vi bạo lực gia đình. Chúng ta có thể xác định bạo lực tinh dục qua một số hành vi cụ thể sau: Đùa cợt về phụ nữ và về tình dục trước mặt nạn nhân; Xem phụ nữ như một đồ vật để thỏa mãn; Làm mất cảm xúc và nhu cầu sinh lý của nạn nhân; Sờ mó bộ phận sinh dục của nạn nhân khi nạn nhân không đồng ý; Sử dụng những hình thức quan hệ tình dục gây đau đớn; Sử dụng những lời lẽ liên quan tới dục tính gây khó chịu về tâm lý; Cưỡng ép thực hiện hành vi khiêu dâm, các thuốc kích dục; Ép buộc quan hệ tình để làm nhục, gây đau; Buộc cởi bỏ y phục trước mặt con cái, công chúng… Trong đời sống vợ chồng ở nhiều gia đình, hôn nhân được hiểu như là sự cho phép người đàn ông có quyền tiếp cận tình dục với người vợ vô điều kiện và họ có sức mạnh để củng cố sự tiếp cận này thông qua cưỡng bức nếu thấy cần thiết. Không ít phụ nữ khi không đồng ý quan hệ với chồng đã bị chồng chì chiết, chửi mắng thậm tệ. Bị bạo hành về tình dục khiến cho người phụ nữ cảm giác như mình chỉ là công cụ giải quyết sinh lý của chồng nên họ cảm thấy sợ mỗi khi gần gũi chồng. Trong quan hệ “phòng the” lẽ ra người phụ nữ có quyền được trân trọng thì trái lại bị tước đi quyền làm vợ,
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Khóa luận tốt nghiệp: Hoạt động truyền thông phòng chống bạo lực gia đình tại Trung tâm Phụ nữ & Phát triển từ năm 2007 đến nay
13 p | 179 | 32
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
72 p | 64 | 26
-
Khoá luận tốt nghiệp Công tác xã hội: Công tác xã hội trong phòng chống xâm hại tình dục trẻ em tại Trường Tiểu học và Trung học cơ sở Đức Xuân)
76 p | 47 | 25
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Tình huống truyện trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
89 p | 36 | 21
-
Khoá luận tốt nghiệp: Hoạt động phòng chống khủng bố của các quốc gia Đông Nam Á từ sau chiến tranh lạnh đến nay
85 p | 42 | 16
-
Khóa luận tốt nghiệp Giáo dục tiểu học: Bệnh béo phì và tích hợp giáo dục sức khỏe phòng chống bệnh béo phì cho học sinh Tiểu học
100 p | 60 | 16
-
Khóa luận tốt nghiệp: Tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong thi hành công vụ theo Bộ luật hình sự Việt Nam hiện nay
65 p | 22 | 14
-
Khoá luận tốt nghiệp: Công tác xã hội trong phòng chống xâm hại tình dục trẻ em tại Trường Tiểu học và Trung học cơ sở Đức Xuân)
76 p | 30 | 13
-
Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu bệnh do ấu trùng Cys. Cellulosae gây ra ở lợn (bệnh gạo lợn) tại huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La
52 p | 36 | 11
-
Khoá luận tốt nghiệp Đại học: Nghiên cứu bệnh do ấu trùng Cys. Cellulosae gây ra ở lợn (bệnh gạo lợn) tại huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La
52 p | 35 | 8
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Ý thức cá nhân về tình yêu trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn
77 p | 11 | 8
-
Khoá luận tốt nghiệp Đại học: Nghiên cứu phòng trừ bệnh vàng lá cam do rầy chổng cánh và nấm gây bệnh thối rễ tại tỉnh Quảng Ninh
62 p | 41 | 8
-
Khoá luận tốt nghiệp Đại học: Thiết kế và tổ chức dạy học chuyên đề Một số bệnh dịch và cách phòng chống (Theo chương trình giáo dục phổ thông mới môn Sinh học)
123 p | 31 | 8
-
Khoá luận tốt nghiệp Đại học: Nghiên cứu bệnh do ấu trùng Cysticercus cellulosae gây ra ở lợn (bệnh gạo lợn) tại huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên
53 p | 31 | 7
-
Khoá luận tốt nghiệp: Tổ chức và hoạt động của Thanh tra thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình
69 p | 9 | 5
-
Khoá luận tốt nghiệp: Tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện từ thực tiễn huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh
80 p | 11 | 5
-
Khóa luận tốt nghiệp: Tổ chức và hoạt động của thanh tra huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh
65 p | 7 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn