Khóa luận tốt nghiệp: Ý thức phái tính trong thơ nữ Việt Nam đương đại
lượt xem 3
download
Mục tiêu của đề tài là làm rõ những biểu hiện của ý thức phái tính trong thơ nữ Việt Nam đương đại ở phương diện nội dung và hình thức; thấy được đóng góp của các cây bút nữ đối với thi đàn Việt Nam đương đại; bước đầu tập rượt nghiên cứu khoa học nhằm rèn luyện kĩ năng nghề nghiệp của bản thân người viết.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp: Ý thức phái tính trong thơ nữ Việt Nam đương đại
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ***************** NGUYỄN THỊ THUẬN Ý THỨC PHÁI TÍNH TRONG THƠ NỮ VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam HÀ NỘI – 2018
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ***************** ** NGUYỄN THỊ THUẬN Ý THỨC PHÁI TÍNH TRONG THƠ NỮ VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Người hướng dẫn khoa học TS. NGUYỄN THỊ TUYẾT MINH HÀ NỘI – 2018
- LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành khóa luận này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ của các thầy, cô giáo trong khoa Ngữ văn, đặc biệt là sự quan tâm, giúp đỡ thường xuyên, tận tình của TS. Nguyễn Thị Tuyết Minh – người hướng dẫn trực tiếp. Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến các thầy, cô! Hà Nội, tháng 5 năm 2018 Tác giả khóa luận Nguyễn Thị Thuận
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp Ý thức phái tính trong thơ nữ Việt Nam đương đại là kết quả nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu trong khóa luận là trung thực và chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào. Hà Nội, tháng 5 năm 2018 Tác giả khóa luận Nguyễn Thị Thuận
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1 1.Lí do chọn đề tài .......................................................................................................1 2.Lịch sử nghiên cứu vấn đề .......................................................................................1 3. Mục đích nghiên cứu ...............................................................................................3 4. Đối tượng nghiên cứu..............................................................................................3 5. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................................3 6. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................3 7. Đóng góp của khóa luận ..........................................................................................3 8. Bố cục của khóa luận ..............................................................................................4 NỘI DUNG .................................................................................................................5 Chương 1: KHÁI QUÁT VẤN ĐỀ Ý THỨC PHÁI TÍNH TRONG THƠ VIỆT NAM TỪ TRUYỀN THỐNG ĐẾN HIỆN ĐẠI .........................................................5 1.1. Khái niệm ý thức phái tính ...................................................................................5 1.2. Ý thức phái tính trong thơ ca Việt Nam truyền thống .........................................6 1.2.1.Ý thức phái tính trong ca dao .........................................................................6 1.2.2.Ý thức phái tính trong thơ Hồ Xuân Hương ...................................................9 1.3. Ý thức phái tính trong thơ Việt Nam hiện đại ...................................................13 1.3.1. Bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa, tư tưởng Việt Nam thời hiện đại ...........13 1.3.2. Sự xuất hiện của lực lượng sáng tác nữ trên thi đàn sau 1975 ...................15 1.3.3. Ý thức khẳng định bản ngã phái tính của thơ nữ sau 1975 .........................16 Chương 2: Ý THỨC PHÁI TÍNH TRONG THƠ NỮ VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI – NHÌN TỪ GÓC ĐỘ NỘI DUNG .............................................................................18 2.1. Khái khao tình yêu và hạnh phúc .......................................................................18 2.2. Khát khao tính dục .............................................................................................22 2.3. Khát khao thiên chức .........................................................................................27 2.4. Khát khao bình đẳng, bình quyền về giới ..........................................................33 Chương 3: Ý THỨC PHÁI TÍNH TRONG THƠ NỮ VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI – NHÌN TỪ GÓC ĐỘ NGHỆ THUẬT .......................................................................39 3.1. Thể thơ ...............................................................................................................39
- 3.2. Hình ảnh .............................................................................................................42 3.3. Ngôn ngữ ............................................................................................................45 3.4. Giọng điệu ..........................................................................................................48 KẾT LUẬN ...............................................................................................................53
- MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Công cuộc đấu tranh cho bình đẳng, bình quyền đã bước đi cùng với những thăng trầm của lịch sử, xã hội Việt Nam suốt những thế kỉ qua. Trong thời gian ấy, người phụ nữ - những người xứng đáng có được công bằng, hạnh phúc đã phải chịu nhiều thiệt thòi, bất công. Người phụ nữ trong xã hội phong kiến phải sống với sự kìm kẹp của những tư tưởng cổ hủ: “tam tòng, tứ đức”, “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”… Có người cam chịu, có người dám mạnh mẽ đấu tranh. Khi chế độ phong kiến sụp đổ, lịch sử bước sang trang mới, tư tưởng xã hội thay đổi, người phụ nữ đã phần nào được cởi trói nhưng bình đẳng, hạnh phúc vẫn chưa đến bên những thân phận mỏng manh. Ngày nay, những ước vọng của phái nữ vẫn chưa được đáp ứng một cách trọn vẹn nên cuộc đấu tranh vẫn diễn ra. Văn học đã và đang góp phần vào cuộc đấu tranh đó. Trên thi đàn hiện nay, tiếng nói phái tính trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết bởi sự xuất hiện của nhiều cây bút nữ. Những nhà thơ nữ đã dùng thơ ca để thể hiện khát khao của giới mình - những ước mong đầy nữ tính, thật mãnh liệt của người phụ nữ. Họ không ngại ngần đưa cả những điều thầm kín nhất vào thơ. Họ dùng thơ như một vũ khí sắc bén để đòi quyền bình đẳng, hạnh phúc cho giới mình. Tiếng nói phái tính chưa bao giờ mãnh liệt như giai đoạn hiện nay. Vì những lí do trên chúng tôi quyết định chọn nghiên cứu đề tài: “Ý thức phái tính trong thơ nữ Việt Nam đương đại”. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Năm 2006, Hội thảo Quốc tế: “Văn học Việt Nam trong bối cảnh giao lưu văn hóa khu vực và quốc tế” có một số tham luận: Đọc lại vấn đề giới trong “Hồn bướm mơ tiên” của Khái Hưng của Ben Tran; Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam đương đại của PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp. Các tham luận này đã bàn đến vấn đề phái tính trong văn học Việt Nam. Một số luận án, luận văn chọn nghiên cứu về ý thức phái tính trong thơ, tiêu biểu như: 1
- Luận văn thạc sĩ “Về một đặc điểm tư duy thơ nữ gần đây: Ý thức phái tính” (Qua Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Vi Thùy Linh) của tác giả Nguyễn Thị Hồng Giang, Năm 2009, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Nguyễn Thị Hồng Giang đã chỉ ra những đặc điểm trong thơ nữ qua tác phẩm của ba nhà thơ mà cô chọn để khảo sát, đó là vấn đề bản thể và những khát khao giải phóng của phái nữ được thể hiện qua hệ biểu tượng và ngôn ngữ thi ca đặc trưng. Luận án tiến sĩ “Thơ trữ tình Việt Nam từ giữa thập kỉ 80 đến nay những đổi mới căn bản” của tác giả Đặng Thu Thủy, Năm 2009, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Đặng Thu Thủy đã phát hiện, phân tích rõ những đổi mới căn bản trong thơ ca Việt Nam từ giữa thập kỉ 80 đến nay: Đổi mới quan niệm, cảm hứng và một số phương diện hình thức nghệ thuật. Luận văn thạc sĩ “Ý thức phái tính trong thơ nữ đương đại” (Khảo sát qua hai tác giả Tuyết Nga và Phạm Thị Ngọc Liên) của tác giả Nguyễn Thị Thu Hằng, Năm 2016, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Trên cơ sở lí thuyết về phái tính và nữ quyền, luận văn đi sâu vào tìm hiểu các sáng tác của hai tác giả Tuyết Nga và Phạm Thị Ngọc Liên. Đây là hai tác giả có phong cách khác nhau nhưng đều thể một cái tôi mang thiên tính nữ với những khát khao mãnh liệt. Trần Hoàng Thiên Kim có một số bài báo về thơ nữ đương đại: “Thơ nữ trẻ đương đại quan niệm, thể nghiệm và xu hướng”, 2012, Báo Văn nghệ quân đội; “Thơ nữ Việt Nam đương đại: Những giá trị vĩnh cửu”, 2015, Tạp chí điện tử Văn hiến Việt Nam; “Thơ nữ trẻ đương đại và hành trình tìm kiếm cái tôi mới”, 2015, Báo Văn nghệ quân đội… Trần Hoàng Thiên Kim đã lí giải những khát khao hạnh phúc và nỗi cô đơn của người phụ nữ trong xã hội đương đại. Ngoài ra còn có một số bài báo nhỏ, lẻ khác bàn về thơ nữ đương đại… Nhìn chung, những công trình nghiên cứu trên đã ít nhiều bàn về ý thức phái tính trong thơ nữ, nhưng chưa có một công trình nào nghiên cứu về vấn đề ý thức phái tính trong thơ nữ đương đại ở phạm vi các tác giả mà chúng tôi lựa chọn. Đó là khoảng trống của đề tài khóa luận, là lí do chúng tôi đi sâu nghiên cứu. 2
- 3. Mục đích nghiên cứu - Làm rõ những biểu hiện của ý thức phái tính trong thơ nữ Việt Nam đương đại ở phương diện nội dung và hình thức. - Thấy được đóng góp của các cây bút nữ đối với thi đàn Việt Nam đương đại. - Bước đầu tập rượt nghiên cứu khoa học nhằm rèn luyện kĩ năng nghề nghiệp của bản thân người viết. 4. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là Ý thức phái tính trong thơ nữ Việt Nam đương đại. 5. Phạm vi nghiên cứu Chúng tôi tập trung vào các tác giả, tác phẩm sau đây: - Vi Thùy Linh với 3 tập thơ: Khát, Đồng Tử, Linh - Bình Nguyên Trang với tập thơ Những người đàn bà trở về - Ngô Thị Hạnh với tập thơ Nắng từ những ngón chân - Phạm Thị Ngọc Thanh với tập thơ Khi mình đi qua nhau - Lai Ka với hai tập thơ Trái tim có nắng và Anh ấy đến rồi em ngừng nhớ anh thôi. 6. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp hệ thống Phương pháp so sánh Phương pháp liên ngành Phương pháp phân tích – tổng hợp 7. Đóng góp của khóa luận - Về mặt lí luận: Làm sáng tỏ những biểu hiện của ý thức phái tính trong thơ nữ Việt Nam đương đại - Về mặt thực tiễn: Góp phần làm phong phú thêm nguồn tư liệu giúp cho việc tìm hiểu, nghiên cứu thơ Việt Nam đương đại. 3
- 8. Bố cục của khóa luận Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, khóa luận gồm 3 chương chính: Chương 1: Khái quát vấn đề ý thức phái tính trong thơ Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại Chương 2: Ý thức phái tính trong thơ nữ Việt Nam đương đại – Nhìn từ góc độ nội dung Chương 3: Ý thức phái tính trong thơ nữ Việt Nam đương đại – Nhìn từ góc độ nghệ thuật 4
- NỘI DUNG Chương 1 KHÁI QUÁT VẤN ĐỀ Ý THỨC PHÁI TÍNH TRONG THƠ VIỆT NAM TỪ TRUYỀN THỐNG ĐẾN HIỆN ĐẠI 1.1. Khái niệm ý thức phái tính Phái tính = phái (gender) + giống/giới/giới tính (sex). Theo John J Macionis trong cuốn Xã hội học: “Giống phái ám chỉ sự phân chia con người thành những nhóm sinh học gồm nam và nữ” [13, 384]. Phái tính có thể hiểu là giới tính (sex) chỉ ra sự khác biệt về sinh lí giữa nam và nữ, giữa giống đực và giống cái. Từ góc độ sinh học, ta biết một đứa trẻ được sinh ra do sự kết hợp giữa tinh trùng của bố và trứng của mẹ. Trứng của người mẹ mang một nhiễm sắc thể quy định giới tính duy nhất là X, tinh trùng của người bố có hai loại (mang nhiễm sắc thể giới tính X và Y). Sự kết hợp của tinh trùng và trứng sẽ tạo nên cặp nhiễm sắc thể XX (con gái), và XY (con trai). Các cặp nhiễm sắc thể này là sự quy định về giới tính - nguồn gốc của phái tính. Khi đứa trẻ đến tuổi dậy thì những biểu hiện về giới tính sẽ dần xuất hiện, nam nữ phân biệt rõ ràng hơn. Phái tính còn là sự ý thức của chính chủ thể. Đó là sự tự ý thức về bản thân mình, về giới tính của mình. Điều này bị ảnh hưởng, chi phối bởi xã hội, môi trường sống, các điều kiện về kinh tế, chính trị, đặc biệt là giáo dục. Những điều đó làm cho mỗi người ý thức rõ hơn về mình. Và ý thức về giới cũng từ đó hình thành và phát triển theo thời gian. Ở ý thức cao hơn, phái tính còn chứa đựng cả những yếu tố trội để xác định quyền bình đẳng giới. Trong các lĩnh vực khác nhau, người ta khẳng định quyền bình đẳng giới theo những cách khác nhau. Đối với văn chương nghệ thuật, tác phẩm chính là nơi để tác giả thể hiện tiếng nói về giới của mình. Ý thức, theo triết học Mac-Lênin, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, phản ánh vào bộ óc con người thông qua quá trình lao động, trải nghiệm, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội, là một hiện tượng xã hội. Như vậy, ý thức phái tính là quá trình con người tự nhận thức về giới của mình, từ đó xác lập quyền bình đẳng giới. 5
- Trong mối quan hệ với giới tính, khái niệm phái tính mang nội hàm rộng hơn, bao quát hơn, xét về một góc độ nào đó, nó gần với khái niệm “giới” của xã hội học. Trong nhiều nghiên cứu gần đây, khái niệm phái tính thường được gắn liền với ý thức nữ quyền. Nhìn chung vấn đề ý thức phái tính được xác lập từ bình diện cá nhân, sau đó nâng lên thành ý thức nữ quyền của toàn thể giới nữ. Trong thơ ca Việt Nam đương đại, vấn đề ý thức phái tính ngày càng nổi rõ như một dòng chảy mạnh mẽ, ấn tượng trong các sáng tác của các nhà thơ nữ. 1.2. Ý thức phái tính trong thơ ca Việt Nam truyền thống 1.2.1. Ý thức phái tính trong ca dao Ca dao là những lời ca đa sắc xuất phát từ đáy lòng sâu thẳm, từ đời sống lao động, sinh hoạt hằng ngày của người bình dân trong xã hội xưa. Trong bao nhiêu khắc khoải, than thân, trách thận, vui buồn của những lời ca dao ấy, ta thấy hiện lên ý thức về phái tính của người phụ nữ. Những người phụ xưa đã mượn lời ca mộc mạc, bình dị để nói lên ý thức về thân phận mình, những ước mong, khát vọng của mình. Trước hết, ta thấy hiện lên trong ca dao là sự tự ý thức về thân phận của những người phụ nữ. Họ ý thức được giá trị, nhan sắc, nhân phẩm của mình, đồng thời họ cũng ý thức rõ ràng rằng, phận mình bị lệ thuộc vào lễ giáo phong kiến, vào những hủ tục, vào cha mẹ, vào những người đàn ông. Lễ giáo phong kiến với những quy định ngặt nghèo buộc người phụ nữ phải tuân theo. Phụ nữ không được tự quyết định hạnh phúc của mình. Vì thế những lời ca than thân cứ ai oán bao đời: “Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai” “Thân em như củ ấu gai Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen Ai ơi nếm thử mà xem Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi” Hay: “Thân em như giếng giữa đàng 6
- Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân” Mỗi lần hai tiếng “thân em” được thốt lên là mỗi lần nỗi đau thân phận nhói lên trong trái tim những người phụ nữ. Họ ý thức được mình có nhan sắc “như tấm lụa đào” mềm mại, tươi trẻ tuổi xuân; có nhân phẩm, vẻ đẹp cốt cách bên trong “ruột trong thì trắng”, “ngọt bùi”; có sự tươi mát, trong sáng như “giếng giữa đàng”… Nhưng dù thế, thân phận họ vẫn là thân phận phụ thuộc. Hạnh phúc của họ chênh vênh, vô định, giống như “tấm lụa đào” kia “phất phơ giữa chợ” chẳng biết rồi sẽ “vào tay ai”. Cuộc đời họ may ra thì được sung sướng như giếng được “người khôn rửa mặt”, nếu gặp phải “người phàm rửa chân” chắc cũng âm thầm chịu đựng bế tắc mà thôi. Tiếng nói thân phận còn hiện lên ở những lời ca nói về việc bị ép duyên, người phụ nữ lấy chồng phải theo ý mẹ cha: “Mẹ em tham thúng xôi rền Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh Hưng Em đã bảo mẹ rằng đừng Mẹ hấm, mẹ hứ mẹ bưng ngay vào Bây giờ chồng thấp vợ cao Như đôi đũa lệch so sao cho bằng” Lấy chồng là chuyện cả đời. Hôn nhân chỉ hạnh phúc khi hai bên đến với nhau vì tình yêu, vì sự thấu hiểu lẫn nhau, có ước nguyện sống cùng nhau. Nhưng cuộc hôn nhân hiện lên trong bài ca dao trên, rõ ràng là một cuộc hôn nhân sắp đặt, hôn nhân trên cơ sở của tiền bạc, vật chất. Vậy liệu rằng người con gái được gả đi có hạnh phúc không? Tiền bạc, của cải liệu có mang lại cho họ một cuộc sống gia đình trọn vẹn không? Lịch sử đã trả lời rất rõ ràng về điều đó. Hơn nữa, cũng chính số phận phụ thuộc mà người phụ nữ trong ca dao đôi khi phải rơi vào kiếp chung chồng: “Gió đưa bụi chuối sau hè Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ Con thơ tay ẵm tay bồng Tay dắt mẹ chồng, đầu đội thúng bông” 7
- Người phụ nữ phải chịu cảnh chung chồng bao tủi khổ, tình cảm phải sẻ chia, phải một mình chăm lo con cái. Nhưng đau đớn hơn cả là kiếp làm lẽ. Chẳng ai có thể thấu hết những đau đớn, tủi nhục của kiếp lẽ mọn bằng chính người phụ nữ mang phận vợ lẽ. Họ chỉ còn biết dùng ca dao để tỏ bày nỗi lòng mình: “Thân em làm lẽ chẳng nề Đâu như chánh thất mà lê lên giường Tối tối chị giữ mất chồng Chị cho manh chiếu nằm suông chuồng bò” Và còn: “Thân em làm lẽ vô duyên Mỗi ngày một trận đòn ghen tơi bời Ai ơi ở vậy cho rồi Còn hơn làm lẽ, chồng người khổ ta” Quả thực, tình yêu là không thể san sẻ. Hạnh phúc vợ chồng chẳng thể có người thứ ba xen vào. Chế độ đa thê xưa đã làm bao người phụ nữ phải đau khổ một đời. Người phụ nữ trong ca dao không chỉ ý thức về thân phận mình mà còn lên tiếng đấu tranh. Tuy sự đấu tranh của họ chưa đủ mạnh mẽ, sự phản kháng còn yếu ớt nhưng đó thực sự là điều đáng quý, đáng trân trọng. Những người phụ nữ nhắn nhủ nhau: “Đói lòng ăn nắm lá sung Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng” Hay: “Chồng con là cái nợ nần Thà rằng ở vậy nuôi thân béo mầm” Cùng với việc tự ý thức về phận mình và đấu tranh cho hạnh phúc, những người phụ nữ còn gửi gắm vào ca dao bao sự khát khao: khát khao tình yêu, khát vọng được sống tự chủ, bình quyền. Những khát khao này là hệ quả tất yếu của sự ý thức và đấu tranh ở trên. 8
- 1.2.2. Ý thức phái tính trong thơ Hồ Xuân Hương Xuân Diệu đã từng viết: “Trong văn học Việt Nam có một nhà thơ kể về độc đáo thì đứng vào bậc nhất, mà lại hai lần độc đáo, vì đó là một phụ nữ sống dưới chế độ phong kiến xưa. Tên người ấy là Hồ Xuân Hương. “Ví đây đổi phận làm trai được”, thực sự là nàng đã làm trai rồi, ngay trong chế độ cũ. Hương ngát của mùa xuân; tên đẹp của nàng không sai chút nào cả; một cái tên kì diệu, sừng sững trong làng thơ Việt Nam xưa nay” [18, 91]. Thật vậy, Hồ Xuân Hương thực sự là nữ thi sĩ độc đáo của thời đại phong kiến. Đó là thời đại nhiều hủ tục lạc hậu, phụ nữ bị coi thường, không được học hành, không có tiếng nói, bị lệ thuộc vào đủ điều như “tam tòng, tứ đức”, “công, dung, ngôn, hạnh”… Tất cả đã khiến họ quẩn quanh, bế tắc, bao khát khao bị vùi chôn đi. Hồ Xuân Hương không chấp nhận sống cuộc đời bị kìm kẹp ấy mà có ý thức rõ ràng về phận mình, có những khát khao và phản kháng mãnh liệt. Đó chính là ý thức phái tính được thể hiện cụ thể qua những vần thơ sắc sảo, đặc biệt là mảng thơ Nôm. Thơ Hồ Xuân Hương đã thể hiện được ý thức phái tính của những người phụ nữ trong xã hội xưa. Trước hết, đó là sự ý thức, đồng thời ngợi ca vẻ đẹp ngoại hình, nhân phẩm của người phụ nữ. Bà sớm nhận thức được vẻ đẹp của mình và của giới mình: “Thân em vừa trắng lại vừa tròn, Bảy nổi ba chìm với nước non. Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn, Mà em vẫn giữ tấm lòng son.” (Bánh trôi nước) Bài thơ đã vẽ lên một bức tranh trọn vẹn về người phụ nữ với cả vẻ đẹp ngoại hình và nhân cách. Người phụ nữ “vừa trắng lại vừa tròn”, đó là vẻ đẹp đầy đặn, làn da trắng quyến rũ. Người phụ nữ ấy lại có cả “tấm lòng son” vững bền dù cuộc đời nhiều chìm nổi. Ở một bài thơ khác, Xuân Hương cũng cho ta thấy người thiếu nữ hiện lên thật quyến rũ: 9
- Đôi gò Bồng đảo sương còn ngậm, Một lạch Đào nguyên nước chửa thông.” (Thiếu nữ ngủ ngày) Chỉ với hai câu thơ, Hồ Xuân Hương đã làm hiện lên trước mắt ta là thân thể người con gái thanh tân, tươi mới. “Đôi gò Bồng đảo”, “một lạch Đào nguyên” kia đều còn trinh nguyên, đều rất đẹp. Bức tranh này làm ta liên tưởng đến bức tranh của Nguyễn Du miêu tả cảnh Thúy Kiều tắm: “Buồng the phải buổi thong dong Thang lan rủ bức trướng hồng tẩm hoa Rõ ràng trong ngọc, trắng ngà Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên” (Truyện Kiều – Nguyễn Du) Nhưng nếu Nguyễn Du còn phải bày biện ra một buổi tắm, ở đó thân thể Thúy Kiều hiện lên sau bức mành, thì Xuân Hương không cần che đậy gì hết. Bà tả vẻ đẹp cơ thể người phụ nữ giữa ban ngày, vào một buổi trưa hè gió mát và “Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng”. Xuân Hương còn ngợi ca vẻ đẹp của người phụ nữ ở nhiều bài thơ khác. Đặc biệt bà sẵn sàng phô bày những nét thanh tân trên cơ thể người thiếu nữ vì theo quan niệm của bà, cơ thể người phụ nữ chính là cái đẹp. Không dừng lại ở đó, những vần thơ của Xuân Hương còn cho thấy sự ý thức về những nỗi khổ của người phụ nữ xưa từ đó lên án xã hội phong kiến đã chà đạp lên người phụ nữ, coi thường phụ nữ. Trong xã hội cũ, con người phải chịu bao nỗi khổ, mà khổ nhất vẫn là người phụ nữ. Nguyễn Du, một nhà thơ nam viết về số phận người phụ nữ đã hơn một lần thốt lên rằng: “Đau đớn thay phận đàn bà” Ở Văn chiêu hồn, Nguyễn Du kêu lên: “Đau đớn thay phận đàn bà Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu” Trong Truyện Kiều, tiếng lòng đau nhói lại vang lên lần nữa: 10
- “Đau đớn thay phận đàn bà Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” Bản thân Hồ Xuân Hương là một phụ nữ, cuộc đời đã phải chịu biết bao thiệt thòi, cay đắng. Hơn ai hết, bà ý thức một cách rõ ràng về nỗi khổ của những người phụ nữ và lên tiếng đấu tranh mạnh mẽ trước những oan nghiệt của số phận. Hồ Xuân Hương đã đay nghiến kiếp chung chồng: “Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng Chém cha cái kiếp lấy chồng chung” (Làm lẽ - Hồ Xuân Hương) Hình tượng thơ gợi đến chuyện chăn gối, hạnh phúc lứa đôi. “Kẻ đắp chăn bông” ấm bao nhiêu thì kẻ “nằm suông nhà ngoài” lạnh bấy nhiêu. Cái lạnh ở đây không còn là cái lạnh của thể xác nữa mà đã trở thành nỗi lạnh của tinh thần, “lạnh lùng”. Hồ Xuân Hương đã lên án chế độ đa thê trong xã hội phong kiến “chém cha cái kiếp lấy chồng chung”. Không chỉ khổ ở việc chung chồng, người phụ nữ còn khổ ở sự “dở dang”: “Cả nể cho nên sự dở dang Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc Phận liễu sao đà nảy nét ngang” (Không chồng mà chửa) Bài thơ nói về người phụ nữ không có chồng nhưng lại có thai. Bào thai ấy là kết quả tưởng như ngọt ngào của tình yêu, nhưng thực ra lại hết sức cay đắng bởi chàng trai đã phủi bỏ trách nhiệm, đã “quất ngựa truy phong” để lại cô gái một mình mang tủi khổ. Cái thai của cô không được xã hội phong kiến chấp nhận. Miệng đời cay nghiệt, thế gian khôn cùng trút lên cô bao khinh thị, xem thường, ghét bỏ. Xuân Hương đứng về phía cô gái ấy, lên tiếng bênh vực cho người phụ nữ: “Quản bao miệng thế lời chênh lệch Không có nhưng mà có mới ngoan” [18, 24] 11
- Từ việc ý thức rõ về số phận của người phụ nữ, Hồ Xuân Hương đã nói lên những khát khao của họ. Đó là những khát khao về tình yêu, hạnh phúc và cả những khát khao dục tính, bản năng: “Thân em như quả mít trên cây Vỏ nó xù xì, múi nó dày Quân tử có thương thì đóng cọc Xin đừng mân mó nhựa ra tay” (Quả mít) Hồ Xuân Hương ví phụ nữ như “quả mít” với vẻ ngoài xấu xí nhưng bên trong lại thơm ngon, ngọt ngào. Ấy là những người phụ nữ xấu người đẹp nết, phẩm hạnh cao quý. Họ mong muốn người “quân tử” đừng xem phụ nữ như một trò chơi, như gió thoảng hoa bay bên đường, đừng đùa dỡn rồi nhanh chóng lãng quên, mà hãy trao cho họ tình yêu, sự quan tâm chân thành nhất. Ở một bài thơ khác: “Bác mẹ sinh ra phận ốc nhồi Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi Quân tử có thương thì bóc yếm Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi” (Ốc nhồi) Xuân Hương ví thân phận người phụ nữ như “phận ốc nhồi”, suốt cuộc đời phải chịu bao vất vả, thiệt thòi. Người “quân tử” hãy yêu thương, san sẻ những nhọc nhằn cùng họ. Dù sử dụng những hình ảnh khác nhau, nhưng cuối cùng nhà thơ đều hướng đến thân phận và khát khao của người phụ nữ xưa. Khát khao dục tính là điều thường thấy trong thơ Hồ Xuân Hương. Có nhiều ý kiến tranh cãi thơ Hồ Xương là dâm hay không. Thực ra, việc tranh cãi là không cần thiết. Mỗi bài thơ của bà đều ẩn chứa nhiều tầng nghĩa, hiểu như thế nào là do người đọc. “Tính dục” là yếu tố bản năng của con người, không đánh giá nó là dâm hay không. Hồ Xuân Hương, qua thơ mình, đã nói một cách sâu sắc những khát khao thầm kín của người phụ nữ. 12
- Thơ Xuân Hương còn thể hiện khát khao bình quyền: “Ví đây đổi phận làm trai được Thì sự anh hùng há bấy nhiêu” (Đề đền Sầm Nghi Đống) Sầm Nghi Đống là một võ tướng của nhà Thanh, cùng Tôn Sĩ Nghị mang 29 vạn quân sang xâm lược nước ta. Chúng bị vua Quang Trung đánh cho bại trận. Sầm Nghi Đống thất trận, cùng kế phải thắt cổ tự tử. Hắn được Hoa kiều lập đền thờ ở một hẻm thuộc Thăng Long. Nếu như hai câu thơ đầu nữ sĩ tả ngôi đền và nói lên sự khinh miệt của mình thì hai câu cuối, bà nêu lên một giả định so sánh để bình giá cái “sự anh hùng”, cái nhân cách quá tầm thường của tên tướng Thiên triều bại trận. Ý thơ còn biểu lộ một khát vọng về quyền nam nữ bình đẳng của người đàn bà nước Nam. Xã hội phong kiến rất coi thường phụ nữ, thế mà Xuân Hương lại dám đem mình ra so sánh với quan Thái thú phương Bắc. Câu hỏi tu từ với ba tiếng “há bấy nhiêu” cho thấy bà đã bĩu môi châm biếm nhân cách tầm thường, cách ứng xử đê hèn của một viên tướng trong vòng tên đạn, gươm giáo. Hai câu thơ phản ánh một tâm thế đàng hoàng, tự tin về tài năng, phẩm hạnh của người phụ nữ Việt Nam. Như vậy, Hồ Xuân Hương đã thể hiện được những khát khao phái tính của giới nữ. “Cái tích cực nhất, giá trị của Xuân Hương là đả kích xã hội thối nát với tất cả uất giận của mình, bằng tất cả tài năng của mình. Sức mạnh của sự phản ứng có nguyên do trong sức mạnh của sự áp bức, và giới phụ nữ bị áp bức nhiều nhất thì khi họ vùng lên càng không thể “mực thước” [18, 160]. Xuân Hương đã nói được tiếng nói của nhiều người phụ nữ. 1.3. Ý thức phái tính trong thơ Việt Nam hiện đại 1.3.1. Bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa, tư tưởng Việt Nam thời hiện đại Bước sang thời hiện đại, bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam đã có nhiều thay đổi. Với sự xâm lược của thực dân Pháp vào năm 1858, nước ta trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. Các phong trào đấu tranh chống Pháp diễn ra quyết liệt. Theo đó, như một sự tất yếu của lịch sử, Đảng cộng sản Việt Nam đã ra đời năm 1930, trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Quân và dân ta đã làm nên cuộc cách mạng tháng Tám năm 13
- 1945 lẫy lừng mang lại độc lập tự do cho dân tộc. Cách mạng tháng Tám cũng đồng thời xóa bỏ hoàn toàn chế độ phong kiến tồn tại hơn mười thế kỉ ở nước ta. Sau đó, đất nước thân yêu hình chữ S lại tiếp tục 30 năm kháng chiến trường kì chống lại hai kẻ thù rất mạnh là thực dân Pháp và đế quốc Mĩ. Cuối cùng, đại thắng mùa xuân năm 1975 đã mang đến hòa bình, độc lập, thống nhất cho toàn dân tộc, Bắc- Nam thu về một mối. Cùng với sự thay đổi về bối cảnh lịch sử xã hội là sự thay đổi về văn hóa tư tưởng. Văn hóa phương Tây ảnh hưởng ngày càng mạnh mẽ ở nước ta. Chữ Hán và chữ Nho mất dần vị thế, thay vào đó là sự ra đời và lên ngôi của chữ Quốc ngữ. Trong xã hội ấy, những xung đột giữa cái “cũ” và cái “mới” trong tư tưởng, nếp nghĩ, lối sống diễn ra gay gắt và cái “mới” đã thắng thế. Hệ tư tưởng phong kiến mà nòng cốt là tư tưởng Nho giáo mất dần địa vị thống trị. Hệ tư tưởng phương Tây du nhập và ngày càng có ảnh hưởng rộng rãi trong các tầng lớp trí thức và thị dân. Hệ tư tưởng vô sản được truyền bá rộng rãi trong quần chúng lao động và trở thành ngọn cờ tư tưởng của phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Trên hết là chủ nghĩa yêu nước, một truyền thống văn hóa lâu đời của dân tộc Việt Nam vẫn tiếp tục phát triển, quy tụ mọi tư tưởng tiến bộ để giải phóng đất nước. Như vậy, đất nước đã thay đổi, hệ tư tưởng phong kiến lỗi thời lạc hậu được xóa bỏ và người phụ nữ đã phần nào được cởi trói. Người phụ nữ trong xã hội Việt Nam thời hiện đại không còn phải chịu những áp bức, bị coi thường như thời phong kiến nữa. Phụ nữ dần dần được tôn trọng hơn, được bình đẳng hơn, được sống là chính mình. Sự thay đổi về bối cảnh lịch sử xã hội văn hóa tư tưởng đã tác động mạnh mẽ đến nội dung và hình thức phản ánh của văn học. Thơ mới, tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đã có nói lên những tiếng nói bênh vực phụ nữ. Tiếp đó là các cây bút nữ như Xuân Quỳnh, Ý Nhi, Phan Thị Thanh Nhàn, Đoàn Thị Lam Luyến, Nguyễn Thị Hồng Ngát, Lâm Thị Mỹ Dạ, Thúy Bắc, Lê Thị Mây... Thu Nguyệt, Tuyết Nga, Lê Thị Kim, Đỗ Bạch Mai, Thảo Phương, Phi Tuyết Ba, Nguyễn Thị Thúy Quỳnh, Đoàn 14
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP NGÀNH QUẢN TRỊ KINH DOANH
13 p | 2487 | 691
-
Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng hoạt động marketing công ty TNHH TM-SX Thuốc Thú y Gấu Vàng
66 p | 302 | 78
-
Khóa luận tốt nghiệp: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu tân dược và nguyên liệu sản xuất thuốc tân dược tại công ty cổ phần xuất nhập khẩu y tế Việt Nam
103 p | 315 | 54
-
Khóa luận tốt nghiệp: Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu: lý thuyết và ý nghĩa thực tiễn với các doanh nghiệp xuất khẩu tại Việt Nam
110 p | 165 | 34
-
Khóa luận tốt nghiệp: Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu: kinh nghiệm của các nước và ý nghĩa thực tiễn với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam
136 p | 205 | 29
-
Tóm tắt khóa luận tốt nghiệp: Ẩm thực truyền thống của người dao Thanh Y ở xã Nam Sơn, huyện Ba Chẽ, tỉnh Quảng Ninh
10 p | 158 | 22
-
Khóa luận tốt nghiệp Bác sĩ y khoa: Nghiên cứu đặc điểm rối loạn lipid máu ở bệnh nhân hội chứng mạch vành cấp tại Bệnh viện Đa khoa Thành phố Cần Thơ năm 2021
86 p | 22 | 15
-
Khóa luận tốt nghiệp Quản trị kinh doanh: Giải pháp nâng cao hiệu quả chiến lược marketing tại Công ty TNHH Thuốc Thú y Á Châu
93 p | 26 | 10
-
Khóa luận tốt nghiệp Bác sĩ y khoa: Khảo sát mối liên quan giữa nồng độ NT-proBNP huyết tương và mức độ nặng của bệnh nhân đợt mất bù cấp suy tim mạn tại Bệnh viện Đa khoa Thành phố Cần Thơ năm 2021
81 p | 24 | 9
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: “Ý”, “tình”, “hình”, “nhạc” trong thơ Nguyễn Bính
92 p | 20 | 9
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Ý thức cá nhân về tình yêu trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn
77 p | 11 | 8
-
Khóa luận tốt nghiệp ngành Y đa khoa: Thực trạng và yêu cầu về đào tạo liên tục cho nhân viên y tế tại Bệnh viện Y Dược Cổ truyền Thanh Hóa giai đoạn 2016 – 2017
68 p | 66 | 8
-
Khóa luận tốt nghiệp Hóa học: Khảo sát thành phần hóa học của cao ethyl acetate của địa y Roccella Sinensis (nyl.) Hale thu hái ở Bình Thuận
53 p | 89 | 8
-
Khóa luận tốt nghiệp: Pháp luật về công ty TNHH hai thành viên trở lên và thực tiễn thực hiện pháp luật tại Công ty TNHH Vạn Hương
86 p | 16 | 7
-
Khóa luận tốt nghiệp Hóa học: Khảo sát thành phần hóa học của cao ethyl acetate của loài địa y Roccella Sinensis (nyl.) hHle thu hái ở Bình Thuận
44 p | 125 | 5
-
Khóa luận tốt nghiệp: Hoàn thiện công tác kế toán vốn bằng tiền tại Công ty TNHH Thiên Diệu
68 p | 10 | 3
-
Khóa luận tốt nghiệp Kế toán - Kiểm toán: Quy trình kiểm toán các khoản ước tính kế toán tại Công ty TNHH Kiểm toán và Tư vấn Chuẩn Việt
114 p | 2 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn