LÀM DÍNH MÀNG PHỔI BẰNG TALC
lượt xem 16
download
Đánh giá hiệu quả và độ an toàn của làm dính màng phổi bằng talc của 67 trường hợp tràn khí màng phổi (TKMP) tự phát nguyên phát sau thời gian theo dõi 2 – 4 năm. Phương pháp nghiên cứu: cắt ngang phân tích Kết quả: Sau 2 – 4 năm theo dõi 67 trường hợp TKMP tự phát nguyên phát được làm dày dính màng phổi bằng dung dịch talc bơm qua ống dẫn lưu, có 56 trường hợp (83,6%) là nam giới, 11 trường hợp (16,4%) là nữ giới, tỉ lệ mắc bệnh nam:nữ là 5,09:1, tuổi...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LÀM DÍNH MÀNG PHỔI BẰNG TALC
- LÀM DÍNH MÀNG PHỔI BẰNG TALC TÓM TẮT Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả và độ an toàn của làm dính màng phổi bằng talc của 67 trường hợp tràn khí màng phổi (TKMP) tự phát nguyên phát sau thời gian theo dõi 2 – 4 năm. Phương pháp nghiên cứu: cắt ngang phân tích Kết quả: Sau 2 – 4 năm theo dõi 67 trường hợp TKMP tự phát nguyên phát được làm dày dính màng phổi bằng dung dịch talc bơm qua ống dẫn lưu, có 56 trường hợp (83,6%) là nam giới, 11 trường hợp (16,4%) là nữ giới, tỉ lệ mắc bệnh nam:nữ là 5,09:1, tuổi trung bình là 28,7. (từ 17 – 45 tuổi). Có 59 trường hợp (88,06%) TKMP lượng nhiều và 100% trường hợp TKMP xảy ra ở một bên phổi, bên phải gặp nhiều hơn bên trái (67,16% so với 32,84%). Tỉ lệ thành công của bơm talc làm dính màng phổi là 88,01% cho lần bơm talc thứ nhất và 100% cho lần thứ hai, với thời gian trung bình lưu ống dẫn lưu sau bơm bột talc là 3,15 ngày (giới hạn từ 1 – 21 ngày). Tỉ lệ TKMP tái phát sau thời gian theo dõi 2 – 4 năm là 10,45%. Ba biến chứng sớm thường gặp là đau ngực (53,73%), sốt (28,36%) xảy ra trong vòng 4 giờ đầu tiên và ho khan (31,34%) xảy ra trong 4 – 12 giờ sau bơm talc màng phổi. Biến chứng muộn (38,81%) th ường gặp trong thời gian theo dõi 2
- – 4 năm là đau ngực và cảm giác khó thở khi gắng sức, nhưng không gây ảnh hưởng đáng kể đến sinh hoạt và làm việc hàng ngày của bệnh nhân. Đồng thời, chúng tôi không ghi nhận xảy ra những biến chứng trầm trọng (suy hô hấp cấp, tụt huyết áp, mủ màng phổi,... kể cả tử vong) sau bơm dung dịch talc làm dính màng phổi. Kết luận: Làm dày dính màng phổi bằng talc hiệu quả cao và an toàn trong điều trị tràn khí màng phổi tự phát nguyên phát. ABSTRACT Objective: to evaluate the effect and safe of pleurodesis by talc of 67 cases of primary spontaneous pneumothorax in a 2 – 4 year monitoring period. Method: analytical crossed sectional study Result: In a 2 – 4 year monitoring period, 67 cases of primary spontaneous pneumothorax were performed pleurodesis by inserting talc suspension through drainage chest tube. There were 56 male (83.6%) and 11 female (16. 4%) patients. The incidence ratio of male / female was 5.09 / 1. The average age was 28.7 (range, 17 to 45). There were 59 cases of large pneumothorax (88,06%), and 100% cases of pneumothorax occurred at an unilateral lung, more in right side than in left side (67,16% versus 32,84%). Rate of success of talc pleurodesis was 88.01% in the first time and 100% in the second time, with an average duration of drainage
- chest tube was 2.94 days (range, 1 to 21). A 2 – 4 year monitoring period after talc pleurodesis, there was 10.45% cases with recurrent pneumothorax. Three early complicated symptoms were chest pain (53.73%), fever (28.36%) in the first four - hour time and cough (31.34%) in a 4 – 12 hour time after talc pleurodesis. The late complications (38.81%) in a 2 – 4 year monitoring period were chest pain and dypsnea, only occurred after working more, but they didn’t influence patient’s activities significantly. Simultaneously, we haven’t detected any severe complications (acute respiratory failure, hypotensio n, and empyema...even death) after talc pleurodesis. ĐẶT VẤN ĐỀ Tràn khí màng phổi tự phát là tình trạng không khí tràn vào khoang màng phổi gây xẹp một phần hay toàn bộ nhu mô phổi, mà nguyên nhân có thể do nguyên phát (không tìm thấy bệnh lý ở phổi) hoặc do thứ phát (xảy ra sau một bệnh lý cơ bản ở phổi)(1,2,3,12,13,16,23). Theo thống kê của hiệp hội lồng ngực Hoa Kỳ, hàng năm có trên 20.000 bệnh nhân tràn khí màng phổi tự phát nguyên phát và thứ phát nhập viện và tiêu tốn hơn 130.000.000 đô la cho vấn đều điều trị và chăm sóc(2). Theo thống kê của hiệp hội lồng ngực Anh, tỉ lệ tràn khí màng phổi tự phát cả nguyên phát và thứ phát nhập viện hàng năm là 5,8/100.000 dân đối với nữ và 16,7/100.000 dân đối với nam. Từ giữa năm 1991 – 1995, tỉ lệ tử vong hàng năm đối với nữ là 0,62/1.000.000 dân và đối với nam là 1,26/1.000.000 dân(12).
- Tràn khí màng phổi tự phát tái phát là tình trạng tràn khí màng phổi xuất hiện trở lại sau lần tràn khí màng phổi đầu tiên. Tính chất của tràn khí màng phổi tự phát thường dễ tái phát (23 – 50%) sau lần bị tràn khí màng phổi đầu tiên và tỉ lệ tái phát ở những lần tiếp theo sẽ cao hơn rất nhiều lần(19,29) nếu việc chẩn đoán và điều trị căn nguyên bệnh lý gây tràn khí màng phổi không chính xác và triệt để(2,3,5,11,12,13,16,19,23). Do đó, đã có nhiều phương pháp điều trị tràn khí màng phổi tự phát tái phát như làm dày dính màng phổi (pleurodesis) bằng hóa chất (Tetracycline, Doxycycline, Bleomycine, talc,...), bằng nội soi lồng ngực hoặc bằng phẫu thuật như cắt màng phổi từng phần hay toàn bộ hoặc làm trầy xước màng phổi chủ động...(2,3,5,11,12,17,20,28,32). Trong đó, qua nhiều nghiên cứu đã chứng tỏ phương pháp làm dày dính màng phổi bằng talc là hiệu quả nhất, an toàn, ít tác dụng phụ và kinh tế nhất so với các phương pháp khác(4,5,9,12,16,17,21,24,27). Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đánh giá hiệu quả điều trị, tỉ lệ tái phát và biến chứng của 67 trường hợp tràn khí màng phổi tự phát nguyên phát đã được điều trị bơm dung dịch talc làm dính màng phổi trong vòng 2 – 4 năm theo dõi tiếp sau khi bệnh nhân xuất viện. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Tất cả 67 bệnh nhân tràn khí màng phổi tự phát nguyên phát đã được bơm dung dịch talc qua ống dẫn lưu màng phổi để làm dày dính màng phổi từ 01/2002 đến 06/2004 tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch sẽ được theo dõi tiếp về hiệu quả
- điều trị và tỉ lệ tái phát trong vòng 2 – 4 năm theo kiểu cuốn chiếu cho đến khi chấm dứt nghiên cứu vào 06/2006. Loại hình nghiên cứu Nghiên cứu cắt ngang phân tích. Phương pháp tiến hành nghiên cứu Chúng tôi tiến hành theo dõi 67 trường hợp tràn khí màng phổi tự phát nguyên phát đã được bơm dung dịch talc (gồm 2 gam bột talc tinh khiết, vô trùng pha với 50 ml nước muối sinh lý hoặc nước cất) qua ống dẫn lưu màng phổi để làm dính màng phổi trong vòng 3 năm theo kiểu cuốn chiếu sau khi bệnh nhân xuất viện. Trong thời gian theo dõi, chúng tôi đánh giá hiệu quả của điều trị, tỉ lệ tràn khí màng phổi tái phát và các biến chứng sau bơm dung dịch talc làm dính màng phổi. Thống kê và xử lý số liệu Dùng phần mềm EXCEL 2003, STATA version 6.0 để nhập, quản lý và xử lý số liệu. Các biến số đ ược phân tích bằng các test thống kê thích hợp, giá trị P < 0,05 được đánh giá là có ý nghĩa thống kê. Các mối liên quan được xem xét bằng chỉ số nguy cơ tương đối (RR: Relative Risk) với độ tin cậy 95%. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
- Trong thời gian theo dõi 67 trường hợp sau bơm dung dịch talc làm dính màng phổi từ tháng 01/2002 cho đến khi chấm dứt nghiên cứu vào tháng 06/2006, kết quả nghiên cứu đã cho thấy một số đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng, hiệu quả điều trị, tỉ lệ tái phát và các biến chứng. Đặc điểm dịch tễ học Trong 67 trường hợp tràn khí màng phổi tự phát nguyên phát, có 56 trường hợp (83,6%) là nam giới, 11 trường hợp (16,4%) là nữ giới. Tỉ lệ mắc bệnh nam:nữ là 5,09:1. Tuổi trung bình là 28,7. Tuổi lớn nhất là 45 và tuổi nhỏ nhất là 17. Bảng 1: Phân bố lứa tuổi Lứa Số trường hợp tuổi (%) < 25 11 (16,42%) tuổi 25 – 35 47 (70,15%) tuổi
- > 35 9 (13,43%) tuổi Có 44 trường hợp (65,67%) cư ngụ tại thành phố Hồ Chí Minh, 23 trường hợp (34,33%) ở các tỉnh khác. Về nghề nghiệp, có 27 trường hợp (40,3%) lao động trí óc; 24 trường hợp (35,82%) lao động chân tay; 9 trường hợp (13,43%) là học sinh, sinh viên; 7 trường hợp (10,45%) làm tài xế xe tải, xe khách, xe honda ôm.... Về thói quen hút thuốc lá, trong 67 trường hợp tràn khí màng phổi tự phát nguyên phát có: - 33 trường hợp (49,25%) không hút thuốc (chiếm tỉ lệ nhiều nhất) - 25 trường hợp (37,31%) hút thuốc lá từ 1 – 2 gói/năm, - 9 trường hợp (13,43%) hút thuốc lá > 2 gói/năm. Triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng trước khi làm dính màng phổi bằng talc Bảng 2: Thời gian khởi bệnh
- Thời Số trường gian khởi bệnh hợp (%) < 3 ngày 46 (68,66%) 3 – 7 ngày 18 (26,86%) 7 ngày 3 (4,48%) Bảng 3: Triệu chứng lâm sàng lúc nhập viện Triệu Số trường hợp chứng (%) Khó thở 67 (100%) Đau ngực 63 (94,03%)
- Ho khan 39 (58,21%) và Ho khạc đàm Bảng 4: Vị trí và mức độ tràn khí màng phổi (TKMP) trên X-quang phổi Số tr.hợp (%) Bên 22 trái (32,84%) Vị trí Bên 45 TKMP phải (67,16%) Hai 0 bên (0%)
- Lượng 8 ít (11,94%) Mức độ TKMP Lượng 59 nhiều (88,06%) Kết quả điều trị và biến chứng ngay sau bơm dung dịch talc làm dính màng phổi Trong 67 trường hợp bệnh nhân tràn khí màng phổi tự phát nguyên phát đã được bơm dung dịch talc qua ống dẫn lưu màng phổi để làm dày dính màng phổi, có 59 trường hợp (88,01%) thành công trong lần bơm dung dịch talc đầu tiên, 8 trường hợp (11,99%) còn lại phải bơm dung dịch talc lần hai mới thành công. Bảng 5: Thời gian lưu ống dẫn lưu (ODL) bơm talc màng phổi Thời Số gian trường hợp (%) lưu ODL 3 ngày 53 (79,1%)
- > 3 ngày 14 (20,9%) Thời gian trung bình lưu ống dẫn lưu sau bơm talc màng phổi là 3,15 ngày (giới hạn từ 1 – 21 ngày). Bảng 6: Biến chứng xảy ra ngay sau bơm talc màng phổi Biến chứng Số trường hợp (%) Không có 29 biến chứng (43,28%) Sốt đơn thuần 2 (2,99%) Sốt và đau 17 ngực (25,37%) Đau ngực 19 đơn thuần (28,36%)
- Ho khan 21 (31,34%) - 29 trường hợp không có biến chứng sau b ơm talc màng phổi; 2 trường hợp biểu hiện sốt đơn thuần nhưng đáp ứng tốt với thuốc hạ sốt thông thường trong vòng dưới 3 ngày, - Trong 17 trường hợp sốt và đau ngực đều xảy ra ngay trong vòng 4 giờ sau khi bơm talc, và 13/17 trường hợp đáp ứng tốt với thuốc giảm đau, hạ sốt trong vòng dưới 3 ngày, chỉ có 4/18 trường hợp sốt và đau ngực kéo dài trong vòng 5 – 7 ngày. - Trong 19 trường hợp đau ngực đơn thuần đều xảy ra ngay trong vòng 4 giờ sau khi bơm talc, và 9/19 trường hợp đáp ứng tốt với thuốc giảm đau trong vòng dưới 3 ngày, 6/19 trường hợp kéo dài trong vòng 7 – 14 ngày và 4/19 trường hợp kéo dài trên 14 ngày. - Trong 36 trường hợp đau ngực, chỉ có 4 trường hợp (chiếm 5,97%) là đau ngực nhiều phải dùng kết hợp thuốc giảm đau tiêm tĩnh mạch và thuốc an thần (5 – 10 mg diazepam) tiêm dưới da hoặc tiêm bắp.
- - Trong 21 trường hợp xuất hiện từng cơn ho khan đều xảy ra trong khoảng thời gian 4 – 12 giờ sau bơm talc màng phổi và đều đáp ứng tốt với thuốc giảm ho trong vòng 3 ngày. - Không ghi nhận trường hợp nào suy hô hấp cấp, hạ huyết áp, hạ oxy máu, mủ màng phổi xảy ra sau bơm bột talc màng phổi. Tỉ lệ tái phát, và biến chứng sau thời gian theo dõi trong vòng 2 – 4 năm Trong 67 trường hợp được theo dõi tiếp trong vòng 2 – 4 năm sau bơm dung dịch talc làm dính màng phổi, chúng tôi ghi nhận có 7 trường hợp (10,45%) tràn khí màng phổi tái phát lần thứ nhất (4 trường hợp), lần thứ hai (2 trường hợp), lần thứ ba (1 trường hợp). Trong đó, 5 trường hợp tràn khí màng phổi tái phát xảy ra ở những bệnh nhân trên 35 tuổi và hút thuốc lá trên 2 gói năm. Các trường hợp tràn khí màng phổi tái phát lần thứ nhất được tiến hành bơm dung dịch talc làm dính màng phổi lần hai. Các trường hợp tràn khí màng phổi tái phát lần thứ hai hoặc lần thứ ba được chuyển sang phương pháp điều trị ngoại khoa. Bảng 7: Tỉ lệ tái phát sau bơm talc màng phổi trong thời gian theo dõi 2 – 4 năm Tỉ lệ tái Số trường
- phát hợp (%) Có tái 7 (10,45%) phát Không tái 60 (89,55%) phát Về biến chứng, sau thời gian theo dõi trong vòng 2 – 4 năm, có 4 trường hợp có biểu hiện đau ngực âm ỉ ngay sau bơm talc màng phổi kéo dài đến 3 – 6 tháng sau đó mới hết. Khoảng 19 trường hợp khác (28,36%) có biểu hiện đau ngực (phía bên tràn khí màng phổi đã được bơm talc trước đó) chỉ xảy ra khi gắng sức, khi làm việc nặng nhưng không ảnh hưởng đáng kể đến sinh hoạt và lao động hàng ngày. Triệu chứng này đều cải thiện nhanh chóng khi dùng thuốc giảm đau thông thường. Đồng thời, có 14 trường hợp (20,9%) có cảm giác khó thở khi gắng sức, khi hoạt động nhiều và hết cảm giác khó thở khi nghĩ ngơi. Các trường hợp này được đo chức năng hô hấp có biểu hiện hạn chế hô hấp mức độ nhẹ. Chúng tôi không ghi nhận trường hợp nào suy hô hấp cấp, hạ huyết áp, hạ oxy máu, mủ màng phổi xảy ra sau bơm bột talc màng phổi trong suốt thời gian theo dõi 2 – 4 năm.
- Bảng 8: Biến chứng sau bơm talc màng phổi trong thời gian theo dõi 2 – 4 năm Số Biến chứng tr. hợp (%) 41 Không biến chứng (61,19%) Đau ngực nhẹ (âm ỉ 12 hoặc chỉ xảy ra khi gắng sức) (17,91%) Đau ngực nhẹ và cảm 11 giác khó thở chỉ xảy ra khi (16,42%) gắng sức Cảm giác khó thở chỉ 3 xảy ra khi gắng sức (4,48%) BÀN LUẬN
- Về dịch tễ học 67 trường hợp tràn khí màng phổi tự phát nguyên phát xảy ra chủ yếu ở nam giới nhiều hơn nữ giới (83,6% so với 16,4%), điều này cũng phù hợp với trong y văn(1,5,6,17,19). Tỉ lệ giữa nam:nữ là 5,09:1. So sánh với các nghiên cứu khác như ở Singapore là 15:1 (Chan T. B. et al(6)), ở Mỹ là 3,2-6:1 (Melton L. J. III et al(19)). Đồng thời, tỉ lệ tràn khí màng phổi tự phát nguyên phát xảy ra chủ yếu là lứa tuổi dưới 35 tuổi chiếm 58/67 trường hợp (86,57%) và tuổi trung bình là 28,7 (bảng 1). Nghiên cứu của chúng tôi cho kết quả tương tự về lứa tuổi so với các tác giả khác, chủ yếu xảy ra ở lứa tuổi dưới 40(1,5,17). Về biểu hiện lâm sàng Đa số các trường hợp nhập viện vì khó thở (100%) và đau ngực (94,03%), 58,21% trường hợp có thể kèm ho khan hoặc ho khạc đàm, với thời gian từ lúc xuất hiện triệu chứng cho đến khi nhập viện d ưới 3 ngày (68,66%). Điều này cũng phù hợp với y văn(1,5,12). Tất cả các trường hợp đều được chẩn đoán xác định tràn khí màng phổi bằng chụp X-quang phổi thẳng sau-trước qui ước. Chưa có trường hợp nào phải cần sự hỗ trợ thêm của X-quang phổi nghiêng hoặc CT can lồng ngực. Tuy nhiên, trong y văn(12), ghi nhận có gần 14 trường hợp tràn khí màng phổi tự phát cần sự hỗ trợ của X-quang phổi nghiêng để giúp chẩn đoán. Trong đó, tràn khí màng phổi lượng nhiều gặp nhiều hơn tràn khí màng phổi lượng ít
- (88,06% so với 11,94%) và tất cả là tràn khí màng phổi một bên. Tràn khí màng phổi bên phải gặp nhiều hơn bên trái (67,16% so với 32,84%). Về hiệu quả điều trị bơm talc làm dính màng phổi, Trong 67 trường hợp tràn khí màng phổi tự phát nguyên phát được bơm talc làm dính màng phổi, có 59 trường hợp (88,01%) thành công trong lần bơm dung dịch talc đầu tiên, 8 trường hợp (11,99%) còn lại phải bơm dung dịch talc lần hai mới thành công. Tỉ lệ thành công trong lần bơm talc lần thứ nhất là 88,01% và nếu tính đến thời điểm xuất viện thì tỉ lệ bơm dung dịch talc làm dính màng phổi thành công là 100% với thời gian trung bình lưu ống dẫn lưu sau bơm talc màng phổi là 3,15 ngày (giới hạn từ 1 – 21 ngày). Theo tác giả Tschopp J. M. et al(29), tỉ lệ thành công là 97% (90/93 trường hợp tràn khí màng phổi tự phát được bơm bột talc màng phổi) và thời gian trung bình lưu ống dẫn lưu sau bơm bột talc màng phổi là 5 ngày (giới hạn từ 2 – 40 ngày). Theo Kennedy L. và Sahn SA(16), tỉ lệ bơm bột talc màng phổi thành công 91%. Theo Henry T. et al(12), tỉ lệ thành công là 85% – 92%. Như vậy, kết quả nghiên cứu của chúng tôi đã cho thấy hiệu quả điều trị bơm talc làm dày dính màng phổi cũng tương tự như các nghiên cứu khác. Về tỉ lệ tái phát sau bơm bột talc màng phổi trong thời gian theo dõi 2 – 4 năm, Chúng tôi phát hiện có 7 trường hợp (10,45%) tràn khí màng phổi tái phát. Đồng thời, khi tham khảo các tài liệu trong y văn, cho đến nay chúng tôi ch ưa ghi
- nhận có một nghiên cứu nào về tỉ lệ tái phát tràn khí màng phổi sau bơm dung dịch talc màng phổi qua ống dẫn lưu màng phổi để làm dính màng phổi. Chúng tôi chỉ ghi nhận được tỉ lệ tái phát của một số phương pháp khác làm dày dính màng phổi như Bauman M.H. et al(4), tỉ lệ tái phát tràn khí màng phổi sau làm dày dính màng phổi bằng tetracycline là 25% so với nhóm chứng là 41%; và Berk J.L.(5) cũng ghi nhận tỉ lệ tái phát sau làm dày dính màng phổi bằng tetracycline ở những bệnh nhân có bệnh lý phổi cơ bản là 28% so với 43% nhóm chứng và ở những bệnh nhân không có bệnh lý phổi cơ bản là 11% so với 32% nhóm chứng. Theo Henry T. et al(12), ghi nhận tỉ lệ tái phát tràn khí màng phổi sau cắt màng phổi là 0,4% (n=752) và 2,3% sau làm trầy xước màng phổi chủ động (n=301). Trong khi tỉ lệ tái phát tràn khí màng phổi sau phẫu thuật nội soi lồng ngực với sự trợ giúp của màng hình vô tuyến (VATS) là 5 – 10%. Trong khi tỉ lệ tái phát tràn khí màng phổi sau bơm bột talc màng phổi trong nghiên cứu của chúng tôi là 10,45%. Về biến chứng xảy ra ngay sau bơm dung dịch talc màng phổi Chúng tôi ghi nhận các biến chứng thường gặp xảy ra sau bơm talc dày dính màng phổi, đó là đau ngực (36/67 trường hợp, 53,73%), sốt (19/67 trường hợp; 28,36%) và ho khan (21/67 trường hợp; 31,34%). Trong đó, có 17 trường hợp (25,37%) đau ngực và sốt xảy ra cùng lúc. Đa số các biến chứng đau và sốt đều xảy ra trong vòng 4 giờ sau bơm talc màng phổi, và đáp ứng tốt với thuốc giảm đau, hạ sốt thông thường trong vòng dưới 3 – 5 ngày. Theo Kennedy L., Sahn S. A.(16), 16 – 69% trường hợp sốt xảy ra trong vòng 4 – 12 giờ sau bơm bột talc và
- kéo dài trong 3 ngày. Tác giả Rush V. W. et al(26), có 46/73 trường hợp sốt (63%). Trong khi biến chứng sốt trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn chỉ 28,36%. Trong 36 trường hợp đau ngực, chỉ có 4 trường hợp (chiếm 5,97%) là đau ngực nhiều phải dùng kết hợp thuốc giảm đau tiêm tĩnh mạch và thuốc an thần (5 – 10 mg diazepam) tiêm dưới da hoặc tiêm bắp. Theo Walker-Renard P. B. et al(30), cho thấy tỉ lệ đau ngực (từ ít đến nhiều) gây ra sau bơm bột talc màng phổi khoảng 7% (9/131 trường hợp) thấp hơn rất nhiều khi so sánh với tỉ lệ đau ngực gây ra do Bleomycin là 28% (56/199 trường hợp) và Doxycycline là 40% (24/60 trường hợp), chủ yếu là đau ngực nhiều. Đối với biến chứng suy hô hấp cấp, nghiên cứu của chúng tôi tương tự với nghiên cứu của Wiessberg(31) (nghiên cứu 360 trường hợp) và Rodriguez-Panadero and Antony(25) (nghiên cứu 299 trường hợp) là không có trường hợp nào suy hô hấp cấp xảy ra sau bơm bột talc màng phổi. Trong khi các tác giả khác có ghi nhận những trường hợp suy hô hấp cấp như Rehse D. H. et (24) , (33% suy hô hấp hoặc tử vong trong tổng số 78 bệnh nhân đ ược bơm talc al màng phổi); hoặc Compos et al(7) (7/550 trường hợp suy hô hấp cấp, trong đó có 4 trường hợp tử vong sau bơm talc màng phổi). Tuy nhiên, cơ chế suy hô hấp cấp xảy ra sau bơm talc màng phổi thì chưa được biết rõ và có nhiều nguyên nhân đưa đến suy hô hấp cấp xảy ra sau bơm bột talc(18). Ngoài ra, các biến chứng khác cũng được ghi nhận trong y văn như Berk J.L.(5) có dưới 3 % trường hợp mủ màng phổi và Light R.W. (18) ghi nhận 7/29 trường hợp hạ oxy máu và tụt huyết áp xảy ra sau bơm bột talc màng phổi. Trong khi, kết quả nghiên cứu của chúng tôi không ghi
- nhận trường hợp nào hạ huyết áp, hạ oxy máu, hoặc mủ màng phổi xảy ra sau bơm bột talc màng phổi. Về biến chứng muộn xảy ra trong thời gian theo dõi từ 2 – 4 năm Chúng tôi ghi nhận chủ yếu là biến chứng nhẹ chiếm 38,81% (bao gồm đau ngực hoặc cảm giác khó thở khi gắng sức, khi làm việc nặng hoặc cả hai) nhưng không gây ảnh hưởng đáng kể đến sinh hoạt và làm việc hàng ngày của bệnh nhân và các trường hợp này cũng đáp ứng tốt với thuốc giảm đau thông thường và nghỉ ngơi. Điều này cũng được ghi nhận như vậy trong các nghiên cứu của Kennedy L., Sahn S. A.(16), và Compos et al(7). Ngoài ra, chúng tôi không ghi nhận dấu hiệu nào khác trong thời gian theo dõi. KẾT LUẬN Kết quả nghiên cứu của chúng tôi đã phần nào cho thấy được hiệu quả điều trị, và độ an toàn của phương pháp bơm dung dịch talc qua ống dẫn lưu để làm dính màng phổi trong điều trị tràn khí màng phổi tự phát nguyên phát. Tỉ lệ thành công của bơm talc làm dính màng phổi là 88,01% cho lần bơm talc thứ nhất và 100% cho lần thứ hai, với thời gian trung bình lưu ống dẫn lưu sau bơm bột talc là 3,15 ngày (giới hạn từ 1 – 21 ngày). Tỉ lệ tràn khí màng phổi tái phát sau thời gian theo dõi 2 – 4 năm là 10,45%. Hai bi ến chứng sớm là đau ngực (53,73%), sốt (28,36%) xảy ra ngay trong vòng 4 giờ đầu tiên và đáp ứng tốt với thuốc giảm đau, hạ sốt trong vòng 3 – 5 ngày; biến chứng ho khan (31,34%) đều xảy ra trong
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
ĐIỀU TRỊ LÀM DÍNH MÀNG PHỔI BẰNG IODOPOVIDONE
18 p | 195 | 33
-
BIẾN CHỨNG VÀ TỈ LỆ TÁI PHÁT TRÀN KHÍ MÀNG PHỔI SAU LÀM DÍNH MÀNG PHỔI BẰNG TALC
15 p | 104 | 17
-
VAI TRÒ LÀM DÍNH MÀNG PHỔI BẰNG TALC
22 p | 82 | 12
-
THẤT BẠI LÀM DÍNH MÀNG PHỔI BẰNG IODOPOVIDONE
18 p | 64 | 11
-
IODOPOVIDONE VÀ TALC NHŨ TƯƠNG
21 p | 89 | 8
-
LÀM DÍNH MÀNG PHỔI BẰNG TALC QUA ỐNG DẪN LƯU
24 p | 105 | 7
-
Hiệu quả lâm sàng dài hạn của điều trị làm dính màng phổi bằng iodopovidone hoặc TALC nhũ tương ở bệnh nhân tràn dịch màng phổi ác tính thứ phát lượng nhiều
10 p | 57 | 2
-
Phân tích biến chứng và tỉ lệ tái phát tràn khí màng phổi sau làm dính màng phổi bằng TALC
8 p | 51 | 2
-
Tính an toàn của điều trị phòng ngừa tái phát tràn khí màng phổi tự phát bằng bơm talc nhũ tương qua ống dẫn lưu màng phổi: Báo cáo 75 trường hợp
7 p | 44 | 1
-
So sánh hiệu quả, tính an toàn của iodopovidone và talc nhũ tương trong điều trị tràn dịch màng phổi ác tính thứ phát lượng nhiều
11 p | 49 | 1
-
Các yếu tố tiên đoán thất bại làm dính màng phổi bằng iodopovidone hoặc TALC nhũ tương ở bệnh nhân tràn dịch màng phổi ác tính thứ phát lượng nhiều
10 p | 30 | 1
-
Làm dày dính màng phổi bằng bột TALC trong điều trị tràn khí màng phổi tự phát tái phát
8 p | 49 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn