Lịch sử giá dầu thế giới và các yếu tố tác động đến giá dầu
lượt xem 43
download
Dầu hay còn được gọi là vàng đen, đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu. Nó mang lại nguồn lợi nhuận siêu ngạch khổng lồ cho các quốc gia và các dân tộc trên thế giới đang sở hữu và trực tiếp kinh doanh nguồn tài nguyên quý giá này. Dầu chiếm một một tỷ lệ lớn trong tiêu thụ năng lượng trên toàn cầu, dao động trong khoảng thấp nhất là 32% ở châu Âu và châu Á lên mức cao là 53% ở Trung Đông....
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Lịch sử giá dầu thế giới và các yếu tố tác động đến giá dầu
- Bài Luận LỊCH SỬ GIÁ DẦU VÀ PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN GIÁ DẦU TRÊN THẾ GIỚI 1
- MỤ C LỤ C CHƯƠNG 1GIỚI THIỆU TỔNG QUAN 4 1.1 Các khái niệm cơ bản ................................................................................................ 4 1.2 Phân loại dầu mỏ ....................................................................................................... 5 1.3 Tầm quan trọng của dầu mỏ .................................................................................... 5 CHƯƠNG 2 ...... LỊCH SỬ GIÁ DẦU VÀ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN GIÁ DẦU 7 2.1 Sự kiểm soát giá của các tổ chức xuất khẩu dầu mỏ ............................................ 10 2.1.1 Giai đoạn trước năm 1973 ................................................................................. 10 2.1.2 Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ OPEC có vai trò quan trọng trong đối với giá dầu thế giới từ năm 1973 ............................................................................................. 10 2.2 Bất ổn chính trị trong khu vực ............................................................................... 16 2.2.1 Chiến tranh Yom Kippur - Lệnh cấm vận dầu .................................................. 16 2.2.2 Các cuộc khủng hoảng ở Iran và Iraq ................................................................ 16 2.2.3 Nội chiến ở Lybya năm 2011 ............................................................................ 19 2.2.4 Tình hình bất ổn chính trị trong năm 2012 ........................................................ 20 2.3 Các nhân tố tài chính như rủi ro cho các nhà đầu tư, tỷ giá đồng USD đã trở thành nguyên nhân chính khiến giá dầu tăng cao ............................................................ 22 2.4 Chính sách của các quốc gia ................................................................................... 24 2.4.1 Chính sách kiểm soát giá dầu nội địa của Mỹ ................................................... 24 2.4.2 Chính sách xuất khẩu của Arab Saudi ............................................................... 25 2.5 Một số yếu tố khác tác động đến giá dầu thế giới ................................................. 27 2.6 Tác động của tăng giá dầu đến nền kinh tế thế giới ............................................. 29 2
- LỜI MỞ ĐẦU Dầu hay còn được gọi là vàng đen, đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu. Nó mang lại nguồn lợi nhuận siêu ngạch khổng lồ cho các quốc gia và các dân tộc trên thế giới đang sở hữu và trực tiếp kinh doanh nguồn tài nguyên quý giá này. Dầu chiếm một một tỷ lệ lớn trong tiêu thụ năng lượng trên toàn cầu, dao động trong khoảng thấp nhất là 32% ở châu Âu và châu Á lên mức cao là 53% ở Trung Đông. Các vùng địa lý khác tiêu thụ năng lượng còn có: Nam và Trung Mỹ (44%), châu Phi (41%), và Bắc Mỹ (40%). Thế giới tiêu thụ 30 tỷ thùng (4,8 km3) dầu mỗi năm, trong đó các nước phát triển tiêu thụ nhiều nhất, 24% lượng dầu sản xuất năm 2004 được tiêu thụ ở Hoa Kỳ. Dầu có vai trò đặc biệt quan trọng không thể thiếu để có thể thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì hầu hết mọi ngành kinh tế như: Giao thông vận tải, điện lực, công nghiệp đều cần đến nó. Dầu cung cấp nguồn năng lượng nhằm thúc đẩy các ngành kinh tế phát triển: ngành thăm dò khai thác dầu phát triển thúc đẩy các ngành vận chuyển, gang thép, đóng tàu, hóa học, tơ sợi phân bón, bột giặt, chất dẻo,… phát triển. Nền kinh tế ngày càng phát triển thì nhu cầu năng lượng nói chung và dầu nói riêng ngày càng tăng. Dầu giữ vai trò chủ chốt trong quá trình thiết lập những sách lược chính trị của các quốc gia. Với vai trò to lớn và ngày càng quan trọng của dầu như thế, việc dự đoán trước được giá của dầu sẽ đem lại những lợi ích vô cùng to lớn, vì thế chúng em chọn đề tài nghiên cứu “ LỊCH SỬ GIÁ DẦU VÀ PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN GIÁ DẦU TRÊN THẾ GIỚI ” để có cái nhìn tổng quát, rút ra các kinh nghiệm để có thể dự báo tình hình giá dầu biến đổi như thế nào trong tương lai. 3
- CHƯƠNG 1 GIỚI THIỆU TỔNG QUAN 1.1 Các khái niệm cơ bản Dầu mỏ hay dầu thô là một chất lỏng sánh đặc màu nâu hoặc ngả lục. Dầu thô tồn tại trong các lớp đất đá tại một số nơi trong vỏ Trái Đất. Dầu mỏ là một hỗn hợp hóa chất hữu cơ ở thể lỏng đậm đặc, phần lớn là những hợp chất của hydrocarbon, thuộc gốc alkane, thành phần rất đa dạng. Hiện nay dầu mỏ chủ yếu dùng để sản xuất dầu hỏa, diezen và xăng nhiên liệu. Ngoài ra, dầu thô cũng là nguồn nguyên liệu chủ yếu để sản xuất ra các sản phẩm của ngành hóa dầu như dung môi, phân bón hóa học, nhựa, thuốc trừ sâu, nhựa đường... Khoảng 88% dầu thô dùng để sản xuất nhiên liệu, 12% còn lại dùng cho hóa dầu. Do dầu thô là nguồn năng lượng không tái tạo nên nhiều người lo ngại về khả năng cạn kiệt dầu trong một tương lai không xa. Do nhẹ hơn nước nên dầu xuất hiện lộ thiên ở nhiều nơi, vì thế loài người đã tìm thấy dầu hằng ngàn năm trước Công Nguyên. Thời đó dầu thường được sử dụng trong chiến tranh. Còn rất nhiều dấu tích của việc khai thác dầu mỏ được tìm thấy ở Trung Quốc khi dân cư bản địa khai thác dầu mỏ để sử dụng trong việc sản xuất muối ăn như các ống dẫn dầu bằng tre được tìm thấy có niên đại vào khoảng thế kỷ 4. Khi đó người ta sử dụng dầu mỏ để đốt làm bay hơi nước biển trong các ruộng muối. Mãi đến thế kỷ 19 người ta mới bắt đầu khai thác dầu theo mô hình công nghiệp, xuất phát từ việc tìm kiếm một chất đốt cho đèn vì dầu cá voi quá đắt tiền chỉ những người giàu mới có khả năng dùng trong khi nến làm bằng mỡ thì lại có mùi khó ngửi. Vì thế giữa thế kỷ thứ 19 một số nhà khoa học đã phát triển nhiều phương pháp để khai thác dầu một cách thương mại. Năm 1852 một nhà bác sĩ và địa chất người Canada tên là Abraham Gessner đã đăng ký một bằng sáng chế sản xuất một chất đốt rẻ tiền và đốt tương đối sạch. Năm 1855 nhà hóa học người Mỹ Benjamin Silliman đề nghị dùng axit sunfuric làm sạch dầu mỏ dùng để làm chất đốt. Người ta cũng bắt đầu đi tìm những mỏ dầu lớn. Những cuộc khoan dầu đầu tiên được tiến hành trong thời gian từ 1857 đến 1859. Lần khoan dầu đầu tiên có lẽ diễn ra ở Wietze, Đức, nhưng cuộc khoan dầu được toàn thế giới biết đến là của Edwin L. Drake vào ngày 27 tháng 8 năm 1859 ở Oil Creek, Pennsylvania. Drake khoan dầu theo lời yêu cầu của nhà công nghiệp người Mỹ George H. Bissel và đã tìm thấy mỏ dầu lớn đầu tiên chỉ ở độ sâu 21,2 m. Muốn khai thác dầu, người ta khoan những lỗ khoan gọi là giếng dầu. Khi khoan trúng lớp dầu lỏng, dầu sẽ tự phun lên do áp suất cao của khí dầu mỏ. Khi lượng dầu giảm thì áp suất khí cũng giảm, người ta phải dùng bơm hút dầu lên hoặc bơm nước xuống để đẩy dầu lên. 4
- 1.2 Phân loại dầu mỏ Ngành công nghiệp dầu mỏ phân chia "dầu thô" theo khu vực mà nó xuất phát (ví dụ "West Texas Intermediate" (WTI) hay "Brent") thông thường theo tỷ trọng và độ nhớt tương đối của nó ("nhẹ", "trung bình" hay "nặng"); các nhà hóa dầu còn nói đến chúng như là "ngọt", nếu nó chứa ít lưu huỳnh, hoặc là "chua", nếu nó chứa đáng kể lưu huỳnh và phải mất nhiều công đoạn hơn để có thể sản xuất nó theo các thông số hiện hành. Các thùng (barrel) tiêu chuẩn trên thế giới là: Hỗn hợp Brent, bao gồm 15 loại dầu mỏ từ các mỏ thuộc hệ thống mỏ Brent và Ninian • trong khu vực lòng chảo Đông Shetland trên biển Bắc. Dầu mỏ được đưa vào bờ thông qua trạm Sullom Voe ở Shetlands. Dầu mỏ sản xuất ở châu Âu, châu Phi và dầu mỏ khai thác ở phía tây của khu vực Trung Cận Đông được đánh giá theo giá của dầu này, nó tạo thành một chuẩn (benchmark) đánh giá dầu. West Texas Intermediate (WTI) cho dầu mỏ Bắc Mỹ. • Dubai được sử dụng làm chuẩn cho khu vực châu Á - Thái Bình Dương của dầu mỏ • Trung Cận Đông. Tapis (từ Malaysia, được sử dụng làm tham chiếu cho dầu mỏ nhẹ Viễn Đông). • Minas (từ Indonesia, được sử dụng làm tham chiếu cho dầu mỏ nặng Viễn Đông). • Giỏ OPEC bao gồm: • o Arab Light Ả Rập Saudi o Bonny Light Nigeria o Fateh Dubai o Isthmus Mexico (không OPEC) o Minas Indonesia o Saharan Blend Algérie o Tia Juana Light Venezuela OPEC cố gắng giữ giá của giỏ Opec giữa các giới hạn trên và dưới, bằng cách tăng hoặc giảm sản xuất. Điều này rất quan trọng trong phân tích thị trường. Giỏ OPEC, bao gồm hỗn hợp của dầu thô nặng và nhẹ là nặng hơn cả Brent và WTI. 1.3 Tầm quan trọng của dầu mỏ Dầu mỏ là một trong những nhiên liệu quan trọng nhất của xã hội hiện đại dùng để sản xuất điện và cũng là nhiên liệu của tất cả các phương tiện giao thông vận tải. Hơn nữa, dầu cũng 5
- được sử dụng trong công nghiệp hóa dầu để sản xuất các chất dẻo (plastic) và nhiều sản phẩm khác. Vì thế dầu thường được ví như là "vàng đen". Tùy theo nguồn tính toán, trữ lượng dầu mỏ thế giới nằm trong khoảng từ 1.148 tỉ thùng (barrel) (theo BP Statistical Review 2004) đến 1.260 tỉ thùng (theo Oeldorado 2004 của ExxonMobil). Trữ lượng dầu mỏ tìm thấy và có khả năng khai thác mang lại hiệu quả kinh tế với kỹ thuật hiện tại đã tăng lên trong những năm gần đây và đạt mức cao nhất vào năm 2003. Người ta dự đoán rằng trữ lượng dầu mỏ sẽ đủ dùng cho 50 năm nữa. Năm 2003 trữ lượng dầu mỏ nhiều nhất là ở Ả Rập Saudi (262,7 tỉ thùng), Iran (130,7 tỉ thùng) và ở Iraq (115,0 tỉ thùng) kế đến là ở Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất, Kuwait và Venezuela. Nước khai thác dầu nhiều nhất thế giới trong năm 2003 là Ả Rập Saudi (496,8 triệu tấn), Nga (420 triệu tấn), Mỹ (349,4 triệu tấn), Mexico (187,8 triệu tấn) và Iran (181,7 triệu tấn). Việt Nam được xếp vào các nước xuất khẩu dầu mỏ từ năm 1991 khi sản lượng xuất được vài ba triệu tấn. Đến nay, sản lượng dầu khí khai thác và xuất khẩu hàng năm đạt vào khoảng 20 triệu tấn/năm. Vì tầm quan trọng kinh tế, dầu mỏ cũng là lý do cho những mâu thuẫn chính trị. Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) đã sử dụng dầu mỏ như vũ khí trong cuộc xung đột Trung Đông và tạo ra cuộc khủng hoảng dầu mỏ vào năm 1973 và 1979. 6
- CHƯƠNG 2 LỊCH SỬ GIÁ DẦU VÀ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN GIÁ DẦU Giống như giá cả của các mặt hàng khác, giá dầu thô trải qua biến động khác nhau trong thời gian thiếu hoặc thừa quá mức. Chu kỳ giá dầu thô có thể mở rộng qua nhiều năm, đáp ứng với những thay đổi trong nhu cầu cũng như cung cấp của OPEC và không phải OPEC. Nếu xem xét từ năm 1869, giá dầu thô trung bình tại Mỹ ( điều chỉnh cho lạm phát trong năm 2010 của đồng đô la) là $ 23,67 một thùng so với $ 24,58 cho giá dầu thế giới. Một nửa thời gian giá dầu của Mỹ và thế giới dưới mức giá dầu trung bình 24,58 USD mỗi thùng. Các kết quả sẽ khác đi nhiều nếu chỉ chỉ xem xét những số liệu từ năm 1970. Trong trường hợp đó, dầu thô của Mỹ đã có mức giá trung bình là $ 34,77 một thùng. Giá dầu trung bình của thế giới cao hơn một chút là 37,93 USD mỗi thùng..Khi Tổng thống hiện tại của Hoa Kỳ nhậm chức, giá là 35,00 USD mỗi thùng. Đến cuối năm 2009 giá đã tăng gấp đôi, giá trung bình năm 2009 là $ 56,35 và giá trung bình trong năm 2010 là $57.00 7
- Từ biểu đồ thứ nhất có thể thấy giai đoạn trước năm 1973 giá dầu mỏ không có nhiều những biến động đáng kể. Ngoài ra sự chênh lệch về giá trung bình nếu chỉ xét số liệu từ năm 1970 cho thấy sự biến đổi về giá dầu mỏ giai đoạn này là cao. Năm 1973 là năm mà xảy ra cuộc chiến tranh xung đột giữa các nước hồi giáo Arab và nhà nước do thái Israel dẫn đến lệnh cấm vận dầu mỏ ở các quốc gia này. Từ đó, có thể coi đây làm mốc để phân ra hai thời kỳ chủ yếu của lịch sử dầu mỏ. Điểm qua về tình hình giá dầu mỏ thế giới Giai đoạn trước Cấm vận. Giai đoạn này không có nhiều biến động, giá dầu mỏ chỉ thay đổi đôi chút, không đáng kể so với mức thay đổi giai đoạn sau năm 1973. Từ năm 1948 đến cuối những năm 1960, giá dầu thô dao động từ $ 2,50 và $ 3,00. Giá dầu đã tăng từ $ 2,50 năm 1948 lên khoảng 3,00 năm 1957. Khi đối chiếu với tỷ giá đô la năm 2010, giá dầu thô dao động từ $ 17 và $ 19 trong hầu hết thời gian của thời kỳ này. Từ năm 1958 đến 1970, giá vẫn ổn định gần mức $ 3,00 cho mỗi thùng, nhưng trong thực tế giá dầu thô giảm từ $ 19 đến $ 14 một thùng. Giá dầu thấp hơn không chỉ bởi sự điều chỉnh 8
- theo lạm phát theo năm 2010, mà còn bởi vì vào năm 1971 và 1972 các nhà sản xuất quốc tế bị ảnh hưởng bởi sự yếu đi của đồng đô la. OPEC được thành lập vào năm 1960 với năm thành viên sáng lập: Iran, Iraq, Kuwait, Saudi Arabia và Venezuela. Đến cuối năm 1971, sáu quốc gia khác đã tham gia vào nhóm là: Qatar, Indonesia, Libya, Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất, Algeria và Nigeria. Tuy nhiên phải đến năm 1973 khi có lệnh cấm vận dầu mỏ tức là phải mất hơn một thập kỷ hình thành của nó, OPEC mới nhận ra khả năng ảnh hưởng to lớn của nó với thị trường dầu mỏ thế giới. Vậy tại sao từ những năm 1973 trở đi, giá dầu lại có những thời kỳ giá cao giá thấp chênh lệch nhau đến như vậy chúng ta sẽ cùng nghiên cứu một số yếu tố tác động đến giá dầu mỏ thế giới qua lịch sử giá dầu từ năm 1973 đến nay. Có 4 yếu tố chủ yếu tác động mạnh mẽ nhất đến giá dầu mỏ là: • Sự kiểm soát giá của các tổ chức xuất khẩu dầu mỏ. • Tình hình bất ổn ở khu vực Trung Đông – Bắc Phi nơi có trữ lượng dầu mỏ lớn của thế giới. • Một số chính sách của các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ. 9
- • Sự suy yếu của đồng đô la. • Cuối cùng là một số các yếu tố không chủ yếu khác. 2.1 Sự kiểm soát giá của các tổ chức xuất khẩu dầu mỏ 2.1.1 Giai đoạn trước năm 1973 Trước năm 1973 bảy công ty dầu khí Mỹ - Anh – Hà Lan kiểm soát 98% trữ lượng dầu thô thế giới và Mỹ là nước đứng đầu về khai thác – chế biến dầu, nên chính phủ Mỹ có đủ điều kiện biến thị trường dầu mỏ thành nơi thực hiện chiến lược toàn cầu của họ. Mọi giá cả giao dịch dầu thô trên thế giới đều quy định theo giá yết bảng ở Vịnh Mexic, giá này lại phục vụ cho chính sách khuyến khích phát triển thăm dò – khai thác dầu khí ở Bắc Mỹ. Theo hệ thống giá bán của CIF đồng nhất toàn cầu thì giá dầu tại bất cứ giếng dầu nào trên thế giới cũng được tính theo công thức sau: a + f = x + f1. • a là giá dầu Mỹ từ vịnh Mexico ( theo chất lượng dầu) • f là phí chuyên chở từ Vịnh Mexico về New York • x là giá dầu của giếng x của một nươc nào bất kỳ trên thế giới có cùng chất lượng với dầu Mỹ • f1 là phí chuyên chở từ nơi x tới New York Vì f1 lớn hơn rất nhiều f nên x bao giờ cũng thấp đáng kể so với a, do đó giá dầu nhẹ của Arab Saudi chỉ ở mức 1,7 đến 1,8 đô/thùng. Hệ thống định giá này là nguồn gốc giá yết bảng. Nó có tác dụng bảo đảm tính khống chế độc quyền của Mỹ trong lĩnh vực dầu khí, làm đình đốn công nghiệp than đá, ngăn chặn công nghiệp nguyên tử, mở rộng quy mô và tốc độ bóc lột tài nguyên đối với các nước ngoài Mỹ, tăng lợi nhuận cho các nước phát triển. Với tầm ảnh hưởng to lớn của Mỹ về mọi mặt kinh tế, quân sự, chính trị trên thế giới nên thời kỳ này giá dầu không có nhiều biến động mạnh. Vai trò của 7 công tỳ dầu khi là vai trò quyết định đến giá dầu chung của thế giới, mỗi khi có biến động gây ảnh hưởng đến nguồn cung hoặc nguồn cầu thì 7 công ty này vẫn có thể kiểm soát giá dầu theo ý định của mình. 2.1.2 Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ OPEC có vai trò quan trọng trong đối với giá dầu thế giới từ năm 1973 Tổ chức các nước xuất khẩu dầu lửa, trong tiếng Anh viết tắt là OPEC (viết tắt của Organization of Petroleum Exporting Countries). OPEC là một tổ chức đa chính phủ được thành lập bởi các nước Iran, Iraq, Kuwait, Ả Rập Saudi và Venezuela trong hội nghị tại Bagdad (từ 10 tháng 9 đến 14 tháng 9 năm 1960). Các thành viên Qatar (1961), Indonesia (1962), Libya (1962), Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất (1967), Algérie (1969) và Nigeria (1971) lần lượt gia nhập tổ chức sau đó. Ecuador 10
- (1973–1992) và Gabon (1975–1994) cũng từng là thành viên của OPEC. Trong năm năm đầu tiên trụ sở của OPEC đặt ở Genève, Thụy Sĩ, sau đấy chuyển về Viên, Áo từ tháng 9 1965. Các nước thành viên OPEC khai thác vào khoảng 40% tổng sản lượng dầu lửa thế giới và nắm giữ khoảng ¾ trữ lượng dầu thế giới. 2.1.2.1 Tổ chức OPEC có khả năng điều chỉnh hạn ngạch khai thác dầu lửa của các nước thành viên và qua đó có khả năng khống chế giá dầu. Hội nghị các bộ trưởng phụ trách năng lượng và dầu mỏ thuộc tổ chức OPEC được tổ chức mỗi năm hai lần nhằm đánh giá thị trường dầu mỏ và đề ra các biện pháp phù hợp để bảo đảm việc cung cấp dầu. Bộ trưởng các nước thành viên thay nhau theo nguyên tắc xoay vòng làm chủ tịch của tổ chức hai năm một nhiệm kỳ. 2.1.2.2 Thành viên Hiện nay tổ chức này có 12 nước thành viên được liệt kê dưới đây với ngày tháng gia nhập. • Châu Phi Algérie (tháng 7 năm 1969) Libya (tháng 12 năm 1962) Nigeria (tháng 7 năm 1971) Angola (tháng 1 năm 2007) • Trung Đông Iran (tháng 9 năm 1960) Iraq (tháng 9 năm 1960) (không được đếm vào phần xuất khẩu của OPEC từ năm 1998) Kuwait (tháng 9 năm 1960) Qatar (tháng 12 năm 1961) Ả Rập Saudi (tháng 9 năm 1960) Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (tháng 11 năm 1967) • Nam Mỹ Venezuela (tháng 9 năm 1960) Ecuador (1973-1993, 2007) • Cựu thành viên Gabon (Thành viên chính thức từ 1975 đến 1995) Indonesia (tháng 12 năm 1962 đến 2008) • Thành viên tương lai Bolivia, Canada, Sudan và Syria đã được OPEC mời tham gia. 11
- 2.1.2.3 Mục tiêu Mục tiêu chính thức được ghi vào hiệp định thành lập của OPEC là ổn định thị trường dầu thô, bao gồm các chính sách khai thác dầu, ổn định giá dầu thế giới và ủng hộ về mặt chính trị cho các thành viên khi bị các biện pháp cưỡng chế vì các quyết định của OPEC. Nhưng thật ra nhiều biện pháp được đề ra lại có động cơ bắt nguồn từ quyền lợi quốc gia, thí dụ như trong các cơn khủng hoảng dầu, OPEC chẳng những đã không tìm cách hạ giá dầu mà lại duy trì chính sách cao giá trong thời gian dài. Mục tiêu của OPEC thật ra là một chính sách dầu chung nhằm để giữ giá. OPEC dựa vào việc phân bổ hạn ngạch cho các thành viên để điều chỉnh lượng khai thác dầu, tạo ra khan hiếm hoặc dư dầu giả tạo nhằm thông qua đó có thể tăng, giảm hoặc giữ giá dầu ổn định. Có thể coi OPEC như là một liên minh độc quyền (cartel) luôn tìm cách giữ giá dầu ở mức có lợi nhất cho các thành viên. 2.1.2.4 Các biện pháp của OPEC theo thứ tự thời gian • 14 tháng 9 năm 1960: thành lập tổ chức theo đề xuất của Venezuela tại Baghdad. • 1965: Dời trụ sở về Wien. Các thành viên thống nhất một chính sách khai thác chung để bảo vệ giá. • 1970: Nâng giá dầu lên 30%, nâng thuế tối thiểu áp dụng cho các công ty khai thác dầu lên 55% của lợi nhuận. • 1971: Nâng giá dầu sau khi thương lượng với các tập đoàn khai thác. Tiến tới đạt tỷ lệ quốc gia hóa 50% các tập đoàn. • 1973: Tăng giá dầu tăng từ 2,89 USD một thùng lên 11,65 USD. Thời gian này được gọi là cuộc khủng hoảng dầu lần thứ nhất, OPEC khai thác 55% lượng dầu của thế giới. • 1974 đến 1978: tăng giá dầu 5-10% hầu như mỗi nửa năm một lần để chống lại việc USD bị lạm phát. • 1979: Khủng hoảng dầu lần thứ hai. Sau cuộc cách mạng Hồi giáo giá dầu từ 15,5 USD một thùng được nâng lên 24 USD. Libya, Algérie và Iraq thậm chí đòi đến 30 USD cho một thùng. • 1980: Đỉnh điểm chính sách cao giá của OPEC. Lybia đòi 41 USD, Ả Rập Saudi 32 USD và các nước thành viên còn lại 36 USD cho một thùng dầu. • 1981: Lượng tiêu thụ dầu giảm do các nước công nghiệp lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế và bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng dầu lần thứ nhất, do giá dầu cao, nhiều nước trên thế giới đầu tư vào các nguồn năng lượng khác. Lượng tiêu thụ dầu thế giới giảm 11% trong thời gian từ 1979 đến 1983, thị phần dầu của OPEC trên thị trường thế giới giảm xuống còn 40%. 12
- • 1982: Quyết định giảm lượng sản xuất tuy được thông qua nhưng lại không được các thành viên giữ đúng. Thị phần của OPEC giảm xuống còn 33% và vào năm 1985 còn 30% trên tổng số lượng khai thác dầu trên thế giới. Lượng khai thác dầu giảm xuống đến mức thấp kỷ lục là 17,34 triệu thùng một ngày. • 1983: Giảm giá dầu từ 34 USD xuống 29 USD một thùng. Giảm hạn ngạch khai thác từ 18,5 triệu xuống 16 triệu thùng một ngày. • 1986: Giá dầu rơi xuống đến dưới 10 USD một thùng do sản xuất thừa và do một số nước trong OPEC giảm giá dầu. • 1990: Giá dầu được nâng lên trong tầm từ 18 đến 21 USD một thùng. Nhờ vào chiến tranh vùng Vịnh giá dầu đạt đến mức đề ra. • 2000: Giá dầu đã dao động mạnh, vượt qua cả hai mức thấp và cao nhất trong lịch sử. Nếu trong quý I, chỉ với 9 USD người ta cũng có thể mua được một thùng dầu thì trong quý IV giá đã vượt trên 37 USD một thùng. Các thành viên của OPEC đồng ý giữ giá dầu ở mức 22-28 USD/thùng. • 2005: OPEC quyết định giữ nguyên lượng khai thác 27 triệu thùng. Các thành viên đã nhất trí "tạm ngưng" không giữ giá dầu ở mức 22-28 USD/thùng. 2.1.2.5 Phân tích vai trò của OPEC Năm 1973 sau khi xảy ra cấm vận dầu mỏ của các nước OPEC kéo theo đó là sự gia tăng của giá dầu thế giới, vai trò quyết định cuối cùng giá các loại dầu mỏ của 7 công ty của Mỹ, Anh , Hà Lan đã được chuyển sang OPEC nghĩa là phải đến 1 thập kỷ sau khi thành lập thì OPEC mới nhận ra được vai trò quan trọng của mình. Cũng như 7 tổ chức kia, OPEC cũng muốn kiểm soát giá dầu theo mục đích của mình là làm sao luôn bán được mức cao nhất và có thể chiếm lĩnh thị phần cao nhất tuy nhiên với sự thay đổi của tình hình chính trị trên thế giới và các chính sách không hợp lý của mình ,OPEC hiếm khi đạt được ý muốn kiểm soát giá dầu của mình. Tuy OPEC vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc thay đổi của giá dầu thế giới vì tổ chức này dù sao vẫn là tổ chức của các nước xuất khẩu dầu mỏ lớn nhất trên thế giới, nếu họ giảm sản lượng của mình thì cũng kéo theo một hệ lụy là giá dầu tăng cao tuy nhiên có một thực tế là các quốc gia này công nghiệp xuất khẩu dầu mỏ đóng vai trò cực kỳ quan trọng đối với nền kinh tế của họ, là nguồn lợi chính cho ngân sách quốc gia của họ. Chính vì thế cơ chế thực thi của OPEC là không chặt chẽ để có thể điều chỉnh giá dầu theo ý muốn của mình. Cơ chế thực thi duy nhất tồn tại trong OPEC là khả năng sản xuất của Arập xê-út vì thế sự quyết định cuối cùng, quan trọng nhất hoàn toàn thuộc về thành viên này chứ không phải thuộc về OPEC. Với công suất dự phòng đủ để có thể tăng mức sản xuất đến mức bù đắp các tác động của mức giá thấp hơn, đem về doanh thu riêng của mình, Ả-rập Xê-út có thể thực hiện luật lệ của riêng mình bằng cách đe dọa để tăng sản xuất đủ để giá cả trên thị trường sụp đổ. Trong 13
- thực tế ngay cả điều này là cũng không phải một cơ chế thực thi OPEC trừ khi mục tiêu của OPEC trùng hợp với những người Ả-rập Xê-út. Điều này là khác biệt so với giai đoạn trước năm 1973 khi mà 7 công ty của Mỹ, Anh, Hà Lan có sự hỗ trợ mạnh mẽ của chính phủ trong vai trò kiểm soát giá của mình. Từ năm 1974 đến 1978, giá dầu trên thế giới không có nhiều biến động, dao động từ $ 12,52 một thùng lên 14,57 USD một thùng. Khi điều chỉnh về mức lạm phát năm 2010, giá dầu thế giới có một thời gian suy giảm vừa phải. Trong thời gian đó, sản lượng của OPEC tương đối ổn định, dao động từ 25 triệu thùng mỗi ngày đến 35 triệu thùng mỗi ngày. Ngược lại, các nước không thuộc OPEC lien tục tăng sản lượng từ 25 triệu thùng mỗi ngày lên 31 triệu thùng mỗi ngày. Trong giai đoạn giá tăng lên nhanh chóng từ năm 1979 đến năm 1980, Bộ trưởng Dầu mỏ Saudi Arabia Ahmed Yamani liên tục cảnh báo các thành viên khác của OPEC, giá cao sẽ dẫn đến việc giảm nhu cầu. Tuy nhiên những cảnh báo của ông đã bị lờ đi. Giá cả tăng gây ra nhiều phản ứng trong người tiêu dùng: vật liệu cách nhiệt tốt hơn trong ngôi nhà mới, gia tăng cách nhiệt trong nhiều căn nhà cũ, hiệu quả sử dụng năng lượng trong quá trình công nghiệp, và xe ô tô với hiệu quả cao hơn. Những yếu tố này cùng với một cuộc suy thoái toàn cầu gây ra việc giảm nhu cầu dẫn đến giá dầu thô thấp hơn.Giá cao hơn vào cuối những năm 1970 là kết quả của việc thăm dò thành công và sản xuất bên ngoài của OPEC tăng lên. Từ 1980 đến 1986, các nước ngoài OPEC tăng sản lượng 6 triệu thùng mỗi ngày. OPEC đã phải đối mặt với nhu cầu thấp hơn và lượng cung cao hơn từ bên ngoài tổ chức. Từ năm 1982 đến 1986: OPEC cố gắng áp đặt hạn mức sản xuất đủ thấp để bình ổn giá. Những nỗ lực này đã gặp thất bại liên tiếp khi rất nhiều thành viên của OPEC sản xuất vượt quá hạn mức. Trong suốt khoảng thời gian này, Ả rập xê út đại diện như là nhà sản xuất cơ động nhất có thể cắt giảm sản lượng nhằm nỗ lực cản sự xuống dốc của giá dầu. Vào tháng 8/1985, Ả rập xê út đã từ bỏ vai trò này. Họ gắn giá dầu với thị trường giao ngay và tăng sản lượng từ 2 triệu thùng/ngày lên 5 triệu thùng/ngày vào đầu năm 1986. Giá dầu giảm dưới 15USD/thùng (theo giá năm 2006 là 20 USD) vào giữa năm 1986.Mặc dù giá dầu giảm nhưng doanh thu của Ả rập xê út vẫn không đổi do sản lượng tăng đã bù đắp giá giảm. Vào tháng 12/1986, giá dầu đứng ở mức 18 USD/thùng. Từ năm 1987 đến 1998: Giá dầu giảm từ mức 18 USD đầu năm 1987 xuống mức dưới 15 USD đầu năm 1988. Giá dầu tăng mạnh từ năm 1988 đến 1990 (đạt trên 20 USD/thùng) do OPEC duy trì mức sản lượng thấp. Tuy nhiên từ sau năm 1990, do OPEC tăng sản lượng liên tục và nhất là sau cuộc chiến vùng vịnh giải phóng Kuwait, giá dầu bước vào giai đoạn giảm giá liên tục và ở mức gần 15 USD năm 1994. Từ năm 1990 đến năm 1997, mức tiêu thụ dầu thế giới tăng 6,2 triệu thùng/ngày. Mức tiêu thụ của các nước châu Á đóng góp 300.000 thùng/ngày cho mức tăng thêm đó và góp phần làm 14
- cho giá dầu tăng trở lại và tăng mạnh vào năm 1997. Sản lượng giảm sút của Nga cũng góp phần vào sự tăng giá dầu. Giữa năm 1990 và 1996, sản lượng của Nga giảm trên 5 triệu thùng/ngày. Sự tăng lên của giá dầu không kéo dài được lâu và kết thúc vào năm 1998 khi OPEC đã làm ngơ hoặc đánh giá thấp tác động của khủng hoảng kinh tế châu Á. Vào tháng 12/1997, OPEC tăng hạn ngạch thêm 2.5 triệu thùng/ngày (10%) lên 27,5 thùng/ngày có hiệu lực từ ngày 1/1/1998. Vào năm 1998, tiêu thụ dầu của châu Á Thái Bình Dương đã giảm lần đầu tiên từ năm 1982. Giá dầu rơi vào vòng xoáy giảm giá khi mà mức tiêu thụ thấp hơn đi liền với mức sản lượng cao hơn từ OPEC. Trước tình hình đó, OPEC đã cắt giảm hạn ngạch 1,25 triệu thùng/ngày vào tháng 4 và tiếp 1,335 triệu thùng/ngày vào tháng 7. Giá tiếp tục giảm hết tháng 12/1998 và đứng ở mức 12 USD/thùng. Giá dầu lại tăng lại vào đầu năm 1999 khi OPEC tiếp tục cắt giảm sản lượng thêm 1,719 triệu thùng/ngày vào tháng 4. Tính từ đầu năm 1998 đến đầu giữa 1999, sản lượng của OPEC đã giảm 3 triệu thùng/ngày và đã khiến giá dầu tăng lên trên 25USD/thùng. Giữa tháng 4 và 10/2000, OPEC 3 lần tăng hạn ngạch với tổng số 3,2 triệu thùng/ngày nhưng ko đủ để ngăn đà lên giá dầu. Giá dầu bắt đầu giảm khi OPEC tăng sản lượng thêm 500.000 thùng/ngày bắt đầu từ 1/11/2000. Vào năm 2001, nền kinh tế Mỹ yếu đi và sự gia tăng sản lượng của các nước ngoài OPEC đã gây áp lực giảm giá dầu. Trước tình hình đó, OPEC một lần nữa liên tiếp cắt giảm sản lượng và tính tới ngày 1/9/2001, OPEC đã cắt giảm 3,5 triệu thùng. Nếu không có cuộc tấn công khủng bố vào ngày 11/9/2001, sự cắt giảm này của OPEC có thể đủ để làm cân bằng thậm chí là đảo ngược xu thế.Trước cuộc tấn công khủng bố giá dầu đã sụt giảm. Giá dầu giao ngay theo tiêu chuẩn của các nhà trung gian Tây Texas Mỹ đã giảm 35% vào giữa tháng 11. Trong điều kiện bình thường, sự giảm giá dầu ở mức độ đó sẽ dẫn tới một đợt cắt giảm sản lượng của OPEC nhưng với điều kiện chính trị không phù hợp, OPEC đã hoãn việc cắt giảm thêm đến tận tháng 1/2002. Sau tháng 1/2002, OPEC cắt giảm tiếp 1,5 triệu thùng/ngày và các nước ngoài OPEC cũng tham gia việc cắt giảm sản lượng trong đó có cả Nga với mức cắt giảm cam kết là 462.500 thùng/ngày. Điều này đã đem lại kết quả mong muốn của OPEC khi mà giá dầu tăng lên mức 25USD/thùng vào tháng 3/2002.Vào giữa năm 2002, các nước ngoài OPEC đã khôi phục lại mức sản lượng đã cắt giảm tuy nhiên giá vẫn tiếp tục tăng và dự trữ dầu của Mỹ đạt mức thấp nhất trong 20 năm.Vào thời điểm cuối năm, dư cung không còn là vấn đề. Cuộc đình công tại Venezuela đã khiến cho sản lượng dầu nước này giảm mạnh. Trước khi cuộc đình công diễn ra, Venezuela chưa bao giờ có thể khôi phục lại mức sản lượng trước đó và đứng ở mức thấp hơn 900.000 thùng/ngày so với mức kỷ lục 3,5 triệu thùng/ngày. OPEC tăng sản lượng thêm 2,8 triệu thùng/ngày vào tháng 1 và tháng 2/2003. Vào ngày 19/3/2003, khi mà sản lượng dầu của Venezuela bắt đầu được khôi phục, cuộc tấn công quân 15
- sự vào Iraq đã nổ ra. Trong khi đó, trữ lượng dầu ở Mỹ và các quốc gia OECD vẫn ở mức thấp. Với sự phát triển mạnh của kinh tế, nhu cầu dầu từ Mỹ và các nước châu Á đã tăng một cách chóng mặt. Sự giảm sản lượng ở Iraq và Venezuela được bù đắp bởi việc tăng sản lượng ở các thành viên khác tuy nhiên vẫn khiến cho mức sản lượng dầu tiềm năng có khả năng sản xuất giảm xuống. Vào giữa năm 2002, sản lượng dầu tiềm năng là 6 triệu thùng/ngày và giữa năm 2003 đã giảm xuống dưới 2 triệu thùng. Trong năm 2004 và 2005, công suất để sản xuất dầu ít hơn một triệu thùng mỗi ngày. Một triệu thùng mỗi ngày là không đủ công suất để trang trải một sự gián đoạn nguồn cung từ hầu hết các nhà sản xuất OPEC. Nhu cầu tiêu thụ dầu của thế giới giai đoạn này là rất lớn (trên 80 triệu thùng/ngày) là nguyên nhân chính dẫn tới việc giá dầu vượt quá khoảng giá 40-50 USD/thùng. Một lý do mà OPEC cắt giảm sản lượng vào tháng 11/2006 và 2/2007 đó là việc dự trữ dầu của các nước thuộc tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế. OECD Sau một lần cắt giảm 4,2 triệu thùng / ngày của OPEC trong tháng 1 năm 2009 giá đã tăng một cách ổn định cho nhu cầu tăng lên ở châu Á. Có thể kết luận lại như sau. Từ sau năm 1973, OPEC chỉ đóng vai trò quan trọng chứ không đóng vai trò quyết định cho giá dầu. Có nhiều lý do như : các quốc gia OPEC không đồng nhất quan điểm khi có nhiều quốc gia không chấp hành và không thể chấp hành theo hạn ngạch của OPEC, do sự cạnh tranh của các quốc gia xuất khẩu dầu ngoài OPEC, do sự suy giảm nhu cầu khi tình hình kinh tế gặp khó khăn,….. 2.2 Bất ổn chính trị trong khu vực 2.2.1 Chiến tranh Yom Kippur - Lệnh cấm vận dầu Từ năm 1972-1974: Vào năm 1972, giá dầu thô vào khoảng 3USD/thùng và cuối năm 1974 đã tăng gấp 4 lần lên 12 USD. Cuộc chiến The Yom Kippur War bắt đầu bằng một cuộc tấn công vào Israel bởi Syria và Ai cập vào ngày 5/10/1973. Mỹ và nhiều nước phương tây khác đã ủng hộ Israel. Do đó môt vài quốc gia Ả rập xuất khẩu dầu đã áp đặt cấm vận dầu với các quốc gia này. Sản lượng cắt giảm từ các nước Ả rập là 5 triệu thùng/ngày, trong khi các nước còn lai tăng sản lượng lên 1 triệu thùng/ngày. Hao hụt sản lượng 4 triệu thùng/ngày kéo dài tới tháng 3/1974 và tổng cộng chiếm 7% sản lượng dầu thế giới.Khả năng gây ảnh hưởng và kiểm soát giá dầu thô trong một số trường hợp đã chuyển từ Hoa Kỳ sang OPEC đã được minh chứng sau Lệnh cấm vận dầu. Mọi thứ đã quá rõ rang khi giá cả tỏ ra cực kỳ nhạy cảm với sự thiếu hụt trong nguồn cung, giá dầu đã tăng 400% trong sáu tháng ngắn ngủi. 2.2.2 Các cuộc khủng hoảng ở Iran và Iraq 16
- Từ 1979 đến 1981: Các sự kiện xảy ra ở Iran và Iraq năm 1979, 1980 đã dẫn tới một chu kỳ tăng giá tiếp theo của giá dầu. Cuộc cách mạng hồi giáo ở Iran đã gây nên tổn thất khoảng 2 đến 2,5 triệu thùng/ngày từ 11/1978 đến 6/1979.Có thời điểm quá trình sản xuất dầu gần như đình trệ. Trong khi cuộc cách mạng ở Iran có vẻ là nguyên nhân dẫn tới sự tăng cao kỷ lục của giá dầu sau chiến tranh thế giới thứ 2, thực tế thì tác động ko nhiều mà chủ yếu là các sự kiện sau đó. Ngay sau cuộc cách mạng, sản lượng đã tăng lên 4 triệu/ngày.Vào tháng 9/1980, Iraq tấn công Iran đang ở thế yếu. Đến tháng 11/1980, sản lượng của cả 2 nước là chỉ khoảng 1 triệu thùng/ngày thấp hơn năm trước đó 6,5 triệu thùng/ngày. Do đó sản lượng dầu thế giới thấp hơn 10% so với năm 1979. Cuộc cách mạng hồi giáo Iran và chiến tranh Iran-Iraq làm cho giá dầu tăng hơn 2 lần từ mức 14USD năm 1978 lên 35 USD/thùng năm 1981.Hơn ba thập kỷ sau đó sản xuất của Iran chỉ đạt có hai phần ba mức độ dưới chính quyền của Reza Pahlavi, Hoàng đế trước đây của Iran. Sản xuất của Iraq ngày càng tăng, nhưng vẫn còn dưới một triệu thùng thời sản xuất đỉnh cao của nó trước khi cuộc chiến Iraq-Iran. Nhìn vào biểu đồ sản xuất của Iran ở phía trên ta thấy trước cuộc cách mạng hồi giáo ở Iran sản lượng nước này cung cấp cho thị trường thế giới luôn là mức từ 5 đến 6 triệu thùng dầu một ngày tuy nhiên sau khi xảy ra cuộc cách mạng sản lượng tụt xuống dưới 1 triệu thùng/ngày vào năm 1978. Khi sản lượng vừa mới được hồi phục lên 4 triệu thùng/ngày năm 17
- 1979 thì lại xảy ra xung đột với người hàng xóm Iraq làm cho sản lượng của nước này giảm xuống gần nửa triệu thùng/ ngày, khiến cho giá dầu thời điểm này tăng lên nhanh chóng. Và kể từ đó tới 2011 Iran vẫn chưa trở lại được mức sản lượng như hồi trước cách mạng hồi giáo. Về phần Iraq, ngoài cuộc chiến xâm lược Iran kéo tụt lùi sản lượng của nước này xuống thì còn 2 sự kiện khác khiến cho sản lượng nước này cũng bị suy giảm nghiêm trọng đó là cuộc chiến tranh vùng Vịnh vào những năm 1990, 1991 và cuộc chiến với Mỹ năm 2003. Tuy nhiên nếu như thời kỳ chiến tranh với Iran, việc sụt giảm sản lượng của Iraq cùng với Iran gây giảm nguồn cung làm cho giá dầu tăng thế giới đột biến xấp xỉ 60 đô/thùng thì trong thời kỳ chiến tranh vùng Vịnh và cuộc chiến tranh với Mỹ và Nato lại không gây ảnh hưởng quá nghiêm trọng với giá dầu thế giới, giá dầu chỉ đạt ngưỡng 30 đô/thùng đó là vì sự gia tăng sản lượng của các nước ngoài OPEC, sự vươn lên của nước Nga với nguồn dầu mỏ khí đốt phong phú kể từ khi Liên Xô sụp đổ, là sự tiến bộ của Khoa học kỹ thuật làm cho việc sử dụng dầu mỏ với hiệu năng cao hơn. Sau đây là môt biểu đồ tổng kết giá dầu thế giới và các sự kiện xảy ra tại từ lệnh cấm vận dầu mỏ và sau đó là các cuộc khủng hoảng của Iran và Iraq trong thập ky 70. Có thể thấy trong thời kỳ này khi mà hai nước có trữ lượng sản xuất dầu mỏ lớn của OPEC xảy ra xung đột thì kéo theo nó hệ quả là làm giảm một mức sản lượng lớn của OPEC gây gián đoạn nguồn cung làm cho giá dầu mỏ thế giới dầu mỏ lúc này biến động vô cùng lớn. 18
- 2.2.3 Nội chiến ở Lybya năm 2011 Năm 2011 là một năm đầy biến động của thị trường dầu thế giới. Giá dầu đạt ngưỡng cao kỷ lục. Giá dầu thô trên thị trường Niu Oóc (Mỹ) tăng tới hơn 100 USD/thùng, trong khi giá dầu ở Luân Đôn (Anh) đã gần chạm mức 120 USD/thùng, mức cao nhất kể từ thời điểm bắt đầu khủng hoảng tài chính toàn cầ u tháng 9-2008. Một trong những lý do đẩy giá dầu tăng nhanh là sản lượng khai thác dầu của Li-bi giảm. Ước tính, kể từ khi xảy ra bạo loạn, sản lượng dầu của Li-bi đã giảm hơn một nửa. Bạo lực khiến hàng nghìn nhân viên nước ngoài làm trong lĩnh vực dầu mỏ rời khỏi Li-bi. Trong khi đó, chính quyền của Tổng thống Ca-đa-phi mất quyền kiểm soát ở nhiều vùng lãnh thổ thuộc miền đông nước này, đẩy các mỏ khí đốt và dầu mỏ ở đây nằm dưới quyền kiểm soát của phe đối lập. Lực lượng đối lập đã kiểm soát các cổng xuất khẩu dầu mỏ quan trọng Tô-brúc và Du-e- ti-na, những nơi vận chuyển dầu và khí đốt qua các đường ống dẫn nằm sâu trong sa mạc Xa- ha-ra. Tương lai của ngành công nghiệp khai thác dầu mỏ của Li-bi bị đe dọa, bởi không biết khi nào những chuyên gia nước ngoài có tay nghề cao có thể quay trở lại nước này. Với sản lượng khai thác 1,8 triệu thùng/ngày, Li-bi xuất khẩu 90% lượng dầu khai thác, trong đó 80% lượng dầu thô và nhiên liệu đi qua Địa Trung Hải để bán sang thị trường châu Âu, đứng đầu là các nước I-ta-li-a, Pháp, Đức. 25% lượng dầu nhập khẩu của I-ta-li-a là từ Li-bi. Nhiều nước 19
- Nam Âu như Áo, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, thậm chí cả Ai-len ở Tây Bắc Âu, những nước đang bên bờ khủng hoảng tài chính, đều phải nhập khẩu dầu của Li-bi. Biến động chính trị và bạo loạn ở Li-bi ảnh hưởng đáng kể tới đồng ơ-rô vốn đang suy yếu. Li-bi là nước sản xuất dầu nhẹ và ngọt. Những mỏ dầu dưới vùng sa mạc cho loại dầu thô dễ dàng lọc thành dầu đi-ê –zen và xăng có lượng lưu huỳnh thấp, khí đốt sạch hơn và ít gây ô nhiễm môi trường. Mặc dù OPEC tuyên bố có đủ dự trữ thay thế lượng dầu thiếu hụt từ Li-bi, nhưng chất lượng kém hơn nhiều. Việc sản suất dầu mỏ ở Li-bi bị ngưng trệ buộc các công ty dầu khí phải đưa ra nhiều phương án, không đơn thuần là tìm nguồn bổ sung sản lượng dầu thiếu hụt. Theo ước tính của IP Morgan, nhu cầu sử dụng dầu thô chất lượng tốt chiếm hơn nửa nhu cầu thế giới năm nay. Các công ty dầu khí sẽ phải tìm nguồn dầu có chất lượng tương tự của Li-bi ở các nước như Ni-giê-ri-a, An-giê-ri, hoặc vùng Biển Bắc để thay thế. Phương án này có thể làm tăng giá các loại dầu chất lượng cao và các nhà máy lọc dầu sẽ phải giảm sản lượng do không thể mua được dầu thô. 2.2.4 Tình hình bất ổn chính trị trong năm 2012 Năm 2011 giá dầu lửa trên thị trường thế giới tăng 11%, nhưng ngay từ khi bước vào năm 2012, năm “Con Rồng” thì giá dầu lửa thế giới tăng vọt. Tháng 1/2012 giá dầu tới 100 USD/thùng, mức kỉ lục trong 9 tháng trước đó. Tính tới ngày 24/2 giá dầu đã tăng tới 5%, kể từ tháng 11/2011 khi vấn đề Iran căng thẳng tới nay giá dầu đã tăng tới 20%. “Cơn khát dầu lửa” đã xảy ra ngay từ đầu năm Rồng. Ngày 24/2 giá dầu trên Thị trường giao dịch New York giao hàng tháng 4/2012 tới 109,77 USD/thùng, trong khi đó tại Thị trường dầu lửa Biển Bắc Luân Đôn giá dầu lửa giao hàng tháng 4/2012 tới 125,47 USD/thùng. Như vậy liên tục trong 7 ngày giao dịch trên hai thị trường này, gía dầu lửa liên tiếp tăng lên, lập kỷ lục mới kể từ ngày 4/5/2011. Nhu cầu dầu lửa phục vụ cho phát triển và phục hồi kinh tế thế giới không cao. Theo Tổ chức tiền tệ quốc tế (IMF) ngày 24/1/2012 dự báo mức tăng trưởng kinh tế của các nước phát triển trong năm 2012 chỉ ở mức 1,2%, giảm 0,7% so với mức dự báo hồi tháng 9/2011. Mức tăng trưởng GDP năm 2012 của các nước đang trỗi dậy là 5,4% giảm 0,7% so với mức dự báo tháng 9/2011. Ngay Trung Quốc, nước có nền tăng trưởng kinh tế cao nhất theo dự báo cũng chỉ đạt mức trên 8%. Điều này cho thấy giá dầu tăng cao chủ yếu do những nguyên nhân sau: Một là, tình hình bất ổn ở Trung Đông, nhất là quan hệ Iran-Mỹ, Iran-Châu Âu và Iran – Ixraen đã đẩy giá dầu tăng cao. dầu 2-Tình hình Liby vẫn chưa ổn định, nhất là các mỏ dầu vẫn chưa khôi phục sản xuất và xuất khẩu. 3-Khả năng bù đắp lượng thiếu hụt dầu lửa của các nước OPEC trong thời gian ngắn chưa đáp ứng được nhu cầu. Lybi là nước xuất khẩu dầu lửa lớn thứ 3 Châu Phi và là nước đứng thứ 8 trong tổ chức OPEC, thứ 15 trên thế giới. Sản lượng dầu hàng ngày tới 1,6 triệu thùng, trong đó 1,2 triệu dùng cho 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận: Lịch sử Việt Nam
63 p | 2212 | 358
-
Luận văn: Đồng tiền chung Châu Âu
85 p | 609 | 177
-
Tiểu luận “Sự phân kỳ lịch sử thế giới”
41 p | 693 | 153
-
Luận văn: Thực trạng và một số giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu ở công ty dâu tằm tơ I - Hà Nội trong thời gian tới
73 p | 238 | 54
-
Tiểu luận: Bình luận về vai trò của vàng trong hệ thống tiền tệ thế giới hiện nay và ở Việt Nam
14 p | 346 | 47
-
Luận văn: Đánh giá giá trị chất lượng môi trường tại khu di tích lịch sử Côn Sơn- Kiếp Bạc thông qua phương pháp Chi phí du lịch
23 p | 156 | 35
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học " Trung quốc trên con đường cải cách, mở cửa và hội nhập nhìn từ dòng chảy lịch sử "
10 p | 93 | 21
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học " CHÍNH SÁCH CỦA TRIỀU NGUYỄN TRONG QUAN HỆ BUÔN BÁN TIỂU NGẠCH VỚI TRUNG QUỐC NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX "
7 p | 105 | 18
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học " Tư tưởng cận đại hóa của Tôn Trung Sơn quá trình hình thành, phát triển "
10 p | 62 | 13
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học " TÔN TRUNG SƠN - HỒ CHÍ MINH MỐI ĐỒNG CẢM LỊCH SỬ VÀ THỜI ĐẠI "
8 p | 53 | 10
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học " Những khó khăn trong tiến trình phân chia biên giới Trung - Nga cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21 "
9 p | 69 | 9
-
Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Ý thức về chủ quyền và lợi ích quốc gia của một số nhà cải cách ở khu vực Đông Á nửa cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
229 p | 40 | 8
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học " tăng cường phát triển mạnh mẽ quan hệ trung - việt "
1 p | 56 | 7
-
LUẬN VĂN:Lịch sử áp tỷ giá ở Việt Nam
13 p | 67 | 7
-
Tóm tắt Luận án tiến sĩ Giáo dục học: Quá trình đấu tranh xóa bỏ chế độ Apartheid ở Nam Phi (1948 - 1994)
54 p | 62 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Sử học: Ý thức về chủ quyền và lợi ích quốc gia của một số nhà cải cách ở khu vực Đông Á nửa cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
30 p | 87 | 5
-
Khóa luận tốt nghiệp: Bước đầu tìm hiểu những ảnh hưởng của Đức đối với nền chính trị Châu Âu từ 1871 đến 1918
104 p | 36 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn