HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

PHONGSAMAY HOUNNACHAMPA

CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA CÁC SƯ ĐOÀN THUỘC QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN LÀO GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

NGÀNH: XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC

HÀ NỘI - 2021

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

PHONGSAMAY HOUNNACHAMPA

CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA CÁC SƯ ĐOÀN THUỘC QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN LÀO GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

NGÀNH: XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC

Mã số: 931 02 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. PGS,TS. VŨ HOÀNG CÔNG

2. PGS,TS. LÂM QUỐC TUẤN

HÀ NỘI - 2021

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung

thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo

quy định.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Phongsamay Hounnachampa

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU

1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

6

1.1. Các công trình nghiên cứu của học giả Việt Nam và Trung Quốc

6

1.2. Các công trình nghiên cứu khoa học của học giả ở Cộng hòa Dân chủ

Nhân dân Lào

17

1.3. Khái quát kết quả nghiên cứu các công trình khoa học có liên quan đến

đề tài và những vấn đề luận án sẽ tập trung nghiên cứu

23

Chương 2: CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA CÁC SƯ ĐOÀN THUỘC QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN LÀO - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

26

2.1. Công tác dân vận của các sư đoàn thuộc Quân đội nhân dân Lào - khái niệm, nội dung, phương thức, điều kiện đảm bảo cho công tác dân vận của các sư đoàn thuộc Quân đội nhân dân Lào

26

2.2. Hệ thống tổ chức bộ máy công tác dân vận của Quân đội nhân dân Lào và

nhân dân nơi sư đoàn đóng quân

50

Chương 3: CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA CÁC SƯ ĐOÀN THUỘC QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN LÀO GIAI ĐOẠN HIỆN NAY - THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM

62

3.1. Thực trạng công tác dân vận của các sư đoàn thuộc Quân đội nhân dân Lào

62

3.2. Nguyên nhân và kinh nghiệm

95

Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA CÁC SƯ ĐOÀN THUỘC QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN LÀO ĐẾN NĂM 2030

110

4.1. Dự báo thuận lợi, khó khăn và phương hướng công tác dân vận của các

sư đoàn thuộc Quân đội nhân dân Lào đến năm 2030

110

4.2. Giải pháp chủ yếu tăng cường công tác dân vận của các sư đoàn thuộc

Quân đội nhân dân Lào đến năm 2030

118

KẾT LUẬN

152

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

154

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

155

PHỤ LỤC

165

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CHDCND Lào : Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào

CNH, HĐH

: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

CTĐ, CTCT

: Công tác đảng, công tác chính trị

CTDV

: Công tác dân vận

KT-XH

: Kinh tế - xã hội

NDCM Lào

: Nhân dân cách mạng Lào

NXB

: Nhà xuất bản

QĐND

: Quân đội nhân dân

QP, AN

: Quốc phòng, an ninh

VH-XH

: Văn hóa, xã hội

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành dưới sự lãnh đạo

của Đảng nhân dân cách mạng Lào, quân đội nhân dân Lào luôn nhận được sự yêu

thương, nuôi dưỡng, đùm bọc, giúp đỡ của nhân dân. Đây là một trong những nhân

tố quan trọng nhất tạo nên sức mạnh to lớn giúp quân đội nhân dân Lào giành được

những thắng lợi vẻ vang trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế

quốc Mỹ. Về phần mình, cán bộ, chiến sĩ của quân đội nhân dân (QĐND) Lào luôn

gắn bó với nhân dân, giúp đỡ và phục vụ nhân dân, thể hiện rõ rệt bản chất đội quân

từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu.

Từ bản chất nhân dân và từ thực tiễn chiến đấu, xây dựng gần 70 năm qua

dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng Lào (NDCM Lào), QĐND Lào

xác định công tác dân vận là một nhiệm vụ chiến lược của mình. Công tác dân vận

của QĐND Lào nói chung là: vận động và xây dựng cơ sở cách mạng quần chúng

nhân dân, tăng cường mối quan hệ đoàn kết giữa Đảng với nhân dân, giữa quân

đội với nhân dân và khối đại đoàn kết toàn dân tộc; giữ vững ổn định chính trị, trật

tự an toàn xã hội, góp phần xây dựng hệ thống chính trị cơ sở; chăm lo đời sống

vật chất và tinh thần của nhân dân, góp phần xóa đói, giảm nghèo ở các vùng sâu,

vùng xa; thực hiện có hiệu quả các dự án, chương trình, kế hoạch phát triển kinh

tế - xã hội (KT-XH) ở cơ sở địa phương kết hợp với củng cố nên quốc phòng, an

ninh (QP, AN) toàn dân; phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, tìm kiếm cứu

hộ, cứu nạn;…

Trong hệ thống tổ chức của QĐND Lào (không có cấp quân đoàn, quân khu,

quân chủng) các sư đoàn là bộ phận rất quan trọng, vì đó là các đơn vị chủ lực,

chính quy nhất và là xương sống của lực lượng vũ trang Lào. Các sư đoàn được

trang bị vũ khí, kỹ thuật hiện đại nhất của quân đội, bộ máy chỉ huy có trình độ cao

nhất, được giao nhiệm vụ đóng quân trên các địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng

nhất để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ

quốc. Với điều kiện thuận lợi về mọi mặt và đặc thù tổ chức của QĐND Lào, Đảng

ủy và chỉ huy Bộ quốc phòng xác định: bên cạnh các nhiệm vụ quân sự thường

2

xuyên như xây dựng đơn vị, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, các sư đoàn có nhiệm

vụ thực hiện công tác dân vận của quân đội. Hơn nữa phải coi đó là một bộ phận

của công tác chính trị, công tác Đảng của quân đội, quan trọng không kém so với

nhiệm vụ quân sự. Nếu các sư đoàn làm tốt công tác dân vận thì có nghĩa QĐND

Lào đã làm tốt công tác dân vận và ngược lại.

Trong thực tiễn các năm vừa qua, các sư đoàn đã thực hiện nhiệm vụ

quan trọng này, về cơ bản đạt được yêu cầu do Đảng ủy quân sự, Bộ trưởng

quốc phòng đề ra. Ở các sư đoàn làm tốt, từ Ban chỉ huy sư đoàn tới các cấp chỉ

huy trực thuộc đã nghiêm túc quán triệt và tổ chức thực hiện nhiệm vụ dân vận

với nhiều kết quả tích cực, góp phần góp phần xây dựng cơ sở kính tế, chính

trị, văn hóa - xã hội (VH-XH) và tạo nền QP, AN vững mạnh ở các địa phương

được phân công phụ trách.

Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác dân vận nói

chung của các sư đoàn, và của một số sư đoàn còn những hạn chế nhất định, như:

còn ít những hoạt động dân vận thường xuyên và thực chất, nhiều hoạt động dân

vận chất lượng chưa cao và chưa ảnh hưởng rõ rệt tới các phong trào của quần

chúng nhân dân ở địa phương, chưa góp phần xứng đáng vào sự phát triển của địa

phương. Nhìn chung hiệu quả của công tác dân vận của còn hạn chế, chưa đạt được

mục tiêu đề ra cho công tác dân vận của quân đội nói chung, của các sư đoàn nói

riêng. Sở dĩ còn hạn chế như trên vì ngay từ nhận thức, một số chỉ huy, kể cả ở cấp

sư đoàn, chưa thực sự thấm nhuần quan điểm của Đảng, thông suốt với nhiệm vụ

dân vận và yêu cầu của công tác dân vận của quân đội. Một số khác mặc dù đã

thông suốt quan điểm, song chưa thực hiện đầy đủ các nội dung của công tác dân

vận (ví dụ xây dựng, củng cố bộ máy tham mưu về công tác dân vận, bồi dưỡng kỹ

năng cho cán bộ dân vận của đơn vị); chưa vận dụng nhuần nhuyễn các phương

thức dân vận phù hợp với điều kiện địa phương và thời điểm. Bên cạnh đó, các thế

lực thù địch đang ráo riết thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm lật đổ chế

độ chính trị ở Lào; lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, nhân quyền con người, đẩy

mạnh các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân

3

tộc, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” trong quân đội;

hơn nữa tình trạng tham ô, tham nhũng, lãng phí, chạy chức, chạy quyền và các tệ

nạn xã hội vẫn còn diễn biến phức tạp, làm ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân

đối với sự lãnh đạo của Đảng và nhiệm vụ CTDV của quân đội. Trong điều kiện

hiện nay, nếu không chăm lo một cách cụ thể, thiết thực đến đời sống vật chất và

tinh thần của nhân dân thì dù có nói bao nhiêu về quan điểm quần chúng, về quyền

làm chủ của nhân dân cũng đều là vô nghĩa và không có sức thuyết phục.

Như vậy tổng kết thực tiễn CTDV của các sư đoàn QĐND Lào, chỉ ra nội

dung lý luận của công tác này, những ưu điểm và khuyết điểm, những thành tựu và

hạn chế cùng nguyên nhân của chúng là đòi hỏi cấp thiết, không chỉ góp phần góp

phần thúc đẩy CTDV trong tổng thể công tác Đảng, công tác chính trị của các sư

đoàn nói riêng mà còn của QĐND Lào nói chung. Vói nhận thức như thế, tôi chọn

"Công tác dân vận của các sư đoàn thuộc Quân đội nhân dân Lào giai đoạn

hiện nay" làm đề tài Luận án tiến sĩ ngành Xây dựng Đảng.

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn công tác dân vận

của QĐND Lào nói chung và của các sư đoàn nói riêng, luận án đề xuất những giải

pháp, nhiệm vụ chủ yếu của công tác dân vận của các sư đoàn thuộc QĐND Lào

trong giai đoạn tới.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích đề ra, luận án thực hiện 04 nhiệm vụ sau:

- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.

- Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn luận về công tác dân vận của các

sư đoàn thuộc QĐND Lào.

- Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và bài học cần thiết của công

tác dân vận của các sư đoàn thuộc QĐND Lào giai đoạn hiện nay.

- Đề xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu tăng cường công tác dân vận

của các sư đoàn thuộc QĐND Lào.

4

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Công tác dân vận của các sư đoàn thuộc QĐND Lào giai đoạn hiện nay.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận án tập trung nghiên cứu CTDV của các sư đoàn 1, 2, 3, 4, 5 từ năm

2011 đến nay, tức là từ khi Đảng ủy Bộ Quốc phòng ban hành Nghị quyết số 650-

NQ/ĐUBQP ngày 4/4/2011 về công tác dân vận của các đơn vị QĐND Lào.

4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận

Là hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh, tư tưởng Cay Xỏn Phôm Vi Hản, quan điểm của ĐNDCML về vai trò của

quần chúng nhân dân trong lịch sử, về bản chất của QĐND Lào và mối quan hệ

giữa Quân đội với nhân dân.

4.2. Cơ sở thực tiễn

Toàn bộ CTDV của các sư đoàn thuộc QĐND Lào và sự lãnh đạo CTDV

của Đảng NDCM Lào (thể hiện ở các Nghị quyết của Đảng ủy Bộ Quốc phòng; Chỉ

thị hướng dẫn của Tổng Cục Chính trị, báo cáo Tổng kết CTDV của Tổng Cục

Chính trị)

4.3. Phương pháp nghiên cứu

- Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng lịch sử của triết học Mác

- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng Cay Xỏn Phôm Vi Hản; luận án sử dụng

tổng hợp các phương pháp của khoa học chuyên ngành, đặc biệt phương pháp lôgíc

- lịch sử, phân tích tổng hợp, phân tích so sánh, điều tra xã hội học, khảo sát, thống

kê, tổng kết thực tiễn và phương pháp phỏng vấn chuyên gia.

5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án

- Khẳng định tính tất yếu và làm rõ một số khía cạnh lý luận chưa được bàn

đến trong nội dung và phương thức của CTDV của các sư đoàn thuộc QĐND Lào.

- Cung cấp một số dữ liệu điều tra, khảo sát của tác giả cho thấy thực trạng

CTDV của các sư đoàn trong thời gian qua;

5

- Rút ra một số kinh nghiệm, đề xuất một số giải pháp mới nhằm tăng cường

CTDV của ác sư đoàn QĐND Lào trong thời gian tới.

6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án

- Về lý luận: hệ thống hóa một bước quan trọng các vấn đề lý luận về CTDV

của các sư đoàn thuộc QĐND Lào.

-Về thực tiễn: Cung cấp các giải pháp toàn diện, thiết thực giúp tăng cường

CTDV của các sư đoàn nói riêng, của QĐND Lào nói chung.

Kết quả nghiên cứu của luận án còn có thể được sử dụng làm tài liệu tham

khảo phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu giảng dạy môn công tác dân vận ở các

học viện, nhà trường trong QĐND Lào.

7. Kết cấu của luận án

Luận án gồm: Phần mở đầu, 4 chương (9 tiết), kết luận, danh mục các công

trình đã công bố của tác giả liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo và

phụ lục.

6

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA HỌC GIẢ VIỆT NAM VÀ

TRUNG QUỐC

1.1.1. Sách xuất bản

 Sách của các học giả Việt Nam

Cuốn sách: “Cẩm nang công tác dân vận (2014)”, Nhà xuất bản Chính trị

quốc gia, Hà Nội [1]. Cuốn sách này đã trình bày rõ ràng hơn 80 năm qua Đảng

cộng sản Việt Nam luôn giữ vững vị trí, vai trò quan trọng, quyết định thành bại của

cuộc cách mạng, tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết giữa Đảng với Nhân dân;

đồng thời Đảng cộng sản Việt Nam luôn coi trọng CTDV là một trong những

nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, nhằm tuyên truyền, giáo dục và vận động quần

chúng nhân dân tham gia phong trào cách mạng, tạo động lực thúc đẩy phát triển

KT-XH, để xây dựng đất nước vững mạnh đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH, phát triển

kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.

Cuốn sách: “Tập bài giảng về công tác dân vận (2014)”, Nhà xuất bản

Chính trị quốc gia, Hà Nội [2]. Nội dung cuốn sách tập trung phân tích cơ sở lý

luận, thực tiễn và những nhiệm vụ chính CTDV của Đảng cộng sản Việt Nam hiện

nay. Thông qua đó cuốn sách tác giả đã tập trung làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn

trên cơ sở những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ

trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về CTDV.

Tác giả luận án đã nghiên cứu và kế thừa nhiều nội dung của cuốn sách trong

việc xây dựng khuôn khổ lý luận về CTDV của Đảng, QĐND Lào nói chung và của

các sư đoàn nói riêng.

Cuốn sách: “Lý luận và kinh nghiệm của Đảng cộng sản Việt Nam về công

tác dân vận (2014)”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội [34]. Cuốn sách sưu

tầm và tập hợp hơn 30 bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, lãnh đạo

bộ, ban, ngành, các nhà khoa học. Đó là những phân tích sâu sắc, toàn diện, làm nổi

7

bật cơ sở lý luận của công tác dân vận trong thời gian qua. Các tác giả khẳng định

hơn dân vận là công tác rộng lớn, nhạy cảm bao trùm mọi mặt của đời sống, CTDV

phải bám sát chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,

phù hợp và đồng thuận trong lòng dân, thể hiện đúng tư tưởng “lấy dân làm gốc”.

Những nội dung có thể nghiên cứu, tham khảo, kế thừa tư tưởng của Đảng

Cộng sản Việt Nam và các nhà lãnh đạo để đưa vào nội dung luận án, nhất là:

“Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với CTDV trong tình hình mới,

nhằm củng cố và xây dựng niềm tin của nhân dân đối với Đảng” [34, tr.5]. Đây là

cuốn sách bổ ích đối với CTDV ở Lào nói chung, của QĐND Lào nói riêng.

Cuốn sách: “Công tác dân vận của đơn vị cơ sở Quân đội nhân dân Việt

Nam (2008)”, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội [49]. Cuốn sách đã trình

bày rõ trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Quân đội nhân

dân Việt Nam luôn nhận thức đúng đắn, sâu sắc vị trí, vai trò của CTDV đối với

sự nghiệp cách mạng nói chung, cũng như đối với sự nghiệp xây dựng quân đội

nói riêng.

Tác giả Luận án đã tham khảo, nghiên cứu, vận dụng một số nội dung của

cuốn sách trên để nêu lên các giải pháp cho các sư đoàn thuộc QĐND Lào chỉ đạo

tiến hành tốt CTDV.

Cuốn sách: “Tìm hiểu về tôn giáo (2005)”, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân,

Hà Nội [7], cho thấy Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo, do vậy chính sách về tín

ngưỡng, tôn giáo và công tác vận động đồng bào theo các tín ngưỡng tôn giáo có ý

nghĩa rất quan trọng trong củng cố và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong

tình hình mới. Đấy cũng là điều mà Đảng NDCM Lào đã và đang học tập, vận dụng

thích hợp với tình hình đất nước.

Cuốn sách: “Công tác dân vận của Quân đội trong tham gia giải quyết các

điểm nóng ở địa phương (2006)”, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội [48].

Cuốn sách đã khẳng định Quân đội nhân dân Việt Nam luôn quan tâm tiến hành

CTDV, đã và sẵn sàng tham gia giải quyết các điểm nóng ở các địa bàn trong phạm

vi cả nước.

8

Luận án đã tiếp thu các kinh nghiệm như: Các cơ quan, đơn vị trên của các

sư đoàn phải nắm chắc tình hình của địa phương và những âm mưu, thủ đoạn của

các thế lực thù địch; tích cực giáo dục, thuyết phục nhân dân để họ hiểu rõ bản chất

của sự việc và những luận điệu sai trái của thế lực thù địch lợi dụng, lôi kéo, kích

động; tăng cường xây dựng mối quan hệ quân dân, đặc biệt là gần gũi với chức sắc,

tôn giáo. Tích cực phối hợp chặt chẽ với các lực lượng công an nhân dân tỉnh, lực

lượng quân sự địa phương để bám sát cơ sở và nắm tình hình, tâm tư, tình cảm,

nguyện vọng của nhân dân để giải quyết kịp thời, không để xảy ra điểm nóng. Cùng

cấp ủy, chính quyền địa phương và các lực lượng có liên quan tham gia xây dựng

và củng cố cơ sở chính trị địa phương vững mạnh, giữ vững trật tự an toàn trong xã

hội; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân để tạo ra sức mạnh tổng hợp giải quyết

triệt để các “điểm nóng” trên địa bàn không xảy ra.

Cuốn sách: “Tăng cường công tác quần chúng của Đảng trong quân đội thời

kỳ mới (1999)”, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội [50], nêu lên kết quả tích

cực của công tác quần chúng trong Quân đội nhân dân Việt Nam tạo sự đồng thuận

trong nội bộ, phát huy nỗ lực trong các cơ quan, đơn vị, góp phần bảo đảm QP, AN,

giữ vững ổn định chính trị. Công tác quần chúng của Đảng trong Quân đội nhân dân

Việt Nam có nhiều nội dung, phương thức đa dạng, sát với thực tiễn và từng nhóm

đối tượng. Các phong trào thi đua, cuộc vận động được các cơ quan, đơn vị trong

quân đội đã phát huy tinh thần sáng tạo, ý thức tự quản của cán bộ, chiến sĩ.

Cuốn sách: “Một số giải pháp góp phần ổn định và phát triển Tây Nguyên

hiện nay”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội [24]. Các tác giả đã nêu rõ Tây Nguyên

là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về mặt kinh tế, văn hóa - xã hội và QP,

AN. Từ đây đề ra giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng đời sống văn hóa,

tinh thần, vật chất cho đồng bào các dân tộc. Bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã

hội, vì hạnh phúc, ấm no của nhân dân, từng bước đưa nông thôn ở vùng Tây

Nguyên thoát ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, tiến lên phát triển bền vững.

Cuốn sách: “Giải pháp tăng cường đoàn kết, tập hợp thanh niên các dân tộc

ở Tây Nguyên hiện nay”, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội [11]. Tác giả đã

trình bày rõ tình hình thanh niên các dân tộc ở Tây Nguyên; phân tích những vấn đề

9

thuận lợi, khó khăn trong việc tăng cường đoàn kết, tập hợp thanh niên trong thời

gian qua; nêu rõ các mục tiêu, phương hướng tiến tới để mà làm tốt trong việc tăng

cường đoàn kết, tập hợp thanh niên các dân tộc ở Tây Nguyên; đề xuất những giải

pháp chủ yếu để góp phần tăng cường đoàn kết, tập hợp thanh niên các dân tộc ở

Tây Nguyên trong điều kiện hiện nay. Đặc biệt, coi giải pháp tăng cường công tác

giáo dục, chính trị, tư tưởng, giáo dục về pháp luật và giữ gìn bản sắc văn hóa thanh

niên các dân tộc ở Tây Nguyên hiện nay là những vấn đề trọng tâm.

 Sách các học giả ở Trung Quốc

Cuốn sách: Làm tốt công tác quần chúng trong tình hình mới - kinh nghiệm

Trung Quốc, kinh nghiệm Việt Nam”, Nxb chính trị quốc gia - thật sự, Hà Nội [22].

Cuốn sách tập hợp các bài tham luận của các nhà khoa học Đảng Cộng sản Trung

Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam về các vấn đề kiên trì quan điểm nhân dân là tối

thượng, thiết thực làm tốt công tác quần chúng trong tình hình mới ở hai nước.

Luận án có thể tham khảo, vận dụng, kế thừa: Về một số kinh nghiệm công

tác quần chúng của Đảng Cộng sản Trung Quốc, trong việc đổi mới nội dung,

phương thức có tính hiệu quả của công tác quần chúng. “Ngày nay, công tác quần

chúng phải tiếp tục đổi mới và không chỉ cải cách để theo kịp hoặc là giải quyết

những vấn đề mới nảy sinh, mà cần phải xác định ý nghĩa chiến lược lâu dài đối với

công tác quần chúng” [22, tr.400]. Đây là những tổng kết hữu ích của các nhà khoa

học, gợi ý cho tác giả trong việc hoàn thành mục tiêu và nhiệm vụ của luận án.

Cuốn sách: “Lấy dân làm gốc, cầm quyền vì dân là sự thể hiện tập trung tính

chất và tôn chỉ của Đảng Cộng sản Trung Quốc”, do tác giả Lý Tiệp làm chủ biên,

Nxb chính trị quốc gia - thật sự, Hà Nội xuất bản [16]. Tác giả khẳng định lấy dân

làm gốc, cầm quyền vì dân chính là Đảng Cộng sản Trung Quốc đã luôn coi trọng

và kế thừa truyền thống vẻ vang của Ðảng và dân tộc, hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ

to lớn, nặng nề trong hiện tại, vững bước tới tương lai.

Luận án sẽ lưu ý để có hình thành nên khung lý thuyết cho CTDV của Đảng

và HTCT ở Lào nói chung.

Cuốn sách: “Đổi mới công tác xây dựng Đảng ở nông thôn Trung Quốc”, do

tác giả Chu Chí Hoa làm chủ biên. Cuốn sách đã trình bày sau hơn 30 năm qua đã

10

thực hiện công tác cải cách, mở cửa KT-XH ở nông thôn đã có nhiều thay đổi.

Cùng với đó Đảng Cộng sản Trung Quốc không ngừng nâng cao trình độ, vai trò

lãnh đạo của Đảng trong xây dựng nông thôn.

Luận án có thể tham khảo để liên hệ với đổi mới phương thức lãnh đạo của

Đảng NDCM Lào trong tình hình mới, tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực

hiện các nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng ở nông thôn, trong đó: “Cần

đổi mới về tư duy; nâng cao phương thức có hiệu quả của Đảng lên thành chế độ

công tác; đổi mới hình thức tuyên truyền phong trào quần chúng phù hợp với đặc

điểm và nhu cầu; xây dựng cơ chế vận hành dân chủ, thông thoáng, khoa học và

đảm bảo hiệu quả cao” [13, tr.488].

Cuốn sách: “Quá trình phát triển kinh tế - xã hội nông thôn ở Trung Quốc

(1978-2008)”, của tác giả Nguyễn Xuân Cường, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Tác

giả đã phân tích sau hơn 30 năm qua, kể từ khi Trung Quốc tiến hành cải cách mở

cửa từ năm 1978 đến nay, đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong việc chuyển

dịch cơ cấu KT-XH ở nông thôn theo hướng công nghiệp hiện đại. Tuy nhiên trong

quá trình phát triển KT-XH ở nông thôn Trung Quốc cũng đối mặt với những khó

khăn và thách thức như: nông thôn phát triển chưa đảm bảo sự bền vững; thu nhập

nông dân còn thấp; ngoài ra vấn đề tăng trưởng kinh tế cũng chưa thật gắn liền với

tiến bộ xã hội nông thôn.

Đây là gợi ý quan trọng mà tác giả luận án liên hệ với quá trình phát triển ở

nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào (CHDCND Lào) hiện nay [17].

1.1.2. Các đề tài khoa học

Đề tài độc lập cấp Nhà nước, “Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân

vận của Đảng trong thời kỳ mới” do Hà Thị Khiết chủ nhiệm [3]. Đề tài đã nêu lên

tính cấp thiết về việc nâng cao hiệu quả chất lượng công tác dân vận của Đảng trong

thời kỳ mới; nêu cơ sở lý luận và thực tiễn tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về

nâng cao chất lượng, hiệu quả CTDV. Đồng thời xác định rõ chủ thể, đối tượng,

mục tiêu, nội dung, phương thức lãnh đạo và đưa ra các giải pháp chủ yếu nhằm

nâng cao chất lượng, hiệu quả CTDV.

11

Những nội dung của luận án có thể nghiên cứu, tham khảo, kế thừa: việc xác

định các chủ thể, đối tượng tiến hành CTDV và thống nhất dùng cụm từ “Dân vận”

và khái niệm CTDV [3, tr.69].

Đề tài: “Các giải pháp đổi mới hoạt động của hệ thống dân vận các tỉnh Tây

Nguyên ở nước ta hiện nay”, do Nguyễn Thanh Tuyền chủ nhiệm [54]. Đề tài nêu

rõ những một số ưu điểm và hạn chế, rút ra kinh nghiệm tiến hành CTDV của các

tỉnh Tây Nguyên; đề xuất các phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường

hoạt động của hệ thống Dân vận ở các tỉnh Tây Nguyên hiện nay như: Phải tạo sự

chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của đội ngũ cán bộ, đảng viên về ý nghĩa,

tầm quan trọng CTDV của Đảng trong tình hình mới; thực hiện tốt chức năng tham

mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương trong xây dựng quy chế phối hợp thực

hiện CTDV giữa các tổ chức và các ngành trên địa bàn; đổi mới nội dung, phương

thức hoạt động CTDV, đổi mới hoạt động của hệ thống dân vận các tỉnh Tây

Nguyên, đặc biệt là ở cơ sở.

Đề tài: “Xây dựng lực lượng nòng cốt làm công tác dân vận trong cộng

đồng dân tộc thiểu số trên địa bàn Tây Nguyên”, do Nguyễn Thế Tư chủ nhiệm

[21]. Đề tài đề cập tính tất yếu khách quan và cấp bách trong công tác xây dựng

lực lượng nòng cốt làm CTDV trong cộng đồng dân tộc thiểu số trên địa bàn Tây

Nguyên. Đồng thời xác định các nội dung, đối tượng tiến hành, đề ra các mục tiêu

và phương hướng, giải pháp, đặc biệt là giải pháp xây dựng lực lượng nòng cốt

trong thời gian tới.

Nội dung của luận án có thể nghiên cứu, tham khảo, kế thừa về sự lãnh đạo,

chỉ đạo của cấp ủy đảng các cấp là nhân tố quan trọng đảm bảo cho CTDV, xây

dựng lực lượng nòng cốt theo hướng tinh gọn, có chất lượng hiệu quả cao. Đồng

thời xác định: “Tập trung xây dựng chuyên đề, chương trình, kế hoạch tổ chức lực

lượng làm CTDV trong tình hình mới” [21, tr.183].

1.1.3. Các luận án tiến sĩ

Luận án: “Các tỉnh ủy ở Tây Nguyên lãnh đạo công tác dân vận giai đoạn

hiện nay” [52] của Vũ Xuân Thủy. Luận án nghiên cứu trên cơ sở lý luận khoa học

và thực tiễn lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong các thời kỳ

12

lịch sử, nêu khung lý luận CTDV và thực tiễn sự lãnh đạo của tỉnh ủy Tây Nguyên

đối với CTDV; đề xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường sự

lãnh đạo của tỉnh ủy Tây Nguyên đối với CTDV trong thời gian tới.

Nội dung của luận án có thể nghiên cứu, tham khảo, vận dụng kết quả nghiên

cứu của luận án đã nêu trên về vị trí địa lý, đặc điểm dân cư, dân tộc và tôn giáo;

tình hình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và đặc điểm về quốc phòng, an ninh ở

vùng Tây Nguyên hiện nay, để vận dụng vào nội dung của luận án [52, tr.34-41].

Luận án: “Công tác dân vận của các đơn vị quân đội ở vùng đồng bào theo

đạo trên địa bàn miền Đông Nam bộ giai đoạn hiện nay” [6]. Tác giả phân tích rõ

những vấn đề có tính nguyên tắc và yêu cầu CTDV của các đơn vị quân đội ở vùng

đồng bào theo đạo trên địa bàn miền Đông Nam bộ là vấn đề quan trọng góp phần

cho CTDV ở vùng đồng bào theo đạo đạt được chất lượng, hiệu quả cao hơn. Trong

đó, đã luận giải các giải pháp cơ bản là: Tăng cường giáo dục nâng cao nhận thức,

trách nhiệm cho cán bộ, chiến sĩ về CTDV ở vùng đồng bào theo đạo; bồi dưỡng

phẩm chất và năng lực CTDV ở vùng đồng bào theo đạo cho cán bộ, chiến sĩ, nhất

là lực lượng chuyên trách; đẩy mạnh hoạt động dân vận của các đơn vị quân đội vào

tham gia xây dựng cơ sở địa phương vùng đồng bào theo đạo vững mạnh toàn diện;

phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền, đoàn thể địa phương và tranh thủ vai trò

của chức sắc tôn giáo trong CTDV ở vùng đồng bào theo đạo.

Luận án: “Công tác vận động nông dân của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [56]. Tác giả đã phân tích rõ về ý nghĩa,

tầm quan trọng của công tác vận động nông dân của Đảng và các giải pháp cụ thể,

để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động nông dân của Đảng

trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.

Luận án: “Công tác vận động đồng bào Khmer của đảng bộ, xã, phường, thị

trấn ở Tây Nam Bộ giai đoạn hiện nay” [53]. Nêu rõ các nội dung, phương thức

vận động đồng bào Khmer; đồng thời đánh giá những thực trạng và đưa ra các

nhóm giải pháp như: Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy đảng, chính

quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Chăm lo phát triển kinh tế, nâng

13

cao trình độ dân trí của đồng bào Khmer. Đổi mới các nội dung, phương thức vận

động đồng bào Khmer của đảng bộ, xã, phường, thị trấn ở Tây Nam Bộ.

Luận án: “Công tác dân vận trong đồng bào dân tộc Khmer Tây Nam bộ

hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh” [10]. Luận án khái quát, phân tích tư tưởng

Hồ Chí Minh về CTDV và trên cơ sở đó nêu lên những phương hướng, giải pháp

thực hiện hiệu quả CTDV ở vùng Khmer Tây Nam bộ.

1.1.4. Các bài hội thảo và bài viết đăng trên tạp chí

Ngô Xuân Lịch (2019), “Quân đội nhân dân Việt Nam tăng cường công tác

dân vận, góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, đáp ứng yêu cầu

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, Tạp chí Dân vận, Số (12) [32].

Bài viết khẳng định: CTDV của QĐND Việt Nam đã có bước đổi mới toàn diện cả

về nội dung, hình thức, sát với chức năng, nhiệm vụ; phù hợp với từng đối tượng

của địa bàn và đạt hiệu quả thiết thực; là cầu nối để tăng cường mối quan hệ gắn bó

máu thịt giữa Quân đội với Nhân dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống

chính trị để tập hợp các tầng lớp nhân dân trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo

niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, góp phần xây dựng “thế trận lòng

dân” vững chắc.

Lương Cường (2018), “Kết quả và kinh nghiệm trong thực hiện chương

trình phối hợp công tác giữa Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam với

Ban Dân vận Trung ương”, Tạp chí Dân vận, Số (1) [5]. Bài viết đã đề cập kết

quả thực hiện chương trình phối hợp CTDV giữa Tổng cục Chính trị với Ban Dân

vận Trung ương và các cơ quan thường trực CTDV ở các địa phương trong thời

gian qua.

Luận án sẽ tham khảo để nghiên cứu và rút ra một số kinh nghiệm: thường

xuyên giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, chính quyền địa

phương và cấp ủy, chỉ huy các đơn vị Quân đội trong thực hiện chương trình phối

hợp; phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ chuyên trách dân vận trong

thực hiện chương trình phối hợp; chủ động tham mưu, đề xuất các giải pháp nâng

cao hiệu quả CTDV; tiếp tục đổi mới, đa dạng nội dung, hình thức phối hợp làm

CTDV; chú trọng nhân rộng các mô hình, điển hình dân vận khéo có sức lan tỏa

tích cực.

14

Trần Quang Phương (2020), “Quân đội nâng cao hiệu quả thực hiện Quy

chế công tác dân vận của hệ thống chính trị trong tình hình mới”, Tạp chí Dân vận,

số (8) [44]. Theo tác giả khẳng định: CTDV là nhiệm vụ có có ý nghĩa chiến lược

đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng; là điều kiện quan trọng đảm bảo cho sự

lãnh đạo của Đảng; củng cố và tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Quân

đội với Nhân dân; vừa là nhiệm vụ chính trị của cấp ủy, chỉ huy các cấp, các cơ

quan, đơn vị và tất cả cán bộ chiến sĩ. Vì vậy, toàn quân tiếp tục quán triệt sâu sắc,

xác định rõ trách nhiệm; đồng thời góp phần thực hiện hiệu quả quy chế CTDV của

hệ thống chính trị và nâng cao hiệu quả CTDV của Quân đội trong tình hình mới.

Luận án sẽ tham khảo để đề ra một số nhiệm vụ chủ yếu như: thường xuyên

giáo dục, rèn luyện nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, chiến sĩ, về quy

chế CTDV của Đảng; tăng cường sự lãnh đạo của tổ chức đảng, trách nhiệm của

người chỉ huy cơ quan, đơn vị các cấp trong thực hiện quy chế CTDV; tích cực đổi

mới nội dung, phương CTDV phù hợp với tình hình thực tiễn của đơn vị và từng

địa phương; chủ động phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương và các ban,

ngành có liên quan nhằm tạo sức mạnh tổng hợp trong tiến hành CTDV; quan tâm

xây dựng, củng cố tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ làm CTDV và tăng cường đầu

tư cơ sở vật chất, phương tiện - kỹ thuật nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thực

tiến hành CTDV.

Trần Văn Dương (2016), “Tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác dân vận của

Quân đội ở vùng đồng bào tôn giáo”, Tạp chí Dân vận, Số (9) [9]. Những nội dung

của bài viết, luận án có thể tham khảo, vận dụng và kế thừa như: cần tiếp tục quán

triệt sâu sắc các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng và hướng

dẫn của Tổng cục Chính trị về CTDV trong tình hình mới. Phát huy chức năng

tham mưu của cơ quan, đơn vị các cấp trong phối hợp lực lượng trên địa bàn để tiến

hành CTDV đạt hiệu quả thiết thực. Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt

công tác tôn giáo ở các cơ quan, đơn vị và từng địa phương. Xác định quan điểm

đúng đắn khách quan, ghi nhận đóng góp tích cực của các tôn giáo đối với sự phát

triển đất nước.

15

Nguyễn Xuân Phúc (2019), “Công tác dân vận đã góp phần quan trọng thực

hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”, Tạp chí Dân

vận, Số (1+2) [45]. Bài viết đề cập đến: sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với

CTDV, trước hết là dân vận chính quyền; đồng thời, cho thấy tất cả hệ thống chính

trị làm CTDV, trọng dân, gần dân, vì nhân dân Hơn nữa cần coi trọng phương pháp,

cách làm hay trong CTDV của chính quyền.

Luận án có thể vận dụng, thảm khảo, nghiên cứu và kế thừa: tiếp tục triển

khai thực hiện có hiệu quả hơn, thiết thực hơn Kế hoạch phối hợp thực hiện CTDV;

nâng cao ý thức, trách nhiệm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên về ý nghĩa, tầm quan

trọng của CTDV của Đảng; kiện toàn bộ máy và đội ngũ làm CTDV theo hướng

tinh gọn và hiệu quả; tăng cường và mở rộng dân chủ, thực hiện tốt quy chế dân chủ

ở cơ sở; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, sơ tổng kết, đảm bảo chất lượng, hiệu quả

và mục tiêu đề ra trong thực hiện CTDV.

Đào Đoan Hùng (2019), “Xây dựng và phát huy vai trò ảnh hưởng của

người có uy tín trong công tác dân vận ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số”, Tạp chí

Dân vận, Số (5) [20]. Tác giả khẳng định: vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn

đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách

mạng Việt Nam. Những thời gian qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành nhiều

chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật về việc chăm lo cho đồng bào các dân

tộc thiểu số và vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Thường xuyên

xây dựng và phát huy vai trò của người có uy tín của đồng bào dân tộc thiểu số

trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc; tăng cường củng cố khối đại đoàn kết

dân tộc.

Trương Thị Mai (2019), “Xây dựng mô hình "Dân vận khéo" gắn với lợi ích

người dân - Bài học từ thực tiễn”, Tạp chí Dân vận, Số (3) [38]. Tác giả luận án sẽ

tham khảo, vận dụng để tiếp tục nâng cao nhận thức về công tác dân vận, về phong

trào thi đua “Dân vận khéo”; xác định nội dung phong trào thi đua “Dân vận khéo”

phù hợp với điều kiện từng đối tượng; chú trọng xây dựng, phát triển mô hình, điển

hình “Dân vận khéo” ở các đơn vị; tăng cường nghiên cứu, tham mưu giúp cấp ủy,

chỉ huy lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt hơn phong trào thi đua “Dân vận khéo”.

16

Vũ Ngọc Lân (2016), “Vài suy nghĩ về dân vận bằng nêu gương trong giai

đoạn hiện nay”, Tạp chí Dân vận, Số (9) [33]. Tác giả đã nêu rõ quan điểm của

Đảng về ý nghĩa của nêu gương trong CTDV thể hiện ở phẩm chất đạo đức, lối

sống, phong cách, tác phong công tác, lề lối làm việc cán bộ, đảng viên, nhất là cán

bộ lãnh đạo các cấp và người đứng đầu của các cơ quan, đơn vị.

Trần Văn Dương (2016), “Phát huy vai trò đội ngũ cán bộ dân vận người

dân tộc thiểu số, các tôn giáo trên địa bàn trọng yếu về quốc phòng - an ninh”, Tạp

chí Dân vận, Số (5) [8]. Tác giả cho rằng: phát huy vai trò đội ngũ cán bộ dân vận

người dân tộc thiểu số, các tôn giáo trên địa bàn trọng yếu về QP, AN đáp ứng yêu

cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới là một yêu cầu khách quan, là một trong những

nhiệm vụ và giải pháp quan trọng trong quá trình đổi mới và nâng cao chất lượng

hiệu quả CTDV của Quân đội tình hình mới.

Đây là gợi ý tốt cho tác giả Luận án có thể nghiên cứu, tham khảo, vận dụng,

kế thừa, nhất là với đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số, các tôn giáo trên địa bàn

trọng yếu về QP, AN hiện nay.

Điểu K'Ré (2019), “Những chuyển biến tích cực, đồng bộ của công tác

dân vận năm 2018”, Tạp chí Dân vận, số 1+2 [26]. Tác giả đã nêu lên những kết

quả hết sức cụ thể, nổi bật, đó là: các cấp ủy, tổ chức đảng đều quan tâm lãnh

đạo, chỉ đạo việc thực hiện CTD, đặc biệt là trong triển khai thực hiện các văn

bản mới của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về CTDV, với nhiều cách làm sáng tạo,

hiệu quả; đổi mới công tác nắm tình hình nhân dân, dân tộc, tôn giáo; quan tâm

củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng; tích

cực chủ động kiểm tra, sơ kết, tổng kết các chỉ thị, nghị quyết, kế hoạch, chương

trình của Đảng về CTDV; phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ,

đảng viên, người đứng đầu và cán bộ, đảng viên luôn nêu cao tinh thần trách

nhiệm trước nhân dân.

Tác giả luận án sẽ tham khảo, vận dụng các kinh nghiệm trên trong triển khai

các nội dung của Luận án.

17

1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA HỌC GIẢ Ở

CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

1.2.1. Sách xuất bản

Cuốn sách: “Lịch sử Quân đội nhân dân Lào (1945-2009)”, Nhà xuất bản

Quân đội nhân dân Lào, Viêng Chăn [60]. Cuốn sách này là một trong những tài

liệu rất quan trọng của QĐND Lào nhằm tuyên truyền, vận động, giáo dục cán bộ,

đảng viên tinh thần yêu nước, yêu chế độ xã hội chủ nghĩa, lòng biết ơn sâu sắc, học

tập và làm theo tấm gương đạo đức cách mạng của thế hệ lãnh đạo trước. Đó là một

nhân dịp để xây dựng một phong trào đền ơn đáp nghĩa đến các cán bộ, chiến sĩ đã

anh dũng hy sinh, người khuyết tật, người có công trong sự nghiệp đấu tranh cứu

nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc qua các thời kỳ chiến tranh từ năm (1945 -

2009). Nội dung của cuốn sách rất phong phú về mặt lý luận, ôn lại những truyền

thống liên minh chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam anh em, mà luôn ủng

hộ, giúp đỡ nhiệt tình, cùng chiến hào, đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung và

làm CTDV trong toàn quốc Lào từ miền bắc đến nam.

Cuốn sách cung cấp một số dữ liệu, thông tin giúp tác giả nghiên cứu để đưa

các nội dung đó giáo dục, quán triệt cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân hiểu biết đến

truyền thống đấu tranh dũng cảm của dân tộc, của quân đội để phát huy truyền

thống yêu nước nồng nàn, yêu chế độ xã hội chủ nghĩa chân chính.

Cuốn sách: “Công tác 3 xây dựng (2012)”, Nhà xuất bản Ủy ban Trung ương

Mặt trận Lào Xây dựng Đất nước [119]. Đề cập các nguyên tắc, nội dung, nhiệm

vụ, quyền hạn và sự phối hợp giữa chính quyền địa phương các cấp, để thực hiện 3

xây dựng: “Xây dựng tỉnh làm đơn vị chiến lược, xây dựng huyện làm đơn vị vững

mạnh toàn diện, xây dựng làng làm đơn vị phát triển”.

Cuốn sách: “Lịch sử Quân đội nhân dân Lào (1949-2019)”, Nhà xuất bản

Quân đội nhân dân Lào, Viêng Chăn [61]. Cuốn sách xuất bản nhân dịp ngày thành

lập QĐND Lào tròn 70 năm, đề cập tới những sự kiện lịch sử của từng giai đoạn

cách mạng của QĐND Lào. Cuốn sách cho thấy sự đấu tranh tràn đầy sự hy sinh,

khó khăn, gian khổ nhưng biểu hiện tinh thần dũng cảm, lòng tự hào của lực lượng

vũ trang nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, với sự nuôi dưỡng, đùm bọc, che

18

chở, giúp đỡ của nhân dân và vượt qua mọi khó khăn, nguy hiểm để ngày càng

trưởng thành như ngày nay.

Cuốn sách: “Công tác dân vận của Quân đội nhân dân Lào trong giai đoạn

hiện nay (2009)”, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân Lào, Viêng Chăn [114]. Trên cơ

sở những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng

Cay Xỏn Phôm Vi Hản và chủ trương, đường lối của Đảng về CTDV, cuốn sách

trình bày có hệ thống những cơ sở lý luận, thực tiễn và những nhiệm vụ chính của

công tác dân vận ở đơn vị cơ sở trong QĐND Lào hiện nay.

Cuốn sách: “Cẩm nang công tác dân vận dành cho cán bộ cấp làng (2010)”,

Nhà xuất bản Ban Tuyên giáo Trung ương, Viêng Chăn [74]. Cuốn sách nêu các

quan điểm chỉ đạo CTDV và nhiều tình huống của CTDV, nhất là ở vùng nông

thôn, vùng sâu, vùng xa, nơi người dân còn ít hiểu biết về chủ trương, đường lối của

Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Cuốn sách giúp ích cho cán bộ cấp cơ sở

trong CTDV nói riêng và thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo nói chung ở phạm vi cơ sở.

Cuốn sách: “Một số lý luận và thực tiễn về công tác dân vận - phát triển

nông thôn toàn diện, gắn với xây dựng làng và cụm làng vững mạnh về mặt quốc

phòng (2009)”, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân Lào, Viêng Chăn [113]. Cuốn

sách đã trình bày quá trình hơn 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, QĐND Lào

đã tạo ra nhiều thành tích xuất sắc và nhiều kinh nghiệm quý như: cần coi trọng

hàng đầu công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân, xây dựng lực

lượng và xây dựng căn cứ địa. Trong công tác vận động quần chúng phải căn cứ

vào dân, lấy dân làm cơ sở, dám đi, dám nói, dám làm, dám chịu trách với nhân

dân, để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Cuốn sách: “Xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân 3 cấp (2006)”, Nhà

xuất bản Học viện Quốc Phòng, Viêng Chăn [96]. Cuốn sách thể hiện rõ quan điểm

chỉ đạo xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân của Đảng, phát triển không ngừng

theo hướng ngày càng hoàn thiện và phù hợp với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội

và quân sự của đất nước, trong khu vực và trên thế giới.

Tác giả Luận án sẽ tiếp thu một số nội dung như: quán triệt, giáo dục cho

đội ngũ cán bộ, chiến sĩ trong lực lược vũ trang và nhân dân hiểu rõ chủ trương,

19

đường lối của Đảng đặt ra của từng giai đoạn cách mạng để nâng cao ý thức chính

trị, ý thức trách nhiệm hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; xây

dựng phong trào QP, AN toàn dân rộng khắp để đối phó với những âm mưu thủ

đoạn chống phá của các thế lực thù địch, giải quyết các hiện tượng tiêu cực trong

xã hội, không để xảy ra điểm nóng về an ninh trật tự trên địa bàn; phát huy quyền

làm chủ của nhân dân ở cơ sở trong khai thác, vận dụng tiềm năng, tiềm lực của

địa phương để phát triển KT-XH, củng cố cải thiện về đời sống, vật chất tinh thần

ngày càng tốt hơn.

Cuốn sách: “Cẩm nang công tác dân vận (2020)”, Nhà xuất bản Quân đội

nhân dân Lào, Viêng Chăn [116]. Cuốn sách giải thích nhiều vấn đề thuộc về kỹ

năng trong CTDV cho các đơn vị của QĐND Lào nói chung và được sử dụng làm

tài liệu tham khảo phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu giảng dạy môn CTDV ở

các học viện, nhà trường của quân đội nhân dân Lào hiện nay.

1.2.2. Các đề tài khoa học

Đề tài độc lập cấp Nhà nước (2019): “Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân

chặt chẽ, vững mạnh và hiện đại” do GS. TS Kị-Kẹo Khay-Khăm-Phi-Thun làm

chủ nhiệm [95]. Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể bổ sung làm rõ những cơ sở lý

luận và thực tiễn trong quá trình xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân Lào.

Đề tài độc lập cấp Nhà nước (2020): “Quan điểm quần chúng là vấn đề gốc

trong đạo đức cách mạng của Chủ tịch Cay Xỏn Phom Vi Hản”, do Khăm-phăn

Phôm-mạ-thắt, làm chủ nhiệm, Hội đồng lý luận Trung ương, Viêng Chăn [98], làm

rõ tư tưởng tiến bộ, đúng đắn của Người về vai trò quần chúng trong lịch sử và vận

dụng vào trong quá trình vận động cách mạng của nước Lào hiện nay.

Đề tài độc lập cấp Nhà nước (2020): “Tập trung khối đại đoàn kết toàn dân

tộc là trung tâm”, do Khăm-phăn Phôm-mạ-thắt làm chủ nhiệm. Hội đồng lý luận

Trung ương, Viêng Chăn [99]. Đề tài làm sáng tỏ những quan điểm mà Đảng

NDCM Lào đã kế thừa và xây dựng trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, như:

tiếp tục khẳng định tầm quan trọng chiến lược của khối đại đoàn kết toàn dân tộc;

xác định rõ mục tiêu của chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc; xác lập rõ các thành

20

tố của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; đề ra các chủ trương và giải pháp chủ yếu để

xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

1.2.3. Các luận án tiến sĩ

Luận án: “Đảng nhân dân cách mạng Lào lãnh đạo xây dựng nông thôn mới

giai đoạn hiện nay” [76]. Luận án đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn

của đối tượng nghiên cứu. Trên cơ sở dự báo những nhân tố tác động đến sự lãnh

đạo của Đảng nhân dân cách mạng Lào trong việc xây dựng và phát triển nông thôn

mới giai đoạn hiện nay. Luận án đề xuất về đặc điểm, tình hình ở vùng nông thôn

CHDCND Lào, phân tích rõ những nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng nhân

dân cách mạng Lào trong xây dựng nông thôn mới ở nước Lào; đánh giá và nhận

xét những thực trạng Đảng nhân dân cách mạng Lào lãnh đạo xây dựng nông thôn

mới; chỉ ra nguyên nhân của ưu điểm, hạn chế và rút ra những kinh nghiệm lãnh

đạo của Đảng trong xây dựng nông thôn mới; đồng thời đề ra những phương hướng

và giải pháp quan trọng để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong xây dựng nông

thôn mới giai đoạn hiện nay.

Luận án tiếp thu quan điểm: Việc xây dựng nông thôn mới là một công tác

chiến lược quan trọng của Đảng phải tập trung đầu tư đúng mức để làm cho nông

thôn Lào có diện mạo mới và có sự thay đổi mạnh mẽ.

Luận án: “Công tác dân vận của tổ chức cơ sở Đảng bộ địa phương Miền

Nam Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào” [112]. Tác giả khẳng định vị trí, vai trò, tầm

quan trọng CTDV mang tính chất chiến lược lâu dài của Đảng, của các tổ quần

chúng và đoàn thể chính trị - xã hội, đề xuất phương hướng và giải pháp đẩy mạnh

CTDV của các đảng bộ trong giai đoạn mới đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Luận án: “Công tác dân vận của bộ đội địa phương các tỉnh Tây Bắc Cộng

hòa dân chủ nhân dân Lào giai đoạn hiện nay” [111]. Nội dung của luận án tác giả

đã xác định đúng sự tác động cả tích cực, trái chiều của các nhân tố khách quan và

cơ sở khoa học cho việc xác định yêu cầu, nhiệm vụ và những giải pháp cơ bản tăng

cường hoạt động CTDV của bộ đội địa phương các tỉnh Tây Bắc Lào trong giai

đoạn hiện nay với kết quả tốt. Những yêu cầu và những giải pháp cơ bản tăng

21

cường CTDV của bộ đội địa phương các tỉnh Tây Bắc Lào được xác định trên cơ sở

lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng Cay

Xỏn Phôm Vi Hản và các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng; kinh nghiệm

thực tiễn CTDV đã được tổng kết và những dự báo tình hình, nhiệm vụ tiến hành

CTDV trong thời gian tới.

1.2.4. Các bài hội thảo và bài viết đăng trên tạp chí

SanTiSouc CangPhouVong (2013), “Kết quả hoạt động công tác dân vận

của bộ đội địa phương các tỉnh Tây Bắc Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào”, Tạp chí

Giáo dục lý luận Chính trị quân sự, Số (6), [110]. Bài viết đề cập đến kết quả

CTDV của bộ đội địa phương các tỉnh Tây Bắc được Bộ Quốc phòng đánh giá cao

nhờ sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, cụ thể hóa nghị quyết lãnh đạo của cấp

ủy đảng các cấp về CTDV, góp phần giúp nhân dân phát triển kinh tế, xóa đói giảm

nghèo, xây dựng “thế trận lòng dân” vững mạnh.

Luận án có thể tham khảo, vận dụng và kế thừa: cần tiếp tục đổi mới nội

dung, phương thức tiến hành CTDV phù hợp với tình hình mới và đặc điểm của

từng địa phương; các cấp ủy đảng chú trọng nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng

năng lực chuyên môn cho đội ngũ cán bộ làm CTDV. Đồng thời, có cơ chế, chính

sách đãi ngộ phù hợp nhằm thu hút, động viên đội ngũ cán bộ làm CTDV ở địa bàn

vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

SouBanh HounNaChamPa (2014), “Công tác vận động tuyên truyền của

QĐND Lào trong tham gia xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh, bảo đảm cho sự

ổn định toàn diện của Tổ quốc”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, Số (4), [109]. Luận

án có thể tham khảo, vận dụng, kế thừa: một số kết quả nổi bật của công tác vận

động tuyên truyền của QĐND Lào trong tham gia xây dựng cơ sở địa phương vững

mạnh, bảo đảm cho sự ổn định của Tổ quốc, góp phần ngăn ngừa và làm thất bại

mọi âm mưu, hành động của các thế lực thù địch, giữ vững ổn định chính trị, trật tự

an toàn xã hội. Ngày nay, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc có những yêu cầu,

nội dung mới; do vậy công tác vận động tuyên truyền của QĐND Lào được gắn kết

chặt chẽ với CTDV, góp phần đánh bại các âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù bảo vệ

vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới.

22

KhamLa Si Duang Xay (2018), “Kết quả lãnh đạo, chỉ đạo trong xây dựng

làng và cụm làng phát triển để xóa đói giảm nghèo ở Tỉnh Xiêng Khoảng”, Tạp chí

xây dựng Đảng, Số (196) [97]. Luận án có thể tham khảo, vận dụng, nghiên cứu:

công tác xây dựng cơ sở chính trị gắn chặt với xây dựng bản và các cụm bản phát

triển ở vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa; nghiên cứu, khảo sát thực trạng chung

của phong trào xây dựng cơ sở chính trị gắn chặt với xây dựng bản và các cụm bản

phát triển của một số địa phương hiện nay.

PhouVanh XayYaVong (2017), “Một số bài học kinh nghiệm đã tổ chức

thực hiện công tác 3 xây dựng ở Tỉnh Chăm Pa Sắc”, Tạp chí xây dựng Đảng, Số

(193) [107]. Luận án có thể nghiên cứu, tham khảo và bổ sung những kết quả tổ

chức thực hiện công tác 3 xây dựng ở Tỉnh Chăm Pa Sắc đã đạt được trong thời

gian qua và có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau: toàn tỉnh tiếp tục tăng

cường tình đoàn kết một lòng; cùng quyết tâm vượt qua khó khăn, nỗ lực đạt nhiều

kết quả nổi bật trong công tác 3 xây dựng; tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua yêu

nước và phát triển một cách mạnh mẽ, gắn với việc tổ chức thực hiện thắng lợi công

tác 3 xây dựng đạt kết quả tốt.

BuaKhay VongXomPhou (2017), “Đẩy mạnh phát triển nông nghiệp hàng

hóa, giải quyết xóa đói, giảm nghèo của nhân dân”, Tạp chí xây dựng Đảng, Số

(193) [77]. Tác giả đã nêu rõ: Dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân cách mạng Lào,

trong hơn 30 năm đổi mới vừa qua, tình hình phát triển nông nghiệp và đời sống

của nhân dân đã có những tiến bộ toàn diện và to lớn. Tuy nhiên, hiện nay đời sống

vật chất và tinh thần của cư dân ở nông thôn vẫn còn thấp; số hộ gia đình nghèo còn

khá lớn, khoảng cách giàu nghèo ngày càng tăng một cách đáng quan ngại, nhiều

vấn đề xã hội phát sinh, bức xúc; đòi hỏi chúng ta phải đẩy mạnh phát triển nông

nghiệp hàng hóa, giải quyết xóa đói, giảm nghèo của nhân dân.

Luận án có thể tham khảo, vận dụng, tập trung nghiên cứu các nội dung cụ

thể: tăng năng suất đất canh tác nông nghiệp ở vùng nông thôn; đa dạng hóa việc

làm và đa dạng hóa các nguồn thu nhập ở nông thôn; nâng cao năng lực đầu tư cơ

sở hạ tầng góp phần thúc đẩy phát triển KT-XH ở vùng nông thôn.

23

1.3. KHÁI QUÁT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CÁC CÔNG TRÌNH KHOA

HỌC CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN SẼ TẬP

TRUNG NGHIÊN CỨU

1.3.1. Khái quát kết quả nghiên cứu các công trình khoa học có liên

quan đến đề tài luận án

Toàn bộ những công trình khoa học ở Việt Nam, Trung Quốc và Lào đã

công bố có liên quan đến đề tài sẽ đã giúp nghiên cứu sinh mở rộng tri thức lý luận,

thực tiễn vào trong quá trình viết luận án tiến sĩ; nghiên cứu sinh kế thừa về nội

dung, phương tiếp cận, phương pháp nghiên cứu giải quyết vấn đề của luận án. Sau

đó, khái quát trên các vấn đề thể hiện kết quả chủ yếu sau đây:

Một là, đã phân tích về vị trí, vai trò, cơ sở lý luận, thực tiễn của công tác dân

vận; nội dung, phương thức CTDV của Đảng và QĐND Lào nói chung. Những kết

quả đó là nền tảng lý luận rất quan trọng, là những gợi ý để tác giả luận án xây dựng

khuôn khổ lý luận cơ bản của luận án.

Tuy nhiên còn rất hiếm, thậm chí có thể nói chưa có nghiên cứu lý luận về

CTDV của QĐND Lào ở cấp sư đoàn, chỉ ra tính tất yếu, tầm quan trọng và nội

dung, phương thức CTDV của các sư đoàn QĐND Lào. Đó là điều luận án có thể

bổ sung, phát triển.

Hai là, đã có một số công trình nghiên cứu, khảo sát, đánh giá thực trạng

CTDV ở Lào nói chung, chỉ ra một số nguyên nhân của ưu điểm, khuyết điểm và

rút ra một số kinh nghiệm tiến hành CTDV của Quân đội nhân dân Lào nói chung.

Những kết quả này giúp tác giả luận án có định hướng nghiên cứu, thu thập số liệu,

dữ kiện thực tế.

Tuy nhiên hầu như chưa có công trình nghiên cứu nào ở Lào đề cập tới thực

trạng đầy đủ, toàn diện về CTDV của các sư đoàn QĐND Lào trong những năm

gần đây, chỉ ra ưu điểm và nhược điểm cụ thể của việc thực hiện CTDV của các sư

đoàn - lực lượng nòng cốt, chiến lược của QĐND Lào.

Ba là, một số công trình nghiên cứu ở Lào chuyên sâu về CTDV của QĐND

Lào đã đề cập tới một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng CTDV của Quân đội

nhân dân Lào nói chung. Những điều này là gợi ý tốt cho tác giả luận án, tuy nhiên

24

hầu như chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu vào phương hướng, giải pháp cho

CTDV của các sư đoàn, nên trong việc giải quyết nhiệm vụ xây dựng hệ quan điểm,

phương hướng, giải pháp cho CTDV của các sư đoàn, cần phải vận dụng, phát triển

hơn nữa các kết quả nghiên cứu trên.

Luận án sẽ xác định rõ mục tiêu, phương hướng CTDV của các sư đoàn

thuộc Quân đội nhân dân Lào; chỉ ra những những nhiệm vụ chủ yếu trong tiến

hành CTDV của các sư đoàn thuộc Quân đội nhân dân Lào; đồng thời đề xuất các

nhóm giải pháp thiết thực, cụ thể cho từng các tổ chức, cơ quan, đơn vị và phù hợp

với điều kiện ở địa phương.

Tóm lại, thông qua việc khảo cứu các công trình khoa học trên, tác giả luận

án này xác định: đây là công trình nghiên cứu đầu tiên, độc lập, không trùng lặp và

toàn diện về CTDV của các sư đoàn thuộc Quân đội nhân dân Lào. Nội dung của

luận án phù hợp với tên đề tài và chuyên ngành Xây dựng Đảng và Chính quyền

nhà nước.

1.3.2. Những vấn đề cơ bản luận án sẽ tập trung nghiên cứu

Qua tổng quan các công trình nghiên cứu trên, tác giả luận án xác định tập

trung nghiên cứu, làm rõ những vấn đề sau:

Một là, luận giải và khẳng định tính tất yếu, vai trò quan trọng của CTDV

của các sư đoàn trong việc xây dựng, phát triển lực lượng và thực hiện các nhiệm

vụ của các sư đoàn, và đóng góp quan trọng vào toàn bộ CTDV của QĐND Lào

nói chung.

Hai là, chỉ ra một cách cụ thể khuôn khổ lý luận của công tác dân vận của

các sư đoàn thuộc QĐND Lào (như nội dung, phương thức của CTDV), theo đó

nghiên cứu thực trạng, đánh giá khách quan ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân và

rút ra những kinh nghiệm tiến hành hoạt động công tác dân vận của các sư đoàn

QĐND Lào trong những năm vừa qua.

Ba là, trên cơ sở làm rõ bối cảnh hiện nay tới năm 2030, nêu lên phương

hướng chủ yếu và đề xuất giải pháp cơ bản nhằm tăng cường công tác dân vận của

các sư đoàn thuộc Quân đội nhân dân Lào.

25

Tiểu kết chương 1

Tác giả đã khảo sát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học của các

học giả Việt Nam, Trung Quốc và Lào. Tổng quan cho thấy, có nhiều công trình

khoa học ở Việt Nam, Trung Quốc và Lào nghiên cứu, lý giải ở các góc độ khác

nhau về CTDV, về chức năng, nhiệm vụ và vai trò của quân đội trong thực hiện tốt

chức năng đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất,

đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhiều kết quả

trong các công trình khoa học đó có giá trị lý luận và thực tiễn, đáng trân trọng để

tác giả kế thừa, mặt khác qua đó tác giả thấy rõ cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung

trong quá trình viết đề tài luận án tiến sĩ để bảo đảm công trình khoa học của tác giả

không trùng lặp với các công trình khác đã công bố và có những đóng góp mới.

26

Chương 2

CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA CÁC SƯ ĐOÀN THUỘC QUÂN ĐỘI

NHÂN DÂN LÀO - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

2.1. CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA CÁC SƯ ĐOÀN THUỘC QUÂN ĐỘI

NHÂN DÂN LÀO - KHÁI NIỆM, NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC, ĐIỀU KIỆN ĐẢM

BẢO CHO CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA CÁC SƯ ĐOÀN THUỘC QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN LÀO

2.1.1. Khái niệm, chủ thể và đối tượng công tác dân vận của các sư đoàn

thuộc Quân đội nhân dân Lào

Theo cách hiểu chung của xã hội, “công tác” là việc chung, việc tập thể của

Đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội, còn “dân vận” là vận động

nhân dân. Từ điển tiếng Việt định nghĩa công tác dân vận là “công tác tuyên

truyền, tổ chức, động viên và lãnh đạo quần chúng trong một cuộc đấu tranh cách

mạng” [18, tr.213].

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định tiến hành CTDV là trách nhiệm của

toàn Đảng, cả hệ thống chính trị. Theo Người: “Dân vận là vận động tất cả lực

lượng của mỗi một người dân không để sót người nào, góp thành lực lượng toàn

dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc mà Chính phủ và

Đoàn thể giao cho” [39, tr.700]. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh quan niệm CTDV

được xác định là một tất yếu khách quan vô cùng quan trọng trong mọi thời kỳ

cách mạng, cả khi chưa có chính quyền cũng như khi đã giành được chính quyền

trong điều kiện chiến tranh cũng như một thời kỳ hòa bình. Chủ tịch Hồ Chí Minh

cho rằng tiến hành CTDV là trách nhiệm của toàn Đảng và kể cả hệ thống chính

trị; cho nên phải tuyên truyền, vận động, thuyết phục nhân dân, phải biết tôn trọng

nhân dân và dựa vào dân. Người còn khẳng định: “Lực lượng của dân rất to. Việc

dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc

gì cũng thành công” [39, tr.700].

Nói cách khác, CTDV của Đảng là một trong toàn bộ hoạt động của cách

mạng, là một mặt hoạt động rất quan trọng của các tổ chức đảng các cấp từ Trung

ương xuống cơ sở, nhằm tổ chức vận động, tuyên truyền, thuyết phục từng mỗi

27

người dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà

nước, tăng cường củng cố và xây dựng mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với Nhân

dân, tạo nền tảng phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng của

Đảng trong tình hình mới. Tóm lại, công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến

lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng; là điều kiện quan trọng bảo

đảm cho sự lãnh đạo của Đảng; củng cố, tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa

Đảng, Nhà nước với nhân dân; công tác dân vận là trách nhiệm của tất cả các tổ

chức trong hệ thống chính trị, của mọi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức,

đoàn viên, hội viên các đoàn thể nhân dân, cán bộ, chiến sĩ của lực lượng vũ trang

nhân dân [4].

Giống như QĐND Việt Nam, CTDV là một nội dung quan trọng của công

tác Đảng, công tác chính trị, là nhiệm vụ thường xuyên của các cơ quan, đơn vị của

QĐND Lào để thực hiện chức năng là “đội quân công tác”, phản ánh bản chất cách

mạng và nhân dân của Quân đội nhân dân Lào. Thực hiện hiệu quả công tác này

vừa là trách nhiệm chính trị, vừa là tình cảm đối với nhân dân của các tổ chức, cấp

ủy chỉ huy lãnh đạo các cấp và mọi cán bộ, chiến sĩ, nhằm xây dựng “thế trận lòng

dân” vững chắc. Nhìn rộng ra, CTDV trong Quân đội nhân dân Lào là một bộ phận

CTDV của Đảng NDCM Lào, nhằm xây dựng và củng cố mối quan hệ gắn bó mật

thiết giữa Đảng, Quân đội với Nhân dân, củng cố hình ảnh và uy tín của Đảng và

Nhà nước CHDCND Lào ở trong nước và quốc tế.

Là bộ phận nòng cốt và xương sống của QĐND Lào, đương nhiên các sư

đoàn phải có nhiệm vụ thực hiện CTDV theo mục tiêu, nội dung, phương thức

chung của quân đội. Đó là chuỗi các hoạt động của cán bộ, chiến sĩ các cấp của sư

đoàn nhằm tuyên truyền, thuyết phục, vận động nhân dân trong phạm vi địa bàn

phụ trách chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà

nước, thực hiện các phong trào thi đua, cuộc vận động, xây dựng “Thế trận lòng

dân” vững chắc; tham gia xây dựng hệ thống chính trị ở địa phương vững mạnh,

đẩy mạnh phát triển kinh tế, VH-XH; tăng cường QP, AN; củng cố niềm tin của

nhân dân đối với Ðảng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; phòng, chống

28

âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá Đảng, Nhà nước và quân đội;

bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Thực tiễn CTDV của QĐND Lào đã khẳng định rằng: Trong chiến đấu, làm

tốt CTDV sẽ được nhân dân nuôi dưỡng, đùm bọc, che chở, giúp đỡ sức người, sức

của để đánh thắng giặc. Trong xây dựng, làm CTDV tốt sẽ phát huy được sáng

kiến, kinh nghiệm, nguồn lực và sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân để lao động, sản

xuất, công tác đạt hiệu quả. Như vậy, làm dân vận tốt không chỉ là nội dung, yêu

cầu hàng đầu của QĐND Lào trong thực hiện chức năng đội quân công tác mà còn

là đòi hỏi tất yếu trong thực hiện chức năng đội quân chiến đấu, đội quân lao động

sản xuất. Từ ý nghĩa đó, CTDV của các sư đoàn thuộc QĐND Lào luôn được xác

định là một bộ phận trong CTDV của Đảng; một nội dung quan trọng của CTĐ,

CTCT trong Quân đội, luôn được đặt dưới sự lãnh đạo của cấp ủy, chỉ huy sư đoàn;

sự chỉ đạo trực tiếp của người chỉ huy, của chính ủy, chính trị viên và cơ quan chính

trị trực thuộc sư đoàn.

Tóm lại CTDV của sư đoàn là CTDV của đơn vị quân đội, không phải là

CTDV của tổ chức dân sự (cấp ủy, chính quyền, đoàn thể chính trị-xã hội), được

thực hiện bằng lực lượng quân đội, trước hết phục vụ mục tiêu quân sự và quốc

phòng. Đó có thể coi là một đặc điểm của CTDV của sư đoàn.

Hơn nữa do QĐND Lào không tổ chức quân khu, quân đoàn, quân chủng

nên các sư đoàn của QĐND Lào có những nhiệm vụ không chỉ mang tính quân sự

thuần túy, đúng chức năng của đơn vị quân đội chính quy, chủ lực (như xây dựng

lực lượng, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu theo các phương án nhất định) mà còn có

những nhiệm vụ mang tính quốc phòng toàn dân rộng lớn (như xây dựng, bồi

dưỡng lực lượng quân sự địa phương, tham mưu công tác quốc phòng cho cấp ủy

địa phương). Đấy là những nhiệm vụ mà ở những nước có tổ chức cấp quân khu (ví

dụ như Việt Nam) sẽ giao cho các quân khu đảm nhiệm với lực lượng con người và

vật chất to lớn hơn. Còn ở Lào thì đó là nhiệm vụ được giao cho các sư đoàn. Trong

thực tế, mỗi sư đoàn được phân công phụ trách địa bàn khá rộng, thường bao gồm

một số tỉnh, với số lượng dân cư tuy đông song sinh sống khá phân tán, với những

nhóm tộc người, tôn giáo có đặc điểm văn hóa không hoàn toàn giống nhau. Do vậy

29

CTDV của sư đoàn, với quyền hạn và phạm vi địa bàn được phân công phụ trách,

có thể coi giống như CTDV của cấp quân khu (như ở Việt Nam). Đó cũng có thể

coi là đặc điểm của CTDV của sư đoàn.

Kết hợp các đặc điểm có tính chất “chung” và “riêng” như vậy, có thể định

nghĩa CTDV của các sư đoàn thuộc QĐND Lào là công tác vận động quần chúng

của đơn vị vũ trang, theo thẩm quyền của cấp sư đoàn và trong địa bàn phụ trách

của mỗi sư đoàn.

Từ cách hiểu đó, cần làm rõ chủ thể và đối tượng của CTDV của các sư đoàn.

Về chủ thể, với đặc điểm là đơn vị chủ lực quy mô lớn nhất của QĐND Lào,

có các trung đoàn trực thuộc, bên dưới là các tiểu đoàn, đại đội, trung đội, tiểu đội

thì điều quan trọng phải xác định là: CTDV không phải chỉ là nhiệm vụ lãnh đạo,

chỉ đạo của cấp chỉ huy sư đoàn mà còn là nhiệm vụ của các cấp chỉ huy bên dưới

của sư đoàn, không phải chỉ là của cơ quan tham mưu cấp sư đoàn mà còn là bộ

phận tham mưu cấp trung đoàn và cán bộ tham mưu cấp tiểu đoàn (vì cấp trung

đoàn có ban tham mưu, tiểu đoàn có sĩ quan tham mưu); không phải chỉ là nhiệm

vụ trực tiếp vận động nhân dân của sĩ quan cấp sư đoàn mà còn là nhiệm vụ của

từng người chiến sĩ ở đơn vị cấp thấp nhất của sư đoàn.

Trong đó, có thể phân chia thành chủ thể lãnh đạo, chỉ đạo; chủ thể tham

mưu; chủ thể thực hiện vận động quần chúng

- Chủ thể lãnh đạo, chỉ đạo là: cấp ủy, chỉ huy sư đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn

cho đến cấp đại đội.

- Chủ thể tham mưu: cơ quan chính trị, ban dân vận, các tổ, đội công tác và sĩ

quan chính trị phụ trách dân vận.

- Chủ thể thực hiện vận động nhân dân: toàn thể cán bộ, chiến sĩ trong

sư đoàn là lực lượng nòng cốt.

Đối tượng của CTDV của sư đoàn: Các tổ chức chính trị - xã hội và toàn thể

nhân dân trên địa bàn sư đoàn đóng quân; các già làng, trưởng bản, trưởng thôn và

các chức sắc tôn giáo.

Cần lưu ý, đây là các tổ chức, cá nhân bên ngoài lực lượng quân đội và lực

lượng vũ trang nói chung, không phải là tổ chức, cá nhân bên trong các đơn vị quân

30

đội, là đối tượng của Công tác quần chúng trong quân đội (gồm các chiến sĩ là đoàn

viên, thanh niên, phụ nữ hoặc công nhân viên quốc phòng) mà một số ý kiến gộp

chung vào với CTDV của các đơn vị quân đội.

2.1.2. Nội dung công tác dân vận của các sư đoàn thuộc Quân đội nhân

dân Lào

Căn cứ theo Quyết định số 290-QĐ/TW của Bộ Chính trị, ngày 25-2-2010

về “Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị” [4]. Quyết định số

3579/BQP ngày 4-10-2012 của Bộ Quốc phòng xác định vị trí, vai trò, chức năng,

nhiệm vụ và phòng cách làm việc Ban chỉ đạo công tác dân vận và phát triển nông

thôn cấp Bộ quốc phòng [71]; Trong đó, theo chức năng, nhiệm vụ của các sư đoàn

được tiến hành các nội dung chủ yếu sâu đây:

Một là, tuyên truyền, vận động cán bộ, chiến sĩ và nhân dân thực hiện chủ

trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về nhiệm vụ quốc

phòng, an ninh trên địa bàn trọng điểm, chiến lược.

Đây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của CTDV của các sư đoàn thuộc

QĐNDL, có vai trò nòng cốt trong việc thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ QP, AN bảo

vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; phát

huy vai trò của Quân đội trong bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN

của chúng ta; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, phục vụ hiệu quả

nhiệm vụ phát triển KT-XH trên địa bàn; tăng cường sức mạnh tổng hợp của toàn

dân tộc, của cả hệ thống chính trị, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với

thế trận an ninh nhân dân vững chắc.

Về nội dung tuyên truyền, vận động nhân dân đã tập trung giáo dục, phổ biến

theo các Chỉ thị, Nghị quyết của Đại hội lần thứ XI của Đảng, các văn bản pháp luật

của Nhà nước về Luật giáo dục QP, AN; nhất là Nghị định số 202/QĐ-CTN về

“Luật sĩ quân Quân đội nhân dân Lào”; Nghị định số 057- QĐ-CTN về “Công tác

bảo vệ an ninh quốc gia” [108]. gắn với thiện hiện phong trào thi đua “Cả nước

chung sức xây dựng nông thôn mới”; đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước - yêu

phát triển, bám sát với nhiệm vụ chính trị, thực hiện các mục tiêu phát triển KT-XH

của từng địa phương và đơn vị. Đặc biệt, công tác tuyên truyền, giáo dục phổ biến

31

kiến thức QP, AN cho tầng lớp nhân dân được phát huy cả bề rộng và chiều sâu;

truyền đạt nhiều nhiều hình thức phong phú, nội dung được lựa chọn phù hợp với

từng mục tiêu và đối tượng. Trên cơ sở đó, công tác giáo dục QP, AN ở địa phương

thường xuyên được củng cố kiện toàn, duy trì nền nếp hoạt động; cán bộ, chiến sĩ

của các sư đoàn đã tham mưu tốt cho cấp ủy, chính quyền địa phương ban hành các

văn bản lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện đồng bộ công tác giáo dục QP, AN trên

địa bàn đóng quân. Đồng thời, tích cực đổi mới nội dung, phương thức nhằm nâng

cao chất lượng hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục QP, AN cho các

tầng lớp nhân dân, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Các sư đoàn thuộc QĐND Lào đã thường xuyên quan tâm giáo dục cho các

tầng lớp nhân dân nhận thức đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,

pháp luật của Nhà nước; tuyên truyền, vận động nhân dân có tính tự giác góp phần

xây dựng và phát triển quê hương; tích cực thực hiện nghĩa vụ của quốc gia; giáo

dục, rèn luyện cho nhân dân giác ngộ về mặt chính trị, phân biệt rõ ràng giữa địch -

ta, có sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, có tinh thần yêu nước, yêu chế độ XHCN cao

cả và thực thực đúng theo pháp luật quốc gia nghiêm tục; tích cực góp phần thực

hiện công tác QP, AN, chủ động bảo vệ an ninh tổ quốc ổn định. Tập trung củng cố

xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh, chặt chẽ làm nòng cốt về mọi mặt cho các

phong trào của địa phương phát động; vừa giáo dục, rèn luyện và lãnh đạo nhân dân

tổ chức phát huy chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà

nước, kế hoạch phát triển KT-XH của địa phương. Củng cố, kiện toàn bộ máy ở địa

phương và các cơ quan giúp việc có chất lượng cao, trong sạch, vững mạnh, hiểu

biết rõ và làm tròn nhiệm vụ chính trị của mình; củng cố Mặt trận Lào xây dựng

đất nước, các đoàn thể chính trị - xã hội ở địa phương thực hiện theo đúng theo

chức năng, nhiệm vụ của mình. Giáo dục, rèn luyện cho nhân dân các dân tộc

nhận thức rõ và tổ chức thực hiện đường lối QP, AN toàn dân của Đảng, nâng cao

tinh thần cảnh giác trước âm mưu chống phá của các thế lực thù địch đối với nước

ta; tập trung xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân ở địa phương vững mạnh, gắn

với xây dựng làng phát triển; huấn luyện, diễn tập cho các lực lượng du kích, dân

quân tự vệ về mặt kiến thức QP, AN, trang bị vũ khí - kỹ thuật phù hợp với đối

32

tượng, thường xuyên tổ chức lực lượng bảo vệ vùng địa bàn đặc trách, thực hiện

theo Chỉ thị số 705/BQP của Bộ Quốc phòng “Về xây dựng gia đình và làng quốc

phòng vững mạnh” [70].

Hai là, tham gia xây dựng, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ

thống chính trị ở cơ sở địa bàn đóng quân; góp phần đảm bảo giữ vững ổn định

chính trị - xã hội.

Quán triệt sâu sắc tư tưởng của Cay Xỏn Phôm Vi Hản về “Chỉ có xuống

xây dựng cơ sở, mới có thể phát huy được dân chủ trong quần chúng nhân dân, để

cho nhân dân tham gia ý kiến về chủ trương, đường lối của Đảng và tổ chức phát

huy chủ trương đó ở cơ sở địa phương của họ, góp phần tham gia xây dựng, củng

cố tổ chức cơ sở đảng và chính quyền” [82, tr.362]; cùng thực hiện hai nhiệm vụ

chiến lược về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới. Trong lãnh đạo, chỉ

đạo thực hiện nhiệm vụ CTDV của địa phương, các sư đoàn đã thực hiện tốt chức

năng tham mưu cho các cấp ủy, chính quyền trên tất cả các lĩnh vực công tác xây

dựng hệ thống chính trị, phát triển kinh tế, đời sống văn hóa, QP, AN, chính sách xã

hội, hậu phương quân đội. Lực lượng của các sư đoàn đã tích cực tuyên truyền, vận

động, giáo dục cho nhân dân chấp hành đúng chủ trương, đường lối của Đảng,

chính sách, pháp luật của Nhà nước, thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược trong

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời tập trung góp phần phát triển KT-XH đi đôi

với tăng cường tiềm lực QP, AN trên vùng địa bàn đóng quân. Đặc biệt, các sư

đoàn thuộc QĐND Lào đã quán triệt Nghị quyết số 25-NQ/BCT của Bộ Chính trị

về “Mục tiêu, đối tượng và biện pháp xây dựng tỉnh thành đơn vị chiến lược, xây

dựng huyện thành đơn vị vững mạnh toàn diện, xây dựng làng thành đơn vị phát

triển” [69]. Mục đích, để tăng cường phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội ở địa

phương, giải quyết xóa đói, giảm nghèo; cải thiện đời sống vật chất, tình thần cho

nhân dân là một công việc trung tâm của CTDV, do bắt đầu từ gia đình, làng, cụm

bản, huyện nhằm xây dựng kế hoạch chiến lược phát triển KT-XH của của địa

phương. Coi trọng công tác QP, AN là một biện pháp cơ bản. Vì điều đó, phải phấn

đấu tổ chức thực hiện đường lối QP, AN toàn dân của Đảng là một trong những

nghĩa vụ, vừa là trách nhiệm của nhân dân các dân tộc, do bắt đầu từ gia đình, làng,

33

đơn vị, các khối kinh doanh, danh nghiệp, bệnh viện, nhà trường và cả nghĩa vụ của

người nước ngoài sống ở nước Lào để hoạt động làm kinh doanh đúng theo pháp

luật của nhà nước CHDCND Lào.

Các sư đoàn thuộc QĐND Lào đã tập trung giúp chính quyền địa phương

lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới, nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị; đồng thời

đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, gắn với củng cố, nâng cao kỷ luật, kỷ cương

theo pháp luật; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, vững mạnh có năng

lực đáp ứng yêu cầu của Đảng trong tình hình mới; phát huy tốt quyền làm chủ của

nhân dân… chăm lo xây dựng, củng cố, tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong

Đảng; thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ; tiếp tục đổi mới, kiện

toàn tổ chức bộ máy của Đảng; kiện toàn tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất

lượng đảng viên. Các sư đoàn đã tập trung quán triệt, cụ thể hóa các Chỉ thị, Nghị

quyết của Đảng thành các kế hoạch, chương trình hành động để triển khai thực hiện

ở địa phương; các sư đoàn đã chủ động phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa

phương, các ban, ngành và lực lượng có liên quan góp phần củng cố, kiện toàn tổ

chức hệ thống chính trị ở cơ sở; từng bước phát huy vai trò, trách nhiệm của Mặt

trận Lào xây dựng đất nước, các đoàn thể chính - trị xã hội thành cầu nối giữa

Đảng, chính quyền với nhân dân; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc để tạo

nên sức mạnh tổng hợp thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển KT-XH, đảm

bảo QP, AN trên địa bàn.

Ba là, thường xuyên tiến hành công tác dân vận, giúp đỡ nhân dân phát

triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa đói, giảm nghèo, phòng chống, khắc phục hậu

quả thiên tai, thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo và các chính sách xã hội; củng

cố, tăng cường tình đoàn kết quân dân, xây dựng mối quan hệ gắn bó máu thịt với

nhân dân.

Phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương, các đoàn thể chính trị

- xã hội và các ngành có liên quan xây dựng chương trình, kế hoạch và lập chính

sách rõ ràng để sử dụng tiềm năng, tìm lực của đại phương phù hợp với tình hình

thực tế. Tập trung giải quyết vấn đề nghèo đói của nhân dân các dân tộc giảm

xuống; bắt đầu từ thu nhập dữ liệu, sắp xếp khu dân cư và nghề nghiệp ổn định, gắn

34

với xây dựng làng trở thành đơn vị phát triển, xây dựng làng lớn trở thành thị trấn ở

nông thôn. Chỉ đạo cán bộ chuyên môn, đẩy mạnh các chương trình sản xuất tạo

điều kiện thuận lợi xây dựng trung tâm cung cấp giống, đào tạo cán bộ chuyên môn

tại chỗ, cung cấp về mặt kỹ thuật, thông tin, kinh tế thị trường, đảm bảo sản xuất và

có sự phân phối phát triển liên tục, xây dựng gia đình gương mẫu về mặt sản xuất

tăng lên hơn nữa.

Tập trung vận động nhân dân góp phần xây dựng cơ sở hạ tầng, sửa chữa các

tuyến đường giao thông đến nông thôn đảm bảo được hai mùa (Mùa mưa và mùa

hè), cùng với xây dựng trường tiểu học, trường trung học cơ sở, trường trung học

phổ thông ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, để phát triển ngành giáo dục đào

tạo đến vùng nông thôn toàn diện, vận động trẻ em đến tuổi đi học đạt tỷ lệ cao, vận

động phong trào xóa mù chữ và thực chính sách đối với giáo viên tình nguyện giảng

dạy ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa để cổ vũ cho họ làm hoàn thành nhiệm vụ

của mình; góp phần tham gia công tác y tế, đặc biệt là xây dựng gia đình và làng

gương mẫu về mặt y tế, làng vệ sinh cho tăng lên; phối hợp với cấp ủy, chính quyền

địa phương đẩy mạnh phong trào văn hóa - xã hội, nhằm giáo dục cho các thanh

niên và tuổi trẻ tham gia hoạt động cuộc vận động sáng tác văn học nghệ thuật, thể

thao để tránh ra ma túy, tạo sự nhận thức cho các thế hệ trẻ và các tầng lớp nhân dân

biết giữ gìn bản sắc văn hóa, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp của

các dân tộc, giảm tín ngưỡng, ngăn chặn tệ mê tín dị đoan, buôn bán người và văn

hóa phương tây. Phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương đẩy mạnh nhân dân

đổi mới sản xuất lạc hậu, do dựa vào thiên nhiên là vấn đề trọng tâm để từng bước

thành sản xuất kinh tế hàng hóa, bằng tổ chức nhóm sản xuất, nhóm thủ công mỹ

nghệ, nhóm trồng, chăn nuôi. Ngoài ra, còn lãnh đạo nhân dân trồng trọt nông

nghiệp như: Cam, chanh, bắp cải, ngô, khoai lang, khoai tây và khai khai thác đồ

rừng bán tạo thu nhập cho gia đình.

Mặt khác, công tác văn hóa - xã hội đã sửa chữa và xây dựng các trường học

để đảm bảo cho trẻ em đến tuổi đã học hành bình thường, trong đó đã sử dụng một

số cán bộ, chiến sĩ vừa làm CTDV, vừa giảng dạy cho các trẻ em cấp tiểu học; vận

động nhân dân dùng nước sạch, xây dựng bệnh xã, đảm bảo cấp thuốc chữa bệnh

35

cho cán bộ và nhân dân. Chủ động tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương

xây dựng kế hoạch phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai, cứu hộ, cứu nạn

trên các địa bàn đóng quân; lãnh đạo các Sư đoàn thường xuyên quan tâm chỉ đạo

các cơ quan, đơn vị luyện tập xử trí các tình huống thiên tai, bão lũ, không để bị

động, bất ngờ. Ðồng thời, quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị các cấp

chủ động phối hợp các với các ban, ngành và lực lượng có liên quan xây dựng

phương án phòng chống và khắc phục hậu thiên tai trên địa bàn; xây dựng các

phương án bố trí lực lượng, phương án ứng phó, xử lý tình huống khẩn cấp và tìm

kiếm cứu nạn do thiên tai bão lũ quét, vỡ hồ chứa, sóng thần, khắc phục hậu quả

thiên tai; chỉ đạo các cơ quan, đơn vị chủ động xây dựng, hoàn thiện hệ thống kế

hoạch phòng chống cháy nổ, cháy rừng; tổ chức khảo sát địa hình, xây dựng kế

hoạch, chuẩn bị và triển khai diễn tập ứng phó cháy rừng và tìm kiếm cứu hộ, cứu

nạn trên địa bàn đóng quân. Ngoài ra, nơi các sư đoàn đóng quân là địa bàn đặc thù,

có nhiều làng, huyện, tỉnh, có đồng bào dân tộc thiểu số và người theo tôn giáo.

Như vậy, trong thời gian qua cấp ủy, chỉ huy của các sư đoàn luôn xem việc thực

hiện chính sách dân tộc, tôn giáo là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng

đầu; từ việc tổ chức thực hiện hiệu quả nhiều chương trình, đề án quan trọng liên

quan đến dân tộc, tôn giáo, tình hình chính trị, KT-XH ở vùng sâu, vùng xa, vùng

dân tộc thiểu số, ngày càng ổn định và có bước phát triển vững chắc. Đặc biệt là,

cán bộ, chiến sĩ của các sư đoàn đã tích cực làm tốt công tác vận động quần chúng,

củng cố, tăng cường tình đoàn kết quân dân, xây dựng mối quan hệ gắn bó máu thịt

với nhân dân; chủ động phát hiện, ngăn chặn hiệu quả mọi âm mưu, thủ đoạn, lợi

dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước và cách mạng Lào.

Bốn là, xây dựng, củng cố tổ chức bộ máy, cán bộ chuyên trách làm công tác

dân vận của các sư đoàn.

Các sư đoàn QĐND Lào đã quan tâm chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, củng cố

kiện toàn tổ chức bộ máy dân vận các cấp và các tổ, đội công tác ở cơ sở về mặt số

lượng, chất lượng và phong cách làm việc trong tổ chức lực lượng xuống cơ sở làm

CTDV, thực hiện vai trò tham mưu cho các sư đoàn trưởng, trong công tác xây

chương trình, dựng kế hoạch chi tiết và tổ chức thực tế, phù hợp với các giai đoạn

36

để đạt được nhiệm vụ theo Chỉ thị số 20/BCT của Bộ Chính trị về “Tăng cường làm

công tác dân vận ở cơ sở vững mạnh” của Bộ Chính trị đặt ra [57]. Các sư đoàn

thuộc QĐND Lào đã lựa chọn cán bộ, chiến sĩ có đủ khả năng, kiến thức, có phẩm

chất đạo đức cách mạng, bản lĩnh chính trị vững vàng; để đào tạo, bồi dưỡng, giáo

dục, quán triệt chủ trương đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,

quan tâm bồi dưỡng về công tác vận động quần chúng cho các cơ quan, đơn vị và

cán bộ, chiến sĩ. Ngoài ra còn tổ chức bồi dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức, trách

nhiệm, kiến thức về CTDV của Đảng, công tác quân sự, quốc phòng địa phương,

kiến thức về mặt KT-XH, khoa học, công nghệ, thông tin và kinh nghiệm có liên

quan trực tiếp đến nhiệm vụ, mục tiêu của từng đợt hoạt động. Để thực hiện hiệu

quả theo Chỉ thị hướng dẫn của Bộ Chính trị đã nêu trên, hàng năm lãnh đạo các sư

đoàn đã tổ chức, bố trí cán bộ, chiến sĩ về địa phương để khảo sát nắm chắc tình

hình ở vùng sâu, vùng xa, vùng trọng điểm chiến lược; tham gia tuyên truyền vận

động nhân dân, xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh, thực hiện nhiệm vụ của địa

phương. Trong đó, các sư đoàn đã tập trung tổ chức bộ máy và con người phục vụ

cho CTDV ở các vùng địa bàn đóng quân bằng hai hình thức chủ yếu như: Hình

thức thứ nhất, làm CTDV theo truyền thống. Có nghĩa là đơn vị đứng chân ở nơi

nào phải làm CTDV ở nơi đó, để thắt chặt mối quan hệ máu thịt giữa quân đội với

nhân dân, thực hiện quân với dân là một ý. Hình thức thứ hai, làm CTDV cả bề

rộng và chiều sâu theo 4 nội dung, 4 mục tiêu của Đảng như: Tăng cường lực lược

phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương thực hiện công tác dân vận, phát triển

nông thôn mới, gắn với công tác 3 xây dựng ở vùng sâu, vùng xa, vùng trọng điểm

chiến lược của Đảng.

Năm là, phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương, Mặt trận Lào xây

dựng đất nước, các đoàn thể nhân dân cùng cấp và các cơ quan liên quan làm tốt

công tác tham mưu với cấp ủy, chính quyền về công tác dân vận trên địa bàn

đóng quân.

Quán triệt và thực hiện các chỉ thị, nghị quyết, của Đảng, Nhà nước, Bộ quốc

phòng về công tác dân vận và Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị; các

chương trình phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương, Mặt trận Lào xây dựng

37

Đất nước, các đoàn thể nhân dân cùng cấp và các cơ quan liên quan về CTDV trên

địa bàn đóng quân giai đoạn 2016 - 2020, các sư đoàn đã chủ động phối hợp với cấp

ủy, lãnh đạo chính quyền địa phương các tỉnh triển khai toàn diện, thực hiện có hiệu

quả CTDV, sát với đặc điểm, yêu cầu nhiệm vụ của các đơn vị và điều kiện của địa

phương; đồng thời ban hành các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn của các cơ

quan, đơn vị quán triệt, triển khai thực hiện nhiệm vụ CTDV đạt kết quả cao. Cùng

với thường xuyên nắm chắc tình hình mọi mặt, trao đổi thông tin, thống nhất các

nội dung, hình thức tuyên truyền, thuyết phục, vận động nhân dân trên địa bàn đóng

quân; tham gia thực hiện có hiệu quả các chương trình, kế hoạch, mục tiêu phát

triển KT-XH; góp phần củng cố, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở và nhiệm vụ QP,

AN trên địa bàn vững mạnh. Có thể khẳng định, công tác phối hợp với cấp ủy,

chính quyền địa phương, Mặt trận Lào xây dựng Đất nước, các đoàn thể nhân dân

cùng cấp và các cơ quan liên quan được triển khai đồng bộ, toàn diện, sát với chức

năng, nhiệm vụ, phù hợp với thực tiễn của các cơ quan, đơn vị và điều kiện của địa

phương, góp phần thực hiện tốt CTDV của Đảng, của Quân đội trong tình hình

mới; xây dựng, củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước; các hoạt

động phối hợp tạo thành nền nếp luôn có sự gắn kết chặt chẽ với nhau giữa các sư

đoàn và địa phương; nội dung, hình thức phối hợp được chú trọng đổi mới, mang lại

tính hiệu quả thiết thực.

Trong thời gian qua, các sư đoàn thuộc QĐNDL đã chú trọng phối hợp hoạt

động với lực lược quân sự địa phương, công an nhân dân tỉnh tập trung thực hiện

nhiệm vụ CTDV, nhằm làm cho tình hình ở khu vực đặc trách cũng như trên phạm

vị cả nước cơ bản ổn định, tiếp tục thực hiện theo chỉ thị và mệnh lệnh của Bộ Quốc

phòng để tổ chức, chuẩn bị và sử dụng lực lượng tăng cường về cơ sở địa phương

để thực hiện nhiệm vụ dân vận ở vùng sâu, vùng xa, vùng chiến lượng quan trọng

của Đảng. Có nhiều đơn vị của các sư đoàn đã góp phần thiết thực thực hiện nhiệm

vụ dân vận, tạo thành tích xuất sắc xứng đáng nhất. Đồng thời giáo dục, rèn luyện

bản lãnh chính trị của cán bộ, chiến sĩ, đa số đồng chí có sự tiến bộ, có kinh nghiệm

về phong cách lãnh đạo, chỉ đạo CTDV và xử lý các tình huống phức tạp xảy ra ở

38

địa phương; có khả năng lãnh đạo, chỉ đạo đơn vị thực hiện hoàn thành mọi nhiệm

vụ mà Đảng, Nhà nước, Nhân dân giao phó.

2.1.3. Phương thức công tác dân vận của các sư đoàn thuộc Quân đội

nhân dân Lào

Theo thuật ngữ xây dựng Đảng, “phương thức lãnh đạo của Đảng” là hệ

thống các hình thức, phương pháp, biện pháp, quy trình, lề lối làm việc, tác phong

công tác mà chủ thể lành đạo sử dụng để tác động trực tiếp vào các đối tượng lãnh

đạo, nhằm làm cho nội dung lãnh đạo của chủ thể đã trở thành thực hiện [55,

tr.352]. Từ cách tiếp cận trên có thể hiểu: Phương thức tiến hành CTDV gồm toàn

bộ hệ thống các hình thức, phương pháp và các quy trình của Đảng được sử nhằm

đạt nội dung, mục đích dân vận của Đảng. Các sư đoàn thuộc QĐND Lào đã tiến

hành CTDV của thông qua các phương thức chủ yếu sau đây:

Một là, các sư đoàn Quân đội nhân dân Lào tiến hành công tác dân vận bằng

ban hành chỉ thị, nghị quyết, chương trình và kế hoạch về công tác dân vận.

Thực hiện theo nội dung, tinh thần của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI

của Đảng nhân dân cách mạng Lào về “Tập trung thực hiện nhiệm vụ củng cố, xây

dựng lực lượng vũ trang nhân dân mạnh mẽ về mặt chính trị, tư tưởng, vững mạnh

về mặt tổ chức, bằng coi trọng phẩm chất chính trị là chủ yếu hàng đầu, gắn với sự

hoạt động thực hiện nhiệm vụ QP, AN, làm cho Tổ quốc ổn định chính trị, trật tự an

toàn xã hội, tập trung thực hiện phương thức tăng cường lực lượng về cơ sở làm

công tác dân vận cả bề rộng và chiều sâu theo 4 nội dung, 4 mục tiêu, xây dựng thế

trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc, gắn với xây dựng

làng và cụm làng phát triển và công tác 3 xây dựng bằng sự tập trung vào khu vực

chiến lược trọng điểm của Chính phủ giao cho” [91]. Trên cơ sở quán triệt và nắm

chắc các nội dung, tinh thần trên, các sư đoàn đã mang lại các Chỉ thị, Nghị quyết,

đường lối, quan điểm chủ Đảng, của Quân đội vào tổ chức thực hiện nhiệm vụ cụ

thể của đơn vị, trong đó có những phương hướng, mục tiêu cho đến nội dung, hình

thức và biện pháp tổ chức. Vì vậy, các sư đoàn thuộc QĐND Lào đã bàn hành các

Chỉ thị, Nghị quyết và kế hoạch về CTDV để căn cứ cho sự chỉ đạo, lãnh đạo các cơ

39

quan, đơn vị trực thuộc, thực hiện đúng theo chức năng, nhiệm vụ của mình, nhằm

khắc phục những hạn chế để làm tốt CTDV. Qua thực hiện các chỉ thị, nghị quyết

của Đảng đã nói trên, các sư đoàn thuộc QĐND Lào đã kế thừa và phát huy vận

dụng vào trong xây dựng chương trình và kế hoạch với những nội dung cụ thể như:

- Về mục đích, yêu cầu: Nhằm nâng cao khả năng, kiến thức thức của cán

bộ, chiến sĩ về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước

đối với CTDV; qua đó mỗi cán bộ, chiến sĩ của các cơ quan, đơn vị bảo đảm phải

hoàn thành trách nhiệm và xác định xem xét ai phải chịu trách nhiệm CTDV; học

tập và làm theo tấm gương, đạo đức và phong cách làm việc của Chủ tịch Hồ Chí

Minh và Chủ tịch Cay Xỏn Phôm Vi Hản, để đảm bảo hiệu quả trong việc thực hiện

nhiệm vụ CTDV của trên giao cho.

- Về nội dung thực hiện: Quán triệt, học tập các Chỉ thị, Nghị quyết của

Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về CTDV trong tình hình mới; rèn luyện

đạo đức cách mạng gắn với học tập lý luận Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ

Chí Minh, tư tưởng Cay Xỏn Phôm Vi Hản; thể chế hóa chủ trương, đường lối của

Đảng chính sách, pháp luật của Nhà nước; hầu hết các sư đoàn thuộc QĐND Lào

đều tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương đưa nội dung thực hiện quy chế

dân chủ ở cơ sở gắn với phong trào thi đua xây dựng “Đơn vị dân vận gương mẫu”

và các phong trào thi đua yêu nước; thực hiện công khai minh bạch các công việc

của các cơ quan, đơn vị; tiếp tục xây dựng các cơ quan, đơn vị của các sư đoàn

vững mạnh toàn diện, xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong sạch vững mạnh

hoàn thành tốt và xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

- Về tổ chức thực hiện: Xây dựng chương trình, kế hoạch và tổ chức thực

hiện CTDV hàng năm; đồng thời phổ biến, triển khai các chương trình, kế hoạch

cho tất cả cơ quan, đơn vị trực thuộc sư đoàn. Trong đó, từng các định kỳ cần tổng

hợp báo cáo tình hình kết quả thực hiện CTDV với cấp ủy, lãnh đạo các sư đoàn và

các cơ quan chuyên môn theo quy định đặt ra. Trên đây là các chương trình, kế

hoạch cụ thể trong thực hiện CTDV của các sư đoàn trên địa bàn đóng quân.

Hai là, các sư đoàn thuộc Quân đội nhân dân Lào tiến hành công tác dân vận

bằng cả hình thức truyền thống như gặp gỡ, tuyên truyền thuyết phục trực tiếp và có

40

hình thức phi truyền thống thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, báo chí,

phát thanh - truyền hình và báo điện tử hiện đại.

Sinh thời Bác Hồ đã chỉ rõ: “Đem một việc gì đó nói cho dân hiểu, dân nhớ,

dân theo, dân làm. Nếu không đạt được mục đích đó là tuyên truyền thất bại” [43,

tr.162]. Muốn tiến hành CTDV hiệu quả nhất thiết phải khéo kỹ năng tuyên truyền,

thuyết phục, vận động nhân dân; đây là một một kỹ năng không thể thiếu được đối

với người cán bộ làm CTDV; là một vấn đề cơ bản nhất, khi tiến hành công tác

tuyên truyền, thuyết phục, vận động nhân dân nhất thiết phải đi sâu vào đời sống

của nhân dân ở địa phương, phải hiểu được ngôn ngữ, văn hóa, phong tục, tập quán

của từng địa phương, từng dân tộc mới có thể thuyết phục hiệu quả được. V.I. Lênin

đã từng khẳng định rằng: “Người cán bộ ấy phải nhớ rằng anh ta không những là

người tuyên truyền bằng lời nói, không những phải giúp đỡ những tầng lớp nhân

dân mê muội nhất. Đó là nhiệm vụ chủ yếu của anh ta và không làm như vậy anh sẽ

không còn là người cán bộ của Đảng, không làm như vậy anh ta không thể tự coi

mình là người cộng sản được” [28, tr.181]. V.I. Lênin rất coi trọng phương pháp

tuyên truyền, thuyết phục, giáo dục quần chúng nhân dân. Người còn chỉ ra nhiệm

vụ quan trọng hàng đầu cho các Đảng Cộng sản hiện nay là: “ Phải thuyết phục cho

đa số nhân dân thấy được sự đúng đắn của cương lĩnh và sách lược của mình”. Đây

là một nhiệm vụ chiến lược quan trọng trước khi thời kỳ chưa giành được chính

quyền, cũng như thời kỳ đã giành được chính quyền, xây dựng chủ nghĩa xã hội

[27, tr.210]. Nhưng khẳng định trên đây là cơ sở để các sư đoàn thực hiện tốt chức

trách, nhiệm vụ của mình trong việc tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành

đúng chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, giữ vững được lòng

tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ

thống chính trị và toàn dân trong xây dựng nền QP, AN trên địa bàn vững chắc.

Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực sẽ tiếp tục có những diễn biến phức tạp,

tác động ảnh hưởng đến an ninh, trật tự trong nước và địa phương. Cho nên các sư

đoàn cần tiếp tục tăng cường kỹ năng tuyên truyền, thuyết phục, vận động nhân dân

thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là báo chí, phát thanh - truyền

hình và báo điện tử phát triển nhanh chóng, nhằm kịp thời đấu tranh phản bác, vạch

41

trần những âm mưu thủ đoạn hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù

địch; đồng thời kịp thời cung cấp, định hướng thông tin cho cán bộ, đảng viên và

các tầng lớp nhân dân ở địa bàn đóng quân. Ngoài ra, việc hoạt động tuyên truyền,

thuyết phục, vận động nhân dân của cán bộ, chiến sĩ được cấp ủy, chính quyền địa

phương xác định là quan trọng nhất nhằm vận động, tuyên truyền, giáo dục chủ

trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đi xuyên suốt

rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân để cho họ thêm tự hào, tin tưởng tuyệt đối vào

sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước. Mặt khác, các sư đoàn luôn chú trọng đến công

tác tuyên truyền, thuyết phục của các cơ quan, đơn vị nhằm nâng cao hoạt động

CTDV một cách có hiệu quả như: Tuyên truyền, thuyết phục nhân dân thông qua

các phương tiện thông tin đại chúng, báo chí, phát thanh - truyền hình và báo điện

tử phát triển nhanh chóng, để hoạt động làm một khối âm thanh trong tuyên truyền,

vận động nhân dân chấp hành đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,

pháp luật của Nhà nước và những kết quả nổi bật trong việc lãnh đạo, chỉ đạo của

Đảng và Nhà nước đến rộng rãi; góp phần đấu tranh chống lại các luận điệu xuyên

tạc, sai trái của các thế lực thù địch, phản động để kịp thời triển khai biện pháp

phòng chống, ngăn chặn có hiệu quả.

Hơn nữa, phương pháp tuyên truyền, thuyết phục của các sư đoàn là thông

qua tạp chí, báo chí, đài truyền hình, phát thanh - truyền hình và báo điện tử, do tập

trung khu vực đang phát triển, nhất là vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng

trọng điểm của Đảng. Trong đó, lãnh đạo các sư đoàn đã tổ chức, bố trí và phân

công trách nhiệm cho các tổ, đội công tác xuống cơ sở trực tiếp làm nhiệm vụ tuyên

truyền, thuyết phục nhân dân bằng cách như: Dùng miệng để tuyên truyền trực tiếp

với người nghe, không qua một phương tiện trung gian nào nhằm tuyên truyền một

cách có hệ thống quan điểm, đường lối, chính sách của một giai cấp, lực lượng xã

hội. Tuyên truyền bằng các văn bản để giải thích các nội dung chỉ thị, nghị quyết

của Đảng đến đồng bào nhân dân, đồng thời đưa các nghị quyết của Đảng vào cuộc

sống. Cung cấp tạp chí, báo chí quốc phòng toàn dân và thông tin của Đảng, Nhà

nước phân phối cho các đơn vị và nhân dân ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa để

cho họ hiểu biết hoạt động lãnh đạo của Đảng, Nhà nước từng mỗi giai đoạn. Hoạt

42

động văn hóa văn nghệ, triển lãm ảnh; bằng hành động gương mẫu, những việc làm

cụ thể của cán bộ, chiến sĩ hàng ngày để giúp đỡ và thuyết phục nhân dân. Trực tiếp

phát thanh - truyền hình và báo điện tử, thu thập các hình ảnh hoạt động quan hệ

đoàn gắn bó máu thịt giữa Đảng, Quân đội và nhân dân; kế hoạch phát triển kinh tế,

văn hóa - xã hội của Nhà nước, đường lối QP, AN, quan hệ hợp tác quốc tế...

Ba là, các sư đoàn thuộc Quân đội nhân dân Lào tiến hành công tác dân vận

bằng thông qua phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương và các ngành trên địa

bàn giải quyết các tình huống phức tạp liên quan đến an ninh chính trị, trật tự an

toàn xã hội ở đại phương.

Trong hàng năm, công tác phối hợp, liên kết chặt chẽ với cấp ủy, chính

quyền địa phương, Mặt trận Lào xây dựng đất nước, các tổ chức đoàn thể chính trị -

xã hội và các ngành trên địa bàn được duy trì và thực hiện nền nếp hơn, có hiệu quả

trong việc lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện, đã góp phần hoàn thành các nhiệm

vụ đề ra. Nội dung phối hợp thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế, VH-XH, công tác

xây dựng nông thôn mới; nhiệm vụ QP, AN ở địa phương với nhiều nội dung cách

làm hay. Chương trình phối hợp được tập trung với các nội dung tuyên truyền, vận

động nhân dân thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật

của Nhà nước; tích cực đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp CTDV, bám sát

cơ sở, sát thực tiễn, sát địa bàn; đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, yêu phát

triển, gắn với xây dựng mô hình “Đơn vị dân vận gương mẫu”; tích cực tham gia

củng cố, xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh; đồng thời nắm chắc tình

hình, tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, giải quyết các vụ việc phức tạp

từ cơ sở; xây dựng tiềm lực chính trị, nâng cao tinh thần cảnh giác trong khu vực

phòng thủ, đấu tranh làm thất bại âm mưu “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của

các thế lực thù địch, kịp thời giải quyết các vụ việc phức tạp xảy ra về an ninh chính

trị, trật tự an toàn xã hội, tập trung xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc về mọi

mặt gắn với phát triển KT-XH.

Lãnh đạo, chỉ huy các sư đoàn thuộc QĐND Lào cũng đã quan tâm chỉ đạo

các cơ quan, đơn vị và trực tiếp chủ động phối hợp với địa phương, các lực lượng liên

43

quan để thống nhất các nội dung, chương trình và kế hoạch của CTDV. Trong đó,

việc phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương và các lực lượng liên quan trên địa

bàn phải đúng theo tư tưởng chỉ đạo của Đảng ủy Bộ Quốc phòng đặt ra, phát huy vai

trò trung tâm phối hợp hiệp đồng với lực lượng quân sự của địa phương và cần chú ý

khắc phục hiện tượng tiêu cực trong quá trình tiến hành CTDV trên địa bàn đóng

quân. Vì vậy, các sư đoàn thuộc QĐND Lào phải chủ động phối hợp chặt chẽ với cấp

ủy, chính quyền địa phương, các đoàn thể chính trị - xã hội, các ngành trên địa bàn để

cùng nhau từng bước tiến hành, vừa là củng cố, xây dựng phong cách làm việc và

tổng kết đánh giá, rút ra những kinh nghiệm, sau đó thường xuyên báo cáo cho cấp

trên để xin ý kiến tổ chức thực hiện bước tiếp theo.

Bốn là, các sư đoàn thuộc Quân đội nhân dân Lào tiến hành công tác dân vận

bằng tổ chức bộ phận chuyên trách về vùng sâu, vùng xa làm công tác dân vận, để

góp phần củng cố xây dựng “thế trận lòng dân”, rèn luyện tác phong công tác, bản

lĩnh chính trị, phẩm chất “Bộ đội Lào Ít Xa La” cho cán bộ, chiến sĩ.

Đây là một nội dung, hình thức quan trọng theo truyền thống CTDV của

QĐND Lào, nhằm thiết thực góp phần củng cố xây dựng “thế trận lòng dân”, rèn

luyện tác phong công tác, bản lĩnh chính trị, phẩm chất, đạo đức của “Bộ đội Lào Ít

Xa La” cho cán bộ, chiến sĩ; đồng thời xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn

diện. Hình thức CTDV của QĐND Lào được thể hiện trong mỗi giai đoạn lãnh đạo

cách mạng của Đảng ta, bất cứ lúc nào CTDV luôn bám sát đường lối, chủ trương

của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần tăng cường bản chất cách

mạng, truyền thống “Bộ đội Lào Iat Xa La” của quân đội nhân dân Lào trong thời

kỳ mới.

Căn cứ vào tình hình của đơn vị, địa bàn để tổ chức bộ phận chuyên trách

làm công tác dân vận ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người; căn cứ vào yêu

cầu của địa phương và căn cứ vào quy định của Bộ Quốc phòng Lào; lãnh đạo các

sư đoàn đã chủ động phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương, tập trung

thống nhất kế hoạch tổ chức bộ phận chuyên trách làm CTDV, cùng phân công

nhiệm vụ cho chỉ huy, tổ chức đảng các cấp trực tiếp phụ trách, quản lý CTDV tại

44

địa phương; phát huy vai trò tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương về

CTDV, kể cả công tác dân tộc, tôn giáo ở địa phương; chủ động phối hợp với các

lực lượng có liên quan để nắm chắc, theo dõi tình hình tâm tư, nguyện vọng chính

đáng của nhân dân, giải quyết kịp thời những bức xúc trong xã hội… Thời gian

qua, các tổ, đội công tác chuyên trách của các sư đoàn đã tổ chức thực hiện tốt với

nhiều nội dung, phương thức tiến hành CTDV đặt hiệu quả, đã góp làm tốt nhiệm

vụ phát triển kinh tế, VH-XH, xóa đói, giảm nghèo; đảm bảo QP, AN; cải thiện,

nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; góp phần tăng cường vững

chắc khối đại đoàn kết toàn dân; tham gia xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở

vững mạnh; giúp cấp ủy, chính quyền và nhân dân ở địa phương ứng phó, khắc

phục hậu quả các vụ thiên tai như bão, mưa lũ, sạt lở đất, ngập lụt, lốc xoáy, sự cố

cháy nổ, cháy rừng... Theo đó, hoạt động CTDV của các tổ, đội công tác chuyên

trách trực thuộc ban dân vận của các sư đoàn đã góp phần thiết thực củng cố, xây

dựng mối quan hệ đoàn kết gắn bó máu thịt giữa Đảng, Nhà nước, Quân đội với

Nhân dân; xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự

an toàn trong xã hội. Đồng thời, góp phần làm tỏa sáng phẩm chất, truyền thống

tốt đẹp “Bộ đội Lào Iat Xa La” và tình cảm quý trọng, thương mến trong lòng

nhân dân trên địa bàn đóng quân.

Năm là, các sư đoàn thuộc Quân đội nhân dân Lào tiến hành công tác dân

vận thông qua vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ của các sư đoàn.

Vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ là một yêu cầu khách

quan, bắt nguồn từ vị trí, vai trò, sứ mệnh lịch sử của Đảng ta. Chủ tịch Hồ Chí đã

chỉ ra rằng: “Cán bộ, đảng viên bất kỳ lúc nào cũng phải gương mẫu trong các

nhiệm vụ chuyên môn, trong học tập, lao động sản xuất, trong tất cả các mọi lĩnh

vực công tác” [106, tr.14]. “Chính vì vậy, cán bộ đảng viên phải gương mẫu, phải

nêu tấm gương về nói đi đôi với làm” [39, tr.327]; đồng thời phải nêu gương mẫu

về đạo đức của người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau.

Cán bộ, đảng viên, chiến sĩ phải là người có tính đảng cao, có bản lĩnh chính

trị vững vàng, nắm vững và vận dụng sáng tạo các quan điểm, đường lối của Đảng,

45

chỉ thị, nghị quyết của cấp trên, nắm vững nguyên tắc, quy chế CTDV, có phong

cách làm việc sâu sát, tỉ mỉ, cụ thể, thái độ chân thành, cởi mở, gần gũi với nhân

dân, lối sống trung thực, gương mẫu về mọi mặt để mọi người noi theo. Cho nên

cán bộ, đảng viên, chiến sĩ cần làm tốt nhiệm vụ CTDV ở địa phương để người dân

đồng thuận, ủng hộ, có tin tưởng vào Đảng và hệ thống chính trị. Đồng thời, lựa

chọn những tấm gương điển hình, tiêu biểu xuất sắc, có việc làm hay, cách làm sáng

tạo trong CTDV đem lại hiệu quả thiết thực trên nhiều lĩnh vực đời sống xã hội; xác

định nhiệm vụ quan trọng của cán bộ dân vận trong công tác tuyên truyền, vận động

chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với người

dân trên địa bàn; tích cực vận động nhân dân tham gia lao động sản xuất, phát triển

kinh tế cũng như xây dựng nếp sống văn minh, nông thôn mới.

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao, cán bộ, chiến sĩ của các sư

đoàn trực tiếp xuống nắm chắc tình hình, tư tưởng đồng bào nhân dân trên địa bàn

thông qua các hoạt động tuyên truyền vận động nhân dân tích cực tham gia xây

dựng kinh tế, chính trị, VH-XH, truyền đạt kiến thức QP, AN cho đội du kích, dân

quân tự vệ; thường xuyên tuyên truyền giáo dục cho đồng bào nhân dân các dân tộc

theo vùng biên giới về nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của

đất nước; chủ động định hướng dư luận, đấu tranh phòng, chống có hiệu quả đối với

các luận điệu xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch và sử dụng nhân dân

làm công cụ cho chúng hoạt động gây rối, làm mất trật tự an ninh ở vùng nông thôn,

vùng sâu, vùng xa... Ngoài ra, cán bộ, chiến sĩ còn xây dựng chương, kế hoạch cụ

thể xuống giao tiếp nhân dân để nắm bắt dư luận, tâm tư, nguyện vọng, quan tâm

sâu sắc, thiết thực hơn trong việc chăm lo, hỗ trợ đồng bào các dân tộc nâng cao

chất lượng đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.

Sáu là, các sư đoàn thuộc Quân đội nhân dân Lào tiến hành công tác dân vận

thông qua công tác kiểm tra, giám sát; sơ kết, tổng kết các chỉ thị, nghị quyết,

chương trình, kế hoạch thực hiện công tác dân vận.

Thực hiện theo chỉ thị, nghị quyết, chương trình, kế của Bộ Quốc phòng,

Tổng Cục chính trị về tổng kết công tác kiểm tra, giám sát trong toàn quân, các sư

46

đoàn thuộc QĐND Lào đã luôn quan tâm đến công tác kiểm tra, giám sát các cơ

quan, đơn vị trực thuộc trong việc thực thực chỉ thị, nghị quyết, chương trình, kế

hoạch CTDV của sư đoàn nhất là các cơ quan tham mưu, ban, ngành và tổ, đội công

tác. Mục đích, để tổng kết đánh giá lại kết quả việc thực hiện CTDV trong thời gian

qua, tìm ra những ưu điểm nổi bật và hạn chế để ngăn chặn kịp thời những biểu

hiện sai trái, lệch lạc trong quá trình thực hiện.; rút ra nhưng kinh nghiệm và mô

hình thi đua xuất sắc trong thực hiện cụ thế hóa các chỉ thị, nghị quyết, chương

trình, kế hoạch CTDV, để biểu dương, khen thưởng, nhân rộng điển hình CTDV;

khắc phục các biểu hiện xem nhẹ CTDV. Cho nên, các sư đoàn QĐND Lào cần

quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết rút kinh

nghiệm việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết, chương trình, kế hoạch trong thực

hiện QĐND Lào đúng mức và sâu sắc; đánh giá đúng nội dung, mục đích, ý nghĩa

tầm quan trọng của CTDV trong thời gian qua; trong đó phải tìm thấy nguyên nhân

của ưu điểm, hạn chế và rút ra những kinh nghiệm trong tiến hành CTDV; song

cùng thống nhất phương hướng, nhiệm vụ của QĐND Lào trong thời gian tới... yêu

cầu trong công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm việc thực

hiện CTDV cán bộ, đảng viên cần phải nghiên cứu sâu sắc, phát huy dân chủ, dám

nghĩ, dám làm, dám nói và thật thà, phải đảm bảo tính khách quan và chủ quan.

Cùng nhau, chịu trách nhiệm củng cố kiện toàn các nội dung, phương thức hoàn

chỉnh và có tính thống nhất cao trong thực tiễn CTDV. Cấp ủy, chính ủy, chính trị

viên, người chỉ huy, cơ quan chính trị của các sư đoàn căn cứ vào tình hình cụ thể,

chỉ đạo tổ chức công tác kiểm tra, giám sát, sơ tổng kết, rút kinh nghiệm CTDV.

Thường xuyên tổ chức thực hiện theo định kỳ 6 tháng, 1 năm, 5 năm sau một đợt

dân vận cụ thể. Đòi hỏi phải được chuẩn bị chu đáo, đánh giá đúng thực trạng tình

hình của đơn vị và địa phương trong tiến hành CTDV, chỉ rõ những nguyên của

khuyết điểm, hạn chế và có thể rút ra được những kinh nghiệm thiết thực có giá trị

cho việc tiến hành CTDV trong thời gian tới. Tránh hiện tượng tổ chức sơ kết, tổng

kết CTDV là một cách hình thức, không thiết thực, không chú ý đến mục tiêu, đối

tượng tiến hành.

47

2.1.4. Điều kiện đảm bảo cho công tác dân vận của các sư đoàn thuộc

Quân đội nhân dân Lào

Một là, phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, thống nhất từ Đảng ủy Bộ

Quốc phòng về chủ trương, kế hoạch tiến hành công tác dân vận của các sư đoàn

thuộc Quân đội nhân dân Lào.

Công tác dân vận của các sư đoàn phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy Bộ

quốc phòng, chỉ thị hướng dẫn của Tổng cục Chính trị; các nội dung, phương thức

tiến hành CTDV cần được đổi mới, bám sát tình hình thực tiễn, phản ánh được tâm

tư, nguyện vọng, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Nội dung CTDV phải

gắn với nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị và đặc điểm địa bàn từng mỗi

giai đoạn; tiến hành có trọng tâm, trọng điểm, hình thức đa dạng, phong phú, phù

hợp với yêu cầu thực tiễn. Các cơ quan, đơn vị cần tích cực đẩy mạnh công tác

tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng,

chính sách, pháp luật của Nhà nước, kế hoạch, chương trình phát triển KT - XH của

địa phương. Trước những khó khăn, thách thức trong thời gian tới, yêu cầu các sư

đoàn cần lãnh đạo tổ chức thực hiện tốt CTDV; đẩy mạnh phong trào xây dựng đơn

vị “Dân vận gương mẫu”, xây dựng hiệu quả các điển hình đơn vị dân vận tốt trên

các mọi lĩnh vực với khẩu hiệu: “Ở đâu có bộ đội, ở đó có công tác dân vận”. Đây

là điều kiện trước tiên để bảo đảm tính thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo, trong xác

định nội dung, phương thức công tác dân vận của các sư đoàn.

Hai là, cấp ủy, chỉ huy của các sư đoàn phải có nhận thức đầy đủ đúng đắn

về vai trò, trách nhiệm của quân đội, của đơn vị đối với công tác dân vận; quán

triệt đầy đủ, nghiêm túc các chủ trương, kế hoạch, quy định của cấp trên về công

tác dân vận.

Cấp ủy, chỉ huy của các sư đoàn cần nhận thức đúng, đề cao vai trò, trách

nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị thực hiện tốt CTDV; phát huy

vai trò, trách nhiệm của cơ quan chính trị, đội ngũ cán bộ đảng viên các cấp, nhất

là: người chính ủy, chính trị viên và đội ngũ cán bộ đối chuyên trách với CTDV;

xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể hóa mục tiêu, quan điểm của Đảng, đề ra

48

các nội dung, phương thức lãnh đạo CTDV phù hợp với từng địa đặc điểm của địa

phương và đơn vị; thường xuyên quán triệt, giáo dục cho các cơ quan, đơn vị,

cùng toàn thể cán bộ, chiến sĩ về ý nghĩa, tầm quan trọng của CTDV, nhất là các

đơn vị chuyên trách đóng quân trên địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân

tộc, tôn giáo.

Ba là, có sự đồng tình ủng hộ của nhân dân, sự phối hợp chặt chẽ, tạo điều

kiện thuận lợi của cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể ở địa phương nơi đóng quân

với lực lượng quân đội trong quá trình tiến hành công tác dân vận.

Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,

tư tưởng Cay Xỏn Phôm Vi Hản: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân

dân, do nhân dân, vì nhân dân. Vì mỗi người dân đều giữ gìn một vai trò quan trọng

trong công cuộc cách mạng, người làm dân vận khéo thì phải biết vận động tất cả

quần chúng nhân dân cùng tham gia các phong trào cách mạng. C.Mác và

Ph.Ăngghen khẳng định: “Muốn cho quần chúng hiểu rõ phải làm gì và làm như thế

nào một cách tự giác thì cần phải tiến hành một công tác lâu dài và kiên nhẫn, tức là

phải tiến hành tốt công tác vận động quần chúng” [36, tr.775]. Trong đó, C.Mác và

Ph.Ăngghen đặc biệt coi trọng đến công tác quần chúng nhân dân trong quá trình

xây dựng con đường cách mạng CNXH; những luận điểm, nguyên lý về công tác

vận động quần chúng nhân dân của C.Mác và Ph.Ăngghen có nguyên giá trị và ý

nghĩa to lớn đối với công cuộc xây dựng và phát triển nước Lào, thực hiện mục tiêu

dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, từng bước tiến lên chủ nghĩa

xã hội. Cho nên, trong công tác vận động quần chúng, phải có phương pháp tiến

hành thiết thực; đồng thời nhận xét đánh giá vai trò của quần chúng nhân dân trong

mỗi thời kỳ cách mạng, C.Mác và Ph.Ăngghen còn chỉ ra rằng: “Hoạt động lịch sử

càng lớn lao thì do đó, quần chúng, mà hoạt động lịch sử đó là sự nghiệp của mình,

cũng sẽ lớn lên theo” [35, tr.123].

V.I. Lênin đã vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm của C.Mác và

Ph.Ăngghen vào trong thời đại mới, đồng thời khẳng định: “Không có sự đồng tình,

ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động đối với đội tiền phong của mình đối với giai

49

cấp vô sản thì cách mạng vô sản không thể thực hiện được [28, tr.251]. Như vậy,

trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, đánh bại âm mưu xâm lược của thực dân Pháp,

đế quốc Mỹ và các bọn tay sai, trong suốt quá trình hơn 40 năm dưới sự lãnh đạo,

trực tiếp, kiên quyết, toàn diện của Đảng NDCM Lào, các lực lượng vũ trang cách

mạng và nhân dân các bộ tộc đã cùng nhau làm chủ, đánh bại các cuộc tấn công đánh

tiêu diệt lực lượng dã man của kẻ thù và rất quyết liệt trong từng mỗi giai đoạn.

Vì vậy, các sư đoàn thuộc QĐND Lào luôn nhờ sự giúp đỡ của nhân dân

thành sức mạnh to lớn để xây dựng và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn, phát huy

và coi trọng tình đoàn kết quân dân như cá với nước, yêu thương nhân dân, dựa vào

nhân dân, luôn nhờ nhân dân hết lòng giúp đỡ, ủng hộ, nuôi dưỡng, đùm bọc. Trong

thời gian qua, cấp ủy, lãnh đạo các sư đoàn thuộc QĐND Lào, ngay cả mỗi cán bộ,

chiến sĩ và các thế hệ, đã nhận được sự giúp đỡ, ủng hộ, che chở, nuôi dưỡng, đùm

bọc của nhân dân các dân tộc, cũng như toàn quốc, có giá trị cao quý kể cả mặt vật

chất và tinh thần, nhất là ngày lễ kỷ niệm thành lập Quân đội, cũng như ngày kỷ

niệm thành lập các sư đoàn các cấp ủy, chính quyền địa phương, Mặt trận Lào xây

dựng đất nước, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân các dân tộc đã luôn giúp

đỡ chân chính tham gia ủng hộ cho các cơ quan, đơn vị của các sự đoàn kể cả lực

lượng, cơ sở vật chất, phương tiện, kỹ thuật có giá trị cao quý.

Bốn là, có sự đầu tư nhất định tài chính, cơ sở vật chất, trang thiết bị phương

tiện, kỹ thuật phục vụ cho công tác dân vận của các sư đoàn

Hiện nay, kinh phí hoạt động công tác dân vận của các sư đoàn dựa chủ yếu

vào nguồn trên cấp và từ địa phương. Cho nên, lãnh đạo, chỉ huy các sư đoàn cần

coi trọng việc giáo dục ý thức cần, kiệm, liêm, chính; tự lực, tự cường, tính tích cực,

chủ động, sáng tạo, ra sức lao động sản xuất, tiết kiệm, chống lãng phí để vừa cải

thiện đời sống vật chất, tinh thần của các đơn vị, vừa góp phần đầu tư cho công tác

dân vận. Đa dạng hóa các chủ trương, giải pháp, mô hình, cách làm sáng tạo để bảo

đảm tốt nhất đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ gắn bó với phong trào,

mô hình “Dân vận khéo”; nắm vững và thực hiện tốt chủ trương, đường lối của

Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, điều lệnh, điều lệ, kỷ luật của Quân đội;

có phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng; ý chí, nghị lực phấn đấu đúng, thường

xuyên, liên tục, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ. Bảo đảm kịp thời

50

phương tiện, kỹ thuật cho các tổ, đội công tác để phục vụ yêu cầu của địa phương

khi có những vấn đề bức xúc xảy ra. Quản lý chặt chẽ, sử dụng có hiệu quả phương

tiện kỹ thuật phục vụ công tác dân vận. Các sư đoàn cần có kế hoạch khai thác tiềm

năng, lợi thế của đơn vị, các nguồn cung cấp của trên, các cấp, ngành, địa phương

để tăng cường kinh phí, phương tiện cho công tác dân vận.

2.2. HỆ THỐNG TỔ CHỨC BỘ MÁY CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA QUÂN

ĐỘI NHÂN DÂN LÀO VÀ NHÂN DÂN NƠI SƯ ĐOÀN ĐÓNG QUÂN

2.2.1. Hệ thống tổ chức bộ máy công tác dân vận của Quân đội nhân

dân Lào

Hiện nay, QĐND Lào đã có 5 sư đoàn và chưa có thêm sư đoàn nào khác,

cũng chưa tổ chức ở quy mô Quân đoàn như QĐND Việt Nam. Cũng do chưa có

chủ trương thành lập Quân khu (như ở Việt Nam), nên các sư đoàn coi như thực

hiện cả các nhiệm vụ thuộc vai trò của quân khu, nghĩa là không chỉ thực hiện các

nhiệm vụ quân sự cấp sư đoàn mà còn các nhiệm vụ quốc phòng đối với khu vực,

bao gồm cả hoạt động bảo vệ biên giới và khu vực đặc trách, làm nhiệm vụ xây

dựng và phối hợp với lực lượng quân sự địa phương, công an nhân dân tỉnh, bảo vệ

an ninh, ổn định chính trị, môi trường hòa bình trên phạm vi cả nước, đồng thời

củng cố và xây dựng lực lượng của mình ngày càng trưởng thành và phát triển.

Với quy mô tổ chức quân đội như hiện nay, có thể nói các sư đoàn QĐND

Lào là nòng cốt, xương sống của các lực lượng vũ trang Lào. Đó là đơn vị được tổ

chức ở quy mô cao nhất của quân đội, trực thuộc Bộ Quốc phòng Lào. Các sư đoàn

cũng được trang thiết bị đầy đủ phương tiện, vũ khí, kỹ thuật hiện đại nhất của

QĐND Lào. Hệ thống doanh trại các sư đoàn được quy hoạch, xây dựng đồng bộ từ

nhà ở, nhà làm việc, thao trường, bãi tập, khu thể thao, rèn luyện thể lực, đến sân

vườn, cây xanh, khu tăng gia sản xuất; giữ vững được cảnh quan môi trường tự

nhiên, sử dụng đất hợp lý, tiết kiệm; phù hợp với địa hình, quy hoạch của nơi đóng

quân. Trong điều kiện hòa bình hiện nay, số lượng biên chế của các sư đoàn thuộc

Quân đội nhân dân Lào được duy

Về tổ chức bộ máy CTDV của Quân đội nhân dân Lào được quy định theo

Luật Quốc phòng năm 2018 [108]; theo đó tổ chức bộ máy CTDV trong Quân đội

nhân dân Lào là một bộ phận và là lực lượng nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân

51

dân bao gồm lực lượng thường trực (Bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương). CTDV

luôn được đặt dưới sự lãnh đạo của cấp ủy, sự chỉ đạo trực tiếp của người chỉ huy,

của chính ủy, chính trị viên và cơ quan chính trị các cấp; hệ thống tổ bộ máy CTDV

của Quân đội nhân dân Lào có nội dung như sau:

* Đối với cấp Bộ Quốc phòng:

- Đảng ủy Bộ Quốc phòng lãnh đạo trực tiếp CTDV của lực lượng vũ trang

bằng chỉ thị, nghị quyết, giai đoạn, nhiệm vụ của từng thời kỳ.

- Tổng cục Chính trị thường xuyên chỉ đạo, cụ thể hóa các nội dung, hình

thức, biện pháp tiến hành CTDV của từng các nhiệm vụ, loại hình cơ quan, đơn vị

quân đội; nhất là: cấp Tổng cục Chính trị có 1 đồng chí Phó Chủ nhiệm Tổng cục,

các đơn vị có Phó Chính ủy và Chính ủy viên trực tiếp phụ trách CTDV.

- Cục Dân vận và các cơ quan trực thuộc Tổng cục Chính trị QĐND Lào có

chức năng, nhiệm vụ giúp Thủ trưởng Tổng cục Chính trị tham mưu, nghiên cứu,

đề xuất và hướng dẫn chỉ đạo, quản lý, theo dõi CTDV trong toàn quân. Trong đó,

Cục Dân vận được tổ chức các phòng nghiệp vụ như: Phòng Dân vận, Phòng Địch

vận, Phòng Kế hoạch tổng hợp và một số ban chuyên môn khác để theo dõi, tổ chức

thực hiện nhiệm vụ.

* Các cấp trực thuộc:

- Tổ chức bộ máy dân vận của các sư đoàn và bộ chỉ huy quân sự tỉnh: Được

tổ chức bố trí Ban Dân vận trực thuộc Phòng chính trị, dưới sự chỉ đạo, quản lý của

Phó chính ủy, kiêm chủ nhiệm Phòng Chính trị. Ban dân vận được quy định chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy chuyên trách tham mưu, giúp việc cho

lãnh đạo chỉ huy trưởng, do Đảng bộ sư đoàn và bộ chỉ huy quân sự tỉnh lãnh đạo

trực tiếp và sự chỉ đạo hướng dẫn của Phòng Chính trị. Ban dân vận được tổ chức

bố trí cụ thể như: 01 người Trưởng ban dân vận và 01 phó trưởng ban. Số lượng

Ban dân vận do lãnh đạo Sư đoàn xem xét, quyết định. Ngoài ra, còn có các tổ, đội

công tác trực thuộc Ban dân vận, đây là một bộ phần rất quan, làm nhiệm vụ tham

mưu phối hợp trực tiếp với cấp ủy, chính quyền địa phương và lực lượng có liên

quan tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng,

chính sách, pháp luật của Nhà nước; nắm chắc tình hình nhân dân và tình hình trên

địa bàn đặc trách, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Lãnh đạo, chỉ

52

đạo lực lượng du kích tuần tra, bảo vệ các Bản, Làng nơi đơn vị đóng quân; giúp

nhân dân phát triển sản xuất nông nghiệp để giải quyết vấn đề nghèo đói; xây dựng

và sửa chữa nhà ở cho nhân dân, sửa chữa trường học trẻ em; đồng thời giúp khám,

chữa bệnh và cấp thuốc miễn phí cho nhân dân.

- Cấp trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội: có trợ lý kiêm nhiệm hoặc trợ lý chuyên

trách ở trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội đủ quân.

2.2.2. Đặc điểm công tác dân vận của các sư đoàn thuộc Quân đội nhân

dân Lào

Với nội dung, phương thức nêu trên, so sánh với CTDV của các cấp ủy đảng

địa phương, cơ quan nhà nước, đoàn thể, hoặc so sánh với các đơn vị bộ đội, dân

quân du kích của các địa phương thì thấy rõ các đặc điểm sau:

Một là, mục tiêu, nội dung, phương thức CTDV của các sư đoàn QĐND Lào

có tính đặc thù của đơn vị vũ trang, không phải của tổ chức dân sự.

Mặc dù có một số mục tiêu chung, đối tượng chung trên địa bàn, song

CTDV của sư đoàn phục vụ trước hết cho mục tiêu của quân đội, đó là tạo nên và

củng cố tình nghĩa quân - dân gắn bó như “cá với nước”, giữa nhân dân và bộ đội,

giúp đơn vị hoàn thành nhiệm vụ quân sự và quốc phòng được giao. Nếu không

nắm rõ mục tiêu này, thì CTDV của sư đoàn sẽ có thể lạc hướng.

Trên địa bàn sư đoàn đóng quân có nhiều lực lượng tham gia CTDV gồm: tất

cả cấp ủy chính quyền địa phương, Mặt trận Lào Xây dựng đất nước, các tổ chức

chính trị - xã hội, các lực lượng chủ lực, các lực lượng Bộ chỉ huy quân sự, bộ đội

biên phòng và công an nhân dân tỉnh, các doanh nghiệp và đơn vị sự nghiệp đều

phải phụ trách dân vận. Cho nên, việc phối hợp thực hiện CTDV giữa các ban,

ngành, cơ quan, các lực lượng có liên quan trên địa bàn đóng quân chắc chắn không

thể thiếu được; vì đó là chứng minh đến sự thống nhất và kết quả của công việc.

Trong thời gian qua, do có sự phối hợp nhiều bên nên CTDV của các sư đoàn đã có

nhiều thuận lợi, tạo nhân tố để các sư đoàn làm thắng lợi nhiệm vụ CTDV và đạt

hiệu quả hơn, tránh được những thiếu sót trong thực hiện CTDV trong thời gian

qua. CTDV tưởng như đơn giản, dễ làm nhưng thực tế hiện nay nhiều nơi, nhiều lúc

vẫn làm chưa tốt vì, một số cấp ủy đảng, chính quyền, các cơ quan, ban, ngành chưa

thật sự hiểu rõ, hiểu hết về công tác dân vận gắn với sự nghiệp phát triển đất nước;

53

việc phối hợp của các lực lượng, cơ quan, ban, ngành, Mặt trận và các đoàn thể

nhân dân trong CTDV chưa được nhịp nhàng, đồng bộ; việc triển khai các văn bản

liên quan CTDV còn chậm, chưa phù hợp với tình hình thực tế của địa phương, đơn

vị. Đặc điểm này đòi hỏi các sư đoàn phải thường xuyên phối hợp với các tổ chức,

lực lượng, ban, ngành trên địa bàn dựa trên cơ sở quy chế dân vận đã xác định và

phạm vi, nhiệm vụ được phân công nhằm tạo sự thống nhất, sức mạnh tổng hợp,

nâng cao hiệu quả công tác dân vận trên địa đóng quân.

Hai là, CTDV của đơn vị quân đội được tổ chức ở quy mô cao nhất, chính

quy nhất, trực thuộc Bộ Quốc phòng, nên thuận lợi hơn so với các đơn vị vũ trang

trực thuộc địa phương quản lý.

Điều này giúp cho CTDV có nhiều điều kiện thuận lợi trong tổ chức bộ máy

và cán bộ, từ chỉ huy tới tham mưu và thực hiện vận động nhân dân. Vì là đơn vị

quân đội ở quy mô tổ chức cao nhất nên các sư đoàn có Ban dân vận trực thuộc

phòng chính trị, làm nhiệm vụ tham mưu, chỉ đạo, hướng dẫn các cơ quan, đơn vị

và cán bộ chuyên trách thực hiện tốt CTDV. Trong CTDV, các sư đoàn có thể

thành lập được các đoàn, đội công tác chuyên trách dân vận hoạt động tại địa bàn

vùng sâu, vùng xa, vùng chiến lượng trọng điểm khi cần (như đội công tác dân vận

201, 202, 203, 204, 205); được giao nhiệm vụ giúp cấp ủy, chính quyền địa phương

nắm chắc tình hình nhân dân và địa bàn, lãnh đạo lực lượng du kích hoạt động bảo

vệ làng, thôn, khu vực biên giới và trần tra điểm nghi ngờ nơi địch ẩn nấp; tham gai

phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, nhất là phát triển nông nghiệp để giải quyết vấn

đề nghèo đói của nhân dân, sửa chữa nhà ở, phòng học, cung cấp nước sạch và chữa

khám bệnh miễn phí cho nhân dân... Đặc điểm đã nêu trên là những thuận lợi

CTDV của các sư đoàn trong thời gian qua, nhưng vẫn còn đặc điểm khó khăn

trong tiến hành CTDV, nhất là: cơ sở vật chất, doanh trại chưa ổn định, đời sống

của các bộ, chiến sĩ gặp nhiều khó khăn; cung cấp phương tiện, kỹ thuật phục cho

CTDV vẫn thiếu tốn; dù đã có xe máy, xe ô tô sẵn nhưng được qua sử dụng nhiều

năm, cũ nát, có trưởng hợp bị hỏng, làm ảnh hưởng đến việc phối hợp trao đổi các

thông tin các mặt công tác với cấp ủy, chính quyền địa phương và các ngành trên

địa bàn.

54

Công tác dân vận của các sư đoàn Quân đội nhân dân Lào vừa tiến hành

thường xuyên, vừa theo từng đợt, phụ thuộc theo kế hoạch và tình hình quân sự,

quốc phòng của từng đơn vị.

Các đợt CTDV của các sư đoàn là công việc thực hiện các nội dung, hình

thức tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng,

chính sách, pháp luật của Nhà nước. Do những thời gian qua, cấp ủy, chỉ huy các sư

đoàn đã thường xuyên tăng cường công tác giáo dục tư tưởng, chính trị, tổ chức

quán triệt nghiêm các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và triển khai đồng bộ, toàn diện

CTĐ, CTCT thực hiện tốt công tác dân vận. Đặc biệt là, triển khai thực hiện mô

hình cơ quan, đơn vị giúp đỡ nhân dân ở địa bàn khó khăn, nhất là vùng dân tộc

thiểu số. Hàng năm, cấp ủy, lãnh đạo các sư đoàn đều tổ chức bố trí, sắp xếp cán bộ

chuyên trách xuống cơ sở làm CTDV ở địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới

trong khu vực đặc trách, do tổ chức theo đợt (3 năm thay đổi lực lượng 1 lần).

Ngoài ra, còn tổ chức đợt hành quân dã ngoại làm CTDV; mặc dù đợt hành quân dã

ngoại làm công CTDV diễn ra trong điều kiện thời tiết không thuận lợi, nắng nóng,

mưa nhiều, địa bàn hoạt động rộng lớn; song cán bộ, chiến sĩ của các sư đoàn đã

chủ động xây dựng kế hoạch, tổ chức hiệp đồng chặt chẽ, quán triệt và triển khai

thực hiện kế hoạch cụ thể, tỷ mỷ và đạt được những kết quả tốt.

Ba là, đối tượng của CTDV của các sư đoàn QĐND Lào phức tạp, đa dạng,

sống rải rác trên các địa bàn rộng lớn của nhiều tỉnh, có nhiều nơi là vùng sâu,

vùng xa, vùng biên giới khó khăn nên khối lượng CTDV của sư đoàn rất lớn.

Do đặc điểm địa bàn đóng quân của các sư đoàn tương đối rộng, có cả thành

phố, thị xã, các khu công nghiệp tập trung, nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng

đồng bào dân tộc, thành phần dân cư đa dạng và phức tạp với nhiều đối tượng khác

nhau. Tuy nhiên, hiện nay bên cạnh những mặt tích cực, còn tồn tại không ít khó

khăn như: Đối với công tác tư tưởng của nhân dân vẫn còn một số phần tín ngưỡng

tôn giáo đến mê tín dị đoan, đó là một lý do áp lực cho sự phát triển của đất nước;

về mặt công tác QP, AN chưa thực sự thuộc sở hữu của người dân vẫn còn một số

nhân dân có những ý tưởng chờ đợi sự ủng hộ, giúp đỡ của Đảng và Nhà nước và

hơn nữa, đó là trái phép pháp luật của quốc gia. Công tác xây dựng cơ sở hạ tầng

còn chậm được phát triển nếu do với yêu cầu của thời kỳ đổi mới, điều đó được

55

biểu hiện như: Hệ thống tuyến đường từ thành phố đến huyện, từ làng đến làng có

một số nơi đi được một mùa đó là mùa khô; công tác giáo dục, vận động nhân dân

chưa được tiến hành sâu sắc và chưa phổ biến đến các nhóm đối tượng, vấn đề đó

nó ảnh hưởng đến ý thức tự giác của một số người dân vẫn còn thấp, tệ hơn nữa, họ

bị kẻ thù tuyên truyền lừa dối.

Để góp phần tham gia CTDV ở vùng sâu, vùng biên giới đúng theo trách

nhiệm của các sư đoàn, trong thời gian qua các sư đoàn thuộc QĐND Lào đã quan

tâm chỉ đạo các cơ quan, đơn vị tích cực góp phần tham gia xây dựng cơ sở địa

phương, phát triển nông thôn mới, xây dựng làng và cụm làng phát triển toàn diện

bằng các biện pháp như: Củng cố kiện toàn các tổ chức bộ máy dân vận của các Sư

đoàn kể từ Ban dân vận đến các tổ, đội CTDV có sự chặt chẽ, vững mạnh, phù hợp

với vai trò, trách nhiệm và yêu cầu trong giai đoạn mới; quy định lại các chức vụ,

bố trí và sắp xếp cán bộ đúng và phù hợp với các đối tượng do sự phối hợp chặt chẽ

với cấp ủy, chính quyền địa phương. Mặc dù chúng ta đã tổ chức, củng cố và tăng

cường lực lượng cho cơ sở địa phương đúng theo quy định của Quân đội, nhưng các

lực lượng thế lực thù địch ở khu vực biên giới giáp với một số nước có chế độ chính

trị khác nhau, nhất là Thái Lan đã tích cực hoạt động tạo ra tình huống diễn biến

phức tạp liên tục, nhất là vấn đề tranh chấp đất đai để bắt buộc cho Đảng, Nhà nước

Lào giao đất ở khu vực biên giới thuộc vào quyền và lợi ích của chúng. Trước tình

hình, nhiệm vụ đó, nó đã tạo ra mỗi lực lượng của các Sư đoàn tăng cường, nâng

cao tinh thần sẵn sang chiến đấu, đối với các lực lượng đang làm nhiệm vụ bảo vệ

khu vực biên giới (ở phía Tây và phía Nam của Lào), tổ chức hệ thống trực ban,

trực chiến toàn bộ từ cấp trên đền các cơ quan, đơn vị cấp dưới nghiêm chặt, tổ

chức lực lược tuần tra biên giới, bảo vệ các đối tượng, hướng chủ yếu chặt chẽ tránh

không để địch và các bọn phản động bất ngờ đánh chiếm vùng lãnh thổ của nước ta.

2.2.3. Đặc điểm dân cư, địa bàn của các sư đoàn

2.2.3.1. Đặc điểm dân cư

Dân số ước tính nơi sư đoàn đóng quân hoặc phạm vi đặc trách khoảng

6,027,089 triệu người, theo thống kê năm 2018. Hầu hết nhân dân sống tại các vùng

cao nguyên, thung lũng, bên dòng sông Mekong và đồng bằng khác nhau; 60% dân

cư dân sống ở vùng thấp, họ là dân tộc chiếm ưu thế về kinh tế, chính trị, văn hóa

56

Lào [Biểu 2]. Nơi nhân dân sinh sống có nguồn tài nguyên phong phú về lâm, nông

nghiệp, khoáng sản và thủy điện.

Về nghề nghiệp: đa số nhân dân làm ruộng, làm nương, chăn nuôi gia súc,

gia cầm; tiểu thủ công nghiệp gia đình của dân tộc đặc biệt phát triển; họ làm nghề

dệt thổ cẩm tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị cao, thể hiện thẩm mỹ tinh tế, cũng góp

phần thu nhập đáng kể cho mỗi nhiều gia đình. Tuy nhiên, dân dân ở nơi sư đoàn

đóng quân có đặc điểm phong tục tập quán khác nhau, tình hình KT-XH kém phát

triển và đời sống nhân dân vẫn còn gặp nhiều khó khăn, do mật độ dân cư phân bố

không đồng đều, phần lớn tập trung theo các trục đường, dọc theo các bờ sông,

vùng đồng bằng, đô thị; một số đồng bào dân tộc thiểu số sống rải rác trên địa bàn,

làng bản thưa thớt; vấn đề dân di cư tự do diễn ra phức tạp đang là cản trở lớn đến

việc hoạch định chính sách phát triển của nhiều trong khu vực sư đoàn đặc trách.

2.2.3.2. Đặc điểm dân tộc, tôn giáo

Nơi các sư đoàn đóng quân có nhiều dân tộc gồm: Lào Lùm, Lào Thơng,

Lào Sủng, trong đó Lào Lùm chiếm đa số, theo thống kê năm 2018 chiếm 68%.

Hầu hết nhân dân theo Phật giáo Phật giáo chiếm 60% của tổng số dân; 40% còn lại

là theo các đạo khác hoặc không tôn giáo [62]. Các dân tộc, tôn giáo dù có nguồn

gốc khác nhau, phương châm hành đạo không giống nhau, nhưng nhìn chung, nhân

dân các dân tộc chung sống hòa thuận, đoàn kết gắn bó với nhau; lòng yêu nước

nồng nàn, một lòng một dạ gắn bó với Đẩng và cách mạng Lào; tinh thần lao động

cần cù, chịu khó, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, sống giản dị, mộc mạc,

chân tình, thật thà. Tuy nhiên, với tác động của âm mưu thủ đoạn lợi dụng chính trị

hóa về dân tộc, tôn giáo của các thế lực thù địch đã làm cho vấn đề dân tộc, tôn giáo

bị tác động và không ngừng biến đổi, tiềm ẩn và nổi lên các nguy cơ như: Lợi dụng

về vấn đề dân tộc, tôn giáo để hoạt động chống phá Đảng và Nhà nước, gây mất ổn

định chính trị trong xã hội; lợi dụng các hoạt động một số dân tộc ít người và một số

tôn giáo vi phạm pháp luật để gây chia rẽ đoàn kết dân tộc, gây mất an ninh chính

trị, trật tự, an toàn xã hội; thậm chí lợi dụng hoạt động tôn giáo xuyên tạc chủ

trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Có thể nói, những

vấn đề dân tộc, tôn giáo ở nước Lào nói chung, nơi sư đoàn đóng quân nói riêng, là

một trong những yếu tố quan trọng góp phần vào thành công của công cuộc đổi mới

57

đất nước, phát triển KT-XH, khối đại đoàn kết toàn dân tộc và đảm bảo đến công

tác QP, AN trên địa bàn. Do vậy, những vấn đề dân tộc, tôn giáo ở khu vực sư đoàn

đặc trách là những nhiệm vụ hết sức quan trọng.

Những năm qua, các thế lực thù địch đã lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, để

tăng cường các hoạt động kích động, tuyên truyền tư tưởng ly khai tự trị trong đồng

bào các dân tộc; đặc biệt ở những khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa ở các tỉnh

phía Bắc Lào. Những hoạt động của các thế lực thù địch và bọn phản động là tập

trung tuyên truyền xuyên tạc, đả kích, phủ nhận chính sách, pháp luật về dân tộc,

tôn giáo của Nhà nước Lào; vu cáo Đảng, Nhà nước Lào vi phạm dân chủ, nhân

quyền, chèn ép, phân biệt đối xử, đàn áp người dân tộc thiểu số. Chúng tìm đã tìm

cách mua chuộc, lôi kéo các chức sắc tôn giáo, người có uy tín trong cộng đồng các

tôn giáo, đồng bào các dân tộc thiểu số, để lợi dụng họ như một công cụ của chúng

hoạt động xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Lào, hình thành

nên các “điểm nóng xung đột”, tạo cớ để chúng can thiệp trong nội bộ, hòng phá vỡ

khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị, tìm cách xóa bỏ chế độ

mới của Đảng ta. Nghĩa là, các thế lực thù địch triệt để tận dụng, tạo ra, khai thác

mọi khe hở có thể, nhằm thực hiện các biện pháp chống phá cách mạng Lào, nhất là

về vấn đề dân tộc, tôn giáo ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, coi đó là

điểm xuất phát trong thực hiện mưu đồ lớn và lâu dài của chúng.

Để đấu tranh ngăn chặn các thế lực thù địch đã lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn

giáo, các sư đoàn cần tập trung các lượng tiến hành CTDV một cách đồng bộ, đúng

đối tượng, nhằm bảo đảm quyền bình đẳng của mỗi dân tộc, tôn giáo; giữ vững và

tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân; ngăn chặn sự chống phá

của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo; góp phần tạo sự ổn định

và phát triển các địa phương bền vững.

2.2.3.3. Đặc điểm kinh tế

Nhìn chung, tăng trưởng kinh tế gần đây chủ yếu dựa vào tài nguyên thiên

nhiên, gắn với việc tạo công ăn việc làm cho các tầng lớp nhân dân. Hiện nay, ngoài

các thành phố lớn như Thủ đô Viêng Chăn, Luông Pra Bang, các tỉnh nơi các sư

đoàn đặc trách vẫn nghèo và kém phát triển ở CHDCND Lào. Theo kế hoạch phát

triển kinh tế - xã hội quốc gia 5 năm (2016 - 2020), đặc biệt là kế hoạch phát triển

58

khu vực và địa phương, đã xác định tốc độ tăng trưởng kinh tế của miền Bắc không

dưới 9,72%, Khu vực miền Trung 11,50% và miền Nam 12,65%; thu nhập bình

quân đầu người là 1.700 USD ở miền Bắc, 2.200 USD ở miền Trung và 1.300 USD

ở miền Nam. Mục tiêu giảm nghèo ở khu vực phía Bắc xuống dưới 8%, miền Trung

3,5% và miền Nam 10%. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa,

hiện đại hóa. Tuy nhiên, tình hình phát triển KT-XH của các vùng trong thời gian

qua gặp nhiều trở ngại, khó khăn, nhất là: Các thảm họa thiên nhiên nghiêm trọng,

dịch bệnh COVID-19 đã bùng phát lây lan, đã làm hư hỏng cơ sở hạ tầng KT-XH

và tăng trưởng kinh tế mọi lĩnh vực; nhưng Đảng và Chính phủ đã tập trung nỗ lực

để khôi phục lại những thiệt hại đó; điều này đã làm cho cơ cấu nền kinh tế ở các

lĩnh vực tiếp tục phát triển [73].

Nhìn chung, kinh tế của các khu vực đang tăng trưởng không đồng đều, miền

Trung có sự phát triển hơn miền Bắc và miền Nam. Vì tiềm năng về tài nguyên

thiên nhiên, nguồn nhân lực, là trung tâm dân cư, với cơ sở hạ tầng tốt hơn gắn với

Thủ đô và sát khu vực phát triển của nước bạn. Sự khác biệt như vậy là do các khu

vực phía Bắc của Lào, là những vùng có điều kiện khó khăn như: Địa hình chủ yếu

là đồi núi cao, đồng bằng nhỏ hẹp, cơ sở hạ tầng chưa phát triển tốt, sản xuất nông

nghiệp chủ yếu dựa vào lượng mưa. Tuy nhiên miền Bắc có tiềm năng khai thác

khoáng sản, tài nguyên thiên nhiên, điện lực và nơi du lịch…

2.2.3.4. Đặc điểm về văn hóa - xã hội

Sự phát triển của lĩnh vực VH-XH của nơi các sư đoàn đóng quân từng bước

được cải thiện, đặc biệt là khả năng về tiếp cận các dịch vụ như: công tác giáo dục,

y tế và cung cấp thông tin và tuyên truyền các chủ trương, đường lối của Đảng,

chính sách pháp luật của Nhà nước rất rộng rãi và cập nhật kịp theo tình hình; gia

đình bình an, xã hội hạnh phúc, nhân dân được thực hiện quyền làm chủ của mình

để xây dựng và phát triển đất nước. Trong đó, về giáo dục và phát triển nguồn nhân

lực: các tỉnh đã tập trung nguồn vốn vào công tác giáo dục và thể thao, chiếm 17%

do chi tiêu của chính phủ, để phát triển cơ sở hạ tầng giáo dục và cải thiện hệ thống

dạy - học ở tất cả các cấp.

59

Về ý tế: đã mở rộng mạng lưới y tế đến các vùng sâu, vùng xa. Đến nay, các

tỉnh nơi sư đoàn đặc trách có 985 trung tâm y tế; Về an sinh xã hội đã được cải thiện

và có thể cung cấp các dịch vụ dưới nhiều hình thức phúc lợi an sinh xã hội ở địa

phương. Về thông tin: đã cải tiến hệ thống truyền thông hiện đại và mở rộng số

lượng, chất lượng thông tin để cung cấp thông tin cho xã hội một cách rộng rãi hơn,

đã từng bước chuyển đổi hệ thống tương tự sang hệ thống số hiện đại.

Về văn hóa: kế thừa, bảo tồn và phát triển các di sản văn hóa đặc sắc của dân

các bộ tộc Lào, khuyến khích sáng tạo văn học nghệ thuật phong phú, nhiều màu

sắc và các hoạt động biểu diễn đa dạng [73].

Bên cạnh những điều tích nêu trên, về lĩnh vực VH-XH ở các địa phương nơi

sư đoàn đóng quân còn nhiều hạn chế, bất cập: Tình trạng thừa, thiếu giáo viên cục

bộ vẫn chưa được giải quyết triệt để ở một số địa phương, nhất là ở vùng sâu, vùng

xa, vùng miền núi; các cơ sở giáo dục cấp mầm non, tiểu học và phổ thông ở một số

địa phương chưa cung cấp được, cơ sở vật chất trường lớp học ở một số địa bàn vẫn

gặp khó khăn do hạn chế về nguồn lực đầu tư; trường học xa nhà, nên việc đi lại của

học sinh rất khó khăn.

Áp dụng phương pháp chuyên môn kỹ thuật y tế chưa được công nhận; thiếu

thiết bị y tế, bác sĩ, y tá chưa được nâng cao trình độ chuyên môn y tế kể cả trong

nước và quốc tế; bệnh viện đa khoa một số tỉnh thô sơ và lạc hậu, các trang thiết bị

công nghệ khoa học ý tế không hiện đại; trạm ý tế ở một số vùng nông thôn vẫn

chưa có; đây là lý do khiến người giàu ra nước ngoài khám chữa bệnh và điều trị

sức khỏe; người dân nghèo không có tiền phải tìm cách điều trị sức khỏe, khám,

chữa bệnh ở trong nước.

Hệ thống an sinh xã hội còn chưa thực sự bền vững, thể hiện một số hạn chế

như: mức độ bao phủ của hệ thống an sinh xã hội chưa cao, đối tượng còn hẹp;

nguồn lực thực hiện chính sách an sinh xã hội còn hạn chế; bất bình đẳng tuyệt đối

giữa người giàu và người nghèo có xu hướng gia tăng; tỷ lệ hộ nghèo phần lớn tập

trung cao ở nhóm dân tộc thiểu số.

Về cơ bản, hạ tầng công nghệ thông tin của một số địa phương vẫn còn nhiều

hạn chế, bất cập, vừa thiếu lại vừa yếu, cần có sự đầu tư đồng bộ, toàn diện; nói

60

chung ở vùng nông thôn của Lào chưa có internet; hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông

tin mặc dù đã từng bước được đầu tư nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát

triển trong giai đoạn mới; các địa phương chưa đầu tư xây dựng hệ thống mạng diện

rộng, chưa xây dựng trung tâm điều hành công nghệ thông tin. Những hạn chế trong

lĩnh vực văn hóa, còn nhiều mặt yếu kém, khắc phục còn chậm, xây dựng nền văn

hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc chưa đạt yêu cầu; việc xây dựng và phát triển

văn hóa chưa tác động sâu rộng, gắn bó chặt chẽ với KT-XH của địa phương; có

trưởng hợp xảy ra một số cấp lãnh đạo còn nặng về tìm lợi ích kinh tế, chỉ thực hiện

với dự án đầu tư phát triển có thu nhập cao, mà coi nhẹ yếu tố phát triển văn hóa.

Đây là lý do làm ảnh hưởng đến phát triển văn hóa ở địa phương.

2.2.3.5. Đặc điểm quốc phòng - an ninh

Địa bàn các sư đoàn phụ trách trải rộng từ vùng đồng bằng, vùng rừng núi,

vùng sâu, vùng xa, nơi có nhiều khó khăn, phức tạp, vùng biên giới giáp với một số

nước có chế độ chính trị khác nhau. Những năm 80, 90 thế kỷ trước, trong hoàn

cảnh các thế lực phản động ráo riết hoạt động, tăng cường chống phá sự nghiệp

cách mạng của Đảng, Nhà nước Lào, cán bộ, chiến sĩ của các sư đoàn đã đồng cam

cộng khổ, kể vai, sát cánh bên nhau, chiến đấu dũng cảm đập tan mọi âm mưu thủ

đoạn chống phá cách mạng của các thế lực phản động, vận động hàng ngàn tên

phản động ra đấu thú góp phần bảo vệ vững chắc nền độc lập của đất nước.

Địa hình nơi các sư đoàn đóng quân, các nhà nghiên cứu về mặt quân sự cho

rằng: Nếu kẻ thù giành được vị trí của các sư đoàn đóng quân, mình sẽ mất nước

cho các chúng, do đó sẽ mang lại ảnh hưởng to lớn đến khu vực ASEAN. Bằng lý

do chiến lược quan trọng ở trên, trong suốt quá trình chiến đấu chống thực dân Pháp

và Mỹ (1945-1975) chúng đã tập trung đánh chiếm các khu vực đóng quân của các

sư đoàn để thành bản đạp xây dựng nơi căn cứ địa về mặt quân sự lớn nhất của

chúng ở nước Lào, mục đích để chống phá cách mạng Lào, ngăn chặn sự tiến công

trong các hướng. Đặc biệt ở địa bàn đây là quân đội nhân dân Lào và quân đội nhân

dân Việt Nam anh hùng đã đoàn kết kề vai sát cánh bên nhau, chung một chiến hào

để bảo vệ hai đất nước yếu mến ổn định bền vững.

61

Tiểu kết chương 2

Trong chương này, sau khi trình bày khái quát tổ chức của QĐND Lào, vị

trí, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức của các sư đoàn, tác giả luận án khẳng định,

CTDV là nhiệm vụ thuộc chức năng của QĐND Lào nói chung, của các sư đoàn

nói riêng và cần phải được nhận thức như là điều tất yếu, không được mơ hồ dẫn

đến lơ là hoặc coi thường.

Sau khi nêu đặc điểm, vị trí của cấp sư đoàn trong tổ chức chung của QĐND

Lào, tác giả đã định nghĩa khái niệm CTDV của sư đoàn QĐND Lào, đó là “công

tác vận động quần chúng của đơn vị vũ trang, theo thẩm quyền của cấp sư đoàn và

trong địa bàn phụ trách của mỗi sư đoàn”.

Tiếp theo, tác giả đã nêu nội dung, phương thức CTDV của các sư đoàn

thuộc QĐND Lào. Về cơ bản cũng chính là nội dung, phương thức CTDV của

Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị -xã hội nói chung.

Tuy nhiên CTDV của các sư đoàn có các đặc điểm sau:

Một là, mục tiêu, nội dung, phương thức CTDV của các sư đoàn QĐND Lào

có tính đặc thù của đơn vị vũ trang, không phải của tổ chức dân sự (như của tổ chức

Đảng, chính quyền, tổ chức CT-XH). Nó phải phục vụ trước hết cho nhiệm vụ quân

sự, quốc phòng và phải được thực hiện phù hợp với kế hoạch, điều kiện và nhiệm

vụ quân sự, quốc phòng của các sư đoàn.

Hai là, là CTDV của đơn vị quân đội được tổ chức ở quy mô cao nhất, chính

quy nhất, trực thuộc Bộ Quốc phòng, nên có điều kiện thuận lợi hơn so với các đơn

vị vũ trang trực thuộc địa phương quản lý cả về phương diện bộ máy, nhân lực,

phương tiện.

Ba là, đối tượng của CTDV của các sư đoàn QĐND Lào phức tạp, đa dạng,

sống rải rác trên các địa bàn rộng lớn của nhiều tỉnh, có nhiều nơi là vùng sâu, vùng

xa, vùng biên giới nên khối lượng CTDV rất lớn và gặp nhiều khó khăn.

62

Chương 3

CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA CÁC SƯ ĐOÀN THUỘC

QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN LÀO GIAI ĐOẠN HIỆN NAY - THỰC TRẠNG,

NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM

3.1. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA CÁC SƯ ĐOÀN THUỘC

QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN LÀO

3.1.1. Những ưu điểm

3.1.1.1. Trong thực hiện các nội dung công tác dân vận của các sư đoàn

thuộc Quân đội nhân dân Lào

Trong những năm vừa qua, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, hướng dẫn của

Bộ Quốc phòng, các sư đoàn đã nghiêm túc thực hiện CTDV với các nội dung sau:

Một là, các sư đoàn thuộc Quân đội nhân dân Lào đã tích cực tuyên truyền,

vận động nhân dân chấp hành đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,

pháp luật của Nhà nước, nhất là nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trên địa bàn trọng

điểm, chiến lược.

Các sư đoàn thuộc QĐND Lào đã phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa

phương và lực lượng có liên quan trên địa bàn củng cố, xây dựng, giáo dục, quán

triệt cho các lực lượng du kích, dân quân tự vệ, nâng cao tính tự giác với âm mưu

thủ đoạn của các thế lực thù địch, quan tâm huấn luyện, diễn tập nghệ thuật - chiến

thuật, chỉ đạo, hướng dẫn xây dựng kế hoạch chiến đấu bảo vệ khu vực phòng thủ

và quê hương của mình. Đến nay có lực lượng du kích tất cả 121.243 người, nữ

1.020 người, tổ chức thành 1.081 đại đội, có 3.485 trung đội và 10.799 tiểu đội,

được trang bị vũ khí 50 đến 70% và có lực lượng dân quân tự vệ tất cả 3.019 người.

Lãnh đạo lực lược du kích hoạt động tuần tra vùng biên giới 9.101 lần, có lực lược

tham gia 255.546 lượt người và bảo vệ ngày lễ của quốc gia 1.268 lần, có lực lượng

tham gia 44.443 lượt người; mở lớp tập huấn công tác quốc phòng - an ninh cho các

đối tượng lực lượng du kích và dân quân tự vệ được 94 khóa, có người tham gia

5.751 lượt người; xây dựng được 388 làng chiến đấu, 127 cụm bản chiến đấu liên

hoàn; xây dựng gia đình quốc phòng vững mạnh được 135.300 hộ, xây dựng làng

63

quốc phòng vững mạnh 1.930 làng và tham gia xây dựng 3.682 gia đình bảo vệ an

ninh tốt [62].

Về công tác xử lý vấn đề tiêu cực trong xã hội: Các sư đoàn thuộc QĐND

Lào đã tổ chức sử dụng lực lượng đội công tác chuyên trách 201, 202, 203, 204,

205 trực thuộc ban dân vận của các sư đoàn, phối hợp với lực lượng công an nhân

dân tỉnh nắm bắt từng đối tượng để cụ thể xử lý các vấn đề tiêu cực như: mua bán

tàng trữ ma túy, trộm cắp, buôn bán người, buôn bán vũ khí và tội phạm xuyên

quốc gia theo khu vực biên giới của các sư đoàn đặc trách. Thông qua thực tiễn xử

lý các vấn đề nảy sinh ở khu vực đó đến nay cơ bản được ổn định an toàn 100%.

Đều đó có thể nói rằng là, các sư đoàn thuộc QĐND Lào đã thực hiện tốt vai trò

trong việc tăng cường giúp địa phương xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh, góp

phần phát triển KT-XH gắn với củng cố và xâu dựng QP, AN ở địa phương vững

mạnh; hiệu quả trong công tác nắm tình hình nhân dân và địa bàn tiến hành, kịp thời

giải quyết những bức xúc, kiến nghị chính đáng của nhân dân và xử lý tốt các điểm

nóng. Qua điều tra, khảo sát từ tháng 1 năm 2020 cho rằng: có 95% ý kiến tốt của

cán bộ sĩ quân, quân nhân chuyên nghiệp về việc hoạt động tham gia xây dựng và

củng cố QP, AN trên địa bàn đóng quân đạt hiệu quả [Biểu 8].

Hai là, các sư đoàn thuộc Quân đội nhân dân Lào đã tích cực tham gia xây

dựng, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở địa

bàn đóng quân; góp phần đảm bảo giữ vững ổn định.

Từ kết quả tổ chức thực hiện chủ trường, đường lối của Đảng, chính sách,

pháp luật của Nhà nước xuống đến cơ sở thực tiễn trong những 5 năm qua, tổng kết

lại bộ máy chính quyền các cấp ở cơ sở tiếp tục được củng cố hoàn thiện, các đảng

bộ cơ sở đã xây dựng trong mối đoàn kết và thống nhất; công tác quy hoạch, đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ được quan tâm đúng mức; việc quản lý nhà nước và tổ chức

điều hành trong mọi hoạt động của địa phương được phát huy hiệu quả vào lực lĩnh

vực đời sống xã hội; hoạt động của chính quyền, Mặt trận Lào Xây dựng đất nước,

các đoàn thể chính trị - xã hội ở cơ sở đã có nhiều đổi mới về nội dung, phương

thức hoạt động các mặt công tác; việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở được quan

tâm vào chiều sâu và triển khai thực hiện có hiệu quả, tạo được sự đồng thuận trong

64

nhân dân đối với Đảng, Nhà nước; đồng thời đảm bảo tốt nhiệm vụ QP, AN trên địa

bàn, thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng, nhất là đối với vùng sâu, vùng xa,

vùng dân tộc, tôn giáo; phát huy được vai trò của cán bộ, chiến sĩ trong xây dựng cơ

sở các cấp, để lại hình ảnh đẹp “Bộ đội Lào Ít Xa La” trong lòng nhân dân, góp

phần xây dựng cơ sở chính trị địa phương và thế trận lòng dân vững chắc...

Vì vậy, trong thời gian 5 qua các sư đoàn thuộc QĐND Lào đã chủ động

phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương tham gia củng cố, xây dựng kiện toàn

hệ thống chính trị ở cơ sở như: tham gia xây dựng, củng cố được 191 chi bộ đảng;

253 tổ chức chính quyền cấp huyện, cụm bản, bản; 174 Mặt trận Lào Xây dựng đất

nước; tập trung bồi dưỡng vai trò, quyền hạn, nhiệm vụ, phong cách làm việc và

pháp luật cho chính quyền thôn, bản được 05 đợt, có người tham gia tất cả 185 lượt

người, nhằm nâng cao trình độ cho các chính quyền các thôn, bản ngày càng vững

mạnh, đảm bảo chất lượng cho việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội và điều hành

quê hương của mình. Thông qua thực tế có thể tham mưu cho cấp ủy, chính quyền

địa phương bầu 506 Bí thư và phó Bí thư làng, xóa được 159 thôn bản “trắng”, kết

nạp 1.062 đảng viên mới; kết nạp 1.426 đoàn viên thanh niên mới; kết nạp 541 hội

viên phụ nữ; xây dựng đảng bộ trong sạch, vững mạnh được 943 đầu mối và phấn

đấu xây dựng làng phát triển được tất cả 1.179 đầu mối [62].

Ba là, các sư đoàn thuộc Quân đội nhân dân Lào đã làm tốt công tác dân vận,

giúp đỡ nhân dân phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa đói, giảm nghèo, phòng

chống, khắc phục hậu quả thiên tai, thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo và các

chính sách xã hội; củng cố, tăng cường tình đoàn kết quân dân, xây dựng mối quan

hệ gắn bó máu thịt với nhân dân.

Các sư đoàn thuộc QĐND Lào đã đẩy mạnh nhân dân thay đổi bằng sự sản

xuất lạc hậu dựa vào thiên nhiên là trọng tâm từng bước thay đổi sản xuất thành một

hàng hóa, bằng tổ chức nhóm sản xuất, nhóm thủ công mỹ nghệ, nhóm trồng, chăn

nuôi được tất cả 253 nhóm, có 9.038 gia đình tham gia vào các dịch vụ khác; qua

thực tiễn cho thấy nhân dân có tính giác ngộ, từng bước thay đổi, tăng trưởng kinh

tế ở vùng nông thôn đang tạo ra ở nhiều lĩnh vực, nếu so với trước đây nhân dân ở

khu vực đói nghèo, thiếu thốn, sau khi nhận được cấp phát cuộc sống của nhân dân

65

đã được cải thiện tốt hơn và từng bước giảm nghèo. Công tác phát triển kinh tế: đẩy

mạnh nhân dân phát triển sản xuất nhiều thực phẩm và sản xuất hàng hóa ngày càng

tăng, theo điều kiện và tải năng của mỗi lĩnh vực; trong đó, đã cung cấp 200.000

giống cây trồng và cộng cụ sản xuất cho 2.240 hộ gia đình; giống cá các loại

160.000 con; giống lúa 5.200 kg; cùng hướng dẫn về chuyên môn kỹ thuật trồng

trọt, chăn nuôi cho cán bộ và nhân dân. Công tác phát triển cơ sở hạ tầng: các sư

đoàn thuộc QĐND Lào đã phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương và Cục

Công binh Bộ Quốc phòng Lào tập trung phát triển con đường đi xuyên suốt đến

các vùng trọng điểm, cụm bản ở vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn đi được hai

mùa, đến nay xây được 23 đường giao thông, có độ dài tất cả 1.83,725 km; cùng

đẩy mạnh, khuyến khích các công ty đầu tư xây dựng 60 công trình, phát triển cơ sở

hạ tầng ở khu vực biên giới gồm có 12 cụm bản, do sử dụng ngân sách của Nhà

nước 100%, với tổng giá trị gần 283 tỷ kip; quản lý đầu tư nước ngoài trong khu

vực sư đoàn đặc trách có 13 công ty, 8 công trình, 14 đơn vị kinh doanh, với tổng số

2.265 người, nữ 989 người. Công tác văn hóa - xã hội: đã phối hợp với chính quyền

địa phương xây dựng 03 trường tiểu học, 02 trường trung học cơ sở và 02 trường

trung học phổ thông, để công nhận cho trẻ em và sinh viên mỗi cấp vào học bình

thường; mở 52 lớp xóa mù chữ cho hơn 1.630 người; phấn đấu xây dựng máy lọc

nước ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa được 15 nơi, xây dựng 12 phòng vệ sinh

công cộng, xây dựng mô hình 4 trạm y tế, 1 bệnh viện vĩnh viễn, khám chữa bệnh,

cấp thuốc miễn phí cho 14.773 lượt người, tổng trị giá gần 1.385.000.000 tỷ kip.

Xây dựng 17 nhà văn hóa làng ở các vùng trọng điểm vùng sâu, vùng xa tại khu đặc

trách, tổng giá trị đầu tư phát triển tất cả 3.423.000.000 tỷ kịp; cùng với xóa đói

giảm nghèo cho hơn 4.430 hộ dân; tham gia cứu đói, cứu trợ thiên tai 1.235.000.000

tỷ kip; huy động gần 60.000 lượt cán bộ, chiến sĩ và 30.460 đội du kích, dân quân tự

vệ tham gia khắc phục hậu quả thiên tai; di dời 3.400 hộ gia đình đến vị trí an toàn

và tham gia phòng chống cháy rừng xảy ra với trên 204 nghìn ha [62]. Qua thực

tiễn 5 năm qua, tỷ lệ đói nghèo của nhân dân luôn giảm; đời sống của nhân dân đã

được củng cố, cải thiện và từng bước nâng cấp cuộc sống tốt hơn; 99% hộ có điện

sử dụng, có 759 cụm bản sử dụng được hệ thống viễn thông chiếm 60% của vùng

66

nông thôn; hiện nay có 6.537 bản đã có đường giao thông đi lại thuận tiện hai mùa;

phát triển mạng điện đến vùng nông thôn được 99% của các huyện trong phạm vi

sư đoàn đặc trách. Đã huy động vốn đầu tư, lực lượng của nhân dân tham gia xây

dựng thủy lợi - kênh mương, tu sửa đường giao thông, hệ thống nước sạch, trường

học và trung tâm dịch vụ y tế [62].

Như vậy, Qua điều tra, khảo sát có 71% ý kiến của hạ sĩ quân, chiến sĩ cho

rằng: Ngân sách đầu tư, vật chất, phương tiện, kỹ thuật và lực lượng là những yếu

tố quan trọng trong hoạt động thực hiện công tác dân vận của các đoàn hiện nay

[Biểu 10].

Bốn là, các sư đoàn thuộc Quân đội nhân dân Lào đã chú trọng xây dựng,

củng cố tổ chức bộ máy, cán bộ chuyên trách làm công tác dân vận.

Trong năm 5 qua các sư đoàn đã tập trung xây dựng bộ máy, cán bộ chuyên

trách về kỹ năng dân vận bằng tập huấn nghiệp vụ chuyên môn, nhằm trực tiếp

tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương về CTDV; đồng thời nâng cao kiến

thức, trách nhiệm cho độ ngũ cán bộ dân vận, tích cực học tập, quán triệt các Chỉ

thị, Nghị quyết của Đảng, Nhà nước về CTDV, gắn với phát triển nông thôn mới;

song nâng cao trình độ nhận thức trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng,

chính sách, pháp luật của Nhà nước để làm căn cứ cho đội ngũ cán bộ dân vận đưa

vào tổ chức thực hiện trong thực tế ở cấp cơ sở. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn và đề

ra những yêu cầu mới đối với CTDV của các sư đoàn thuộc QĐNDL giai đoạn hiện

nay, Chỉ thị số 20/BCT của Bộ Chính trị về “Tăng cường làm công tác dân vận ở cơ

sở vững mạnh” và Nghị quyết số 650-NQ/ĐUBQP của Đảng ủy Bộ Quốc phòng về

“Quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các lực lượng vũ trang có tiềm năng, tiềm lực chuyển

xuống làm công tác dân vận ngày càng vững mạnh theo 4 nội dung, 4 mục tiêu, xây

dựng thế trận chiến tranh nhân dân 3 cấp, gắn với xây dựng làng và cụm làng phát

triển”. Trong đó, các sư đoàn đã xác định tổ chức bộ máy và độ ngũ cán bộ dân vận

như sau:

- Xây dựng và củng cố kiện toàn tổ chức ban dân vận của các sư đoàn: Các

sư đoàn thuộc QĐND Lào, được tổ chức bố trí ban dân vận trực thuộc Phòng chính

trị, dưới sự chỉ đạo, quản lý của phó sư đoàn trưởng (Phó chính ủy), kiêm chủ

67

nhiệm phòng chính trị. ban dân vận của các sư đoàn được quy định chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy chuyên trách tham mưu, giúp việc cho lãnh

đạo sư đoàn trưởng, do Đảng ủy sư đoàn lãnh đạo trực tiếp và sự chỉ đạo hướng dẫn

của phòng chính trị. Ban dân vận của các sư đoàn được tổ chức bố trí cụ thể như: 01

người Trưởng ban dân vận và 01 Phó trưởng ban. Số lượng ban dân vận do lãnh

đạo sư đoàn xem xét, quyết định. Ngoài ra, còn có các tổ, đội công tác trực

thuộc... Ban dân vận của các sư đoàn là một bộ phận chuyên trách, có nhiệm vụ

nghiên cứu, tổ chức thực hiện CTDV; công tác địch vận; hướng dẫn, theo dõi,

kiểm tra và khuyến khích các cơ quan, đơn vị tổ chức thực hiện CTDV; xây dựng

và sắp xếp các tài liệu về CTDV và địch vận; quản lý ngân sách kinh phí về vật

chất, vũ khí, phương tiện, kỹ thuật phục vụ cho CTDV; đồng thời tổ chức sơ kết,

tổng kết, đúc rút kinh nghiệm CTDV của từng mỗi giai đoạn; nhằm tập trung xây

dựng phong trào thi đua yêu nước, gắn với thực phong trào xây dựng đơn vị dân

vận gương mẫu.

- Xây dựng và củng cố các tổ, đội công tác của các sư đoàn: Kể từ năm 1997

Bộ Quốc phòng Lào đã chỉ đạo các lực lượng chủ lực, lực lượng địa phương tăng

cường về cơ sở làm CTDV, gắn với xây dựng nông thôn mới toàn diện. Đặc biệt,

lãnh đạo các sư đoàn đã ra quyết định tổ chức các tổ, đội công tác chuyên ngành về

vùng trọng điểm, vùng sâu, vùng dân tộc ít người; giúp địa phương phát triển KT-

XH, xóa đói giảm nghèo, khắc phục hậu quả, thiên tài, phòng chống dịch bệnh, xóa

nạn mù chữ, bài trừ mê tín dị đoan; xây dựng, củng cố hệ thống chính trị ở vững

mạnh, thực hiện tốt nhiệm vụ QP, AN; đẩy mạnh sản xuất, nâng cao đời sống vật

chất, văn hóa tinh thần của nhân dân; xây dựng, củng cố lực lượng vũ trang vững

mạnh về mặt tư tưởng, chính trị, mạnh mẽ về mặt tổ chức; thực hiện tốt chính sách

hậu phương của quân đội.

- Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt dân vận: Các sư đoàn đã lựa chọn cán

bộ, chiến sĩ có phẩm chất chính trị, đạo đức, có khả năng, nhận thức, cùng tập huấn

nghiệp vụ về CTDV, nhằm tiến hành công tác tuyên truyền, vận động nhân dân

chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;

nghiên cứu, nắm chắc tình hình, sẵn sàng đấu tranh với những âm mưu thủ đoạn

68

hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, góp phần giữ vững ổn định an ninh

chính trị, trật tự an toàn xã hội. Hiện nay các sư đoàn có đội ngũ cán bộ chủ chốt

dân vận tăng cường cơ sở, trong đó được bổ nhiệm làm trưởng bản, làng 22 đồng

chí; bổ nhiệm làm Bí thư bản, làng 22 đồng chí; bổ nhiệm làm ủy viên cụm bản 89

đồng chí; bổ nhiệm làm ban thường vụ huyện ủy 134 đồng chí và được cấp trên

tuyển chọn làm nhiệm vụ mới ở bên Trung ương nhiều đồng chí. Đây là một số

công tác của các sư đoàn luôn tổ chức thực hiện trong thời gian qua, mặc dù những

kết quả và bài học kinh nghiệm chưa xuất sắc nhưng nó cũng dần dần hình thành và

đúng theo sự chỉ đạo của Bộ Quốc phòng đặt ra [62].

Có thể nói rằng trong những 5 qua, các sư đoàn đã quan tâm xây dựng tổ

chức bộ máy và cán bộ chuyên trách dân vận có chất lượng tốt về đạo đức cách

mạng, trình độ chuyên môn tốt, có kỹ năng tuyên truyền vận động nhân dân khéo

léo, luôn thực hiện tốt theo phương châm “Óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi,

miệng nói, tay làm”. Qua khảo sát, điều tra: có 38% ý kiến tốt của cán bộ sĩ quân,

quân nhân chuyên nghiệp về tổ chức bộ máy và biên chế cán bộ dân vận của các sư

đoàn; số còn lại ở mức khá và trung bình [Biểu 8].

Năm là, các sư đoàn thuộc Quận đội nhân dân Lào đã chủ động phối hợp

chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương, Mặt trận Lào Xây dựng đất nước, các

đoàn thể nhân dân cùng cấp và các cơ quan liên quan thực hiện tốt công tác tham

mưu với cấp ủy, chính quyền về công tác dân vận trên địa bàn đóng quân.

Trong mỗi giai đoạn và trong từng nhiệm vụ, cấp ủy, lãnh đạo các sư đoàn

đã tích cực chủ động phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền, các ban ngành,

đoàn thể chính trị ơ xã hội trên địa bàn đóng quân trao đổi thông tin, khảo sát, đánh

giá tình hình, xây dựng chương trình, kế hoạch, xác định, phân công các nhiệm vụ

và đề xuất nội dung, biện pháp tổ chức thực hiện hiệu CTDV theo quy chế phối hợp

đã thống nhất. Trong đó, các sư đoàn đã phối hợp với chính quyền địa phương, bộ

chỉ huy quân sự, công an nhân dân tỉnh, bộ đội biên phòng giải quyết vấn đề phức

tạp trong xã hội ở nhiều địa bàn khó khăn để cùng nhau có biện pháp xử lý các hiện

tượng tiêu cực trong xã hội như: buôn lậu ma túy, trộm cặp, nhập cảnh trái phép, tội

phạm xuyên quốc gia và mâu thuẫn đất đai giữa nhân dân với các công ty nước

69

ngoài như: ở tỉnh Bò Keo, tỉnh Bô Ly Khăm Xay và Khăm Muộn. Ngoài ra, phối

hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền đại phương, các ban, ngành có liên quan xây

dựng được 75 làng văn hóa, 27.984 gia đình văn hóa, xây dựng 95 làng ý tế tốt và

các dịch vụ khác... Phối hợp xây dựng dự án giải quyết việc làm, xóa đói, giảm

nghèo, dự án vận động quỹ từ thiện xã hội giúp đỡ hộ nghèo; trong đó đã xây dựng

21 quỹ đầu tư phát triển làng, có vốn lưu động của làng tất cả 8.601.503.600 tỷ kip.

Đây là những kết quả trong sự phối hợp đóng góp của các lực lượng cho công cuộc

phát triển địa phương trong thời gian qua [62].

3.1.1.2. Trong thực hiện các phương thức công tác dân vận của các sư

đoàn thuộc Quân đội nhân dân Lào

Một là, cấp ủy, lãnh đạo của các sư đoàn thuộc Quân đội nhân dân Lào đã

kịp thời xây dựng và bàn hành các chỉ thị, nghị quyết và kế hoạch công tác dân vận,

làm căn cứ, cơ sở để định hướng cho các cơ quan, đơn vị tiến hành công tác dân vận

theo chức trách, nhiệm vụ của mình.

Trong xây dựng chỉ thị, nghị quyết và kế hoạch lãnh đạo QĐND Lào của các

sư đoàn QĐND Lào dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn của đơn vị và tình hình của

địa phương. Điều đó đã thể hiện rõ qua Chỉ thị số 097/BCT của Bộ Chính trị về

“Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phát triển nông thôn và giải quyết xóa đói

giảm nghèo của nhân dân, vừa là một công việc chiến lược quan trọng và cần tập

trung nguồn vốn đầu tư đến tất cả các mọi lĩnh và liên tục, để làm cho vùng nông

thôn ở nước tá có một diện mạo mới và từng bước thay đổi”. Nghị quyết số 650-

NQ/ĐUBQP ngày 4/4/2011 về “Quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các lực lượng vũ trang

có tiềm năng, tiềm lực chuyển xuống làm công tác dân vận ngày càng vững mạnh

theo 4 nội dung, 4 mục tiêu, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân 3 cấp, gắn với

xây dựng làng và cụm làng phát triển”. Ngoài ra, các Sư đoàn QĐND Lào cũng đã

chú trọng tổ chức quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI về CTDV, Nghị

quyết số 04-NQ/ĐUBQP ngày 12/12/2012 về 4 nhiệm vụ lớn, 26 dự án để phấn đấu

đột phá theo nội dung, tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng có hiệu

quả. Đồng thời các sư đoàn thuộc QĐND Lào đã xây dựng kế hoạch CTDV theo 4

nội dung, 4 mục tiêu, cụ thể sau đây:

70

- Kế hoạch về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, các sư đoàn thuộc

QĐND Lào đã coi trọng công tác đó là một vấn đề chủ yếu trong giáo dục, tuyên

truyền, vận động nhân dân chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính

sách, pháp luật của Nhà nước, nếu so với trước khi đơn vị và cán bộ, chiến sĩ

chưa xuống giúp cơ sở địa phương có rất nhiều những vấn đề yếu kém và hạn

chế, đó là nhận thức của nhân dân đối với chủ trương, đường lối của Đảng và

tính giác ngộ của nhân dân vẫn còn cấp độ 75 - 80%, nếu so với hiện nay cho

thấy là nhận thức của nhân dân về chủ trương, đường lối của Đảng có tính tự

giác tăng 85 - 90% trở lên [62].

- Kế hoạch về công tác quốc phòng, an ninh, các sư đoàn thuộc QĐND Lào

đã tích cực phát huy đường lối QP, AN toàn dân toàn diện của Đảng bằng phương

hướng và biện pháp phối hợp lực lượng quân sự tỉnh, công an nhân dân địa phương

và các ngành củng cố và xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân 3 cấp, xây dựng

làng chiến đấu và cụm bản chiến đấu liên hoàn, củng cố các tổ chức và bồi dưỡng

kiến thức QP, AN cho lực lượng du kích, dân quân tự vệ; quan tâm kiểm tra, quản

lý, điều tra sổ hộ khẩu gia đình, điều tra người xuất nhập cảnh; chỉ đạo các đội công

tác 201, 202, 203, 204, 205 phối hợp với chính quyền địa phương và các lực lượng

có liên quan để cùng nhau quan tâm củng cố và xây dựng lực lượng du kích và dân

quân tự vệ chặt chẽ, vững mạnh, tích cực làm nhiệm vụ hoạt động bảo vệ khu vực

đặc trách ổn định tốt, đồng thời trực tiếp kiến thức QP, AN, nhất là chuyên môn

nghệ thuật, chiến thuật trong hàng năm. Qua đánh giá nhận thức, khả năng của lực

lượng du kích và dân quân tự vệ về QP, AN đạt được 85 - 90% trở lên [62].

- Kế hoạch về công tác kinh tế, văn hóa - xã hội, các sư đoàn thuộc QĐND

Lào đã chỉ đạo các đội công tác phối hợp trực tiếp với các ngành đẩy mạnh, vận

động nhân dân trồng trọt, chăn nuôi, sản xuất nông nghiệp cho ngày càng tăng lên

để làm cho đời sống của nhân dân tiến độ phát triển. Vì vậy, trong thời gian qua

kinh tế gia đình của nhân dân ở các làng trên địa bàn đã được phát triển do sản xuất

nông nghiệp và chăn nuôi thu nhập bình quân đầu người hơn 9.600.000 kip/01 năm.

Công tác văn hóa - xã hội trong gian qua cán bộ, chiến sĩ đã vận động già làng,

trưởng bản, trưởng thôn và các chức sắc tôn giáo coi trọng bảo tồn phong tục, tập

71

quán và khuyến khích, phát huy giá trị văn hóa và chống mê tín dị đoan; tạo điều

kiện cho trẻ em đi học bằng cách mở rộng, phát triển 85% của công tác giáo dục

đến vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa trong tất cả tổng số trường tiểu học, đảm

bảo cho tỷ lệ vào học của trẻ em 3-5 tuổi đạt được 27%. Tỷ lệ vào học của trẻ em 6

tuổi cho đạt được 100%, tỷ lệ vào học cấp tiểu học đạt 98% và tỷ lệ dân số 15 - 24

tuổi đạt được 99%. Cùng địa phương phấn đấu tập hợp làng nhỏ ở vùng nông thôn,

vùng sâu, vùng xa thành làng lớn để trở thành thị trấn ở nông thôn mới, thành đơn

vị tiêu biểu gương mẫu, một số khu vực các sư đoàn đặc trách ít nhất 1 - 2 nơi và

xây dựng làng phát triển theo 4 nội dung, 4 mục tiêu đạt được hiệu quả theo tiêu chí

của Trung ương đặt ra, do tập trung phát triển cơ sở hạ tầng ở cơ sở địa phương

vững chắc [62].

- Kế hoạch về củng cố kiện toàn hệ thống chính trị ở cơ sở, các sư đoàn

QĐND Lào đã tập trung tăng cường lực lượng để củng cố kiện toàn hệ thống chính

trị ở cơ sở vững mạnh, có khả năng tổ chức triển khai chủ trương, đường lối của

Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước ở cơ sở địa phương; việc củng cố, xây

dựng hệ thống chính trị ở địa phương phải gắn với xây dựng Đảng bộ trong sạch,

vững mạnh, toàn diện. Đối với từ nay đến 2030 phấn đấu cho đến 75% trở lên, hoàn

toàn xóa bỏ thôn, bản trắng trong khu vực đặc trách của các sư đoàn. Phối hợp với

cấp ủy, chính quyền địa phương củng cố và xây dựng các tổ chức cơ sở đảng, Mặt

trận Lào xây dựng đất nước, tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội vững mạnh về mặt

chính trị, tư tưởng, tổ chức. Đồng thời, thường xuyên bồi dưỡng, giáo dục vai trò,

quyền hạn, trách nhiệm và phòng cách làm việc cho mỗi cơ quan các cấp của chính

quyền địa phương, nhất là Mặt trận Lào xây dựng đất nước, các đoàn thể chính trị -

xã hội ở mỗi cụm bản, thôn, làng. Kết quả nổi bật quan trọng nhất là, các sư đoàn có

thể làm cho hệ thống chính trị ở có sở đã được củng cố kiện toàn chặt chẽ, vững

mạnh về mặt tư tưởng, chính trị và tổ chức, có khả năng lãnh đạo các tầng lớp nhân

dân ở địa phương, đảm bảo tổ chức thực tốt các hiện nhiệm vụ, làm cho cơ sở nông

thôn cũng như vùng sâu, vùng xa cơ bản ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội,

nhân dân có tình đoàn kết chặt chẽ, giúp đỡ lẫn nhau, có tính tự giác làm chủ đất

nước, có ý thức chấp hành pháp luật nhiều hơn; thực hiện quyền làm chủ và nghĩa

72

vụ của công dân theo quý định của pháp luật và hiến pháp, có tính giác ngộ tham

phong trào của Đảng, Quốc gia; đánh bại mọi âm mưu thủ đoạn chống phá của các

thế lực thù địch, làm cho nhân dân bình yên cuốc sống, tin tưởng với sự lãnh đạo

của Đảng, Nhà nước ta.

Mặc dù, việc tiến hành CTDV của các sư đoàn trong thời gian sẽ đối mặt với

thách thức, khó khăn, gian khổ, nhưng cũng có nhiều thành tựu đáng mừng, trong

góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện thuận lợi

phục vụ phát triển KT-XH ở địa phương, đời sống, vật chất tinh thần của nhân dân

ngày càng được cải thiện tốt hơn, 90% cán bộ, đảng viên và nhân dân tin tưởng vào

sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, nhận thức rõ những âm mưu thủ đoạn chống phá của

các thế lực thù địch; nhiều làng, thôn được chứng nhận là làng quốc phòng vững

mạnh, làng phát triển, nhiều thị trấn nhỏ ở nông thôn có diện mạo mới; công tác

VH-XH đã được củng cố kiện toàn, góp phần xây dựng môi trường văn hóa, lối

sống lành mạnh; công tác bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc

và các hoạt động văn hóa, thông tin, thể dục - thể thao được đẩy mạnh và tăng

cường, tệ mê tín dị đoan đã từng bước giảm. Qua nhận xét đánh giá trong báo cáo

tổng kết công tác dân vận của các sư đoàn năm 2020, có khoảng 60% cán bộ, chiến

sĩ ở các cơ quan, đơn vị tiến hành CTDV đạt hiệu quả tốt, số còn lại ở mức khá và

trung bình và từ này đến 2025 các sư đoàn sẽ phấn đấu tiến hành CTDV đạt kết quả

70% trở lên [62].

Qua tiến hành khảo sát, điều tra ở các sư đoàn từ tháng 01 năm 2020 cho

thấy: có 73% ý kiến đánh giá tốt của sĩ quân, quân nhân chuyên nghiệp cho rằng

công tác tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành chủ trương, đường lối của

Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Điều này có thể khẳng định rằng, các sư

đoàn đã tích cực triển khai các chỉ thị, nghị quyết của Đảng có hiệu quả thiết thực,

nhất là trong tham gia thực hiện CTDV, phát triển nông thôn; từ đó, đã đưa công tác

tuyên truyền, vận động nhân dân đi vào thực chất ở địa phương, làm cho nhân dân

hài lòng và có tin tưởng đối với sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và Quân đội, đây

chính là thước đo cho kết quả CTDV của các sư đoàn thuộc QĐND Lào [Biểu 8].

73

Hai là, các sư đoàn thuộc Quân đội nhân dân Lào đã quan tâm chỉ đạo các cơ

quan, đơn vị tích cực tuyên truyền, thuyết phục, vận động nhân dân thông qua các

phương tiện thông tin đại chúng, báo chí, phát thanh - truyền hình và báo điện tử

hiện đại.

Trong tiến hành công tác tuyên truyền, thuyết phục nhân dân ở vùng địa bàn

cán bộ, chiến sĩ các sư đoàn đã linh hoạt vận dụng kỹ năng của mình rất nhiều hình

thức, phương pháp đa dạng, phong phú, kết hợp với sử dụng các phương tiện thông

tin đại chúng, báo chí, phát thanh - truyền hình và báo điện tử phát triển nhanh

chóng để trực tiếp cho người dân đã nhận rõ sự hoạt động lãnh đạo của Đảng, Nhà

nước từng mỗi giai đoạn cả trong nước, khu vực và quốc tế. Trong đó, đơn vị trực

tiếp tiến hành công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động nhân dân là đội công tác

201, 202, 203, 204, 205 trực thuộc các Sư đoàn, làm nhiệm vụ tham mưu tuyên

truyền, thuyết phục nhân dân trên địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số,

bằng thông qua tiếp xúc, đội thoại, phát hành tài liệu, sách, báo và cả bằng các tiếng

dân tộc. Qua phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương và các ngành đã sử dụng

thành 3 hình thức như: Lấy giáo dục là chủ yếu; phát triển là vấn đề trung tâm và

vận động, tuyên truyền là vấn đề trọng yếu...

Như vậy, trong thời gian 5 năm qua, các sư đoàn thuộc QĐND Lào đã chú

trọng tổ chức đội công tác chuyên trách về cơ sở tiếp xúc, đối thoại hơn 69 buổi, có

2.830 lượt người dân tham dự, nhằm tuyên truyền, vận động và giải quyết kịp thời

những vấn đề nảy sinh ở địa phương. Đồng thời, giáo dục, quán triệt tư tưởng,

chính trị cho nhân dân các dân tộc, nhất là các già làng, trưởng bản, trưởng thôn và

các chức sắc tôn giáo ở vùng sâu, vùng xa, vùng trọng điểm chiến lược của Đảng,

cùng với tổ chức cho họ đi tham quan ở các thành phố lớn và thủ đô 4 lần, trên tổng

số 225 người, nữ 98 người; cùng với tuyên truyền, giáo dục cho các già làng, trưởng

bản, trưởng thôn và các chức sắc tôn giáo bằng các văn bản để giải thích các nội

dung chỉ thị, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhất là truyền thống của

Đảng, của Dân tộc, của Quân đội bằng ngôn ngữ dân tộc 5.896 đọt, có nhân dân

tham gia 148.450 lượt người; tuyên truyền luật gia đình, luật Lâm nghiệp, luật

phòng chống ma túy đến đồng bào nhân dân 2.521 đợt, có 158.823 lượt người tham

74

gia; tổ chức 163 lớp tập huấn công tác tôn giáo, dân tộc cho các già làng, trưởng

thôn, bản và các chức sắc tôn giáo với 4.938 lượt người tham dự; mở 25 lớp huấn

luyện quân sự cho các đối tượng học sinh, sinh viên các trường đại học, cao đẳng,

phổ thông trung học với 16.875 lượt người. Hoạt động trên 47 buổi giao lưu văn

hóa, văn nghệ, thể dục thể thao kết truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính

sách, pháp luật của Nhà nước, mở rộng 5 trung tâm mạng vô tuyến truyền thanh

quân đội ở địa bàn các sư đoàn đóng quân; chiếu phim truyền thống của quân đội

phục vụ nhân dân ở vùng đồng bào dân tộc, tôn giáo, vùng sâu, vùng xa 19 lần.

Ngoài ra, còn trực tiếp phát sóng trên truyền hình và báo điện tử quân đội hàng

ngày; cung cấp tạp chí, báo chí quốc phòng toàn dân và thông tin của Đảng, Nhà

nước 260 đợt, gồm có 52.000 phiên bản phổ biến cho các đơn vị và nhân dân ở

vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa hàng tháng [62].

Các nội dung, phương thức nâng cao công tác tuyên truyền, vận động, thuyết

phục nhân dân chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật

của Nhà nước, nhất là các đồng bào dân tộc ở vùng sâu, vùng xa, vùng trọng điểm

của Đảng, các sư đoàn đã luôn đổi mới hình thức, biện pháp tuyên truyền, thuyết

phục nhân dân tạo sự thống nhất trong Đảng và đồng thuận trong xã hội; các sư

đoàn đã làm tốt vai trò đoàn kết, tập hợp, giáo dục về chính trị, tư tưởng cho nhân

dân, góp phần tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhân dân tin

tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng Nhà nước và con đường CNXH. Các sư

đoàn còn thực hiện tốt chính sách dân tộ, tôn giáo của Đảng, tích cực tuyên truyền,

thuyết phục nhân dân cảnh giác trước âm mưu kích động biểu tình, làm gây rối của

các phần tử xấu, thế lực thù địch. Qua tiến hành điều tra, khảo sát cho thấy: 31% ý

kiến đánh giá tốt của sĩ quân, quân nhân chuyên nghiệp về hoạt động tiến hành

CTDV những thời gian qua thấy rằng phương pháp cử tổ, đội công tác chuyên trách

đi cơ sở hiệu quả hơn [Biểu 8]. Và có 38% ý kiến của hạ sĩ quân, chiến sĩ đã thường

xuyên tham gia hình thức tiếp xúc, đối thoại với nhân dân.

Ba là, các sư đoàn thuộc Quân đội nhân dân Lào chú trọng phối hợp chặt chẽ

với cấp ủy, chính quyền địa phương, Mặt trận Lào xây dựng đất nước, các tổ chức

75

đoàn thể chính trị - xã hội và các ngành, giải quyết các tình huống phức tạp liên

quan đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở đại phương.

Các sư đoàn thuộc QĐND Lào đã tổ chức 5 đội công tác tăng cường phối

hợp, liên kết chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương, các tổ chức đoàn thể

chính trị - xã hội và các lực lượng có liên quan trên địa bàn tổ chức triển khai đồng

bộ, toàn diện, sát vố chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức và đối tượng tiến hành,

phù hợp thực tiễn của các cơ quan, đơn vị và địa phương, góp phần thực hiện

thắng lợi công cuộc vận động cách mạng của Đảng, của Quân đội và địa phương

trong thời kỳ mới, tăng cường củng cố lòng tin của nhân dân với với Đảng, với

chế độ XHCN.

Vì vậy, trong thời gian 5 năm qua, các sư đoàn thuộc QĐND Lào đã phối

hợp với lực lượng quân sự địa phương, công an nhân dân tỉnh giải quyết các vụ án

xảy ra 1.299 vụ án, trong đó có 1.351 người tội phạm, nữ 173 người; phá hủy lực

lượng biệt kích tham báo 1.540 tên địch, thu 18 khẩu súng; phá án tội phạm ma túy

36 vụ, có 53 người tội phạm, thu được 494 Kg ma túy tổng hợp, 469 kg hêrôin, 186

kg thuốc phiện, 6 ô tô, 14 xe máy, 64 điện thoại di động, 35 máy tính, 2 Ti Vi, tạm

giữ 13 chứng minh thư, tạm giữ 13 hộ chiếu, thu được tiền Lào 92.178.000 kip, thu

được tiền Thái Lan 586.290 Bạt, 24.000 Bạt Thái giả, 9.750 đô la Mỹ, thu giữ vàng

được 191 chỉ; quản lý, kiểm tra người xuất nhập cảnh 913 lượt người, nữ 245 lượt

người; kiểm tra, phát hiện 193 người nhập khẩu trái phép và 100% trả về nước của

họ; bắt trên 157 vụ đánh bạc, 198 vụ trộm cắp tài sản, 15 vụ án gian lận tài sản dân

sự, nạn phá rừng tùy tiện, khai thác và vận chuyển gỗ trái phép 152 vụ; phối hợp

tham gia giải quyết 12 vụ tranh chấp lãnh thổ, 15 vụ khiếu kiện; 19 vụ tuyên truyền

đạo trái phép; 8 vụ tụ tập tuyên truyền nói xấu chế độ [62].

Ngoài ra, các sư đoàn đã hợp tác, trao đổi đoàn công tác và kết nghĩa giữa

các sư đoàn thuộc QĐNDL với các đơn vị Quân đội nhân dân Việt Nam, nhất là

Quân khu 2, Quân khu 4, Quân khu 5, Quân khu 7 và các đơn vị khác... để cùng

nhau trao đổi công tác quản lý biên giới, quản lý công dân di cư tự do, nhập cư bất

hợp pháp theo một số điểm ở khu vực biên giới giữa hai nước. Hàng năm các sư

đoàn đã thống nhất ký kết Bản thỏa thuận thực hiện các nội dung phối hợp hoạt

76

động với đơn vị kết nghĩa Quân đội nhân dân Việt Nam; trọng tâm là tiếp tục duy

trì, phát triển mối quan hệ, hữu nghị hợp tác, tăng cường hiểu biết lẫn nhau; thống

nhất các phương án để hai đơn vị tiếp tục giúp đỡ lẫn nhau, thực hiện các nhiệm vụ.

Như vậy, trong thực hiện công tác phối hợp hai bên 5 năm qua có thể giải quyết

những tình huống phức tạp ở khu vực biên giới như: bắt được 835 hộ nhập cư trái

phép, có tổng số tất cả 9.179 người, nữ 2.148 người; có 2.019 nhà thờ trái phép và

nhân dân tham gia tín ngưỡng tôn giáo Giê Su, Kitô giáo, Công Giáo trái phép có

185.576 người, nữ 22.323 người; đề xuất xin ý kiến của cấp trên giải quyết kịp thời,

cùng nhau xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển [62].

Vì vậy, qua tiến hành điều tra, khảo sát có 51% ý kiến tốt của sĩ quan, quân

nhân chuyên nghiệp về việc phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương, Mặt trận

Lào xây dựng đất nước, các đoàn thể chính trị - xã hội và các lực lượng có liên quan

trong tiến hành CTDV [Biểu 10].

Bốn là, các sư đoàn thuộc Quân đội nhân dân Lào đã thường xuyên lãnh đạo

và tổ chức bộ phận chuyên trách về vùng sâu, vùng xa làm công tác dân vận, để góp

phần củng cố xây dựng “thế trận lòng dân”, rèn luyện tác phong công tác, bản lĩnh

chính trị, phẩm chất “Bộ đội Lào Ít Xa La” cho cán bộ, chiến sĩ.

Để tham mưu trực tiếp cho cấp ủy, chính quyền địa phương nơi địa bàn đóng

quân trong tổ chứ thực hiện Chỉ thị số 03/BCT của Bộ Chính trị về “Xây dựng làng

trở thành đơn vị phát triển, xây dựng làng lớn trở thành thị trấn ở nông thôn”. Chỉ

thị số 0178/TCCT của Tổng Cục Chính trị về “Tăng cường công tác dân vận ở cơ

sở vững mạnh”. Đồng thời thực hiện các dự án, chương trình, kế hoạch của địa

phương đạt hiệu quả thiết thực. Các sư đoàn thuộc QĐND Lào đã quyết định tổ

chức bộ phận chuyên trách về vùng sâu, vùng xa làm CTDV, cùng phân công

nhiệm vụ cho cấp ủy, chỉ huy đơn vị trực tiếp phục trách CTDV trong khu vực sư

đoàn đóng quân; thực hiện theo dõi, kiểm tra, giám sát và đẩy mạnh CTDV, gắn với

phát KT-XH ở vùng nông thôn theo chương trình, kế hoạch của địa phương đặt ra;

song làm nhiệm vụ phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương tuyên truyền, vận

động nhân dân chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật

của Nhà nước cho đến các đối tượng người dân ở sở quán triệt sâu sắc, hiểu rõ và tổ

77

chức thực hiện đúng theo quan điểm của Đảng. Ngoài ra, phối hợp vơi chính quyền

địa phương và các ngành kiểm tra địa bàn để phân bố khu dân cư, chia đất, chia

rừng, xác định nơi sản xuất, trồng trọt, chăn nuôi cho nhân dân. Mặt khác, các sư

đoàn đã thực tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách,

mọi công việc được thông qua thảo luận, góp ý kiến, thống nhất trong các phiên họp

khi tổ chức thực hiện CTDV; chỉ huy đoàn các cơ quan, đơn vị đã chủ đáo phân

công nhiệm vụ cho thành viên, chỉ đạo theo chức trách, nhiệm vụ chuyên môn của

mỗi đồng chí. Đồng thời, tổ chức sơ kết, tổng kết, đúc rút kinh nghiệm việc thực

hiện CTDV từng đợt tiến hành...

Hiện nay các vùng trọng điểm, cụm bản, làng của các sư đoàn phục trách đã

tiến hành CTDV bằng 2 hình thức như:

- Về mặt bề rộng, các sư đoàn thuộc QĐND Lào đã lãnh đạo, chỉ đạo CTDV

theo truyền thống của quân đội, có nghĩa là đơn vị đóng quân ở chỗ nào phải quan

hệ chặt chẽ với nhân dân ở chỗ đó, để giúp họ phát triển sản xuất, nâng cao đời

sống, giữ vững ổn định an ninh, trật tự an toàn xã hội. Đến nay có 113 đầu mối, với

tổng số 4.121 lượt người hành quân dã ngoại về địa bàn vùng sâu, vùng xã, vùng

trọng điểm, xuống cơ sở địa phương làm CTDV theo truyền thống của QĐND Lào

bằng tư cách là “Bộ đội Lào Ít Xạ La”. Trong đó, các sư đoàn đã tổ chức kết nghĩa

với 910 đầu mối tổ chức chính quyền, ban, ngành, đoàn thể địa phương. Qua thực

tế, có nhiều đơn vị hoạt động xuất sắc làm cho quan hệ đoàn kết gắn bó máu thịt

giữa Quân đội với Nhân dân ngày càng thắt chặt tốt hơn, thực hiện theo khẩu hiệu

“Quân với dân như cá với nước” [62].

- Về mặt chiều sâu, theo yêu cầu của địa phương và sư chỉ đạo hướng dẫn

của Bộ Quốc phòng, các sư đoàn thuộc QĐND Lào đã tổ chức thành lập 05 đội

công tác chuyên trách, có tổng số tất cả 934 người, nữ 6 người, xuống cơ sở địa

phương làm CTDV theo 4 nội dung, 4 mục tiêu, gắn với phát triển nông thôn mới;

cùng với đó, cả 5 sư đoàn đã xuống cơ sở làm CTDV, chiếm 17 tỉnh, 3 thành phố,

145 huyện, 2.453 bản, để thực hiện tốt chức năng tham mưu cho cấp ủy, chính

quyền địa phương, đẩy mạnh nhân dân phát triển sản xuất, xóa đói giảm nghèo, giữ

78

vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội và giải quyết những vấn đề phức tạp

nảy sinh trên địa bàn đóng quân [62].

Do kết quả khảo sát, điều tra thăm hỏi ý kiến của hạ sĩ quân, chiến sĩ cho

rằng: có 59% rất tự hào và phấn khởi khi được cấp trên giao nhiệm vụ làm CTDV

và có 52% ý kiến tốt của hạ sĩ quân, chiến sĩ cho rằng: Nếu được cấp trên giao

nhiệm vụ làm đội trưởng công tác dân vận tại địa phương sẽ thực hiện tốt nhiệm vụ

giao phó [Biểu 10].

Năm là, các sư đoàn thuộc Quân đội nhân dân Lào luôn nêu cao vai trò

gương mẫu của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ trong tiến hành công tác dân vận.

Trong thực hiện cuộc vận động phong trào đẩy mạnh CTDV, phát triển nông

thôn toàn diện đúng theo phương hướng mới; xây dựng phong trào “ yêu nước -

phát triển” trong toàn quốc, với vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ là

người đứng đầu trong thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của

Nhà nước, đặc biệt là gương mẫu về công tác chính trị - tư tưởng, công tác QP, AN,

công tác, công tác phát triển kinh tế, VH-XH và củng cố hệ thống chính trị ở địa

phương. Đồng thời, huy động các nguồn lực, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và

quan tâm giải quyết các vấn đề bức xúc, nguyện vọng chính đáng của nhân dân.

Điển hình CTDV của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ trong phong trào đẩy mạnh

CTDV, phát triển nông thôn toàn diện đúng theo phương hướng mới; xây dựng

phong trào “yêu nước, yêu phát triển” luôn đạt hiệu quả cao. Ngoài ra, cán bộ, đảng

viên, chiến sĩ đã tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân phát triển kinh tế sản

xuất hàng hóa nhằm xóa đói giảm nghèo.

Về một số cơ bản trong xây dựng cơ sở hạ tầng, được đề cập trên đó là

những gương mẫu của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ của các sư đoàn góp phần quan

trọng trong phát triển nông thôn, vùng sâu, vùng xa đã có một mặt thay đổi mới, đời

sống của nhân dân được cải thiện rất đáng kể. Thông qua thực tế, đã làm cho kinh tế

ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa đang và đã từng bước phát triển; xây dựng gia

đình gương mẫu về mặt sản xuất được 542 hộ gia đình, giúp đỡ nhân dân hơn 3.860

ngày công lao động tu sửa, nâng cấp hơn 128 km đường nông thôn, 6 thủy lợi; sửa

chữa 17 trường học; sửa chữa 2 cầu gỗ với tổng giá trị 2.300.000 triệu kip; giúp

79

nhân dân 135 ngày công lao động thu hoạch lúa, có lực lượng lao động tất cả 2.430

lượt người; cải tạo 253 héc-ta vườn; tổ chức khai hoang bàn giao cho nhân dân canh

tác 594 ha ruộng; thăm tặng quà các đối tượng chính sách với trị giá hơn

521.000.000 triệu kip; tặng 33 nhà tình nghĩa. Cùng với công việc đó, các sư đoàn

đã mang lại một số vật chất, tình thần giúp hộ gia đình nghèo ở vùng nông thôn,

vùng sâu, vùng xa tổng giá trị tất cả hơn 1.415.000.000 tỷ kip [62].

Qua đó, các sư đoàn thuộc QĐNDL đã trực tiếp tục tham gia thực hiện hiệu

quả các chương trình phát triển KT-XH, xóa đói giảm nghèo cho nhân dân; tích cực

bám địa bàn, đoàn kết sát cánh cùng với nhân dân trong mọi mặt của đời sống, thực

hiện phương châm “Cùng ăn, cùng ở, cùng làm việc và cùng nói tiếng dân tộc với

họ”. Kết quả khảo sát, điều tra cho thấy: 93% ý kiến đánh giá của sĩ quân, quân

nhân chuyên nghiệp cho rằng việc giáo dục, quản lý bộ đội giữ nghiêm kỷ luật mối

quan hệ quân dân trong thời gian qua. Điều đó khẳng định là, việc chấp hành kỷ

luật, nền nếp của các sư đoàn có chuyển biến mạnh mẽ và tiến bộ khá toàn diện;

nhận thức của cấp ủy, chỉ huy các các sư đoàn cùng toàn thể cán bộ, chiến sĩ đối với

việc chấp hành kỷ luật của quân đội, các quy định của đơn vị không ngừng được

nâng lên, góp phần phát huy sức mạnh của QĐNDL trong tình hình mới [Biểu 8].

Sáu là, các sư đoàn thuộc Quân đội nhân dân Lào đã coi trọng công tác sự

kiểm tra, giám sát; thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị tổ chức sơ

kết, tổng kết việc thực hiện công tác dân vận.

Định kỳ hàng năm các sư đoàn thuộc QĐNDL đã tiến hành công tác kiểm

tra, giám sát, tổ chức sơ tổng kết, rút kinh nghiệm trong hoạt động CTDV của các

cơ quan, đơn vị nhất là các tổ, đội công tác chuyên trách; thường xuyên tiến hành

công tác kiểm tra, giám sát các nội dung, phương thức triển khai để kịp thời phát

hiện, uốn nắn, nhắc nhở kịp thời. Lãnh đạo, chỉ huy của các sư đoàn đã tăng cường

kiểm tra, giám sát định kỳ CTDV của cán bộ, chiến sĩ ở các cơ quan, đơn vị. Xác

định nội dung, phương thức công tác dân vận là một trong những tiêu chí, điều kiện

quan trọng để xây dựng cuộc vận động và xếp loại thi đua của các cơ quan, đơn vị

trực thuộc sư đoàn trong hàng năm. Thông qua CTDV phát hiện, nhân rộng các mô

hình, điển hình trong các phong trào thi đua “Yêu nước - yêu phát triển”, phong trào

80

xây dựng “Đơn vị dân vận gương mẫu” và “Cả nước chung sức xây dựng nông

thôn mới”. Ngoài ra, trong định kỳ hàng năm các sư đoàn thuộc QĐNDL đã coi

trọng công tác tổ chức khen thưởng, biểu dương những mô hình, điển hình làm tốt

CTDV của các cơ quan, đơn vị và cá nhân; cùng với tuyên truyền, khuyến khích và

nhân rộng những tấm gương cán bộ, chiến sĩ cần mẫn, kiên nhẫn, có linh hoạt, sáng

tạo, vượt qua mọi trở ngại mọi khó khăn, gian khổ trong hoạt động thực hiện nhiệm

vụ mà Đảng, Nhà nước, Nhân dân giao phó.

Vì vậy, những năm vừa qua Quân đội nhân dân Lào đã tổ chức Hội nghị

tổng kết CTDV trong toàn quân, cùng với biểu dương, khen thưởng những mô hình

xây dựng “Đơn vị dân vận gương mẫu” giai đoạn 2016 - 2020 trong toàn quân;

trong đó sư đoàn 5 vừa được thủ trưởng Bộ Quốc phòng công nhận xếp hạng hoàn

thành xuất sắc, tiêu biểu trong các hoạt động thực hiện CTDV, với thành tích đáng

tự hào như: thực hiện theo sự chỉ đạo của Đảng ủy Bộ Quốc phòng, năm 2017-2018

sư đoàn 5 đã tổ chức, sử dựng lực lượng 530 người, cứu hộ, cứu nạn người dân bị

ảnh hưởng vỡ đập thủy điện ở tỉnh Ắt Tạ Pư, đông nam Lào; sư đoàn 5 đã khẩn

trương phối hợp với lực lượng địa phương tỉnh, hoạt động tìm kiếm người dân sống

sót và tìm kiếm người bị mất tích do thảm họa 35 người; di dời các hộ dân ra khỏi

vùng nguy hiểm 20 làng, sử dụng phương tiện 13 xe tải, sử dụng 8 thuyền vận

chuyển; có 140 tổng số ngôi nhà bị ảnh hưởng và xây nhà tạm cho 140 hộ gia đình

thiên tai; vận chuyển 31 tấn lương thực giúp đồng bào bị thiên tai. Sau đó, sư đoàn

5 cũng đã tổ chức, sử dựng lực lượng 305 người, giúp nhân dân bi thiên tai, thảo

họa ở tỉnh Chăm Pa Sắc, tỉnh Xa La Văn, sử dụng phương tiện 15 xe tải, sử dụng 8

thuyền vận chuyển, tổ chức lực lượng y tế cơ động để chuẩn bị đối phó với các nạn

nhân và có thể điều trị cho hơn 200 bệnh nhân; sư đoàn cũng đã tổ chức lực lượng,

phương tiện giúp đỡ 22 gia đình bị ảnh hưởng bởi đám cháy ở khu vực sư đoàn

đóng quân 62. Đây là mô hình tiêu biểu về sự hy sinh, cần cù, chịu đựng không

mệt bao giờ mệt mỏi của lực lượng sư đoàn 5, đó cũng là một đóng góp to lớn cho

sự khôi phục cơ sở hạ tầng đã khó khăn, trở lại ổn định. Trên cơ sở thực hiện công

việc đó, đã làm cho vai trò cán bộ dân vận có nhân được sự tin cậy của cấp ủy,

chính quyền địa phương và nhân dân các dân tộc; có nhiều đơn vị và cá nhân được

81

cấp trên Bộ Quốc phòng và Lãnh đạo tỉnh ủy khen thưởng. Các sư đoàn còn lại đều

đạt loại khá tốt.

Với những kết quả và ưu điểm như trên, có thể đánh giá khái quát CTDV của

các sư đoàn thuộc QĐND Lào trong những năm qua là:

- Công tác dân vận của các sư đoàn thuộc Quân đội nhân dân Lào có vai trò

rất quan trọng trong tổ chức hoạt động tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện

tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ

của địa phương, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng

biên giới.

- Công tác dân vận các sư đoàn thuộc Quân đội nhân dân Lào trực tiếp góp

phần xây dựng cơ sở địa phương và địa bàn đóng quân vững mạnh toàn diện về

kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh.

- Công tác dân vận của các sư đoàn thuộc Quân đội nhân dân Lào góp phần

xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc và tăng cường quan hệ đoàn kết

quân - dân, làm cho hình ảnh “Bộ đội Lào Ít Xa La” luôn tỏa sáng trong lòng nhân

dân các địa phương.

- Công tác dân vận của các sư đoàn thuộc Quân đội nhân dân Lào góp phần

tham gia xử lý kịp thời, hiệu quả các vụ việc phức tạp ở cơ sở, nhất là những vụ

việc liên quan đến vấn đề dân tộc, tôn giáo ở vùng sâu, vùng xa, vùng trọng điểm.

- Công tác dân vận của các sư đoàn thuộc Quân đội nhân dân Lào đã góp

phần xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển với các nước láng

giềng, nhất là với nước CHXHCN Việt Nam.

3.1.1.3. Trong điều kiện đảm bảo cho công tác dân vận của các sư đoàn

thuộc Quân đội nhân dân Lào

Một là, sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, thống nhất của Đảng ủy Bộ Quốc

phòng về chủ trương, kế hoạch tiến hành công tác dân vận của các sư đoàn Quân

đội nhân dân Lào.

Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị

QĐND Lào, phong trào Thi đua xây dựng “Đơn vị dân vận gương mẫu”, xây dựng

“Đơn vị dân vận tốt” được triển khai đồng bộ, toàn diện, thực chất, vững chắc, có

82

chiều sâu, phù hợp với tình hình thực tiễn ở địa phương, đạt hiệu quả thiết thực. Nét

mới của phong trào thi đua thời gian qua là các sư đoàn QĐND Lào luôn bám sát

tình hình địa bàn, lựa chọn nội dung, hình thức, biện pháp hoạt động phù hợp, hiệu

quả cao. Chủ động phối hợp chặt chẽ và đồng bộ với cấp ủy, chính quyền địa

phương, các ban, ngành và các lực lượng có liên quan; huy động tập trung nguồn

lực tham gia phát triển KT - XH, củng cố và xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn

với thế trận an ninh nhân dân vững mạnh trên các địa bàn đặc trách. Những thành

tích đã đạt được trong phong trào xây dựng “Đơn vị dân vận gương mẫu” của các

sư đoàn với những kết quả cụ thể là: được cấp trên khen thưởng các mô hình “Đơn

vị dân vận gương mẫu” cho các tập thể 530 đơn vị; cá nhân 438 đông chí; được

thăng quân hàm 2.113 đồng chí. Đây là những kết quả chứng minh của tập thể và cá

nhân xuất sắc của các sư đoàn trong thời gian qua 62.

Hai là, cấp ủy, chỉ huy của các sư đoàn đã có nhận thức đầy đủ đúng đắn về

vai trò, trách nhiệm của quân đội, của đơn vị đối với công tác dân vận; quán triệt

đầy đủ, nghiêm túc các chủ trương, kế hoạch, quy định của cấp trên về công tác

dân vận.

Công tác dân vận trong giai đoạn hiện nay có rất nhiều khó khăn, nhưng cấp

ủy, chỉ huy của các sư đoàn thuộc QĐND Lào đã tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo để

QĐND Lào căn cơ hơn. Trong đó, cấp ủy, chỉ huy của các sư đoàn đã tập trung xây

dựng đội ngũ cán bộ dân vận ngày càng vững mạnh toàn diện, đảm bảo chất lượng

trong tiến hành QĐND Lào; quan tâm nâng cao nhận thức về kỹ năng trong tuyên

truyền, vận động nhân dân của cán bộ dân vận; đồng thời, cấp ủy, chỉ huy của các

sư đoàn cũng đã nỗ lực tổ chức tiến hành công tác dân vận đạt hiệu quả cao, tạo

nhiều điều kiện thuận lợi cho các tầng lớp nhân dân tham gia phong trào thi đua yêu

nước - yêu phát triển, gắn với phong trào xây dựng nông thôn mới của Đảng, Nhà

nước và địa phương đã phát động. Ngoài ra, cán bộ dân vận của các sư đoàn đã tích

cực vận dụng linh hoạt các phương thức tiếp cận nhân dân, thường xuyên chủ động

gặp gỡ để tạo sự gần gũi với nhân dân, cùng thân mật với các đối tượng ở địa

phương... Qua đó, để thực hiện nghiêm theo kế hoạch, chương trình và sự chỉ đạo

hướng dẫn của cấp trên Bộ Quốc phòng, các sư đoàn thuộc QĐND Lào đã có kế

83

hoạch đào tạo, bồi dưỡng và lựa chọn những cán bộ, chiến sĩ từ các cơ quan, đơn vị

trực thuộc, tổ chức 170 buổi tập huấn nghiệp vụ CTDV cho đội ngũ cán bộ chuyên

trách với tất cả 4.557 lượt người tham gia; sau buổi tập huấn các sư đoàn đã phân

công nhiệm vụ cho các cán bộ, chiến sĩ xuống cơ sở địa phương làm nhiệm vụ

CTDV, nhằm đảm bảo và thực hiện tốt chức năng “đội quân công tác”, hoàn thành

xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao 62.

Ba là, các sư đoàn thuộc Quân đội nhân dân Lào khi nào cũng nhờ sự giúp

đỡ, ủng hộ của nhân dân, sự phối hợp chặt chẽ, tạo điều kiện thuận lợi của cấp ủy,

chính quyền, các đoàn thể ở địa phương nơi đóng quân, thành sức mạnh to lớn để

xây dựng và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.

Trong quá trình tiến hành CTDV các sư đoàn cùng cấp ủy, chính quyền địa

phương, các đoàn thể chính trị - xã hội đã tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân

ở địa phương sẵn sàng tạo mọi điều kiện tốt nhất trong tiếp tế lương thực, thực

phẩm ủng hộ cho các đơn vị và cán bộ, chiến sĩ; dù trong mọi tình huống nào, khó

khăn nào, cũng phát động nhiều hoạt động quyên góp, ủng hộ lương thực, thực

phẩm cho hộ bộ đội. Đồng thời, cấp ủy, chính quyền địa phương, Mặt trận Lào xây

dựng đất nước, các đoàn thể chính trị - xã hội đã thực hiện tốt trong vận động nhân

dân nhân dân ở địa phương tham gia đóng góp cả mặt vật chất, tinh thần có giá trị to

lớn cho các đơn vị và cán bộ, chiến sĩ như ngày lễ hội của quốc gia và của quân đội,

để khuyến khích, cổ vũ cho bộ đội hoàn thành tốt nhiệm vụ của trên giao phó. Như

vậy, cùng với 15 tấn gạo được cung cấp cho các đơn vị và cán bộ, chiến sĩ theo sự

hiệp đồng giữa cấp ủy, chính quyền địa phương, Mặt trận Lào xây dựng đất nước,

các đoàn thể chính trị - xã hội; cũng đã góp phần giúp đơn vị và cán bộ, chiến sĩ bảo

đảm đủ lương thực, thực phẩm trong quán trình tiến hành CTDV và góp phần thắt

chặt thêm mối quân hệ gắn bó máu thịt giữa quân độ với nhân dân [62].

Bốn là, việc tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phương tiện, kỹ

thuật phục vụ cho công tác dân vận của các sư đoàn.

Trong thời gian qua, lãnh đạo các sư đoàn đã phối hợp với cấp ủy, chính

quyền địa phương để giúp xây dựng 5 doanh trại cho các đội công tác 201, 202,

203, 204, 205 đóng quân tại địa bàn, do vốn đầu tư giúp đỡ của Tỉnh ủy và Bộ Quốc

84

phòng. Cùng với đó, cấp ủy, lãnh đạo các sư đoàn đã chỉ đạo, hướng dẫn xây dựng

kế hoạch và phân công cho các cơ quan, đơn vị và đội công tác chuyên trách dân

vận thường xuyên bảo quản, bảo dưỡng, sửa chữa phương tiện, vũ khí, trang bị kỹ

thuật. Như vậy, 100% phương tiện, vũ khí trang bị đã được bảo quản, bảo dưỡng

với hệ số kỹ thuật an toàn tuyệt đối. Trong đó, các sư đoàn đã trang bị phương tiện

5 xe quân sự UAZ (thần thánh) cho các 5 đội công tác 201, 202, 203, 204, 205, để

tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động thực hiện nhiệm vụ của đơn vị. Ngoài ra,

còn cung cấp 10 bác sĩ tăng cường cho các đội công tác chuyên trách dân vận để

chăm sóc sức khỏe của bộ đội và nhân dân ở địa phương 62.

3.1.2. Những khuyết điểm, hạn chế

3.1.2.1. Trong thực hiện các nội dung công tác dân vận của các sư đoàn

thuộc Quân đội nhân dân Lào

Một là, hoạt động tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ

trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là về nhiệm vụ quốc

phòng, an ninh vẫn còn một số tồn tại.

Đó là, công tác QP, AN ở một số nơi vẫn chưa phải là nghĩa vụ của người

dân, phòng trào xây dựng làng chiến đấu, cụm bản chiến đấu vẫn làm được ít chưa

đạt được mục tiêu đặt ra, công tác phòng ngừa tiêu cực trong xã hội chưa giải quyết

kịp thời, việc nắm chắc tình hình địa phương và nhân dân chưa thực sự làm tốt;

công tác giáo dục, quán triệt chính trị, tư tưởng cho các tầng lớp nhân dân mặc dù

đã làm được nhiều, nhưng tính chủ động, sáng tạo của nhân dân trong sự phát triển

bản thân mình, tính tự lực, tự cường của một số nhân dân chưa cao. Công tác triển

khai các Chỉ thị, Nghị quyết và các chương trình, kế hoạch về công tác QP, AN của

một số cơ quan, đơn vị và cán bộ, chiến sĩ chưa thực hiện nghiêm túc; tình hình an

ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội vẫn còn tiềm ẩn nhân tố phức tạp; một số cơ

quan, đơn vị chưa chú trọng công tác tiếp xúc, đối thoại, giải quyết đơn thư khiếu

nại theo thẩm quyền; công tác nắm chắc tình hình ở địa phương và xử lý thông tin

xấu, độc hại trên mạng xã hội có lúc chưa kịp thời; chất lượng hoạt động của lực

lượng du kích, dân quân tự vệ còn nhiều mặt hạn chế; về trang bị vũ khí, kỹ thuật

85

phục vụ cho lực lượng du kích, dân quân tự vệ vẫn còn thô sơ, lạc hậu so được sử

dụng qua nhiều năm từ thời chiến tranh.

Hai là, tham gia xây dựng, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ

thống chính trị ở cơ sở địa bàn đóng quân; góp phần đảm bảo giữ vững ổn định

chính trị - xã hội.

Bên cạnh những kết quả đạt được, CTDV của các sư đoàn vẫn còn những

hạn chế nhất định cần khắc phục. Đó là nhận thức về vị trí, vai trò CTDV của cán

bộ, chiến sĩ chưa thật sự đầy đủ; chức năng tham mưu của một số cơ quan, đơn vị

giúp địa phương thực hiện công tác QP, AN còn hạn chế. Nội dung phối hợp với

cấp ủy, chính quyền địa phương trong tham gia xây dựng hệ thống chính trị cơ sở

chưa được chú trọng đúng mức, có mặt còn hạn chế; việc nắm chắc tình hình cơ sở

có một số đơn vị có lúc chưa kịp thời, thiếu chặt chẽ. Chức năng, nhiệm vụ của một

số bộ phận trong tổ chức chính quyền địa phương chưa được xác định rành mạch,

trách nhiệm không rõ; còn nhiều tình trạng tham nhũng, quan liêu xảy ra ở nhiều

nơi, có những nơi nghiêm trọng; việc đổi mới nền kinh tế ở cơ sở còn nhiều mặt yếu

kém, bất cập trong công tác lãnh đạo, quản lý của các cơ quan chính quyền địa

phương; vai trò tham mưu, đề xuất với cấp ủy, chính quyền trong lãnh đạo địa

phương tham gia xây dựng khu vực phòng thủ còn hạn chế; việc ban hành các chỉ

thị, nghị quyết của Đảng, Nhà nước về CTDV vẫn còn chậm, có lúc chưa sát thực

tiễn. Kết quả điều tra, khảo sát từ tháng 1 năm 2020 với các đối tượng cụ thể có

59% ý kiến của sĩ quân, quân nhân chuyên nghiệp cho rằng: Hiện tượng tiêu cực xã

hội tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu của cán bộ lãnh đạo trong thực hiện

CTDV luôn thường xuyên xảy ra rất nghiêm trọng, làm ảnh hưởng giảm hiệu quả

CTDV của các sư đoàn hiện nay [Biểu 8].

Ba là, hoạt động giúp đỡ nhân dân phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội; đẩy

mạnh sản xuất, giúp nhân dân xóa đói, giảm nghèo; phòng, chống và khắc phục hậu

quả thiên tai, cứu hộ, cứu nạn ở địa bàn vẫn còn yếu kém

Kinh tế ở địa phương mặc dù đã có sự tăng trưởng, nhưng cơ bản chưa vững

mạnh; chênh lệch về mặt kinh tế sản xuất, vẫn còn khai thác tài nguyên thiên nhiên,

có nhiều trưởng hợp không bền vững và không thân thiện với môi trường. Ứng

86

dụng kiến thức về mặt khoa học, kỹ thuật - công nghệ vào trong sản xuất còn hạn

chế, làm cho năng suất thấp; xây dựng nền tảng cho sự phát triển công nghiệp và

nông nghiệp hiện đại còn chậm, chưa thỏa đáng. Cơ cấu đầu tư Nhà nước nặng nề

nhưng việc xây dựng cơ sở hạ tầng ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa rất khổng

lồ, sự đầu tư trong phát triển nguồn nhân lực còn hạn chế; Việc sử dụng ngân sách

nhà nước cũng xa xỉ. Nền văn hóa tốt đẹp của dân tộc bị suy giảm, có một số hành

vi sai lầm của xã hội, một số phong tục tập quán làm suy thoát sự phát triển kinh tế.

Tình hình tiêu cực trong xã hội có sự lan tỏa, nhất là hiện tượng chơi ăn xa xỉ, ma

túy và thảm họa trong xã hội... Việc tổ chức nhóm sản xuất, chia vùng sản xuất, sự

phân bố và quản lý sử dụng đất, rừng để sản xuất hàng hóa của nhân dân vẫn chưa

có phong trào rộng rãi, có nhiều nơi vùng trọng điểm, vùng sâu, vùng xa chưa khai

thác, sử dụng thế mạnh của nhân dân; đó là lý do làm cho không có yếu tố phát triển

mới xảy ra, nhất là gia đình tiêu biểu, làng tiêu biểu trong sản xuất kinh tế. Ở nhiều

vùng vẫn còn thiếu cán bộ chuyên trách lãnh đạo nhân dân sản xuất, nhất là chuyên

môn trồng trọt, chăn nuôi. Các chương trình, kế hoạch phát kinh tế, VH-XH, củng

cố hệ thống chính trị, bảo vệ môi trường, giữ gìn an ninh trật tự xã hội ở vùng sâu,

vùng xa, vùng trọng điểm khác đã khôi phục lại khá nhiều, nhưng sự cung cấp về

mặt ngân sách có gặp nhiều khó khăn. Công tác phòng, chống hậu quả thiên tai, cứu

hộ, cứu nạn của đơn vị và địa phương còn một số hạn chế, khó khăn; việc ứng dụng

khoa học công nghệ của địa phương nhất là công nghệ dự báo, cảnh báo lũ quét, sạt

lở đất, cảnh báo lũ còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu phòng chống thiên tai và

chưa sát với thực tế; cán bộ, chiến sĩ chưa được đào tạo chuyên môn phòng chống

thiên tai nên việc triển khai hoạt động ở cơ sở còn hạn chế; công tác phối hợp với

các ngành trong phòng chống thiên tai chưa đáp ứng yêu cầu nhất là việc tuyên

truyền, vận động thông qua các hoạt động VH-XH. Sử dụng ngân sách nhà nước

trong phòng, chống thiên tai có lúc, có nơi còn chưa đúng mục đích; cơ sở vật chất,

trang thiết bị phòng chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn các bộ, ngành còn hạn chế, lạc

hậu, chưa được trang bị đồng bộ. Kết quả điều tra, khảo sát từ tháng 1 năm 2020 với

các đối tượng cụ thể như: Có 22% kiến của sĩ quân, quân nhân chuyên nghiệp việc

87

trang bị cơ sở vật chất, phương tiện, kỹ thuật phục vụ cho CTDV của các sư đoàn

vẫn còn hạn chế [Biểu 8].

Bốn là, việc tổ chức xây dựng bộ máy, cán bộ chuyên trách làm công tác dân

vận còn gặp nhiều khó khăn, chất lượng chưa cao.

So với yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong sự nghiệp cách mạng mới, đặc biệt

là theo hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng về CTDV cho thấy rằng là việc củng cố,

kiện toàn tổ chức bộ máy và bố trí cán bộ chưa hợp lý và thiếu năng lực tiến hành

nhiệm vụ đã phân công, việc lựa chọn và sắp xếp cán bộ, đảng viên, chiến sĩ không

đúng đối tượng; kiến thức, khả năng làm việc của một số cán bộ, chiến sĩ còn hạn

chế; cán bộ được bố trí đầy đủ nhưng chất lượng CTDV còn thấp; các cơ quan, đơn

vị chuyên trách làm tham mưu CTDV cho các sư đoàn trưởng còn thiếu chế độ báo

cáo; công tác kiểm tra, giám sát, giải quyết vấn đề phát sinh, điểm nóng ở một số

nơi còn lúng túng. Kỹ năng tuyên truyền, vận động nhân dân của một bộ phận cán

bộ, chiến sĩ chưa thực hiện tốt, chưa nắm bắt tâm tư, nguyện vọng và vụ việc phức

tạp của người nhân dân để có biện pháp xử lý phù hợp; công tác chính sách chưa

đáp ứng yêu cầu, lợi ích chính đáng của nhân dân; tình tạng bức xúc, xáo trộn xã

hội kéo dài chưa được xử lý; các thế lực thù địch lợi dụng kích động một bộ phận

nhân dân xuyên tạc, nói xấu chủ trường, đường lối của Đảng, gây ra nhiều vụ việc

phức tạp, tạo “điểm nóng” về an ninh trật tự trong xã hội. Hơn nữa kỹ năng vận

động nhân dân của đội ngũ cán bộ còn nhiều mặt hạn chế. Do đó, việc nắm bắt tình

hình tâm tư nguyện vọng của nhân dân, nắm bắt thông tin, báo cáo những vấn đề

nảy sinh ở địa phương chưa kịp thời; việc giải quyết một số vụ việc phức tạp còn

lúng túng, có một số nơi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân dẫn đến phát sinh

điểm nóng đổ xuất. Kết quả điều tra, khảo sát có 19% ý kiến của sĩ quân, quân nhân

chuyên nghiệp cho rằng: Việc tổ chức bộ máy và biên chế cán bộ dân vận vẫn còn

hạn chế; và có 10% ý kiến của sĩ quân, quân nhân chuyên nghiệp về việc giáo dục

nâng cao nhận thức, trách nhiệm, bồi dưỡng năng lực tiến hành CTDV cho cán bộ,

chiến sĩ chưa tốt [Biểu 8].

Năm là, phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương, Mặt trận Lào Xây

dựng đất nước, các đoàn thể nhân dân cùng cấp và các cơ quan liên quan làm tốt

88

công tác tham mưu với cấp ủy, chính quyền về công tác dân vận trên địa bàn đóng

quân còn thiếu chặt chẽ, chưa đồng bộ.

Các sư đoàn có Ban dân vận và đội công tác chuyên trách nắm chắc tình

hình, trực tiếp phối hợp với cấp ủy, chính quyền và Mặt trận Lào xây dựng đất

nước, các đoàn thể chính trị - xã hội và các lực lượng có liên quan có lúc chưa

thường xuyên, thiếu đồng bộ; nội dung, biện pháp xây dựng quy chế phối hợp chưa

chặt chẽ; việc phân công các nhiệm vụ của từng khu vực phụ trách giữa các sư đoàn

với lực lượng bộ đội địa phương, công an nhân dân tỉnh có thời điểm thiếu thống

nhất, chồng chéo trách nhiệm chưa thật rõ. Việc nắm chắc tình hình địa bàn và phối

hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền ở địa phương của một số đơn vị còn hạn chế,

nên hoạt động CTDV còn bị động, dàn trải, khi có tình huống xẩy ra xử lý còn lúng

túng, chưa phù hợp. Các chương trình phối hợp ở một số đơn vị có lúc, có nơi chưa

được chặt chẽ, đội ngũ cán bộ dân vận còn phải kiêm nhiệm, trong công tác tham

mưu kế hoạch nhiều nơi chưa sát, chủ quan; năng lực, trình độ, kinh nghiệm và

phương pháp tổ chức thực hiện CTDV của đội ngũ cán bộ còn hạn chế.

3.1.2.2. Trong thực hiện các phương thức công tác dân vận của các sư

đoàn thuộc Quân đội nhân dân Lào

Một là, công tác xây dựng, ban hành chỉ thị, nghị quyết, chương trình, kế

hoạch về công tác dân vận chưa triển khai và thực hiện sâu sắc.

Sự biến đổi chủ trương, Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật

của Nhà nước thành chương trình, kế hoạch để tổ chức thực hiện và lãnh đạo tiến

hành trong thực tế ở cơ sở chưa thực sự làm tốt, nó được thể hiện từ trách nhiệm với

nhiệm vụ chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên, chiến sĩ chưa cao, thiếu ý thức

sáng tạo trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ được giao, vẫn chờ đợi chỉ thị, nghị

quyết và kế hoạch của cấp trên mà nó được biểu hiện trong việc nắm chắc tình hình

và giải quyết các vấn đề nảy sinh ở địa bàn, chưa gắn với chủ trương, đường lối của

Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phong cách làm việc và lối sống của

một số cán bộ, đảng viên, chiến sĩ vẫn chưa trở thành gương mẫu cho người dân, ý

thức chấp hành kỷ luật của một số cán bộ, chiến sĩ chưa nghiêm túc, chưa thực sự

tích cực rèn luyện bản thân mình vào trong quá trình thực hiện thi đua xây dựng

89

“Đơn vị dân vận gương mẫu”. Chưa chủ động nắm cơ hội để rèn luyện và phát triển

bản thân mình trưởng thành trong phong trào dân vận cụ thể, có suy nghĩ chờ đợi,

nản lòng, trách nhiệm công tác ở cơ sở chưa làm đầy đủ; có một số cán bộ chiến sĩ

có hiện tượng nịnh bợ dựa vào cấp trên, phong cách làm việc để lãnh đạo chính

quyền địa phương vùng đơn vị đặc trách chưa đúng theo hướng và sát với thực tế.

Mặt khác, về trình độ, nhận thức của một số cán bộ, đảng viên, chiến sĩ với chủ

trương đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước chưa chặt chẽ, một

bộ phần nhân dân ý thức tự giác còn thấp, chưa chủ động tham gia phát triển giải

quyết vấn đề hộ nghèo nàn, vẫn còn có suy nghĩ dựa vào tổ chức của Đảng, Nhà

nước hỗ trợ. Qua điều tra, khảo sát có 43% ý kiến của sĩ quân, quân nhân chuyên

nghiệp cho rằng: Do nguyên nhân của hạn chế về trình độ nhận thức, khả năng của

cán bộ, chiến sĩ làm giảm hiệu quả đến chất lượng CTDV [Biểu 8]

Hai là kỹ năng tuyên truyền, thuyết phục của cán bộ, chiến sĩ chưa hợp lý,

còn tỏ ra lúng túng.

Mặc dù trong thời gian qua cán bộ, chiến sĩ của các sư đoàn đã tích cực hoạt

động tiến hành CTDV bằng kỹ năng tuyên truyền, thuyết phục nhân dân ở địa bàn

từng nhiều đối tướng, nhưng các nội dung, phương thức tuyên truyền, thuyết phục

vẫn còn thiếu thốn, chưa thực sự dân chủ với người dân nên tính hiệu quả chưa cao.

Nội dung tuyên truyền, thuyết phục không có bất kỳ suy nghĩ sáng tạo và hấp dẫn

trong lòng dân, cán bộ tuyên truyền phần lớn là người dân tộc mà chưa được đào

tạo kiến thức chuyên môn, điều kiện làm việc cụ thể cũng chưa được cung cấp và

trang thiết bị phục vụ cho công tác tuyên truyền, thuyết phục hầu hết còn thiếu thốn

nên công việc kém hiệu quả. Công tác tiếp cận cơ sở địa phương để nắm được từng

đối tượng và giáo dục, tuyên truyền về mặt chính trị, tư tưởng cho các tầng lớp nhân

dân vẫn chưa làm tốt; một số cấp ủy, chính quyền địa phương chưa nhận thức sâu

sắc và hiểu rõ với trách nhiệm chính trị của mình đối với CTDV nói chung, nói

riêng là công tác tuyên truyền, thuyết phục, vẫn còn suy nghĩ dựa chờ đợi, thả trách

nhiệm cho cấp trên, làm việc theo cách riêng của mình, máy móc, hơn nữa có thái

độ bướng bỉnh với tổ chức cấp trên, làm ảnh hưởng đến kết quả thực hiện công tác

tuyên truyền, thuyết phục không có hiệu quả, một số nhân dân bị bỏ bê, bị kẻ thù lợi

90

dụng làm điều xấu, vi phạm pháp luật quốc gia. Mặt khác, tổ chức chính quyền địa

phương, Mặt trận Lào Xây dựng đất nước, các đoàn thể chính trị xã hội và các lực

lượng có liên quan trong thực hiện phối hợp chế độ báo cáo, cung cấp thông tin với

nhau còn chậm, kéo dài. Như vậy, qua tiến hành điều tra, khảo sát ý kiến của sĩ

quân, quân nhân chuyên nghiệp có 8% với thái độ của nhân dân bắt buộc phải tin

tưởng đối với sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước [Biểu 8].

Ba là, sự phối hợp liên kết với cấp ủy, chính quyền địa phương, các tổ chức

đoàn thể chính trị - xã hội và các lực lượng có liên quan trên địa bàn trong xây dựng

các chương trình, kế hoạch có lúc chưa chặt chặt.

Sự lãnh đạo, gắn bó chặt chẽ phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương,

các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội và các lực lượng có liên quan trên địa bàn

trong phong trào tiến hành CTDV chưa phải là một hệ thống liên tục và đạt được

mục tiêu đặt ra; bởi vì vẫn còn cấp ủy, lãnh đạo một số ngành còn coi nhẹ CTDV là

công việc làm thêm hoặc công việc duy nhất của cán bộ dân vận đó, vẫn thiếu quan

điểm lãnh đạo của Đảng đối với CTDV và nhận thức hiểu biết đối với kế hoạch

phát triển KT-XH giữa CTDV với nhiệm vụ chính trị của các ngành đó là công việc

duy nhất. Công tác phối hợp giáo dục, quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng,

chính sách, pháp luật của Nhà nước cho các tầng lớp nhân dân, mặc dù đã tổ chức

nhiều lần nhưng nhận thức, hiểu biết chấp hành đối với đường lối, pháp luật của

Đảng, Nhà nước chưa cao, vẫn còn nhiều vấn đề tiêu cực trong xã hội xảy ra, nhất

là ý tưởng cơ hội tìm kiếm lợi ích bất chính, bất công xã hội, khai thác tài nguyên,

sử dụng trái phép vũ khí, khai thác rừng trái phép, buôn bán ma túy... Qua điều tra,

khảo sát có 32% ý kiến của sĩ quân, quân nhân chuyên nghiệp cho rằng: Việc phối

hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương, Mặt trận Lào Xây dựng đất nước, các

đoàn thể chính trị - xã hội và các lực lượng có liên quan chưa hiệu quả thiết thức,

phần lớn mang tính hình thức [Biểu 8].

Bốn là, trong hoạt động lãnh đạo công tác dân vận bằng tổ chức bộ phận

chuyên trách thời gian qua cũng còn bộc lộ một số hạn chế.

Song, dù có nhiều cố gắng nhưng bộ phận chuyên trách dân vận chưa làm

được như: về CTDV ở một số cơ quan, đơn vị còn chậm thực hiện; nội dung báo

91

cáo chưa sát với tình hình thực tế; có một số cán bộ, chiến sĩ còn xem nhẹ trong

thực hiện nhiệm vụ CTDV ở địa phương, vẫn chưa được chứng minh đến phục vụ

lợi ích của người dân; công tác nắm bắt tình hình tâm tư, nguyện vọng và giải quyết

vụ việc phức tạp cơ sở chưa kịp thời, còn hạn chế dẫn đến nhiều việc phát sinh…

Công tác luân chuyển cán bộ làm công dân vận chưa thật sự phù hợp với năng lực,

nhiệm vụ chuyên môn, dẫn đến việc không thích ứng được môi trường làm việc ở

cơ sở địa phương, chưa phát huy được vai trò của cán bộ, chiến sĩ trong quần chúng

nhân dân; công tác củng cố đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy chuyên trách ở một số

cơ quan, đơn vị chưa đạt mục tiêu, yêu cầu của trên đặt ra; việc củng cố, xây dựng

tổ chức cơ sở đảng của một số cơ quan, đơn vị còn lúng túng, chưa kịp thời, dẫn đến

việc triển khai thực hiện còn gặp khó khăn. Phương pháp tuyên truyền, vận động

nhân dân của các bộ phận chuyên trách chưa phù hợp với mục đích và đối tượng

tiến hành. Qua điều tra, khảo sát có 6% ý kiến của hạ sĩ quân, chiến sĩ cho rằng:

Nếu cấp trên giao nhiệm vụ CTDV ở địa phương vẫn ngần ngại, khó thực hiện và

có 10% ý kiến của hạ sĩ quân, chiến sĩ cho rằng: Hạ sĩ quân, chiến sĩ phần lớn đã

học qua các nhà trường trong quân đội nhưng sự hiểu biết và vận dụng kiến thức

vào trong quá trình thực hiện CTDV hiệu quả thấp nếu do với học qua các nhà

trường [ Biểu 10].

Năm là, có một số bộ phận không nhỏ của cán bộ, chiến sĩ có biểu hiện suy

thoái, biến chất, chưa thể hiện vai trò gương mẫu.

Một số bộ phận cán bộ, chiến sĩ làm việc vì lợi ích cá nhân, chưa thực sự

gương mẫu về đạo đức, lối sống; không thẳng thắn, trách nhiệm trước mọi bức xúc

của nhân dân, nên đã tạo ảnh hưởng cho tình hình ở một số địa bàn đặc trách có

diễn biến tiêu cực hết sức phức tạp. Đồng thời một số cán bộ, chiến sĩ còn thiếu

gương mẫu, suy thoái về tư tưởng chính trị, xa dân, vô cảm trước khó khăn, bức xúc

của nhân dân; thiếu nghiên cứu chu đáo, có ý tưởng chờ đợi, thiếu gương mẫu lãnh

đạo nhân dân, thấy lợi ích của cá nhân nhiều hơn công cộng, có một số nơi xảy ra

hiện tượng vi phạm kỷ luật quân hệ quân dân; cộng với khâu lãnh đạo, chỉ đạo thực

hiện công tác của một số lãnh đạo các cấp thiếu sự kiểm tra, giám sát; không đẩy

92

mạnh, khuyến khích cán bộ trực tại các thôn, làng, cụm bản; thực hiện các nhiệm vụ

bằng mệnh lệnh không đi xuống nắm chắc tình hình thực tế, đó là lý do xảy ra vấn

đề khó khăn trong nắm chắc tình hình của nhân dân trên địa bàn. Mặt khác các

phương pháp vận động, tập hợp quần chúng chưa phù hợp với từng đối tượng nhân

dân, trong đó có đồng bào tôn giáo.

Sáu là, công tác kiểm tra, giám sát; tổ chức sơ kết, tổng kết chưa thường

xuyên, kịp thời.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được trên trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo

các cơ quan, đơn vị tiến hành CTDV bằng sự kiểm tra, giám sát; tổ chức sơ kết,

tổng kết chưa cụ thể hóa, triển khai thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng,

chính sách, pháp luật của Nhà nước; việc nắm bắt tâm tư nguyện vọng của nhân

dân, dự báo những vấn đề nảy sinh ở cơ sở có lúc chưa chủ động, chưa kịp thời;

công tác hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị tiến hành CTDV bằng sự

kiểm tra, giám sát còn yếu; phong trào thực hiện thi đua xây dựng “Đơn vị dân vận

gương mẫu” chưa có mô hình dân vận điển hình hoặc triển khai chưa sâu sắc. Công

tác sơ kết, tổng kết việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương về CTDV

ở một số cơ quan, đơn vị còn chưa kịp thời; các nội dung, phương thức hoạt động

CTDV của các cơ quan, đơn vị chưa thực sự đổi mới. Công tác phối hợp với cấp

ủy, chính quyền địa phương, Mặt trận Lào xây dựng đất nước, các đoàn thể chính trị

- xã hội và các lực lược có liên quan trong tiến hành CTDV vẫn còn một số nội

dung, kế hoạch hoạt động chưa thống nhất, thiếu sự báo cáo và trao đổi thông tin

với nhau. Hoạt động công tác thi đua - khen thưởng để động viên các tổ chức và cá

nhân có thành tích xuất sắc trong thực hiện CTDV còn mang tính hình thức, rập

khuôn, máy móc, chưa tạo được động lực và sự tham gia của đông đảo cán bộ,

chiến sĩ trong đơn vị; hơn nữa chưa kịp thời, không đúng quy trình dẫn đến đề nghị

khen thưởng không đúng người, đúng đối tượng. Kết quả điều tra, khảo sát có 17%

ý kiến của sĩ quân, quân nhân chuyên nghiệp cho rằng: Vẫn ít sự quân tâm lãnh đạo,

chỉ đạo các cơ quan, đơn vị của sư đoàn trưởng trong tiến hành CTDV cụ thể ở địa

phương [Biểu 8].

93

3.1.2.3. Trong điều kiện đảm bảo cho công tác dân vận của các sư đoàn

thuộc Quân đội nhân dân Lào

Một là, mặc dù đã có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của Đảng ủy Bộ

Quốc phòng nhưng một số cấp ủy, lãnh đạo của các sư đoàn chưa kịp thời triển khai

và thực hiện sâu sắc.

Một số cấp ủy, lãnh đạo của các sư đoàn vẫn còn những hạn chế, cần khắc

phục, đó là, việc xây dựng và triển khai chủ trương, kế hoạch tiến hành công tác dân

vận có lúc chưa kịp thời; chưa dự báo, nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng, lợi ích

chính đáng của nhân dân để kịp thời đề xuất các biện pháp xử lý phù hợp; công tác

kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết các chương trình, kế hoạch thực hiện CTDV

chưa được quan tâm đúng mức; một bộ phận cán bộ lãnh đạo còn thiếu gương mẫu,

suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, dẫn đến tệ quan liêu, tham ô, tham

nhũng, lãng phí, nhũng nhiễu nhân dân, trái với chuẩn mực đạo đức của người cộng

sản “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, làm cho nhân dân bất bình, lo lắng.

Việc xây dựng, nhân điển hình tiên tiến trong xây dựng “Đơn vị dân vận gương

mẫu” có nơi chưa được quan tâm đúng mức,… Đây là những hạn chế cần phải

nghiêm túc khắc phục để triển khai công tác dân vận trong thời gian tới đạt hiệu quả

cao hơn.

Hai là, một số cấp ủy, chỉ huy của các sư đoàn chưa thực hiện tốt vai trò lãnh

đạo các cơ quan, đơn vị trong thực hiện công tác dân vận; chưa quán triệt đầy đủ,

nghiêm túc các chủ trương, kế hoạch, quy định của cấp trên về công tác dân vận.

Nhận thức của một số cấp ủy, chỉ huy về mục đích, ý nghĩa và tầm quan

trọng CTDV chưa đầy đủ; việc theo dõi, chỉ đạo, tổ chức thực hiện có nơi chưa

được quan tâm đúng mức; công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên trách

làm CTDV có nơi chưa đáp ứng yêu cầu trong thực tiễn; cơ chế phối hợp giữa các

tổ chức, các lực lượng trong thực hiện nhiệm vụ cụ thể về thực hiện CTDV chưa

thống nhất và thiếu đồng bộ; nội dung, hình thức hoạt động CTDV có nơi, có lúc

còn xơ cứng, thiếu chiều sâu và tính thuyết phục chưa cao. Mặt khác, một số cấp

ủy, chỉ huy của các sư đoàn chưa nêu cao vai trò, trách nhiệm trong lãnh đạo các

đơn vị thực hiện CTDV; việc quán triệt, thực hiện chỉ thị, chương trình, kế hoạch

94

của cấp trên đã quy định ở một số cơ quan, đơn vị có nội dung còn chung chung;

nội dung, hình thức tiến hành CTDV ở một số đơn vị chậm được đổi mới; kiến

thức, kinh nghiệm, phương pháp, tác phong công tác của một cán bộ, đảng viên

trong tiến hành CTDV có mặt chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình thực

tiễn ở địa phương.

Ba là, công tác vận động nhân dân ủng hộ các đơn vị và cán bộ, chiến sĩ chưa

được thực hiện tốt.

Trong thời gian qua, các sư đoàn thuộc QĐNDL đã cử cán bộ về cơ sở khá

nhiều, nhưng chất lượng chưa cao và chưa xây dựng được cuộc vận động nhân dân,

cán bộ, chiến sĩ thiếu sự chủ động, không gắn bó với nhân dân, thiếu trách nhiệm

với dân; việc nắm bắt tình hình địa phương, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân còn

chậm được đổi mới; hơn nữa vẫn còn tình trạng một bộ phận cán bộ lãnh đạo có tác

phong quan liêu, xa dân. Mặt khác, kinh nghiệm làm CTDV của một số cán bộ,

chiến sĩ chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra; mức độ nhận thức, hiểu biết của cán bộ, đảng

viên, chiến sĩ về ngôn ngữ của người dân tộc thiểu số ở địa phương còn hạn chế; đa

số cán bộ, chiến sĩ phần lớn đã được bồi dưỡng kiến thức CTDV qua các nhà

trường trong quân đội nhưng có những ý tưởng chờ đợi chỉ lệnh của cấp trên và sự

kêu gọi của nhân dân, thiếu trách nhiệm phục vụ nhân dân. Mặt khác, công tác phát

động quyên góp phần về vật chất của nhân dân ủng hộ bộ đội thực hiện nghĩa vụ

bảo vệ Tổ quốc chưa được mở rộng; công tác huy động vốn ủng hộ đơn vị từ bộ

phận kinh doanh, doanh nghiệp cả nội bộ và quốc tế để xây dựng doanh trại,

khuyến khích lâm nông nghiệp vẫn chưa làm tốt.

Bốn là, công tác đảm bảo cơ sở vật chất, trang thiết bị phương tiện, kỹ thuật

phục vụ cho công tác dân vận chưa đáp ứng theo yêu cầu của nhiệm vụ thực tế.

Cơ chế, chính sách và điều kiện đảm bảo cơ sở vật chất, trang thiết bị

phương tiện, kỹ thuật phục vụ cho CTDV chưa đáp ứng theo yêu cầu của nhiệm vụ

thực tế ở địa phương. Do ảnh hưởng từ tình hình thế giới cũng như suy thoát về

kinh tế, cộng với sự hoạt động chống phá của các thế lực thù địch hy vọng phá hoại

cách mạng và lực lượng vũ trang nhân dân ta; đồng thời tình trạng kinh tế - tài chính

của đơn vị đang gặp nhiều khó khăn, dựa vào ngân sách của cấp trên cung cấp cho;

95

sự tác động của lũ lụt, thiên tai thảm họa, cháy rừng và ô nhiễm môi trường... tạo ra

những vấn đề khó khăn nhất cho các Sư đoàn hiện nay. Công tác đảm bảo cơ sở vật

chất, trang thiết bị phương tiện, kỹ thuật phục vụ cho CTDV theo quyết định của Bộ

Quốc phòng, giao cho đơn vị phụ trách quản lý, điều hành, nhưng vẫn còn mặt hạn

chế như: công tác đảm bảo doanh trại theo quý định của sư đoàn trưởng trong công

tác xây dựng doanh trại xanh, sạch, đẹp bằng sự vận dụng tiềm năng của đơn vị,

phối hợp với nguồn cung cấp của cấp trên và bộ phận khác để mà kiện toàn củng cố

và xây dựng doanh trại vẫn chưa kịp thừa, không cung cấp được theo yêu cầu của

đơn vị. Một số cán bộ, chiến sĩ chưa coi trọng quản trị phương tiện, kỹ thuật, sử

dụng đúng theo quý định và chế độ, nhất là chế độ quản lý, bảo quản, giao, nhận

tang vật, phương tiện bị tạm giữ, tịch thu theo thủ tục hành chính. Ngoài ra, sự đầu

tư của cấp trên chưa thực sự có hiệu quả cao để tạo nên sự biến đổi căn bản về KT -

XH và xóa được đói, giảm được nghèo. Mặc dù, các sư đoàn đã quan tâm và tập

trung đầu tư, triển khai thực hiện các chương trình, kế hoạch và dự án ở vùng nông

thôn, vùng sâu, vùng xã cũng chưa đáp ứng được yêu cầu của địa phương

3.2. NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM

3.2.1. Nguyên nhân của ưu điểm

Một là, trong những năm qua Bộ Quốc phòng, Tổng Cục Chính trị luôn

thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và đề ra bằng chỉ thị, nghị quyết và kế

hoạch cụ thể hóa để lãnh đạo các sư đoàn tiến hành công tác dân vận.

Bộ Quốc phòng Lào, Tổng Cục Chính trị luôn thường xuyên coi trọng đối

với vấn đề bảo vệ an ninh quốc gia; cho nên đời sống vật chất, tinh thần của nhân

dân ngày càng được cải thiện hơn. Đặc biệt, lãnh đạo Bộ Quốc phòng Lào đã tích

cực chỉ đạo, lãnh đạo trong toàn quân nói chung, nói riêng là các sư đoàn thuộc

QĐND Lào bằng Nghị quyết số 650-NQ/ĐUBQP ngày 4/4/2011 về “Quan tâm

lãnh đạo, chỉ đạo các lực lượng vũ trang có tiềm năng, tiềm lực chuyển xuống làm

công tác dân vận ngày càng vững mạnh theo 4 nội dung, 4 mục tiêu, xây dựng thế

trận chiến tranh nhân dân 3 cấp, gắn với xây dựng làng và cụm làng phát triển”

[93]. Trong những năm qua, Bộ Quốc phòng Lào đã nhấn mạnh cho 5 sư đoàn tập

96

trung phát triển vùng chiến lược hậu phương ở khu vực biên giới từ (miền Bắc,

Trung, Nam Lào). Để thực hiện theo Chỉ thị số 20/BCT, ngày 26/9/2003 của Bộ

Chính trị về “Tăng cường làm công tác dân vận ở cơ sở vững mạnh” [57]. Bộ Quốc

phòng Lào Quyết định số 3579/BQP ngày 4/10/2012 về “Vị trí, vai trò, chức năng,

nhiệm vụ và phong cách làm việc của Ban chỉ đạo công tác dân vận và phát triển

nông thôn toàn diện cấp Bộ Quốc phòng” [71]. Thông qua đó, Bộ Quốc phòng Lào

đã giao nhiệm vụ cho Tổng Chính trị trực tiếp chỉ đạo các Cục chuyên môn và lực

lượng trong toàn quân; trong đó có các sư đoàn làm nhiệm vụ nghiên cứu, tổ chức

thực hiện các chương trình, kế hoạch, dự án của CTDV; nghiên cứu và đề xuất

chương, kế hoạch CTDV, kiểm tra giám sát và đẩy mạnh các cơ quan chuyên môn

trực thuộc thực hiện công tác dân vận, xây dựng và sắp xếp tài liệu về công tác dân

vận, xây dựng kế hoạch và ngân sách về mặt vật chất, phương tiện, kỹ thuật phục

vụ, phổ biến và quản lý ngân sách, hướng dẫn các đơn vị sử dụng ngân sách tiết

kiệm, cùng tổ chức thực hiện công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm trong từng

đợt tiến hành CTDV. Thời gian qua, các sư đoàn đã chú trọng xây dựng thế trận

chiến tranh nhân dân 3 cấp, xây dựng làng chiến đấu, cụm làng chiến đấu, do tập

trung vào vùng trọng điểm chiến lược theo biên giới.

Hai là, lãnh đạo của các sư đoàn đã có tình đoàn kết chặt chẽ, có sự thống

nhất cao, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ nghiêm túc, thường xuyên tổ chức

công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết.

Lãnh đạo của các sư đoàn, cùng đội ngũ cán bộ, đảng viên các cấp đã quan

tâm quán triệt, nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của

Nhà nước, mang lại những Chỉ thị, Nghị quyết và quy định của cấp trên thành kế

hoạch chi tiết cụ thể của đơn vị, để dựa vào tổ chức phát huy và mở rộng phong trào

thi đua xây dựng “Đơn vị dân vận gương mẫu” trong thời gian ngắn, dài theo ngày

lễ lịch sử quan trọng của Quốc gia, của Đảng và quân đội. Trong nội bộ đã có sự

đoàn kết chặt chẽ, có tinh thần thống nhất cao, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập

trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; đồng thời lãnh đạo các cơ quan,

đơn vị có phong cách làm việc đúng đắn, có sự kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết,

97

đúc rút kinh nghiệm CTDV và thường xuyên thực hiện chế độ báo cáo cho cấp trên

của từng đợt, nhiệm kỳ và hàng năm; đội ngũ cán bộ đều tích cực tìm tòi học tập và

làm theo tấm gương, đạo đức của lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước về công tác

vận động quần chúng và CTDV. Mặt khác, đội ngũ cán bộ các cấp đã quán triệt,

nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ trương đường lối của Đảng, Nghị quyết của

Đảng Ủy Bộ Quốc phòng phù hợp với điều kiện và tình hình thực tiễn của đơn vị;

các cơ quan, đơn vị có sự thống nhất chặt chẽ, kiên nhẫn khắc phục vượt qua mọi

thách thức, khó khăn, gian khổ trên các mọi tình huống; đặc biệt là đã nhận được sự

ủng hộ, góp phần quan trọng từ bộ phần lãnh đạo Đảng, Nhà nước và chính quyền

địa phương các cấp.

Ba là, lãnh đạo của các sư đoàn thuộc Quân đội nhân dân Lào đã quyết tâm

sử dụng lực lượng, phương tiện, vật chất, kỹ thuật phục vụ cho công tác dân vận.

Trong những năm qua các sư đoàn thuộc QĐND Lào đã thường xuyên củng

cố kiện toàn và tích cực góp phần phát triển kinh tế, chính trị, VH-XH ở vùng nông

thôn, vùng sâu, vùng xa bằng tập trung lực lượng, phương tiện, vật chất, kỹ thuật

phục vụ cho CTDV; nổi bật là công tác phát triển xây dựng cơ sở hạ tầng về mặt

KT-XH, nhất là đường giao thông, điện lực, nước sạch, trường học, trạm y tế... làm

thuận lợi cho nhân dân và được nhân dân tin tưởng và tích cực góp phần tham gia

phong trào phát triển nông thôn mới trở thành phong trào sôi nổi và rộng rãi. Bởi vì,

có chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng, phù hợp với tình hình thực tế trong

mỗi giai đoạn cách mạng của nước ta và sự quan tâm chỉ đạo gắn kết chặt của lãnh

đạo Bộ Quốc phòng, thấy được sự thiếu sót của đơn vị và nhân tố cấp bách phải

trang bị phương tiện, vật chất, kỹ thuật phục vụ cho CTDV ở mỗi tổ, đội công tác

trục tại địa bàn đặc trách để đảm bảo trong hoạt động phối hợp các mặt công tác với

cấp trên và chính quyền địa phương. Mặt khác, vì sự quyết tâm và thống nhất của

lãnh đạo các sư đoàn và cấp ủy, chính quyền địa phương đã tập trung lực lược và

vốn đầu tư vào trong tổ chức thực hiện CTDV trên địa bàn; đa số đội ngũ cán bộ

làm CTDV cũng có sự quyết tâm cao, chịu hy sinh vì lợi ích chung của quốc gia,

khắc phục và vượt qua mọi thách thức khó khăn, gian khổ, có sự gương mẫu trong

lãnh đạo nhân dân. Thực hiện nhiệm vụ trên là một những giải pháp thực sự mang

98

tính đột phá trong công tác trang bị phương tiện, vật chất, kỹ thuật phục vụ cho

CTDV trong những thời gian qua, không những thế là một giải pháp thiết thực

trong quá trình thực hiện CTDV để phục vụ cho các đối tượng tiến hành thực tiễn

trong công việc hàng năm và đặc biệt là hết sức có ý nghĩa quan trọng với việc trang

bị phương tiện, vật chất, kỹ thuật phục vụ cho các cơ quan, đơn vị đang tiến hành

CTDV ngày càng được cấp trên quân tâm để các đơn vị sẵn sàng thực hiện nhiệm

vụ của trên giao phó.

Bốn là, cán bộ, chiến sĩ có nhận thức, trách nhiệm cao, có năng lực tiến hành

công tác dân vận đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới; mặt khác cấp ủy,

chính quyền địa phương, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân ở địa phương

luôn đồng tình ủng hộ.

Đội ngũ cán bộ các sư đoàn đã giáo dục, quán triệt sâu sắc các Chỉ thị, Nghị

quyết của Đảng, Nhà nước đặt ra từng mỗi giai đoạn đối với CTDV, đa số cán bộ

đã có khả năng, kiến thức, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng,

lối sống trong sạch vững mạnh. Đồng thời, chịu trách nhiệm với nhiệm vụ chính trị

của mình, có sự kiên nhẫn, phấn đấu cao và có sự hy sinh góp phần ra sức lao động

sáng tạo trong các mọi tình huống. Ngoài ra, độ ngũ cán bộ làm CTDV phần lớn đã

có sự quyết tâm vượt qua khắc phục mọi khó khăn, gian khổ, tính cực thực hiện

nhiệm vụ mà cấp trên giao cho; chủ động tuyên truyền, vận động nhân dân thực

hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đặc biệt

là Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 22/12/2014 của Bộ Chính trị Trung ương Đảng

về “Mục tiêu, đối tượng và biện pháp xây dựng tỉnh thành đơn vị chiến lược, xây

dựng huyện thành đơn vị vững mạnh toàn diện, xây dựng làng thành đơn vị phát

triển” [69]. Đa số đội ngũ cán bộ, đảng viên đã có kinh nghiệm trong hành vi thực

tế đối với CTDV và coi CTDV là nhiệm vụ chính trị hàng đầu trong xây dựng đội

ngũ cán bộ của QĐND Lào, trưởng thành và phát triển trở thành cán bộ xuất sắc,

tiêu biểu của Đảng, của Quân đội. Nhân tố quan trọng nữa là nhân dân ở địa

phương đã có sự đùm bọc, chở che và giúp đỡ cán bộ, chiến sĩ nhiệt tình cả vật chất

và tinh thần, đây là sự khích lệ to lớn của nhân dân, tạo được sự tin tưởng của nhân

dân đối với sự lãnh đạo của Đảng. Qua thực hiện nhiệm vụ trên, đã làm cho đa số

99

tình hình nhân dân ở vùng địa bàn đã nhận thức và hiểu rõ đối với đường lối của

Đảng, pháp luật của Nhà nước ngày càng nhiều hơn, tích cực xây dựng phát triển

quê hương ổn định, góp phần tham gia vào trong công việc của Đảng, Nhà nước

ngày càng tăng lên, cuộc sống bình yêu, ấm no, hành phúc. Tình hình an ninh chính

trị cơ bản ổn định, vấn đề tiêu cực trong xã được kịp thời xử lý; lực lượng du kích,

dân quân tự vệ đã được củng cố kiện toàn cả số lượng và chất lượng; cơ sở hạ tầng

ở vùng địa bàn đã được xây dựng và sửa chữa bằng sự đầu tư của Nhà nước và sự

góp phần của sức mạnh và nguồn vốn của nhân dân.

Năm là, đa số nhân dân có nhận thức sâu sắc trong thực hiện chủ trương,

đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, có tính tự giác góp phần

tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trong những năm qua, chính quyền địa phương và nhân dân đã góp phần

tham gia hoạt động CTDV, cùng với thúc đẩy phát triển kinh tế gia đình của mình

có sự phong phú, từng bước xóa đói, giảm nghèo. Ngày xưa, nhân dân nơi các sư

đoàn đóng quân rất khó khăn, gian khổ và nghèo nàn, sau khi đã có sự giúp đỡ, ủng

hộ của Đảng, Nhà nước đến nay nhân dân ở địa bàn đời sống của họ được cải thiện

tốt hơn; thay đổi từ cuộc sống thô sơ lạc hậu, sang cuộc sống mới hiện địa, có thể

làm cho các gia đình nhân dân từng bước thoát khỏi sự nghèo nàn. Đa số nhân dân

có sự tin tưởng với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà

nước, có ý thức làm chủ của đất nước; sự gắn bó múa thịt giữa Đảng, Quân đội với

nhân dân không ngừng được củng cố và tăng cường lớn mạnh, đã góp phần quan

trọng vào sự phát triển kinh tế, VH-XH và công tác QP, AN trên địa bàn; nhân dân

các dân tộc đã phát huy truyền thống yêu nước tốt đẹp và quyền làm chủ của mình

chân chính; phong trào thi đua xây dựng nông thôn mới được triển khai trọng tâm,

trọng điểm khơi dậy mạnh mẽ, nhân dân chung sức lao động sáng tạo, tham gia phát

triển KT-XH, xây dựng nền văn hóa ngày càng văn minh.

3.2.2. Nguyên nhân của hạn chế, khuyết điểm

Một là, do điều kinh tế - xã hội của đất nước đang gặp nhiều khó khăn; các

thế lực thù địch và phần tử xấu đẩy mạnh các hoạt động chống phá cách mạng Lào

trên tất cả lĩnh vực đời sống xã hội, nhất là lĩnh vực chính trị, tư tưởng.

100

Trong thời gian qua, dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội lần thức XI của Đảng

nhân dân cách mạng Lào, chúng tá thấy rằng kế hoạch phát triển KT- XH của đất

nước nhìn chung đạt được thành tựu to lớn, các mục tiêu hàng đầu phần lớn đạt hiệu

quả, mức độ sản xuất, dịch vụ đã phát triển mạnh mẽ, đã làm cho nền kinh tế quốc

gia vững mạnh hơn; nhưng cũng còn nhiều mặt yếu kém, khuyết điểm như: sự phát

triển kinh tế chưa phù hợp với sự phát triển VH-XH và môi trường; mức độ phát

triển có sự khác biệt giữa thành phố và nông thôn. kinh tế vĩ mô chưa ổn định và sự

tích lũy trong nội bộ có hạn chế; sự tăng trưởng kinh tế phần lớn nặng về số lượng,

chưa đảm bảo chất lượng, vẫn dựa vào khai thác tài nguyên thiên nhiên, nhưng sự

quản lý và sử dụng không hiệu quả, sử dụng sang trọng, không thân thiện với môi

trường; vấn đề đó đã tạo ảnh hưởng thiệt hại cho nhân dân. Vấn đề tiêu cực trong xã

hội tăng lên, nhất là tham ô, tham nhũng, lãng phí, tội phạm ma túy, cướp tài sản,

trộm cắp, mâu thuẫn trong gia đình, sự phân hóa giàu nghèo giữa các tầng lớp trong

xã hội ngày càng gia tăng… các thế lực thì địch đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến

hòa bình” với cấp độ ngày càng quyết liệt; bằng nhiều hình thức, biện pháp thấm

sâu, tuyên truyền bóp mẹo, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, đưa ra các luận điệu

sai trái để đấu tranh giai cấp và tập trung dân chủ cổ vũ cho bạo lực, cho chiến

tranh, cho độc quyền, độc đoán, thủ tiêu dân chủ, không phù hợp với xu thế thời

đại, do đó không thể thúc đẩy xã hội phát triển; lôi kéo, kích động một số bộ phận

dân tộc thiểu số đi theo tín ngưỡng tôn giáo vào các mục đích sai trái, bất hợp pháp,

làm ảnh hưởng đến vấn đề tiêu cực trong đời sống chính trị, KT-XH.

Hai là, một số cấp ủy, chỉ huy đơn vị chưa nhận thức rõ về ý nghĩa, tầm quan

trọng của công tác dân vận.

Cấp ủy, chỉ huy ở một số cơ quan, đơn vị chưa quan tâm đúng mức tới việc

lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra đôn đốc thực hiện CTDV, còn có biểu hiện xem nhẹ;

chưa bám sát tình hình thực tế ở địa phương, việc tổ chức giáo dục, quán triệt và

triển khai các văn bản CTDV cho các cơ quan, đơn vị còn chậm được thực hiện; nội

dung, hình thức CTDV chưa cụ thể hóa và phù hợp với tình hình thực tế của địa

phương và đơn vị. Công tác phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương, Mặt trận

Lào xây dựng đất nước, các đoàn thể chính trị xã hội và các lực lược có liên quan

101

trong thực hiện hoạt động CTDV chưa thống nhất và đồng bộ. Việc tuyên truyền,

giáo dục, vận động nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng địa bàn chiến lược

có đồng bào dân tộc thiểu số chưa hiệu quả; các nội dung, hình thức, biện pháp tiến

hành còn chậm chưa đáp ứng yêu cầu mới; công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng

kết CTDV còn mang tính hình thức và máy móc. trình độ, năng lực của một số cán

bộ, đảng viên làm CTDV còn hạn chế; công tác tham mưu cho cấp ủy, chỉ huy đơn

vị còn xem nhẹ. Hơn nữa, một số cán bộ, đảng viên còn có tình tạng quan liêu, tham

ô, tham nhũng; có thái độ xa dân, không lắng nghe ý kiến, kiến nghị của người dân,

suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống, làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với

Đảng, Nhà nước. Đây là nguyên nhân quan trọng làm giảm hiệu quả CTDV của các

sư đoàn.

Ba là, phương pháp và kỹ năng tổ chức thực hiện công tác dân vận của cán

bộ, chiến sĩ vẫn yếu kém, chưa lựa chọn được những người có khả năng tốt nhất

tăng cường cho cơ sở.

Tuy nhiên các sư đoàn thuộc QĐND Lào sẽ có cán bộ, chiến sĩ có trình độ,

khả năng, kiến thức tốt, nhưng vẫn còn mặt yếu kém, tồn tại, đó là: một số cán bộ,

chiến sĩ vẫn thiếu trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ của mình, bài học kinh

nghiệm trong thực hiện công tác vận động nhân dân chưa nhiều, chưa nắm chắc chủ

trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thiếu sự nghiên

cứu sáng tạo, không dám đi tiếp xúc, đối thoại và trao đổi ý kiến với người dân và

còn thiếu khả năng tuyên truyền, thuyết phục nhân dân… Mặt khác, một số cán bộ,

chiến sĩ chưa nâng cao được nhận thức và trách nhiệm của mình về CTDV, chưa

coi đó là một nhiệm vụ chính trị của Quân đội; công tác giáo dục, bồi dưỡng cho

các đối tượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, chiến sĩ về kiến thức CTDV của Đảng có

thời điểm chưa đáp ứng yêu cầu cao của nhiệm vụ trong tình hình mới. Năng lực,

kinh nghiệm tổ chức hoạt động của đội ngũ cán bộ làm CTDV còn hạn chế; công

tác tham mưu giúp cấp ủy, chỉ huy của cơ quan, đơn vị đối với CTDV chưa thực sự

chủ động và tiến hành chưa đúng mức; việc xây dựng nội dung, chương trình, kế

hoạch của một số cơ quan, đơn vị trong tiến hành CTDV còn lúng túng, không đạt

hiệu quả. Cán bộ, chiến sĩ chưa thực sự làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, vận

102

động nhân dân tích cực tham gia phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; việc

chấp hành kỷ luật quân hệ Quân đội với Nhân dân chưa nghiêm túc, vẫn còn xảy ra

một số hiện tượng tiêu cực vi phạm kỷ luật và truyền thống tốt đẹp của “Bộ đội Lào

Ít Xa La”. chất lượng của đội ngũ cán bộ làm CTDV chưa đáp ứng được yêu cầu

của tình hình mới.

Bốn là, công tác phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương, các ban,

ngành, đoàn thể các cấp ở địa phương về xây dựng nội dung, chương trình, kế

hoạch công tác dân vận chưa tích cực, thiếu đồng bộ.

Công tác phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương, các ban, ngành, các

đoàn thể các cấp trong thực hiện vai trò tham mưu cho tốt, người lãnh đạo tốt và

người giúp đỡ nhân dân tốt; chưa kịp thời nắm chắc tình hình nhân dân ở địa

phương và thực hiện chế độ báo cáo cấp trên còn chậm, việc lắng nghe ý kiến người

dân không được tổ chức thường xuyên; việc xử lý và giải quyết một số vụ việc của

nhân dân còn chậm. Công tác quán triệt, giáo dục tư tưởng, chính trị cho nhân dân

chưa gắn với tình hình thực tế của địa phương, chưa sâu sắc và phổ biến đến các đối

tượng khác. Vì vậy, ý thức tự làm chủ của đất nước, tự lực, tự cường của nhân dân

vẫn còn thấp. Vấn đề bất ổn định an ninh chính trị vẫn chưa được xử lý triệt để và

đảm bảo bền vững; nhiệm vụ QP, AN vẫn còn nặng nề trong sử dụng lực lượng. Vì

lý do đó, đường lối QP, AN toàn dân của Đảng chưa được thực hiện bắt đầu xuất

phát từ gia đình; một số bộ phận nhân dân dân tộc thiểu số vẫn quan hệ với phần tử

xấu để thực hiện âm mưu, thủ đoạn phá hoại nước ta kéo dài; lực lượng du kích, dân

quân tự vệ vẫn thiếu khả năng, kiến thức, chưa phải nói là lực lượng nòng cốt của

mạng lưới công tác QP, AN và công tác quản lý công dân ở cơ sở địa phương vẫn

còn thiếu tích cực. Công tác phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, nhất là trong xây

dựng cơ sở hạ tầng mặc dù đã được đầu tư nhiều lĩnh vực nhưng có một số chương

trình, chất lượng không thích hợp với giá trị đầu tư, việc sử dụng và quản lý đường

giao thông, thủy lợi, trường học, trạm y tế... vẫn không đạt chất lượng. hệ thống

chính trị ở cơ sở có nhiều nơi yếu kém, khả năng của chính quyền địa phương, Mặt

trận Lào xây dựng đất nước, các đoàn thể chính trị - xã hội chưa hoạt động theo vai

103

trò, quyền hạn, nhiệm vụ; ý thức không tôn trọng pháp luật, sự quản lý Nhà nước,

quản lý xã hội bằng pháp luật chưa chặt chẽ, nghiêm túc.

3.2.3. Những kinh nghiệm

Một là, thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng nâng cao nhận thức, trách nhiệm

cho cán bộ, chiến sĩ.

Trên cơ sở lý luận và thực tiễn cụ thể ở địa phương trong vận dụng quan

điểm của Đảng về CTDV. Quan điểm đó xuất phát từ tình thực tế của đất nước như:

đa số nhân dân các dân tộc đời sống còn khó khăn, gian khổ; mức độ phát triển cuộc

sống giữa thành phố và nông thôn có sự khác biệt hơi nhiều... đó là lý do cơ bản của

sự kém phát triển của đất nước. Vì vậy, CTDV của Đảng là một truyền thống tốt

đẹp, là sự bảo đảm tồn tại và phát triển của đất nước; vì Đảng ta đều sinh ra và lớn

mạnh từ cơ sở, cũng như quá trình đấu tranh hy sinh của nhân dân các dân tộc.

Trong mỗi giai đoạn tổ chức, triển khai thực hiện Chỉ thị, Nghị quyết Đại hội

Đảng lần thứ IV, V, VI, VII, VIII, IX, X, XI để tạo điều kiện cho các sư đoàn đạt

được thành tích trong góp phần thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển KT - XH

của đất nước từ 2016 - 2030 toàn quốc thoát nước kém phát triển. Các sư đoàn vẫn

tiếp tục coi trọng CTDV là công việc chủ yếu hàng đầu như: đã tổ chức giáo dục,

quán triệt các Chị thị, Nghị quyết của Đảng, Nhà nước, nhất là Nghị quyết của Đại

hội lần thứ XI của Đảng về “Để giải quyết tình trạng nghèo đói của đồng bào các

dân tộc trong cả nước, chúng ta cần đẩy mạnh CTDV để xây dựng nông thôn mới

gắn với thực hiện công tác 3 xây dựng, như: Phát triển kinh tế là trọng tâm, đi đôi

với việc phát triển VH-XH và bảo vệ môi trường; QP, AN để bảo vệ hòa bình, giữ

vững ổn định chính trị, xây dựng làng lớn trở thành thị trấn nhỏ ở nông thôn, gắn

với tái định cư, những công việc, nghề nghiệp cố định cho người dân; tiếp tục giải

quyết tình trạng nghèo của người dân bằng cách đẩy mạnh sản xuất hàng hóa, dịch

vụ theo tiềm năng của địa phương” [92]. Chỉ thị số 03/BCT, ngày 30/5/2011 của Bộ

Chính trị về “Xây dựng làng trở thành đơn vị phát triển, xây dựng làng lớn trở thành

thị trấn ở nông thôn” [60]. Cấp ủy, lãnh đạo các sư đoàn đã tổ chức phát huy các

Chị thị, Nghị quyết đó thành chương trình, kế hoạch cụ thể để thực hiện kiểm tra,

giám sát các mặt công tác, đồng thời vận động phong trào thi đua yêu nước và phát

104

triển; tiếp tục tăng cường cán bộ về cơ sở theo 4 nội dung 4 mục tiêu bằng cách tập

trung vào các vùng sâu, vùng xa, vùng trọng điểm theo truyền thống của Quân đội,

để phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương, các đoàn thể chính trị - xã hội và

các lực lượng có liên quan theo dõi và nắm chắc tình hình; vận động nhân dân tham

gia công tác QP, AN rộng khắp, gắn với phát triển nông thôn toàn diện. Ngoài ra,

cấp ủy lãnh đạo các sư đoàn đã quan tâm giáo dục, rèn luyện về mặt tư tưởng, chính

trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt có sự yên tâm, có phong cách làm việc, coi trọng

công tác kiểm tra, giám sát và thực hiện chế độ báo cáo cấp trên nghiêm túc, có tình

đoàn kết trong nội bộ và làm hoàn thành nhiệm vụ của địa phương, đơn vị giao cho.

Hai là, không ngừng đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo công tác dân

vận phù hợp với từng địa bàn, nhiệm vụ chính trị của đơn vị.

Thực tiễn cho thấy, CTDV của các sư đoàn thuộc QĐND Lào đã tiến hành

có trọng tâm, trọng điểm và phong phú về lý luận và thực tiễn sát với tình thực tiễn

trên địa bàn; các nội dung rất đa dạng trong vận dụng vào các hình thức, phương

pháp tiến hành; kịp thời tham mưu nắm chắc tình hình nhân dân cho cấp ủy lãnh

đạo, đồng thời giải quyết các vấn đề nảy sinh trên địa bàn, tạo sự đồng thuận cho

các tầng lớp nhân dân; góp phần củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân

tộc; phát huy phẩm chất truyền thống tốt đẹp của “Bộ đội Lào Ít Xa La”, tăng

cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và Quân đội. Để đáp ứng yêu

cầu, nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước, Quân đội giao phó, cũng như thực hiện Nghị

quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng về CTDV đã được tổ chức thực hiện có quả hiệu

thiết thực, nhiệm vụ chủ yếu của các sư đoàn trong thời gian tới là kiên quyết thực

hiện nhiệm vụ CTDV có hiệu quả, đảm bảo sự quyết tâm, nghiêm túc, linh hoạt,

sáng tạo để xây dựng và bảo vệ chế độ mới XHCN, tích cực tham gia phát triển

kinh tế, VH-XH của quốc gia bằng sự tập trung thực hiện nhiệm vụ và mục tiêu

phấn đấu như: trước hết phải mang lại Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng tổ

chức, triển khai, giáo dục quán triệt cho cán bộ, đảng viên chiến sĩ ở các sư đoàn,

làm cho mọi người nhận thức sâu sắc, nắm vững và chủ động xây dựng chương

trình, kế hoạch triệt để ở các đơn vị các cấp; phối hợp với chính quyền địa phương,

các đoàn thể chính trị - xã hội và công an nhân dân tỉnh làm tốt nhiệm vụ đảm bảo

105

ổn chính trị quốc gia, trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện cho sự phát triển KT-XH

của đất nước có hiệu quả.

Phát huy vai trò nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ QP, AN toàn dân, cùng

địa phương và các ngành tiếp tục thực hiện nhiệm vụ CTDV đạt hiệu quả, tham gia

phát triển các thôn, bản, cụm bản, gắn với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân,

thế trận an ninh nhân dân toàn diện của Đảng. Giúp địa phương củng cố và xây

dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, cải thiện đời sống cơ sở vật chất, tinh

thần của nhân dân ổn định. Đồng thời, xây dựng lực lượng của các sư đoàn vững

mạnh về mặt chính trị, mạnh mẽ về mặt tổ chức, tích cực huấn luyện chiến để xây

dựng đơn vị chính quy, tinh nhuệ từng bước hiện đại, xứng đáng quân đội của nhân

dân, do nhân dân, vì nhân dân; có nề nếp, lối sống, phong cách làm việc hiện đại,

phát huy truyền thống kiên quyết, vững chắc, dũng cảm chiến đấu, có ý thức sẵn

sàng chiến đấu cao.

Ba là, chăm lo xây dựng, củng cố kiện toàn tổ chức bộ máy và đội ngũ cán

bộ dân vận đảm bảo chất lượng tốt đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

Qua thực hiện các nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng và nghị quyết Đại

hội lần V của Đảng ủy Bộ Quốc phòng Lào, việc tổ chức bộ máy dân vận của các

sư đoàn từng bước được sắp xếp, kiện toàn theo hướng tinh gọn để đảm bảo số

lượng, chất lượng hoạt động hiệu lực, hiệu quả CTDV; các chức năng, nhiệm vụ,

trách nhiệm CTDV của các tổ chức cơ quan, đơn vị được phân định và điều chỉnh

hợp lý hơn; bảo đảm vai trò lãnh đạo của cấp ủy, chỉ huy sư đoàn trưởng, đồng thời

góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Cấp ủy, chỉ huy các sư đoàn chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch đào

tạo, bồi dưỡng về bản lãnh chính trị, quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng,

chính sách, pháp luật của Nhà nước, đảm bảo cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, chiến

sĩ có tinh thần trung thành với Đảng, với nhân dân, với lý tưởng cách mạng, phân

biệt rõ ta - địch; đấu tranh ngăn chặn, phản bác những luận điệu sai trái, xuyên tạc

của các thế lực thù địch và lực lược phản động. Vì vậy, việc xây dựng và củng cố

bộ máy và cán bộ dân vận của các sư đoàn phải coi trọng số lượng, chất lượng là

chủ yếu. Các sư đoàn phải chú trọng củng cố và xây dựng lực lượng chặt chẽ, vững

106

mạnh có khả năng bảo vệ địa bàn khu vực đặc trách trong các mọi trưởng hợp, đồng

thời giáo dục, rèn luyện cho đội ngũ cán bộ làm CTDV có ý thức cao, có hệ thống

bộ máy mạnh mẽ, có nề nếp, lối sống trong sạch, vững mạnh, đảm bảo tiềm năng,

tiềm lực tăng cường cho cơ sở, xây dựng nông thôn, vùng sâu, vùng xa toàn diện

đây là nhiệm vụ chính trị hàng đầu của Quân đội, để tổ chức thực hiện theo đường

lối của Đảng ta mà đã chú trọng công tác xóa đói, giảm nghèo là vấn đề ưu tiên chủ

yếu của toàn dân.

Bốn là, phải thường xuyên phối hợp, kết hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính

quyền địa phương, các ban, ngành, đoàn thể chính trị - xã hội và các lực lượng có

liên quan lựa chọn nội dung, hình thức, biện pháp hoạt động công tác dân vận phù

hợp hiệu quả.

Các sư đoàn thuộc QĐND Lào phải tiếp tục thường xuyên phối hợp, kết hợp

chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương, các ban, ngành, đoàn thể chính trị - xã

hội và các lực lượng có liên quan quý định đúng các nội dung, hình thức, biện pháp

CTDV rõ nét, để sử dụng tiềm năng, tiềm lực của các cơ quan, đơn vị phù hợp và

hiệu quả như: Nắm chắc tình hình về mọi mặt trên địa bàn, nhất là những vấn đề

bức xúc trong xã hộ của nhân dân để có nội dung, hình thức, biện pháp tiến hành

thích hợp và đúng đắn, xác định đúng thời gian, thời điểm, thời cơ trong đó phải

mang ý nghĩa thiết thực. Nắm chắc mục đích, nhiệm vụ cần phải tập trung thực hiện

từng các giai đoạn đã được quy định trong nội dung, hình thức, biện pháp của đơn

vị; nắm chắc tình hình thực trạng của địa phương để tạo thành các nghị quyết,

chương trình và kế hoạch cụ thể, quy định rõ việc đã quan tâm, có ngân sách hỗ trợ,

biết bố trí, tổ chức sử dụng cán bộ đúng theo đối tượng. cùng với chính quyền địa

phương, các đoàn thể và các ngành nắm chắc tình hình trên địa bàn khi có xảy ra vụ

việc phức tạp phải kịp thời xử lý, giải quyết kịp thời có hiệu quả. Phối hợp với lực

lược quân sự địa phương, công an nhân dân tỉnh quản lý xuất nhập cảnh đối với

người dân vào, ra; nắm chắc tình hình, đối tượng, xử lý những vấn đề tiêu cực trong

xã hội từng bước giảm xuống; phối hợp với địa phương và các ngành vận động, đẩy

mạnh nhân dân các dân tộc, nhất là các thanh niên, tuổi trẻ tham gia phong trào văn

hóa, văn nghệ, thể thao để tránh xa ma túy, biết giữ gìn và bảo tồn phong tục tập

107

quán, tinh hoa văn hóa và bản sắc dân tộc; phòng, chống mê tín dị đoan, chơi ăn

lãng phí, bán dâm, làm theo văn hóa các nước Phương Tây. Vì vậy việc phối hợp

lựa chọn nội dung, hình thức, biện pháp là những vấn đề quan trọng phải vận dụng

thật sự linh hoạt, sáng tạo các hoạt động CTDV của quân đội.

Năm là, phát huy vai trò của già làng, trưởng bản, trưởng thôn và các chức

sắc tôn giáo trong tiến hành công tác dân vận.

Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chế độ mới XHCN, các lực lượng thế

lực thù địch tập trung đẩy mạnh chống phá cách mạng ta về mọi mặt. Trước tình

hình đó, vai trò của già làng, trưởng bản, trưởng thôn và các chức sắc tôn giáo đã

tích cực góp phần trong củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, phát huy

quyền làm chủ của đất nước, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các già làng,

trưởng bản, trưởng thôn và các chức sắc tôn giáo đã góp phần tham gia phong trào

vận động nhân dân các dân tộc, đặc biệt là người dân tộc thiểu số ở vùng sâu vùng

xa, vùng trọng điểm chiến lược của Đảng, đồng thời tham gia xây dựng thế trận

quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân để phá hoại những âm mưu thủ

đoạn của kẻ thù, đặc biệt là xử lý một số dân tộc thiểu số vẫn sinh sống lẩn khuất ở

vùng rừng núi của nước ta ra đầu hàng trở thành công dân tốt.

Trong giai đoạn xây dựng và phát triển nền KT - XH vai trò của già làng,

trưởng bản, trưởng thôn và các chức sắc tôn giáo cũng đã góp phần tham gia thực

hiện chính sách kinh tế tự do, tự lực, tự cường, đối với công tác tuyên truyền, vận

động nhân dân các dân tộc tham gia sản xuất nông nghiệp, khôi phục lại đất đai,

cánh đồng lúa, thủy lợi, kênh mường; khôi phục lại nhà máy, xí nghiệp; vận động,

thuyết phục nhân dân các dân tộc tích cực tham gia củng cố, nâng cao đời sống từng

bước hoàn thiện hơn. Hiện nay Đảng, Nhà nước đã yêu cầu cho các già làng, trưởng

bản, trưởng thôn và các chức sắc tôn giáo cần tập trung thực hiện vai trò và nhiệm

vụ chủ yếu như: phải tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng cho các bà con, họ

hàng, dòng truyền thừa của mình có tinh thần yêu nước, yêu chế độ XHCN, tăng

cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Vận động, giáo dục cho các thế hệ trẻ có tinh

thần yêu nước, yêu quê hương, truyền thống vẻ vang của quốc gia, phát huy tinh

thần tự lực, tự cường, có ý thức làm chủ đất nước; có nhiệm vụ tuyên truyền vận

108

động nhân dân tham gia tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính

sách, pháp luật của Nhà nước, kế hoạch phát triển KT - XH của quốc gia, của địa

phương. Vận động nhân dân góp phần cơ sở vật chất, khả năng, kiến thức, trí tuệ

tham gia xây dựng và phát triển đất nước, tạo công ăn, việc làm ổn định, đừng phá

rừng, đừng trồng thuốc phiện. Lãnh đạo nhân dân ở địa phương thay đổi nghề

nghiệp ổn định, sản xuất hàng hóa để xóa đói, giảm nghèo; có nhiệm vụ tuyên

truyền, vận động nhân dân tham gia thực hiện đường lối QP, AN toàn dân, có ý

thức tự giác với âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch hy

vọng phá hoại cách mạng, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; có nhiệm vụ hòa

giải và xử lý mâu thuẫn do căn cứ vào pháp luật và phong tục tập quán để mà giáo

dục, quán triệt cho nhân dân các dân tộc và từng đối tượng, phải đánh giá đúng,

nhận biết lý do, không có sự thỏa hiệp, làm cho các gia đình, thôn, bản, làng ổn định

hành phúc, không để xảy ra vấn đề tiêu cực trong xã hội.

Tiểu kết chương 3

Trên cơ sở các báo cáo và khảo sát của tác giả về CTDV của các sư đoàn

(chưa thật đầy đủ trong điều kiện khó khăn do đại dịch COVID-19), tác giả trình

bày khái quát:

1. Ưu điểm, khuyết điểm và hạn chế trong thực hiện các nội dung và phương

thức của CTDV của các sư đoàn

Ưu điểm là: về nội dung, nhìn chung đảng ủy, chỉ huy các sư đoàn đã bám

sát và thực hiện khá đầy đủ các nội dung của CTDV của Đảng NDCM Lào, trong

đó có chú ý gắn với nhiệm vụ quân sự, quốc phòng của sư đoàn trong phạm vi địa

bàn phụ trách. Về phương thức, đã cố gắng vận dụng, phát huy điều kiện, phương

tiện, tổ chức bộ máy và nhân lực của sư đoàn và các đơn vị cấp dưới trong CTDV.

Một số sư đoàn đã thực hiện được các cuộc vận động quần chúng làm được những

việc thiết thực cho địa phương, góp phần cải thiện đời sống cho người dân.

Khuyết điểm, hạn chế là: việc quán triệt, thực hiện các chỉ thị, nghị quyết về

CTDV ở một số cơ quan, đơn vị có nội dung còn chung chung; nội dung, phương

thức lãnh đạo và tiến hành CTDV của một số cơ quan, đơn vị chậm được đổi mới;

109

kiến thức, trình độ, kinh nghiệm, phương pháp, tác phong công tác của một số cán

bộ, đảng viên, chiến sĩ trong tiến hành CTDV có mặt chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm

vụ trong tình hình mới.

2. Nguyên nhân của ưu điểm, khuyết điểm

Có những nguyên nhân khách quan từ thực trạng kinh tế-xã hội, điều kiện

địa lý, hạ tầng của đất nước Lào, trình độ nhận thức, tập quán, thói quen của nhân

dân các bộ tộc Lào; từ âm mưu và hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước, QĐND

Lào của một số thế lực bên ngoài và bên trong nước Lào.

Bên cạnh đó có nguyên nhân chủ quan từ hệ thống tổ chức QĐND Lào và

các sư đoàn QĐND Lào nói riêng; từ nhận thức của một bộ phận chỉ huy các cấp

của sư đoàn đối với CTDV, từ việc tổ chức thực hiện CTDV và thực hiện hoạt

động vận động quần chúng của một số đơn vị còn thiếu chuyên nghiệp, thiếu

kinh nghiệm.

3. Một số kinh nghiệm

Trước hết phải quán triệt mục tiêu, nội dung, phương thức thực hiện CTDV

là phải thật bám sát và gắn kết chặt chẽ với những nhiệm vụ quân sự, quốc phòng

của sư đoàn trên địa bàn. Có như thế mới làm cho CTDV của các sư đoàn có tính

khác biệt với CTDV của các tổ chức dân sự khác.

Sau nữa phải sáng tạo, linh hoạt phát huy ưu thế của tổ chức quân đội về bộ

máy, nhân lực, phương tiện, kỷ luật chặt chẽ trong thực hiện nhiệm vụ dân vận tùy

theo từng địa bàn.

110

Chương 4

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG

CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA CÁC SƯ ĐOÀN THUỘC

QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN LÀO ĐẾN NĂM 2030

4.1. DỰ BÁO THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN VÀ PHƯƠNG HƯỚNG CÔNG

TÁC DÂN VẬN CỦA CÁC SƯ ĐOÀN THUỘC QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN LÀO ĐẾN

NĂM 2030

4.1.1. Những thuận lợi và khó khăn đối với công tác dân vận của các sư

đoàn thuộc Quân đội nhân dân Lào trong thời gian tới

4.1.1.1. Những thuận lợi và khó khăn từ bối cảnh trong nước và quốc tế

Dự báo tình hình trong nước và quốc tế từ nay tới 2030 có một số đặc

điểm sau:

- Trên cơ sở thành tựu đạt được sau hơn 30 năm đổi mới (1986 - 2021), với

thế và lực, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước, đất nước Lào sẽ tiếp tục

phát triển với nhịp độ cao hơn (Trong 5 năm qua mức độ tăng trưởng đạt được

7,2%/năm; GDP/đầu người năm 2020 đạt 2.978 USD. Cơ cấu nền kinh tế từng

bước chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH) [91].

Đời sống nhân dân các bộ tộc Lào sẽ tiếp tục được cải thiện tốt hơn. Sự

chênh lệch về phát triển giữa các vùng miền, giữa thành thị và nông thôn sẽ ngày

càng được thu hẹp. Sự nghiệp giáo dục-đào tạo, y tế, truyền thông, thể thao-văn hóa

tiếp tục phát triển sẽ nâng cao trình độ dân trí, đời sống tinh thần của nhân dân các

bộ tộc Lào. Khối đại đoàn kết toàn dân tiếp tục được củng cố. Tất cả những điều đó

củng cố thêm niềm tin của các tầng lớp, các bộ tộc Lào vào sự lãnh đạo của Đảng

NDCM Lào, giúp CTDV thuận lợi hơn.

- Công tác xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, Nhà nước dân chủ-pháp

quyền tiếp tục được đẩy mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và uy tín của Đảng,

năng lực quản lý của Nhà nước CHDCND Lào, càng làm cho chính trị thêm ổn

định. Đại hội lần thứ XI của Đảng NDCM Lào khẳng định, trong giai đoạn cách

mạng mới, sẽ tiếp tục kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tư

tưởng Cay Xỏn Phôm Vi Hản, con đường đi lên xã hội chủ nghĩa mà Đảng nhân

111

dân cách mạng Lào đã lựa chọn để đưa đất nước phát triển lên tầm cao mới. Nhờ

chính trị ổn định, hệ thống chính trị từ TW đến địa phương ngày càng được củng

cố, vững mạnh, sẽ là chỗ dựa vững chắc cho các hoạt động của các sư đoàn quân

đội nói chung, CTDV nói riêng.

- Nhờ tiềm lực kinh tế được nâng cao, tiềm lực an ninh - quốc phòng sẽ tiếp

tục được cải thiện, giúp bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn

vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; ổn định an ninh chính trị, đảm bảo trật tự an toàn xã

hội; môi trường hòa bình, tạo điều kiện thuận lợi cho việc làm ăn, sinh sống của

nhân dân Lào các bộ tộc, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư, doanh nghiệp cả trong

nước. Điều này giúp cho các đơn vị quân đội Lào có thêm tiềm lực vật chất, và

đặc biệt là sự cộng tác, giúp đỡ của các tầng lớp nhân dân, kể cả doanh nghiệp vào

CTDV của mình.

- Với chính sách đối ngoại hòa bình, hữu nghị, hợp tác phát triển trong khu

vực và thế giới vai trò của CHDCND Lào sẽ ngày càng được nâng cao, phù hợp với

xu thế chủ đạo của khu vực và thế giới là hòa bình, hợp tác, phát triển cùng có lợi.

Quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt Lào-Việt tiếp tục được củng cố, phát triển càng

giúp cho Lào có thêm điều kiện thuận lợi trong phát triển và bảo vệ tổ quốc. Sự

cộng tác, giúp đỡ, chia sẻ kinh nghiệm về CTDV giữa nhân dân và quân đội hai

nước nói chung, các sư đoàn nói riêng sẽ có thêm nhiều thuận lợi.

- Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tác động mạnh mẽ đến mọi

quốc gia và người dân toàn cầu, cũng như làm thay đổi căn bản cách sống, làm việc

và sản xuất; kỷ nguyên mới của đầu tư, năng suất, mức sống gia tăng tất cả là nhờ

sự sáng tạo của con người và sẽ tác động sâu sắc đối với các hệ thống chính trị, xã

hội, kinh tế của toàn thế giới. Trong đó, Lào là một trong những quốc gia được thừa

hưởng những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư để đẩy nhanh

hơn tiến trình CNH, HĐH và thu hẹp khoảng cách với các quốc gia phát triển, nâng

cao thu nhập và cải thiện đời sống nhân dân.

Tất cả những điều đó là yếu tố thuận lợi khách quan cho CTDV của Đảng,

Quân đội nhân dân Lào nói chung và của các sư đoàn nói riêng.

112

Bên cạnh thuận lợi khách quan trên, tình hình trong nước và quốc tế trong

những năm tới 2030 có thể còn một số điểm không thuận lợi sau:

- Nhìn chung đất nước vẫn còn nghèo, chưa thu hẹp đáng kể khoảng cách

với các nước phát triển trong khu vực và thế giới. Lào chưa đạt được mức cao của

nhóm quốc gia có thu nhập trung bình của thế giới. Dù cố gắng song vẫn sẽ còn một

số địa bàn, nhất là vùng sâu, xa, vùng biên giới còn nhiều khó khăn chưa khắc phục

được hoặc khắc phục chưa đạt yêu cầu. Khoảng cách giàu nghèo có thể tăng thêm.

Mặc dù đẩy mạnh xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, song đây đó vẫn sẽ

còn những hiện tượng tiêu cực, hiện tượng suy thoái của cán bộ, đảng viên, ảnh

hưởng xấu đến hình ảnh, uy tín của Đảng, Nhà nước. Hệ thống chính trị ở cơ sở địa

phương tuy được tăng cường củng cố, nhưng nhiều cơ sở vùng nông thôn, vùng

sâu, vùng xa còn yếu. Mặt trái kinh tế thị trường tác động đến sự phát triển nhân

cách người cán bộ, đảng viên, với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý

tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, chạy theo lối sống thực dụng, lợi

dụng chức quyền và những kẽ hở trong cơ chế, chính sách nảy sinh tham nhũng, lối

sống chạy theo đồng tiền bất chấp đạo lý, làm giàu bất chính, kém ý thức tổ chức kỷ

luật, tham vọng cá nhân, chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy tội, chạy theo danh

lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc…

Trong điều kiện mở cửa, hội nhập quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia sẽ gia

tăng, trong đó có buôn bán ma túy, vũ khí, buôn người, rửa tiền, tội phạm kinh tế

quốc tế và tội phạm công nghệ cao…

Những điều đó có ảnh hưởng tiêu cực tới tâm tư, tình cảm, niềm tin của một

bộ phận dân cư đối với Đảng, Nhà nước CHDCND Lào. Hơn nữa, một số thế lực

và cá nhân bất mãn, sẽ lợi dụng tình hình đó, kích động nhân dân chống đối Đảng,

Nhà nước. Những nhân tố trong nước như thế sẽ gây khó khăn cho CTDV của

Đảng, quân đội và các sư đoàn.

- Thế giới sau đại dịch COVID-19 sẽ mất một thời gian phục hồi và có nhiều

thay đổi mà hiện nay chưa thể thấy trước được. Tình hình thiên tai do biến đổi khí

hậu trên toàn cầu cũng có thể tác động tới nhiều nước và Lào, để lại những hậu quả

113

trực tiếp hoặc gián tiếp không ngờ tới trong phát triển kinh tế-xã hội, thực hiện các

mục tiêu chiến lược mà Đảng, Nhà nước Lào đã đặt ra.

Mặc dù xu thế chung là hòa bình, hợp tác, phát triển, cùng có lợi, song có thể

có thời điểm, có nơi trên thế giới và thậm chí trong khu vực vẫn xảy ra những căng

thẳng, không đồng thuận giữa một số nước, ảnh hưởng tới hợp tác, phát triển của

các nước và của Lào.

Mặc dù chính sách đối ngoại của Lào là thân thiện, song không phải không

còn thế lực bên ngoài muốn kìm hãm, gây khó khăn hoặc lợi dụng làm mất ổn định

chính trị-xã hội, ảnh hưởng xấu đến phát triển của Lào.

Trong khuôn khổ chiến lược “ diễn biến hòa bình”, xóa bỏ CNXH, các thế

lực phản động vẫn sẽ tiếp tục coi Lào là một đối tượng chống phá bằng mọi cách từ

tư tưởng tới kinh tế, an ninh-quốc phòng.

- Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng gây ra thách thức, tác động

như: Lào phải đối mặt với những thách thức về biến đổi khí hậu, thảm họa thiên tai,

ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm ma

túy, mua bán người, tội phạm công nghệ cao, tội phạm rửa tiền. Công tác quản lý,

giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên gặp nhiều khó khăn trong bối

cảnh sự bùng nổ của công nghệ hiện đại, các thông tin thất thiệt trên mạng internet

gây nhiễu loạn, hoang mang trong dư luận; lực lượng thế lực thù địch và đối tượng

phản động không ngừng thay đổi âm mưu, thủ đoạn hoạt động chống phá, phạm tội,

trong đó có việc lợi dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, ứng dụng thành tựu cuộc

cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Tất cả những điều này từ bối cảnh quốc tế có thể tác động tiêu cực, gây khó

khăn cho CTDV của Đảng, quân đội và các sư đoàn thuộc QĐND Lào.

4.1.1.2. Những thuận lợi và khó khăn từ tổ chức và hoạt động của các

sư đoàn

Ngoài những thuận lợi, khó khăn bắt nguồn từ tình hình trong nước và quốc

tế, còn có những thuận lợi, khó khăn bắt nguồn từ chính tổ chức và hoạt động của

QĐND Lào nói chung, của các sư đoàn nói riêng.

114

* Mặt thuận lợi

Thứ nhất, sư đoàn là đơn vị quân đội quy mô nhất của QĐND Lào, nên đã và

sẽ được tổ chức ngày càng chính quy, được trang bị hiện đại nhất, có quyền chủ

động cao nhất (chỉ sau chỉ huy Bộ Quốc phòng), luôn được Đảng ủy, chỉ huy Bộ

Quốc phòng, Tổng Cục Chính trị QĐND Lào quan tâm, trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo,

đồng thời kiểm tra, giám sát, theo dõi và đẩy mạnh CTDV.

Thứ hai, trong thời gian qua CTDV đã được đảng ủy, chỉ huy các sư đoàn

nhận thức là 1 trong những nhiệm vụ của mình, và được thực hiện khá tốt ở một số

sư đoàn. Trong cơ cấu tổ chức của sư đoàn đều có bộ phận tham mưu, sĩ quan tham

mưu có kinh nghiệm, kỹ năng nhất định về CTDV; các sư đoàn cũng đã có những

quy định, quy chế về CTDV và đúc rút được các bài học kinh nghiệm. Đây là

những tiền đề thuận lợi mà trong những năm tới có thể tiếp tục phát huy.

Thứ ba, nhờ giáo dục quốc dân ngày càng được nâng cao, báo chí-truyền

thông của đất nước ngày càng hiện đại, đa số cán bộ, đảng viên, chiến sĩ các sư

đoàn đều có học vấn cao hơn, có trình độ nhận thức chính trị tốt hơn và dễ tiếp thu,

vận dụng các quy định và kinh nghiệm trong CTDV khi được giao nhiệm vụ.

* Mặt khó khăn

Thứ nhất, trong khoảng 10 năm tới, với quy mô tổ chức quân đội chưa thay

đổi, các sư đoàn bên cạnh nhiệm vụ quân sự là hàng đầu, vẫn sẽ tiếp tục đảm nhận

các nhiệm vụ quốc phòng (tương tự như của quân khu) nên khối lượng CTDV có

thể sẽ tăng hơn nữa, đòi hỏi sư đoàn và các đơn vị cấp dưới phải nỗ lực hơn nữa

mới có thể hoàn thành được.

Hơn nữa trong điều kiện hòa bình, không phải 100% sĩ quan, chỉ huy từ cấp

sư đoàn đến trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội… sẽ thực sự thấm nhuần với nhiệm vụ

dân vận, coi nó là tất yếu và quan trọng không kém nhiệm vụ quân sự của đơn vị,

nên đòi hỏi công tác chính trị, tư tưởng trong toàn quân của Bộ Quốc Phòng, Tổng

cục chính trị đối với cấp sư đoàn phải được nâng cao hơn.

Thứ hai, do tham gia quân đội là nghĩa vụ có thời hạn, nhất là đội ngũ chiến

sĩ, nên ngoài đội ngũ sĩ quan phục vụ quân đội lâu dài, tương đối ổn định, đội ngũ

115

chiến sĩ tham gia vào CTDV sẽ thường xuyên biến động, buộc các sư đoàn phải lựa

chọn, bồi dưỡng đội ngũ chiến sĩ mới thay thế cho những người đã có trình độ, kinh

nghiệm làm CTDV. Nếu không chủ động có dự kiến và kế hoạch trước, sẽ có thể bị

động về con người.

Thứ ba, trong điều kiện hòa bình, phát triển kinh tế là trung tâm, cuộc sống

thuận lợi, dễ dàng hơn, có nhiều cám dỗ hơn, cũng khiến cho tinh thần chịu khó,

chịu khổ của cán bộ, chiến sĩ bị ảnh hưởng. Thế mà CTDV thường phải đi xuống

địa bàn khó khăn, xa xôi, lăn lộn với người dân, nếu các sư đoàn không giáo dục

chính trị thường xuyên, làm tốt công tác tư tưởng, có hình thức động viên kịp thời

cho cán bộ, chiến sĩ thì khó thực hiện CTDV một cách tốt đẹp.

4.1.2. Phương hướng tăng cường công tác dân vận của các sư đoàn

thuộc Quân đội nhân dân Lào

Trên cơ sở quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội XI của Đảng về “Tăng

cường thực hiện công tác dân vận, gắn với phát triển nông thôn mạnh mẽ, toàn diện

theo 4 nội dung, 4 mục tiêu là một biện pháp chiến lược lâu dài, nhằm củng cố hệ

thống chính trị ở cơ sở chặt chẽ, vững mạnh; tập trung giải quyết xóa đói giảm

nghèo của nhân dân bằng việc thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, gắn với phân bố nghề

nghiệp và nơi dân cư ổn định, đặc biệt là vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa; tuyên

truyền, vận động phong trào yêu nước và xây dựng làng phát triển theo 3 xây dựng,

xây dựng mô hình sản phẩm ngày càng nhiều trở thành phong trào của quần chúng

nhân dân” [91, tr.31]. Nghị quyết Đại hội lần thứ V của Đảng ủy Bộ Quốc phòng về

“Quan tâm giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân và toàn xã hội quán triệt

sâu sắc đường lối QP, AN toàn dân của Đảng, trên cơ sở nắm chắc Nghị quyết của

Bộ Chính trị về xây dựng tỉnh thành đơn vị chiến lược, xây dựng huyện thành đơn

vị vững mạnh toàn diện, xây dựng làng thành đơn vị phát triển, theo 4 nội dung 4

mục tiêu; xây dựng thế trận QP, AN toàn dân, trở thành ý thức trách nhiệm và mở

rộng mọi lĩnh vực tham gia rộng rãi, bằng tổ chức lực lượng - phương tiện tăng

cường cho cơ sở làm CTDV ở các vùng trọng điểm của Bộ Quốc phòng và Chính

phủ, bao gồm tất cả khu vực nơi đơn vị đóng quân ở chỗ nào phải xuống cơ sở làm

116

CTDV mạnh mẽ, đảm bảo cho Tổ quốc ổn định an ninh, tạo điều kiện tốt cho kinh

tế của Tổ quốc có sự phát triển” [91, tr.22]. Tổng cục Chính trị và chỉ thị hướng dẫn

của Đảng bộ của các sư đoàn về CTDV; Nghị quyết lãnh đạo của các Tỉnh ủy nơi

đóng quân. Qua 5 năm thực hiện các Chỉ thị, Nghị quyết đã được cấp ủy, lãnh đạo

của các sư đoàn, cùng toàn thể cán bộ, chiến sĩ quán triệt sâu sắc, tổ chức thực hiện

với nhiều nội dung làm hay, linh hoạt, sáng tạo trong tuyên truyền vận động nhân

dân và mang lại hiệu quả thiết thực; phương thức CTDV của các sư đoàn ngày càng

được đổi mới, bám sát tình hình thực tiễn, phản ánh được tâm tư, nguyện vọng,

quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Do vậy, phương hướng chung

CTDV của các sư đoàn trong thời gian tới đó là:

Tiếp tục quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách

của Nhà nước về CTDV trong tình hình mới, góp phần củng cố hệ thống

chính trị ở đại phương vững mạnh; tập trung tham gia các chương trình

phát triển kinh tế, VH-XH, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho

nhân dân, phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai,thực hiện tốt chính

sách dân tộc và an sinh xã hội; xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn

với nền an ninh nhân dân vững mạnh, nhằm giữ vững ổn định chính trị,

trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đóng quân; tăng cường quan mối hệ

gắn bó múa thịt giữa quân đội với nhân dân để tạo thành sức mạnh to lớn

vững chắc trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Lào.

Đồng thời, phát huy truyền thống anh hùng, xây dựng các sư đoàn vững

mạnh làm nòng cốt cho sự nghiệp quốc phòng toàn dân; vận dụng linh

hoạt, sáng tạo trong xây dựng đơn vị dân vận tốt, đơn vị dân vận gương

mẫu để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao [72].

Để đạt được nội dung nêu trên, các sư đoàn thuộc Quân đội nhân dân Lào đã

chỉ ra từng phương hướng CTDV cụ thể như:

- Các cấp ủy, lãnh đạo của các sư đoàn, cùng toàn thể đội ngũ cán bộ, chiến

sĩ đã tiếp tục tuyên truyền, quán triệt và thực hiện tốt chủ trương, đường lối của

Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với CTDV của Đảng; tiếp tục quán

117

triệt sâu sắc Chỉ thị số 20/BCT, ngày 26/9/2003, về “Tăng cường làm công tác dân

vận ở cơ sở vững mạnh” [57].

- Các sư đoàn thuộc Quân đội nhân dân Lào đang trung lãnh đạo, chỉ đạo, tổ

chức chặt chẽ việc quán triệt triển khai thực hiện Nghị quyết của Đại hội đại biểu

toàn quốc của Đảng NDCM Lào lần thức XI về “Để giải quyết tình trạng nghèo đói

của đồng bào các dân tộc trong cả nước, chúng ta cần đẩy mạnh CTDV để xây

dựng nông thôn mới gắn với thực hiện công tác 3 xây dựng, như: Phát triển kinh tế

là trọng tâm, đi đôi với việc phát triển VH-XH và bảo vệ môi trường; Q, AN để bảo

vệ hòa bình, giữ vững ổn định chính trị, xây dựng làng lớn trở thành thị trấn nhỏ ở

nông thôn, gắn với tái định cư, những công việc, nghề nghiệp cố định cho người

dân; tiếp tục giải quyết tình trạng nghèo của người dân bằng cách đẩy mạnh sản

xuất hàng hóa, dịch vụ theo tiềm năng của địa phương” [91].

- Các sư đoàn thuộc Quân đội nhân dân Lào tiếp tục tổ chức thực hiện Nhị

quyết của Hội nghị tổng kết CTDV trong toàn quân giai đoạn 2016 - 2020, đề ra

nhiệm vụ, phương hướng về: “Tăng cường cán bộ xuống cơ sở làm CTDV, gắn với

phát triển nông thôn toàn diện theo vùng trọng điểm, cụm làng của Chính phủ, của

Bộ Quốc phòng, khu vực biên giới cả bề rộng và chiều sâu; góp phần củng cố hệ

thống chính trị ở đại phương, giúp nhân dân phát triển KT - XH, giải quyết xóa đói,

giảm nghèo; giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn” [72].

- Nghị quyết lãnh đạo chung của các sư đoàn trong thời gian tới là, chỉ đạo,

hướng dẫn các ban dân vận và các đội công tác chuyên trách trực thuộc, hoạt động

nắm chắc tình hình nhân dân và địa bàn nơi đóng quân; tiếp tục tăng cường sự lãnh

đạo của Đảng, của Quân đội đối với công CTDV; đổi mới nội dung, phương thức

tuyên truyền, thuyết phục, tập hợp, vận động nhân dân; tiếp tục kiện toàn tổ chức,

bộ máy ban dân vận của các sư đoàn đảm bảo chất lượng; tăng cường công tác đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ chuyên trách dân vận; đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát

và thường xuyên sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm việc thực hiện công CTDV của

từng giai đoạn [62].

118

4.2. GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA

CÁC SƯ ĐOÀN THUỘC QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN LÀO ĐẾN NĂM 2030

4.2.1. Nâng cao nhận thức về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác dân

vận của Đảng nói chung và của Quân đội nhân dân Lào nói riêng trong các tổ

chức, các lực lượng và mọi cán bộ, chiến sĩ của các sư đoàn thuộc Quân đội

nhân dân Lào

Trong sự nghiệp đổi mới của cách mạng Lào, Đảng ta đã nhận thức sâu sắc ý

nghĩa, tầm quan trọng của CTDV và được trở thành một yêu cầu tất yếu khách

quan, bởi vì: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nguồn gốc và thế lực của

Đảng, là xuất phát từ quá trình đấu tranh và thế lực của nhân dân. Vì vậy, trong mỗi

giai đoạn cách mạng CTDV có vai trò, tính chất chiến lược và có ý nghĩa quan

trọng quyết định thắng lợi.

Sau thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nghị quyết

Đại hội đại biểu của Đảng ủy Bộ Quốc phòng lần thứ V, CTDV của các sư đoàn

thuộc QĐND Lào đã tiếp tục có nhiều chuyển biến tích cực và ngày càng vào chiều

sâu; các cấp ủy, chỉ huy sư đoàn đã chủ động đổi mới nội dung, phương thức thức

lãnh đạo, chỉ đạo và xác định rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của CTDV trong thực hiện

nhiệm vụ ở địa phương; lấy lợi ích của nhân dân, của Đảng làm trọng tâm, địa bàn

cơ sở và nhân dân làm nòng cốt; góp phần thắt chặt mối quan hệ máu thịt giữa

Đảng, Quân đội với Nhân dân; phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc,

góp phần xây dựng CHDCND Lào phát triển nhanh và bền vững, thực hiện thắng

lợi các nhiệm vụ chính trị của Quân đội.

Để nhận thức rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của CTDV có hiệu quả, các sư đoàn

thuộc QĐND Lào cần tập trung thực hiện một số nội dung chủ yếu sau đây:

Một là, tiếp tục học tập, quán triệt, triển khai thực hiện tốt các quan điểm,

nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác dân

vận trong tình hình mới.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn xác định CTDV là một

nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc; là điều kiện quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, nhằm củng cố

119

vững chắc lòng tin của nhân dân đối với Đảng; tăng cường khối đại đoàn kết toàn

dân tộc, thắt chặt mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng, Quân đội với nhân dân;

tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính

sách, pháp luật của Nhà nước; tăng cường sức mạnh khối đạo đoàn kết toàn dân tộc,

phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong tham gia quản lý KT - XH; tích cực vận

động nhân dân phát triển sản xuất, xóa đói giảm nghèo, góp phần thực hiện tốt

nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và xây dựng QP, AN vững chắc.

Vì vậy, cấp ủy, lãnh đạo của các sư đoàn cần nắm vững, quán triệt sâu sắc

Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng nhân dân cách mạng Lào nói chung, nói

riêng là Chỉ thị hướng dân số 03/BCT, ngày 30/5/2011 của Bộ chính trị về “Xây

dựng làng trở thành đơn vị phát triển, xây dựng làng lớn trở thành thị trấn ở nông

thôn”[59]. Nghị quyết số 650-NQ/ĐUBQP ngày 4/4/2011 của Đảng ủy Bộ Quốc

phòng Lào về “Quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các lực lượng vũ trang có tiềm năng,

tiềm lực chuyển xuống làm công tác dân vận ngày càng vững mạnh theo 4 nội

dung, 4 mục tiêu, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân 3 cấp, gắn với xây dựng

làng và cụm làng phát triển” [93]. Nhằm không ngừng nâng cao sức chiến đấu và

năng lực lãnh đạo của các cấp ủy đảng trong các sư đoàn làm hạt nhân lãnh đạo đơn

vị tiến hành CTDV; Chính ủy, chính trị viên các cấp trong sư đoàn là người chủ trì,

chịu trách nhiệm trước cấp ủy và người chỉ huy cấp trên, cấp ủy của mình về lãnh

đạo, chỉ đạo thực hiện CTDV, nên phải thường xuyên kiểm tra, giám sát, phát hiện,

ngăn chặn kịp thời những biểu hiện sai trái, lệch lạc trong quá trình thực hiện.

Người chỉ huy chủ động xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện nghị quyết; rà soát,

sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy chế, quy định về điều hành, xử lý công việc

gắn với đổi mới phương pháp, tác phong công tác, thực hiện nghiêm chế độ làm

việc. Cơ quan chính trị các cấp thực hiện tốt việc tham mưu giúp cấp ủy, chỉ huy và

hướng dẫn thực hiện kế hoạch, kiểm tra, sơ kết, tổng kết, biểu dương, khen thưởng,

nhân rộng điển hình CTDV; khắc phục các biểu hiện xem nhẹ CTDV, coi đó là việc

của cơ quan chính trị và cán bộ dân vận chuyên trách. Đây là một nội dung quan

trọng nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, chiến sĩ đối với CTDV

trong tình hình mới.

120

Hai là, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nâng cao nâng cao nhận thức, trách

nhiệm cho các tổ chức, lực lượng của các sư đoàn đối với công tác dân vận trong

tình hình mới.

Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Những người phục trách dân

vận cần phải óc nghĩ, mắt trồng, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Chứ không

phải chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh. Họ phải thật thà nhúng tay vào việc.”

[40, tr.232]. Như vậy, các cấp ủy, chỉ huy của các sư đoàn luôn quan tâm, chú trọng

đến CTDV, coi đó là nội dung quan trọng trong công tác giáo dục chính trị, tư

tưởng cho các đơn vị trực thuộc. Trong đó, các cấp ủy, chỉ huy của các sư đoàn đã

có nhiều giải pháp nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho các tổ chức, lực lượng của

các sư đoàn về vị trí, vai trò CTDV trong tình hình mới.

Để nâng cao chất lượng, hiệu quả CTDV cho các tổ chức, lực lượng của các

sư đoàn cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, chiến sĩ về vị trí, nhiệm

vụ của CTDV trong tình hình mới, trước hết là cho cấp ủy, chính ủy, chính trị viên,

người chỉ huy, cơ quan chính trị. Xuất phát từ nhận thức kinh nghiệm và từ thực

tiễn chỉ đạo thực hiện CTDV của các sư đoàn trên địa bàn đóng quân; từ vị trí, vai

trò của cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy, cơ quan chính trị đối với

hoạt động lãnh đạo CTDV. Vì vậy, đây là một giải pháp sát thực, cụ thể hơn, phù

hợp với điều kiện, chức năng nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị phụ trách; qua đó,

cần tiếp tục quan tâm công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức cán bộ, chiến sĩ

nhằm nâng cao nhận thức và tạo sự chuyển biến mạnh mẽ cho các tổ chức, lực

lượng của các sư đoàn đối với CTDV. Đồng thời, góp phần nâng cao nhận thức của

cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy, cơ quan chính trị về CTDV, từ đó

làm cơ sở để tập trung thực hiện tốt hơn nhiệm vụ chính trị ở địa phương.

Theo đó, cần thường xuyên giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, chiến sĩ

về vị trí, vai trò CTDV, xác định đó là một nội dung cơ bản trong công tác giáo dục

chính trị, tư tưởng của đơn vị, vừa là nhiệm vụ huấn luyện cho bộ đội; cùng với

phát huy vai trò của các tổ chức đảng, chỉ huy, tổ chức quần chúng trong đơn vị để

giáo dục nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức của các quân nhân đối với

121

nhiệm vụ CTDV; do đó, trong quá trình giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ,

chiến sĩ, các cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy, cơ quan chính trị của

các sư đoàn cần kịp thời giải quyết và khắc phục những nhận thức sai trái, không

đúng việc làm trong thực hiện CTDV; tích cực quan tâm đến công tác biểu dương,

khen thưởng cho các tập thể và cá nhân tiêu biểu, xuất sắc trong lãnh đạo, tổ chức,

thực hiện phong trào thi đua xây dựng “Đơn vị dân vận gương mẫu”; khắc phục các

biểu hiện xem nhẹ CTDV, coi đó là việc của cơ quan chính trị và cán bộ dân vận

chuyên trách. Đồng thời, tránh vấn đề biểu hiện nhận thức sai trái, lệch lạc, hành vi

vi phạm kỷ luật của quân đội, làm giảm hiệu quả trong thực hiện CTDV.

Trong thời gian tới, cần tiếp tục chỉ đạo tăng cường CTDV; phát huy vai trò

nêu gương của cán bộ, chiến sĩ, nhất là người đứng đầu các cấp ủy, chính ủy, chính

trị viên, người chỉ huy, cơ quan chính trị của các sư đoàn. Xây dựng và củng cố

kiện toàn tổ chức bộ máy, quan tâm đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng

cao chất lượng đội ngũ cán bộ chuyên trách CTDV, nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm

vụ chính trị mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó.

Ba là, tăng cường nhận thức về ý nghĩa, tầm quan trọng công tác dân vận của

các sư đoàn phù hợp với nhiệm vụ của đơn vị và tình hình thực tiễn ở địa phương.

Ý nghĩa, tầm quan trọng CTDV của các sư đoàn luôn được nâng cao và phát

triển theo yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng và chức năng, nhiệm vụ của Quân đội.

Trên cơ sở giáo dục, quán triệt Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng cũng như

Nghị quyết Đại hội lần thứ V của Đảng ủy Bộ Quốc phòng về “Tiếp tục thực hiện

đường lối QP, AN toàn dân của Đảng, trên cơ sở nắm vững, quán triệt Nghị quyết 3

xây dựng của Bộ Chính trị, bằng cách tổ chức lực lượng chuyển xuống làm CTDV,

phát triển nông thôn mạnh mẽ, tập trung các trọng điểm của Nhà nước, Bộ Quốc

phòng, đảm bảo ổn định chính trị quốc gia, trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện

thuận lợi cho sự phát triển kinh tế quốc gia” [92]. Nghị quyết đó là cơ sở nền tảng

về tư tưởng, quan điểm mà đã quý định trong công tác sơ kết, tổng kết CTDV trong

toàn quân, nhất là phát huy bản chất, truyền thống tốt đẹp của quân đội, tập trung

lực lượng tham gia tổ chức thực hiện các nội dung, hình thức, phương thức CTDV,

122

đảm bảo số lượng và chất lượng hiệu quả trong thực hiện CTDV mà đã quý định,

đảm bảo ổn định chính trị, đồng thời phát triển KT - XH và công tác QP, AN, quan

tâm củng cố, cải thiện nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, tạo nền

tảng chính trị, xã hội ổn định; xây dựng lực lược vũ trang nhân dân vững mạnh về

mặt chính trị, tư tưởng, mạnh mẽ về mặt tổ chức, nâng cao tinh thần chiến đấu và

làm hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.

Vì vậy, nhận thức đúng sâu sắc ý nghĩa, tầm quan trọng CTDV là những vấn

đề trọng tâm và cấp bách nhất, có tính quyết định đến chất lượng hiệu quả CTDV

của các sư đoàn. Bởi vì nếu nhận thức đúng ý nghĩa, tầm quan trọng CTDV sẽ

hiệu quả đến nhân tố thay đổi về mặt trình độ, kiến thức, vừa là nâng cao tiềm

năng nghiệp vụ, chuyên môn của các cơ quan, đơn vị và cán bộ, chiến sĩ. Do vậy,

để nhận thức đúng ý nghĩa, tầm quan trọng CTDV cần phải tập trung công tác

tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng,

chính sách, pháp luật của Nhà nước; phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa

phương, các đoàn thể chính trị - xã hội và các ngành sắp xếp, bố trí khu dân cư ổn

định cho người dân; tạo điều kiện cho người dân ổn định sản xuất, ngăn chặn tình

trạng di cư tự do; phát huy diện tích sản xuất nông nghiệp kích thước lớn với cây

công nghiệp có tiềm năng tạo nguồn thu nhập cho nhân dân; thay đổi cơ chế trồng

trọt, chăn nuôi có tính tốn kém và sử dụng nhiều tiềm năng đầu tư nhưng ít hiệu

quả. Ngoài ra, phải chủ động nắm chắc tình hình địa bàn, nhân dân, đồng thời phối

hợp với lực lượng có liên quan ngăn chặn âm mưu, thủ đoạn chống phá của các

thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận gây ra những vấn đề phức tạp ở

nước ta; giải quyết điểm sắc nét của địch và củng cố công tác QP, AN nhằm tăng

cường tiềm lực, đẩy lùi, ngăn chặn các hoạt động chống phá của kẻ thù, bảo vệ lợi

ích quốc gia, dân tộc và nhân dân ở địa phương.

Bốn là, phát huy vai trò công tác dân vận của các sư đoàn thuộc Quân đội

nhân dân Lào để tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và

Quân đội.

123

Đây là một trong những mục đích, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu nhằm tập

hợp, tuyên truyền vận động quần chúng nhân dân thành một lực lượng to lớn, tạo

sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc hiện nay. Cùng với thực hiện tốt nhiệm vụ tham mưu chủ yếu cho Bộ Quốc

phòng và địa phương về công tác dân vận, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn

xã hội; nắm chắc tình hình của địa phương, tâm tư nguyện vọng chính đáng của

nhân dân; chủ động phối hợp tốt công tác với cấp ủy, chính quyền địa phương, Mặt

trận Lào xây dựng đất nước, các đoàn thể chính trị, xã hội và các ngành; đồng thời,

quan tâm củng cố, kiện toàn đội ngũ cán bộ dân vận của các sư đoàn đủ tâm, đủ

tầm, có năng lực lãnh đạo và chọn được cán bộ dám nói, dám làm, dám chịu trách

nhiệm trước Đảng trước nhân dân.

Công tác dân vận của các sư đoàn cần tăng cường vai trò tập hợp, xây dựng

niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và Quân đội; xây dựng khối đại

đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở và tạo sự đồng thuận cho nhân

dân, để nhân dân đông long ủng hộ bộ đội; nâng cao nhận thức, trách nhiệm của

nhân dân tham gia các chương trình phát triển kinh tế, VH-XH; cuộc vận động cách

mạng và phong trào xây dựng “Đơn vị dân vận gương mẫu”, phong trào thi đua yêu

nước, yêu phát triển do Đảng, Nhà nước và địa phương phát động. Bên cảnh đó, cần

kịp thời nắm bắt tâm tư và xử lý những bức xúc, kiến nghị của nhân dân, để đảm

bảo quyền lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân và tạo sự đồng thuận trong xã

hội; nhằm tăng cường, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và

Quân đội. Vấn đề trọng tâm là cấp ủy, lãnh đạo sư đoàn, cùng toàn thể cán bộ, chiến

sĩ các cấp phải nhận thức sâu sắc về “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền

hạn đều của dân”. Cho nên, đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận của các sư đoàn

cần phát huy vai trò, chức năng của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong thực hiện

CTDV, xứng đáng là đội quân công tác, đội quân chiến đấu, đội lao động sản xuất;

xây dựng các sư đoàn vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức đáp ứng

yêu cầu nhiệm vụ dân vận trong tình hình mới.

124

4.2.2. Chú trọng việc xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện công

tác dân vận của sư đoàn, kiện toàn tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ làm công

tác dân vận theo hướng tinh gọn và hiệu quả

Đây là một giải pháp hết sức quan trọng, nhằm tiếp tục tạo sự chuyển biến

mạnh mẽ trong xây dựng, củng cố kiện toàn tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ

chuyên trách dân vận các cấp có biên chế hợp lý, có đủ trình độ, kỹ năng tiến hành

hiệu quả CTDV ở từng đơn vị; nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng kiến thức

cần thiết về mọi mặt nhằm nâng cao kiến thức, năng lực tiến hành CTDV cho cán

bộ, chiến sĩ đáp ứng yêu cầu CTDV của Đảng trong tình hình mới. Thông qua đó,

thực hiện hiệu lực, hiệu quả các chương trình, kế hoạch phối hợp hoạt động CTDV

giữa cấp ủy, chính quyền địa phương, Mặt trận Lào Xây dựng đất nước, các tổ chức

chính trị - xã hội và các lực lượng liên quan trên địa bàn; củng cố, tăng cường sức

mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần xây dựng khu vực địa bàn đóng

quân phát triển mạnh mẽ và bền vững; tích cực tham gia phong trào thi đua yêu

nước - yêu phát triển; đảm bảo hoàn thành tốt mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế

- xã hội, QP, AN ở địa phương. Vì vậy, để xây dựng bộ máy, chương trình, kế

hoạch làm CTDV các sư đoàn và các đơn vị trực thuộc cần phải tập trung thực hiện

một số nội dung sâu đây:

Một là, thường xuyên xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện công tác

dân vận trong hàng năm.

Việc xây dựng chương trình, kế hoạch CTDV của các sư đoàn với mục đích

là tiếp tục nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho các tổ chức, cơ quan, đơn vị, cùng

toàn thể đội ngũ cán bộ, chiến sĩ về CTDV, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, thực chất

trong mối quan hệ quân - dân; phát huy vai trò của các sư đoàn trong tham gia xây

dựng hệ thống chính trị ơ cơ sở; triển khai, thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại

hội lần thứ XI của Đảng nhân dân cách mạng Lào và Nghị quyết Hội nghị tổng kết

CTDV trong toàn quân lần thứ V giai đoạn 2016 - 2020, phương hướng, nhiệm vụ

2021 - 2025. Đây là một nội dung quan trọng, nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo,

chỉ đạo của cấp ủy, chỉ huy sư đoàn đối với các cơ quan, đơn vị trực thuộc và nâng

cao nhận thức, trách nhiệm của mọi cán bộ, chiến sĩ đối với CTDV của Đảng trong

125

tình hình mới; từng bước đưa công CTDV thành nhiệm vụ thường xuyên của đơn vị

gắn với việc thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức, cơ quan và toàn

thể cán bộ, chiến sĩ; coi việc thực hiện CTDV thành một tiêu chí đánh giá, phân loại

các tập thể và cá nhân trong thi đua, khen thưởng hàng năm.

Do vậy, để thực hiện tốt những chương trình, kế hoạch các sư đoàn cần tập

trung phổ biến, quán triệt, triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Bộ

Quốc phòng về công tác dân vận; nâng cao nhận thức, trách nhiệm và năng lực tiến

hành CTDV của đội ngũ cán bộ, chiến sĩ. Đồng thời, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo

của cấp ủy đảng các cấp; phát huy dân chủ, giữ vững kỷ cương, tinh thần đoàn kết;

nêu cao trách nhiệm gương mẫu của cán bộ dân vận, trong thực hiện phong trào thi

đua xây dựng “Đơn vị dân vận gương mẫu” trong toàn quân; coi việc đây là thước

đo trong tiến hành CTDV vừa là tình cảm, vừa là trách nhiệm chính trị của cán bộ,

chiến sĩ của các sư đoàn.

Hai là, củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy và biên chế cán bộ dân vận hợp lý,

đủ năng lực để thực hiện nhiệm vụ được phân công.

Qua nghị quyết, chỉ thị, quyết định, quy chế của Đảng về dân vận, công tác

dân vận được ban hành. Các sư đoàn thuộc QĐND Lào đã chú trọng đến CTDV,

củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy và bố trí cán bộ thông qua việc triển khai Chỉ thị

số 20/BCT về “Tăng cường làm CTDV ở cơ sở vững mạnh”. Tổ chức bộ máy và

biên chế cán bộ dân vận của các sư đoàn đã từng bước được củng cố, kiện toàn

đứng theo chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm, mối quan hệ công tác của các tổ chức

trong cơ quan chính trị được phân định rõ và điều chỉnh hợp lý hơn; tổ chức bộ máy

và biên chế cán bộ của các Ban dân đến các cơ quan, đơn vị, tổ, đội công tác chuyên

trách ngày càng được tăng về số lượng, nâng cao về chất lượng, từng bước đáp ứng

yêu cầu, nhiệm vụ của quân đội trong tình hình mới. việc hoạt động tiến hành

CTDV của các sư đoàn có nhiều đổi mới nội dung, phương thức, chủ động và hiệu

quả trong công tác tham mưu cho sư đoàn trưởng; đồng thời phối hợp tốt với chính

quyền địa phương, các ban, ngành và lực lượng có liên quan tổ chức triển khai thực

hiện CTDV đồng bộ hơn.

126

Vì vậy, củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy của các sư đoàn thuộc QĐND

Lào vừa là yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ mới; vừa là một nhiệm vụ rất quan

trọng của các sư đoàn, phải nâng cao trách nhiệm chính trị, tăng cường quan tâm

lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan đơn vị, tập trung trí tuệ, sức lao động sáng tạo vào

trong thực hiện nhiệm vụ chính trị, củng cố phong cách làm việc trên cơ sở tôn

trọng nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách “Dám nghĩ,

dám làm, dám chịu trách nhiệm”. Coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng là chủ yếu,

tích cực thực hiện tốt CTDV ở khu vực đơn vị đặc trách. Theo đó, tiếp tục ra soát,

kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy và biên chế cán bộ, chuyển đổi cơ chế hoạt động

một số cơ quan, đơn vị chức năng phục vụ, bảo đảm CTDV. Đồng thời, nghiên cứu,

điều chỉnh tổ chức lực lượng dân vận phải dự báo sát, đúng, kịp thời tình hình địa

phương, khu vực đơn vị đóng quân và nhiệm vụ quân đội. Phát huy vai trò, trách

nhiệm của cơ quan, đơn vị chức năng các cấp trực thuộc sư đoàn, nhất là cơ quan

tham mưu CTDV.

Cần có quy định cụ thể hơn về quyền hạn, trách nhiệm của các chủ thể lãnh

đạo, chỉ đạo; chủ thể tham mưu; chủ thể thực hiện vận động quần chúng. Theo tôi

cần làm rõ như sau:

+ Chủ thể lãnh đạo, chỉ đạo gồm các cấp: cấp ủy, chỉ huy sư đoàn; cấp

ủy, chỉ huy trung đoàn; cấp ủy, chỉ huy tiểu đoàn; cấp ủy, chỉ huy đại đội; (theo

tôi sĩ quan chỉ huy trung đội, hạ sĩ quan chỉ huy tiểu đội không là chủ thể lãnh

đạo, chỉ đạo).

Đương nhiên thẩm quyền (quyền hạn) lãnh đạo, chỉ đạo của mỗi cấp khác

nhau, trong đó lãnh đạo, chỉ đạo kế hoạch, chương trình thống nhất là thẩm quyền

của cấp ủy, chỉ huy sư đoàn.

+ Chủ thể tham mưu gồm 4 cấp: đó là Phòng chính trị của sư đoàn (trực tiếp

là Ban dân vận hoặc trợ lý dân vận), Trợ lý Dân vận trung đoàn, Chính trị viên tiểu

đoàn, Chính trị viên đại đội.

+ Chủ thể thực hiện vận động quần chúng: về nguyên tắc là tất cả các tổ

chức, cơ quan và cán bộ, chiến sĩ của sư đoàn. Song từ kinh nghiệm thực tiễn

127

CTDV của quân đội, để bảo đảm tinh gọn, hiệu quả, thì tập trung vào xây dựng

Đoàn công tác, Đội công tác và Tổ công tác.

Đoàn công tác do cấp ủy, chỉ huy sư đoàn thành lập. Trong đoàn công tác

chia thành đội và tổ công tác, hoạt động trong toàn bộ phạm vi sư đoàn phụ trách

(gồm nhiều tỉnh). Đoàn công tác phải có đoàn trưởng là Bí thư cấp ủy sư đoàn (ít

nhất là Phó bí thư), Trưởng phòng (hoặc phó phòng) chính trị sư đoàn, sĩ quan trợ lý

Dân vận thuộc Phòng chính trị.

Đội công tác độc lập do cấp ủy, chỉ huy trung đoàn thành lập, hoạt động

trong phạm vi 1 tỉnh. Nếu do cấp ủy, chỉ huy tiểu đoàn thành lập thì hoạt động trong

phạm vi 1 huyện. Thành phần Đội công tác cũng tương tự như Đoàn công tác.

Tổ công tác độc lập do cấp ủy, chỉ huy tiểu đoàn hoặc đại đội thành lập, hoạt

động trong phạm vi một số bản, làng (ở Lào không tổ chức cấp xã).

Về quy mô, mỗi Tổ công tác có thể từ 3-5 người; mỗi Đội có thể từ 9-15

người; mỗi Đoàn công tác từ 30-40 người.

Ba là, luôn chú trọng việc luân chuyển cán bộ tăng cường cho cơ sở.

Để thực hiện theo lời dạy của Chủ tịch Cay Xỏn Phôm Vi Hản về “Mặc dù

sẽ có những chủ trương, đường lối của Đảng đúng đắn, nếu cán bộ, đảng viên thiếu

trách nhiệm, khả năng, kiến thức trong lãnh đạo, tổ chức thực các mặt công tác, chủ

trương đó sẽ chỉ hoạt động tốt trên giấy tờ” [82, tr.359]. Do đó, có thể nói rằng là

việc luân chuyển cán bộ là một chìa khóa quan trọng quyết định đến sự thành công

trong mọi sự nghiệp của cuộc cách mạng. Chính vì thế, phải đưa cán bộ chuyển

xuống từ nông thôn sang miền núi, để phát huy khả năng, tinh thần trách nhiệm và

trí óc sáng tạo của họ trong xây dựng nông thôn mới; thông qua đó để giáo dục, rèn

luyện và tìm thấy cán bộ tiêu biểu xuất sắc và khen ngợi phần thưởng cho họ.

Cấp ủy, lãnh đạo các sư đoàn phải có chương trình, kế hoạch kỹ về việc luân

chuyển cán bộ tăng cường cho cơ sở địa phương, nhất là vùng nông thôn, vùng sâu,

vùng xa; quan tâm giáo dục, đào tạo cho cán bộ dân vận trở thành một người “Thi

đua phát triển” phục vụ dân tộc - phục vụ nhân dân nhiệt tình trên chiến trường phát

triển nông thôn; cán bộ thi đua phát triển phải làm việc theo chương trình của địa

128

phương, gắn kết chặt chẽ với nhân dân; tránh những vấn đề cán bộ vô trách nhiệm,

thiếu gương mẫu lãnh đạo nhân dân. Cán bộ làm việc thường xuyên trực tại mỗi địa

phương sẽ được giao cho cấp ủy, chính quyền địa phương đó phụ trách quản lý, chỉ

đạo, theo dõi và giáo dục, rèn luyện cho họ trưởng thành phát triển trong quá trình

hoạt động thực tế ở địa phương; cùng với nhận chính sách phù hợp nhất.

Mục tiêu chung của các sư đoàn về việc luân chuyển cán bộ để tăng cường

lực lượng của các cơ quan, đơn vị chuyên môn xuống xây dựng cơ sở địa phương

vững mạnh, theo hướng chỉ đạo của Bộ Quốc phòng do lựa chọn cán bộ có trình độ

kiến thức, khả năng tốt để giúp chính quyền địa phương củng cố kiện toàn hệ thống

chính trị, gắn với xây dựng đơn vị vững mạnh, toàn diện; chú trọng củng cố tổ chức

bộ máy Ban dân vận cho đến các tổ, đội công tác mạnh mẽ, tuyển chọn cán bộ có

bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng, có khả năng triển khai chủ trương, đường lối

của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, để lãnh đạo củng cố hệ thống chính

trị ở mạnh mẽ hơn; đồng thời luân chuyển cán bộ xuống trực tại địa bàn với 3

năm/1 lần.

Bốn là, thực hiện có hiệu quả các chương trình, kế hoạch phối hợp hoạt

động công tác dân vận giữa cấp ủy, chính quyền địa phương, Mặt trận Lào Xây

dựng đất nước, các tổ chức chính trị - xã hội và các lực lượng liên quan trên địa bàn.

Đây là một nội dung chủ yếu nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp trong tiến

hành CTDV; vừa là một nhiệm vụ rất quan trọng, đòi hỏi phải có sự tham gia phối

hợp của nhiều lực lượng như: chính quyền địa phương, Mặt trận Lào xây dựng đất

nước, các đoàn thể chính trị - xã hội, đơn vị bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, các

tổ, đội công tác, các đoàn kinh tế - quốc phòng trực thuộc Bộ, các lực lượng công an

nhân dân, lực lượng du kích, dân quân tự vệ địa phương. Mục đích, để nâng cao

năng lực hoạt động tiến hành lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý Nhà nước của các tổ chức

trong hệ thống chính trị ở địa phương, bồi dưỡng, đào tạo nguồn cán bộ, đảng viên,

lực lượng nòng cốt cho cơ sở. Tích cực tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng, các

chương trình phát triển kinh tế, văn hóa- xã hội, giúp đỡ nhân dân xóa đói giảm

nghèo, thực hiện chính sách xã hội, ổn định đời sống, trình độ dân trí, nhất là ở vùng

sâu, vùng xa, vùng trọng điểm chiến lược của Đảng; góp phần củng cố, xây dựng

129

nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân và khu vực phòng thủ vững

chắc. Tích cực tham gia xây dựng và củng cố kiện toàn hệ thống chính trị ở cơ sở

vững mạnh toàn diện, nhất là cấp ủy, chính quyền địa phương, Mặt trận Lào xây

dựng đất nước, Hội cứu chiến binh, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Đơn vị hòa giải

gắn với giáo dục, bồi dưỡng về luật pháp trong thời gian ngắn hạn để làm cho các tổ

chức đó hiểu biết sâu sắc về luật pháp; thường xuyên hoạt động kiểm tra, giám sát

hệ thống chính trị ở cơ sở được cập nhật trước đó nếu thấy rằng cơ quan nào, bộ

phận nào có hạn chế và khuyết điểm khẩn trương kịp thời giải quyết, đảm bảo hệ

thống chính trị ở cơ sở chặt chẽ, vững mạnh.

Mặt khác, trong chỉ đạo, hướng dẫn các sư đoàn tiến hành CTDV cần chủ

động phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương và lực lượng có liên

quan về xây dựng chương trình, kế hoạch hoạt động tiến hành CTDV ở địa phương;

thường xuyên kiểm tra, theo dõi nắm chắc tình hình nhân dân và địa bàn để nghiên

cứu sơ kết, tổng kết kế hoạch hàng tuần, tháng, quý và hàng năm của đơn vị. Đẩy

mạnh các đơn vị chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước, thực hiện

hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết, quyết định của Bộ Quốc phòng đặt ra. Tổ chức chế

độ báo cáo hàng tuần của cấp sư đoàn và các đơn vị trực thuộc, tổng kết phổ biến

kinh nghiệm CTDV của các cơ quan, đơn vị; trong đó chú ý các bộ phận thường đi

làm nhiệm vụ ở vùng sâu, vùng xa, vùng trọng điểm chiến lược của Đảng; xây dựng

kế hoạch, lịch hoạt động CTDV hàng tuần, tháng cho lãnh đạo sư đoàn trường

(Chính ủy) đi xuống trực tiếp nắm chắc hình hình hoạt động tiến hành CTDV của

các cơ qua, đơn vị, tổ, đội công tác chuyên môn, để kịp thời phát hiện và giúp cơ

quan, đơn vị gặp nhiều khó khăn trong CTDV và tìm ra các giải pháp giúp cơ quan,

đơn vị thuộc quyền tiến hành CTDV một cách thiết thực nhất. Ngoài ra, phải thực

hiện nhiệm vụ quản lý thu thập số liệu, thống kê tổng số, quản lý vũ khí, phương

tiện được trang bị; xây dựng kế hoạch và đảm bảo ngân sách phục vụ cho CTDV

tuân thủ theo nguyên tắc tài chính của sư đoàn quý định; giáo dục, rèn luyện chính

trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, chiến sĩ cố gắng, phấn đấu làm hoàn thành tốt

mọi nhiệm vụ của trên được giao.

130

4.2.3. Tăng cường huấn luyện, nâng cao kỹ năng, phương pháp tiến

hành công tác dân vận của các sư đoàn thuộc Quân đội nhân dân Lào

Đây là một nội dung, biện pháp rất quan trọng để cấp ủy, chỉ huy các sư đoàn

tổ chức huấn luyện, nâng cao nhận thức, phương pháp tiến hành CTDV; nhằm giúp

cán bộ, chiến sĩ rèn luyện kỹ năng, kinh nghiệm, trực tiếp kiến thức, các mô hình

cách làm hay có hiệu quả trong tiến hành CTDV; xây dựng đội ngũ cán bộ dân vận

ngày càng chất lượng, đủ phẩm chất, năng lực; nâng cao nhận thức, kỹ năng, trình

độ vận động nhân dân của từng cán bộ, chiến sĩ, gắn với xây dựng đơn vị trong

sạch, vững mạnh; cùng với nêu cao vai trò gương mẫu của người đứng đầu. Giải

pháp này đòi hỏi phải thực hiện tốt các nội dung, biện pháp chủ yếu như:

Một là, chú trọng huấn luyện giỏi, kỷ luật nghiêm, dân vận tốt.

Trước yêu cầu nhiệm vụ xây dựng Quân đội, tăng cường công tác quốc

phòng, cùng với xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ

chức và đạo đức. Việc tổ chức huấn luyện giỏi, kỷ luật nghiêm, gắn với thực tốt

CTDV đã trở thành một yêu cầu chủ yếu khách quan và xác định đây là cơ sở nền

tảng để xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Cho nên để thực hiện được điều đó

các sư đoàn thuộc QĐND Lào cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị

xây dựng kế hoạch huấn luyện đầy đủ, sát với từng đối tượng; hàng năm phải tổ

chức thông qua và phê duyệt chặt chẽ theo đúng phân cấp; trong đó tổ chức quản lý

chặt chẽ về đối tượng huấn luyện, chương trình, nội dung, thời gian huấn luyện; bảo

đảm tốt vật chất, duy trì nghiêm các chế độ, nề nếp trong tổ chức huấn luyện, tăng

cường công tác kiểm tra, đánh giá một cách khách quan, chống bệnh thành tích,

hình thức; chú trọng xây dựng tính tự giác tổ chức thực hiện kỷ luật nghiêm minh

và tính thống nhất cao nhằm tạo sự chuyển biến cả trong nhận thức và hành động

cho mỗi cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị. Đồng thời, tổ chức huấn luyện nâng cao trình

độ khoa học, linh hoạt sáng tạo, phù hợp với nhiệm vụ chuyên môn, nhằm nâng cao

năng lực lãnh đạo, sức mạnh chiến đấu, đáp ứng yêu cầu và bảo đảm cho các cơ

quan, đơn vị hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, góp phần giữ vững ổn định chính

trị, trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển KT - XH của địa

phương ngày càng mạnh mẽ.

131

Cùng với thực hiện nhiệm vụ huấn luyện, các sư đoàn cần quan tâm thực

hiện tốt CTDV và chú trọng bằng nhiều hình thức hoạt động thiết thực; không

những gắn kết chặt chẽ với nhân dân ở địa phương; thường xuyên duy trì nghiêm

chế độ trực sẵn sàng chiến đấu, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn

xã hội trên địa bàn; tăng cường lòng tin và phát huy phẩm chất “Bộ đội Lào Ít Xa

La” trong lòng dân mà còn là môi trường thực tiễn rèn luyện cho cán bộ, chiến sĩ

của các sư đoàn hoàn thiện một nhân cách quân nhân. Chủ động xây dựng kế

hoạch, thống nhất nội dung huấn luyện cho các cơ quan, đơn vị phù hợp với tình

hình thực tế của địa phương. Đồng thời, phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa

phương, các ban, ngành và lực lượng có liên quan đẩy mạnh CTDV; vận động nhân

dân giúp đỡ, ủng hộ vật chất, tinh thần cho các đơn vị và cán bộ, chiến sĩ trong buổi

huấn luyện, tạo điều kiện thuận cho bộ đội hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của đơn

vị; đẩy mạnh phong trào thi đua xây dựng “Đơn vị dân vận gương mẫu” trên địa

bàn, gắn với thực hiện phương châm “Huấn luyện giỏi, kỷ luật nghiêm, dân vận

tốt”, tích cực tham gia phong trào thi đua yêu nước, quyết tâm thực hiện thắng lợi

nhiệm vụ phát triển KT - XH ở địa phương; phát huy truyền thống, cống hiến tài

năng, xứng danh là “Bộ đội Lào Ít Xa La”.

Hai là, thường xuyên bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng cho cán bộ, chiến sĩ làm

công tác dân vận.

Bồi dưỡng kiến thức, kĩ năng cho cán bộ, chiến sĩ là nhiệm vụ quan trọng đối

với việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong tiến hành CTDV của các sư đoàn, nhằm

nhằm giúp cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị và đội ngũ cán bộ phụ trách CTDV

của các sư đoàn quán triệt sâu sắc các chủ trương, quan điểm của Đảng, pháp luật

của Nhà nước, Bộ Quốc phòng, sư đoàn và địa phương về ý nghĩa, tầm quan trọng

của CTDV động trong tình hình mới. Đồng thời, nâng cao nhận thức, trách nhiệm,

trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, phương pháp, tác phong, công tác tuyên

truyền, vận động các tầng lớp nhân dân cho cán bộ, chiến sĩ trong của các sư đoàn.

Qua đó, góp phần xây dựng và tăng cường sự đồng thuận trong xã hội, phát huy

khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng thế trận lòng dân, thế trận quốc phòng toàn

132

dân gắn với thực hiện tốt nhiệm vụ công tác quân sự - quốc phòng địa phương, giữ

vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn; tham gia củng cố và xây

dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, giúp đỡ nhân dân phát triển sản xuất,

xóa đói, giảm nghèo bền vững; phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, ổn định

đời sống cho người dân; thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội và chính sách hậu

phương quân đội…

Hiện nay, CTDV của các sư đoàn thuộc QĐND Lào có vai trò quan trọng

trong tham gia xây dựng cơ sở chính trị ở địa phương, góp phần tăng cường mối

quan hệ gắn bó máu thịt quân - dân, củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng,

Nhà nước, tăng cường bồi đắp và phát huy phẩm chất của “Bộ đội Lào Ít Xa La”

trong lòng dân; đấu tranh phòng chống những âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù

địch hy vọng chia rẽ mối quan hệ đoàn kết giữa Đảng với Nhân dân. Do vậy, trong

thời gian tới các sư đoàn cần nắm bắt sâu sắc các quan điểm, chủ trương của Đảng,

chính sách của Nhà nước, của Bộ Quốc phòng về CTDV, nhằm tổ chức thực hiện

phù hợp với tình hình thực tiễn của đơn vị và địa phương, đảm bảo thực hiện tốt

chức trách, nhiệm vụ của trên được giao.

Ba là, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức, phương pháp tiến hành

công tác dân vận phù hợp với tình hình mới.

Chủ tịch Cay Xỏn Phôm Vi Hản đã khẳng định rằng: “Làm công tác dân vận

là một hình thức, phương pháp tốt nhất và kịp thời nhất, để đưa chủ trương, đường

lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào trong thực tế” [82, tr.362].

Chính vì vậy, các sư đoàn cần đổi mới các hình thức, phương pháp tiến hành CTDV

trong điều kiện phát triển KT - XH, gắn liền với xây dựng đơn vị vững mạnh, toàn

diện. Trong đó, CTDV của các sư đoàn có ý nghĩa quan trọng bởi đây là cơ quan

tham mưu cho cấp trên Bộ Quốc phòng, và là lực lượng trực tiếp phục vụ nhân dân,

là cầu nối xây dựng, tăng cường tình đoàn kết giữa Ðảng, Quân đội với nhân dân.

Cấp ủy, chỉ huy sư đoàn cần quan tâm đến cán bộ làm CTDV, cần vận động khuyến

khích, cổ vũ để họ hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ của mình; tôn trọng dân, giữ

vững mối quan hệ mật thiết với nhân dân, giải quyết những vấn đề bức xúc trong

133

cuộc sống của nhân dân và tạo sự đồng thuận ở cơ sở để phát huy sức mạnh tổng

hợp khối đại đoàn kết toàn dân vững chắc; Vì vậy, để vận dụng các các hình thức,

phương pháp tiến hành CTDV của các sư đoàn thuộc QĐND Lào, cần phải thực

hiện tốt giải pháp cụ thể sau:

- Nâng cao kỹ năng tuyên truyền miệng, cấp ủy, chỉ huy của các sư đoàn cần

nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác tuyên truyền miệng

trong tình hình mới; có trách nhiệm thực hiện công tác tuyên truyền miệng phù hợp

với chức năng, nhiệm vụ được giao; xác định rõ mục tiêu, đối tượng phù hợp với

tình hình thực tiễn ở địa phương; nội dung tuyên truyền phải bám sát với chủ

trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, vừa là nhiệm vụ

chính trị của đơn vị. Hiện nay, sự phát triển của khoa học kỹ thuật - công nghệ,

thông tin và những phương tiện truyền thống hiện để đem các thông tin đến cho mọi

người tiếp thu nhanh hơn, nhưng không phương tiện nào có thể thay thế bằng cách

hoạt động tuyên truyền miệng vì đay là hoạt động truyền thống của Đảng, có thể

truyền trực tiếp đến quần chúng nhân dân và giữ vai trò rất quan trọng trong xã hội

loài người. Cho nên công tác tuyên truyền miệng của các sư đoàn trong giai đoạn

hiện nay cần phải phân tích, đánh giá, chỉ rõ những nguyên nhân tồn tại, mặt hạn

chế và yếu kém, đề xuất những giải pháp cần khắc phục nhằm nâng cao hoạt động

của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ cũng như người báo cáo viên các cấp. Tiếp tục nâng

cao nhận thức về tư tưởng chính trị, tầm quan trọng của công tác tuyên truyền

miệng và hoạt động của đội ngũ cán bộ, đảng viên, chiến sĩ; thường xuyên cung cấp

thông tin của Đảng, Nhà nước, Quân đội và tình quốc tế cho đội ngũ cán bộ, đảng

viên chiến sĩ tiếp cận các nguồn thông tin chính thống, giúp cho hoạt động tuyên

truyền miệng nhanh chóng và đảm bảo hiệu quả cao. qua đó công tác tuyên truyền

miệng cần phải chú trọng việc trao đổi kỹ năng và phương pháp để nội dung tuyên

truyền nhẹ nhàng, hấp dẫn, ngắn gọn, dễ nhớ, dễ hiểu, sâu sắc, có tính thực tiễn và

khả năng vận dụng hiệu quả cao.

- Mở rộng hình thức hợp tác và kết nghĩa, đây là hình thức phổ biến, thích

hợp và phải áp dụng đối với tất cả các cơ quan, đơn vị trong QĐND Lào theo quy

định của Tổng cục Chính trị nhằm thường xuyên thực hiện tốt CTDV, tích cực góp

134

phần tham gia xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh. Trong đó, việc kết nghĩa rất

đa dạng, phong phú như: kết nghĩa giữa cấp ủy, chỉ huy đơn vị với cấp ủy, chính

quyền địa phương; giữa các tổ chức quần chúng của đơn vị với tổ chức quần chúng

của địa phương; giữa đơn vị với các nhà trường, nông trường, kinh doanh, doanh

nghiệp... trên địa bàn. Để hoạt động kết nghĩa có kết quả tốt, các sư đoàn thuộc

QĐND Lào cần chú trọng làm tốt như: phải quan sát, nắm chắc tình hình ở địa

phương, dự kiến đối tượng kết nghĩa, sau đó lựa chọn nội dung kết nghĩa, phù hợp

với tình hình của địa phương và đơn vị. Cùng cấp ủy, chính quyền địa phương ra

hội thảo đề thống nhất các nội dung, hình thức, biện pháp tiến hành kết nghĩa. Tổ

chức lễ kết nghĩa và ký kết các chương trình, kế hoạch hoạt động tổ chức thực hiện

giữa hai bên. Dự kiến, quý định các mốc thời gian để phối hợp trao đổi với nhau;

đồng thời kiểm tra, thúc đẩy tổ chức thực hiện các nội dung, chương trình phối hợp

hoạt động đạt kết quả theo kế hoạch. Thường xuyên quan tâm chỉ đạo công tác sơ

kết, tổng kết, rút kinh nghiệm, quan tâm xây dựng và nhân rộng các điển hình “Đơn

vị dân vận gương mẫu”; kịp thời biểu dương, khen thưởng các đơn vị, cá nhân và

bộ phần có thành tích tốt. Vấn đề quan trọng, sau khi hoàn thành ký kết nghĩa, cần

thường xuyên thúc đẩy các hoạt động, trao đổi thông tin giữa hai bên chặt chẽ nhằm

nâng cao hiệu quả chất lượng hoạt động kết nghĩa đạt kết quả tốt.

- Hành quân dã ngoại làm công tác dân vận, đây là hình thức hướng vào

tuyên truyền vận động nhân dân chấp hành chủ trương đường lối của Đảng, chính

sách, pháp luật của Nhà nước, vừa củng cố mối quan hệ quân dân máu thịt với nhân

dân, vừa là phát huy truyền thống của “Bộ đội Lào Ít Xa La”, vừa kết hợp huấn

luyện, rèn luyện bộ đội, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Để thực hiện tốt

CTDV trong hành quân dã ngoại các sư đoàn cần giáo dục quán triệt nhiệm vụ cho

cán bộ, chiến sĩ; bồi dưỡng kiến thức, khả năng và kinh nghiệm có liên quan trực

tiếp đến nhiệm vụ, mục tiêu đợt hoạt động. Xác định đúng nội dung, phương thức

huấn luyện dã ngoại làm CTDV sát với yêu cầu, nhiệm vụ của đơn vị và địa bàn

tiến hành. Mặt khác, cần khảo sát nắm tình hình về mọi mặt để có kế hoạch sát hợp

trong xây dựng nội dung, chương trình hoạt động hành quân dã ngoại; đồng thời

đảm bảo lực lượng, phương tiện, kỹ thuật và cơ sở vật chất. Trong thời gian thực

135

hiện nhiệm vụ hành quân dã ngoại làm CTDV tại địa phương, phải duy trì nghiêm

các chế độ nền nếp hàng ngày theo đúng Điều lệnh quản lý bộ đội. Thường xuyên

giữ nghiêm mối quan hệ máu thịt với nhân dân đúng theo 8 lời thề danh dự của

quân nhân, 12 điều kỷ luật khi quan hệ với nhân dân. Sau khi kết thúc nhiệm vụ về

doanh trại, các cơ quan, đơn vị phải tổ chức bàn giao đầy đủ các nguyên trạng cơ sở

vật chất cho địa phương; tranh thủ thời gian xin ý kiến góp ý của cấp ủy, chính

quyền và nhân dân địa phương để giải quyết kịp thời những vấn đề vướng mắc còn

tồn tại; sau đó nhanh chóng bí mật cơ động lực lượng về đơn vị theo đúng kế hoạch,

thời gian, bảo đảm an toàn tuyệt đối.

- Cử tổ, đội công tác đi cơ sở, hình thức này là một truyền thống của CTDV

của quân đội, có nghĩa sâu sắc đến sự hoạt động tiến hành CTDV của các sư đoàn

cũng như là đơn vị đóng quân ở chỗ nào phải làm CTDV ở nơi đó, nhằm thiết thực

giúp đỡ nhân dân ở địa phương khắc phục khó khăn, gian khổ như: phòng chống,

ứng phó với lụt bão, thiên tai, dịch bệnh, xóa mù chữ, bài trừ mê tín dị đoan; xây

dựng, củng cố hệ thống chính trị ở địa phương vững mạnh, phát triển sản xuất nông

nghiệp - công nghiệp, bảo đảm QP, AN toàn dân... đồng thời thắt chặt mối quan hệ

máu thịt với nhân dân, thực hiện quân với dân là một ý chí, cùng nhau đi theo

đường lối của Đảng ta. Vì vậy, đến nay các sư đoàn đã tổ chức 5 đội công tác trực

tại cụm bản khu vực đặc trách dưới sự chỉ đạo phân công nhiệm vụ của sư đoàn

trưởng (Chính ủy), trực tiếp là cơ quan chính trị quản lý, chỉ đạo, điều hành. Ngoài

ra, đội công tác còn có các tổ trực thuộc do chia thành một tổ 2 đến 3 người làm

nhiệm vụ trực tại các làng, bản, thôn đã phân công.

- Tổ chức giao lưu, gặp mặt với nhân dân, đây là một hình thức quan trọng

khẳng định ý nghĩa nhiều mặt trong tổ chức giao lưu, gặp mặt và đây là nhân dịp

các cán bộ làm CTDV đã giao lưu, trao đổi kinh nghiệm với nhân dân trong các

mốc thời gian xuống thực tế ở địa phương, tạo mọi điều kiện thuận lợi để các cán bộ

làm CTDV nắm vững tình hình của nhân dân và địa phương, khi về đơn vị có thể

làm thành xuất sắc nhiệm vụ trên mỗi cương vị công tác của mình. Vì vậy, các sư

đoàn cần phải thường xuyên giáo dục, tuyên truyền cho quần chúng nhân dân về

136

lịch sử, truyền thống đoàn kết gắn bó máu thịt giữa Đảng, Quân đội với nhân dân;

thăm hỏi động viên, hỗ trợ lẫn nhau trong nhân dịp ngày lễ lớn của quốc gia và

ngày tết; cùng nhau trao đổi tình hình có liên quan đến trật tự an toàn trong xã hội,

đồng thời giao lưu, gặp mặt với nhân dân để thông báo cho nhau về tình hình phát

triển KT - XH của địa phương, tình hình hoạt động của các lực lượng thế lực thù

địch hy vọng phá hoại cách mạng và nước ta. Việc giao lưu, gặp mặt với nhân dân

nhằm tăng cường thắt chặt mối quan gắn bó máu thịt giữa Quân đội với Nhân dân

thực hiện Quân với dân “Như cá với nước”; chủ động phối hợp chặt chẽ với cấp ủy,

chính quyền địa phương, đoàn thể quần chúng nhân dân trong công tác tuyên

truyền, vận động phong trào thi đua xây dựng “Đơn vị dân vận gương mẫu”, gắn

với phong trào xây dựng nông thôn mới; tiếp tục hướng về đồng bào dân tộc thiểu

số, đồng bào tôn giáo ở vùng sâu, vùng xa, vùng trọng điểm chiến lược của Đảng,

phản ánh thiết thực đến chức năng của “Đội quân công tác” của QĐND Lào trong

thời kỳ mới, làm cho hình ảnh “Bộ đội Là Ít Xa La” tiếp tục tỏa sáng và ngày càng

sâu đậm trong lòng nhân dân.

Bốn là, phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, chiến

sĩ trong thực hiện công tác dân vận.

Đây là giải pháp quan trọng trong tu dưỡng phấn đấu của mỗi cán bộ, đảng

viên. Bời vì, xây dựng đội ngũ cán bộ tiên phong, gương mẫu là yêu cầu vừa cấp

bách vừa thường xuyên của người làm CTDV. Cho nên, đội ngũ cán bộ, đảng viên

phải thực sự gương mẫu làm tốt trong tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành

chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, gắn với xây

dựng đạo đức, phong cách làm việc thực sự gần dân, trọng dân, học dân, có trách

nhiệm với nhân dân và luôn tiếp xúc, đối thoại với nhân dân; Nhất là người đứng

đầu phụ trách dân vận phải thường xuyên tiếp dân, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng,

ý kiến của nhân dân nhân dân và quan tâm đến mọi mặt đời sống nhân dân; tăng

cường kỷ luật, kỷ cương hành chính và đạo đức công vụ cho các quân nhân; tích

cực chủ động tham mưu cho các cấp ủy trong lãnh đạo xử lý nghiêm, dứt khoát đối

với cán bộ hư hỏng, tiêu cực, tham nhũng.

137

Do vậy, đội ngũ cán bộ, đảng viên làm CTDV phải thực sự tiên phong,

gương mẫu làm uy tín để thu hút quần chúng nhân dân và phải không ngừng hoàn

thiện vận dụng kỹ năng, giỏi thuyết phục, khéo léo khi tuyên truyền, biết vận dụng

trong từng hoàn cảnh, đối tượng cụ thể ở địa phương. Quá trình này phải được tiến

hành đồng bộ từ việc bổ sung kiến thức lý luận và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn

CTDV cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Bên cảnh đó, phải kịp thời sàng lọc, loại bỏ

những cán bộ “đẹp hồ sơ” nhưng không gương mẫu, tương xứng trong quá trình

tiến hành công tác dân vận; nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giảm sát, xử lý

nghiêm minh các tổ chức và cá nhân tham nhũng, lãng phí; đồng thời phòng, chống

bệnh hình thức, thành tích trong tiến hành CTDV. Muốn thực hiện tốt được điều đó,

cần phải phát huy những đạo đức tốt đẹp, ngăn chặn đẩy lùi những đạo đức xấu,

phải kết hợp “Xây” và “Chống” theo tư tưởng của Hồ Chí Minh: “Xây là học tập, tu

dưỡng, rèn luyện những phẩm chất đạo đức cách mạng. Xây dựng chủ nghĩa tập

thể, xây và nêu tấm gương đạo đức nhân điển người tốt, việc tốt. Xây dựng tinh

thần phụng sự Tổ quốc và nhân dân” và “Chống những tiêu cực như: chống tham ô,

lãng phí, quan liêu cũng chính là xây dựng cần, kiệm, liêm, chính” [41, tr.327]. Do

đó, muốn thành cán bộ, đảng viên tốt thì cần phải tiên phong, gương mẫu và làm

theo tấm gương đạo đức của Người trong tham gia hoạt động lĩnh vực xã hội. Như

vậy, để quán triệt sâu sắc và thực hiện tốt theo khẳng định trên các sư đoàn cần phải

tăng cường quản lý, giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên chấp hành nghiêm kỷ luật

của Đảng, kỷ luật quan hệ quân - dân; đảm bảo thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở,

nâng cao hiệu quả chất lượng tiếp xúc, đối thoại với nhân dân; đấu tranh phòng,

chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển

hóa” trong cơ quan, đơn vị; quan tâm tu dưỡng, rèn luyện bản lĩnh chính trị, ý thức,

trách nhiệm, tính tiên phong, gương mẫu của người quân nhân cách mạng cho cán

bộ, đảng viên; nêu cao niềm tự hào; giữ vững và không ngừng phát huy phẩm chất

tốt đẹp “Bộ đội Lào Ít Xa La”. Qua đó góp phần giúp các cấp ủy, chính quyền địa

phương củng cố thêm niềm tin của nhân dân, huy động được sức mạnh tổng hợp

của nhân dân để thực hiện hiệu quả nhiệm vụ chính trị được giao.

138

4.2.4. Chủ động phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương,

các tổ chức chính trị - xã hội và các lực lượng liên quan nhằm phát huy sức

mạnh tổng hợp để các sư đoàn tiến hành tốt công tác dân vận trên địa bàn

đóng quân

Phối hợp tuyên truyền cho các tầng lớp trong xã hội và nhân dân nhận thức

đúng đắn quan điểm của Đảng về CTDV trong tình hình mới; các nghị quyết,

chương trình phối hợp hoạt động giữa Quân đội với các tổ chức chính trị - xã hội;

tham gia củng cố thực lực chính trị, nâng cao hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành

của cấp ủy, chính quyền, hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương;

bồi dưỡng, đào tạo, nguồn cán bộ, đảng viên, lượng nòng cốt, cốt cán cho cơ sở;

tích cực tham gia các chương trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa đói giảm

nghèo, xây dựng cơ sở hạ tầng, thực hiện chính sách xã hội, ổn định và nâng cao

đời sống nhân dân, dân trí của nhân dân, gắn với nhiệm vụ chiến đấu, sẵn sàng

chiến đấu, huấn luyện, diễn tập, nhiệm vụ lao động và hoạt động khác của đơn vị.

Để thực hiện tốt các nội dung trên trên cần tập trung thực hiện một số vấn đề sau:

Một là, chủ động phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương, các

tổ chức chính trị - xã hội và các lực lượng liên quan nhằm phát huy sức mạnh tổng

hợp để tham gia xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh.

Xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh là một nội dung chủ yếu

nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp trong tiến hành CTDV. là một nhiệm vụ rất quan

trọng, đòi hỏi phải có sự tham gia phối hợp của nhiều lực lượng như: chính quyền

địa phương, Mặt trận Lào xây dựng đất nước, các đoàn thể chính trị xã hội, đơn vị

bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, các tổ, đội công tác, các đoàn kinh tế - quốc

phòng trực thuộc Bộ, các lực lượng công an nhân dân, lực lượng du kích, dân quân

tự vệ địa phương. Mục đích, để nâng cao năng lực hoạt động tiến hành lãnh đạo, chỉ

đạo và quản lý Nhà nước của các tổ chức trong hệ thống chính trị ở địa phương, bồi

dưỡng, đào tạo nguồn cán bộ, đảng viên, lực lượng nòng cốt cho cơ sở. Tích cực

tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng, các chương trình phát triển kinh tế, văn hóa- xã

hội, giúp đỡ nhân dân xóa đói giảm nghèo, thực hiện chính sách xã hội, ổn định đời

sống, trình độ dân trí, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng trọng điểm chiến lược của

Đảng; góp phần củng cố, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân

139

dân và khu vực phòng thủ vững chắc. Tích cực tham gia xây dựng và củng cố kiện

toàn hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, toàn diện, nhất là cấp ủy, chính quyền

địa phương, Mặt trận Lào xây dựng đất nước, Hội cứu chiến binh, Đoàn thanh niên,

Hội phụ nữ, Đơn vị hòa giải gắn với giáo dục, bồi dưỡng về luật pháp trong thời

gian ngắn hạn để làm cho các tổ chức đó hiểu biết sâu sắc về luật pháp; thường

xuyên hoạt động kiểm tra, giám sát hệ thống chính trị ở cơ sở được cập nhật trước

đó nếu thấy rằng cơ quan nào, bộ phận nào có hạn chế và khuyết điểm khẩn trương

kịp thời giải quyết, đảm bảo hệ thống chính trị ở cơ sở chặt chẽ, vững mạnh.

Những quan điểm cơ bản về củng cố và xây dựng cơ sở chính trị địa phương

trong thời gian tới. Trước hết việc củng cố và xây dựng cơ sở chính trị địa phương

trong giai đoạn hiện nay phải có tính cách tổng hợp và tiến hành có hệ thống toàn

bộ, sâu sắc, bao gồm: việc củng cố hệ thống tổ chức, vai trò, nội dung và hình thức

hoạt động của các tổ chức cho chặt chẽ, vững mạnh và có chất lượng mới; xây dựng

và phát huy các tổ chức đảng, tổ chức quần chúng hoặc tổ chính chính trị - xã hội,

kể cả doanh nghiệp tư nhân chưa phát triển đến nơi trong thời gian qua; đồng thời

còn bao gồm tăng cường hoạt động của các tổ chức Đảng, Nhà nước, đoàn thể quần

chúng các cấp trong giáo dục, nâng cao tính ý thức tự giác và quyền làm chủ của

giai cấp công nhân, học sinh - sinh viên. Việc xây dựng cơ sở chính trị ở địa

phương phải tập trung nâng cao khả năng, kiến thức trong sự quản lý trật tự an toàn

trong xã hội; lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và khuyến khích nghề nghiệp cũng như tổ

chức chương trình mang tính lợi ích công cộng trong cộng đồng, phối hợp với tổ

chức cấp ủy, chính quyền địa phương và lực lượng có liên quan để ngăn chặn và

giải quyết xung đột và tạo điều kiện thuận lợi tổ chức thực hiện các chương trình

phát triển khu vực địa phương của mình gắn với giáo dục, quán triệt cho nhân dân

có tính tự giác thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân, phát triển bản thân và góp

phần phát triển quê hương của mình. Xây dựng cơ sở chính trị ở địa phương là một

nhiệm vụ chiến lược của Đảng, vừa là trách nhiệm trực tiếp của các sư đoàn và cấp

ủy, chính quyền địa phương và các lực lượng có liên quan, dưới sự lãnh đạo cấp ủy,

cấp trên lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, theo dõi và đánh giá. Cán bộ, đảng viên của các

sư đoàn đã sinh hoạt trong tổ chức chính trị ở cấp cơ sở nào phải chủ động lãnh đạo,

chỉ đạo củng cố tổ chức cơ sở chính trị ở chỗ đó, coi việc đó là trách nhiệm và biểu

140

hiện đến ý thức tổ chức cũng như chỉ ra đến khả năng thực tế của cán bộ, đảng viên,

song cũng phải có sự quan tâm, quản lý với tổ chức cơ sở chính trị ở chỗ đó.

Phương hướng, nhiệm vụ xây dựng cơ sở chính trị ở địa phương trong thời

gian tới. Phương hướng chung cũng như đối tượng trong xây dựng cơ sở chính trị ở

địa phương để làm cho tổ chức, hoạt động của cơ sở cấp ủy, chính quyền địa

phương, các tổ chức chính trị xã hội đã được củng cố về tổ chức vững mạnh, có khả

năng hoạt động thực hiện theo vai trò, chức trách, nhiệm vụ của mình có hiệu quả,

gắn với tiếp tục tổ chức thực hiện theo 4 nhiệm vụ, 4 mục tiêu, bằng tập trung củng

cố và xây dựng một số nội dung như: Thức nhất là, xây dựng cơ sở đảng theo tiêu

chuẩn đảng bộ trong sạch, vững mạnh, toàn diện, phát huy dân chủ trong nội bộ

mạnh mẽ, tăng cường đoàn kết và thực hiện nghiêm kỷ luật của Đảng; coi trọng

kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nguyên tắc lãnh đạo của Đảng, đảm bảo đứng

đầu về gương mẫu và tính hiệu quả trong hoạt động thực tiễn của cán bộ, đảng viên

là một số vấn đề quan trọng hàng đầu của việc xây dựng, củng cố tổ chức đảng. Thứ

hai là, xây dựng và củng cố tổ chức bộ máy chính quyền địa phương thích hợp với

khu vực sư đoàn đặc trách và tình hình thực tiễn trong sự quản lý về mọi mặt và phù

hợp với khả năng của nhân sự của từng địa phương; đảm bảo ổn định an ninh chính

trị, trật tự an toàn xã hội, sự quản lý hoạt động nghề nghiệp cũng như sự hoạt động

văn hóa - xã hội trong nội bộ đại phương phù hợp với pháp luật của quốc gia. Thứ

ba là, củng cố Mặt trận Lào xây dựng đất nước, các tổ chức quần chúng thành trung

tâm đoàn kết, tạo điều kiện thực tế thông qua mỗi tổ chức quần chúng để làm cho

các tầng lớp nhân dân, mọi lứa tuổi góp phần tham gia các công việc dưới sự lãnh

đạo và phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị

- xã hội và các lực lượng liên quan trên địa bàn. Thứ tư là, củng cố hệ thống chính

trị ở các cấp phải gắn với việc xây dựng, tổ chức lãnh đạo phong trào sản xuất, dịch

vụ, xây dựng gia đình tiêu biểu phát triển; bảo tồn và thúc đẩy phát triển văn hóa -

xã hội, đảm bảo cuộc sống và tài sản của người dân; ngăn chặn và kịp thời giải

quyết vấn đề tội phạm ma túy, quản lý lao động nhập cư phù hợp với pháp luật của

quốc gia… Thứ năm là, các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở phải chủ động

làm nhiệm vụ giáo dục, quán triệt cho nhân dân có ý thức tự giác phòng chống

những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch và bọn phản động, đồng

141

thời lãnh đạo quần chúng đấu tranh ngăn chặn và đánh bại những vấn đề tiêu cực

trong xã hội tại khu vực đặc trách của các sư đoàn.

Ngoài ra, cần phải tập trung xây dựng và củng cố cơ sở chính trị của lực

lượng QP, AN nói chung, các sư đoàn thuộc QĐND Lào nói riêng, gắn với giáo dục

truyền thống vẻ vang của Đảng và lực lượng vũ trang nhân dân, tăng cường kỷ luật,

đảm bảo thực hiện xây dựng đơn vị vững mạnh, từng bước tiến lên hiện đại; phòng,

chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn

biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên của các sư đoàn hiện nay. Tiến hành

công tác xây dựng đảng - cán bộ và tổ chức quần chúng gắn với phong trào xây

dựng đơn vị trong sạch, vững mạnh, toàn diện; thường xuyên phát huy vai trò lãnh

đạo, chỉ đạo với phong trào thi đua thực hiện đường lối QP, AN toàn dân toàn diện;

đảm bảo công tác hậu cần và cải thiện đời sống của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ của

các sư đoàn.

Hai là, giúp đỡ nhân dân phát triển sản xuất để thoát khói nghèo, phòng

chống, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa.

Sự phát triển đất nước tiến bộ mạnh mẽ, nhân dân ấm nó, hành phúc là một

tất yếu khách quan, một lý tưởng và nguyện vọng cao quý của Đảng, Nhà nước,

Quân đội và toàn dân ta. Vì vậy, toàn Đảng - Nhà nước, toàn quân và toàn dân Lào

phải chung sức tham gia phát triển đất nước ngày càng giàu đẹp, văn minh, hiện đại,

nhân dân được cải thiện đời sống vật chất, tinh thần tốt hơn, nông thôn đã có bước

thay đổi mạnh mẽ. Làm tốt như vậy sẽ đảm bảo cho nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa bền vững và sẽ nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng chúng ta trên các diễn

đàn quốc tế.

Do vậy, chúng ta phải tuân thủ chủ trương, đường lối của Đảng và coi trọng

truyền thống của nhân dân là vấn đề chủ yếu, làm hết sức vì lợi ích và hành phúc

của nhân dân các dân tộc, cần giữ vững phát triển gắn với công tác dân vận, tạo

thành một chiến trường hàng đầu mà tổ chức Trung ương và địa phương cũng như

cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân dân các dân tộc phải được tham gia. Đây là một

nội dung chủ yếu để các sư đoàn thuộc QĐND Lào cần phải tích cực tuyên truyền,

vận động nhân dân tham gia sản xuất thành phong trào rộng khắp theo kế hoạch,

chương trình của từng địa phương đã quý định. Lãnh đạo chính quyền địa phương

142

và nhân dân chuẩn bị kịp thời sản xuất đúng theo mùa, nhất là rồng lúa, trồng cây

ăn quả, trồng cây công nghiệp... quan tâm đến vấn đề phân bổ diện tích, giao đất sản

xuất nông nghiệp - công nghiệp cho nhân dân theo điều kiện, tiềm lực và khả năng

của mỗi gia đình, nhất là vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Tiếp tục vận động

nhân dân chăn nuôi các con vật, cùng theo dõi dịch tả đang lan rộng, để phòng

chống kịp thời; tiếp tục ngăn chặn và giải quyết vấn đề phá rừng trái phép pháp luật,

diệt trừ canh tác nương rẫy, săn bắn hoang dã, thu hồi đất bất hợp pháp. Chủ động

lãnh đạo, chỉ đạo tập trung lực lượng, phương tiện của các sư đoàn để sẵn sàng cứu

hộ, cứu nạn giúp người dân sơ tán khỏi vùng ngập lụt và giúp đỡ nhân dân với sự

kiên nhẫn và chăm chỉ khi có trưởng hợp lũ lụt và thiên tai xảy ra. Hành động theo

dõi tình hình và theo dõi thời tiết mỗi mùa, Cũng với vận động toàn xã hội giúp đỡ,

hỗ trợ vật chất và tinh thần, nhất là: gạo, thực phẩm khô, nước uống, quần áo, thuốc

chữa bệnh, đồ gia dụng... để cung cấp cứu trợ cho các nạn nhân.

Ba là, tăng cường sự chỉ đạo, hướng dẫn của các cơ quan chức năng, phát

huy sức mạnh tổng hợp, làm tốt hơn nữa công tác dân vận của các sư đoàn thuộc

Quân đội nhân dân Lào.

Ban dân vận, trực thuộc phòng chính trị của các sư đoàn có vai trò rất quan

trọng, đảm bảo CTDV cho các sư đoàn thực hiện đúng theo chỉ thị, nghị quyết của

Đảng, và là cơ quan tham mưu trực tiếp trong sự chỉ đạo, hướng dẫn các đơn vị, tổ,

đội công tác và cán bộ chuyên trách tiến hành CTDV. Vì vậy, để nâng cao chất

lượng hiệu quả CTDV của các sư đoàn cần phải tăng cường sự chỉ đạo, hướng dẫn

của cơ quan chức năng, nhất là ban dân vận phòng chính trị của các sư đoàn trong

công tác vận động tuyên truyền nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của

Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; củng cố niềm tin của nhân dân đới với

Đảng, đới với chế độ xã hội chủ nghĩa, góp phần đấu tranh làm thất bại âm mưu,

hoạt động “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, giữ vững ổn định chính trị

của quốc gia. Tích cực tham gia xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh, toàn diện,

trước hết vững mạnh về mạnh về mặt chính trị, xây dựng nền tảng QP, AN toàn

dân, thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc, phát huy tiềm năng đại đoàn kết toàn

dân tộc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Tham gia hiệu quả cuộc vận động cách mạng, các chương trình phát triển kinh tế,

143

VH-XH, giúp nhân dân xóa đói, giảm nghèo; phòng chống, khắc phục hậu quả

thiên tai, thảm họa, cứu hộ, cứu nạn, thực hiện chính sách xã hội, góp phần củng cố

và cải thiện cơ sở vật chất và tinh thần cho nhân dân, nhất là ở vùng sâu vùng xa,

vùng trọng điểm chiến lược của Đảng. Mặt khác, trong chỉ đạo, hướng dẫn các sư

đoàn tiến hành CTDV cần tập trung vào việc giúp các cơ quan, đơn vị củng cố kiện

toàn tổ chức bộ máy, biên chế cán bộ dân vận, tăng cường công tác đào tạo, bồi

dưỡng, mở các khóa tập huấn nghiệp vụ CTDV cho đội ngũ cán bộ dân vận các

cấp. Chủ động phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương và lực lượng có liên

quan về xây dựng chương trình, kế hoạch hoạt động tiến hành CTDV ở địa phương;

thường xuyên kiểm tra, theo dõi nắm chắc tình hình nhân dân và địa bàn để nghiên

cứu sơ kết, tổng kết kế hoạch hàng tuần, tháng, quý và hàng năm của đơn vị. Đẩy

mạnh các đơn vị chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước, thực hiện

hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết, quyết định của Bộ Quốc phòng đặt ra. Tổ chức chế

độ báo cáo hàng tuần của cấp sư đoàn và các đơn vị trực thuộc, tổng kết phổ biến

kinh nghiệm CTDV của các cơ quan, đơn vị, trong đó chú ý các bộ phận thường đi

làm nhiệm vụ ở vùng sâu, vùng xa, vùng trọng điểm chiến lược của Đảng; xây dựng

kế hoạch lịch hoạt động CTDV hàng tuần, tháng cho lãnh đạo sư đoàn trường

(Chính ủy) đi xuống trực tiếp nắm chắc hình hình hoạt động tiến hành CTDV của

các cơ qua, đơn vị, tổ, đội công tác chuyên môn, để kịp thời phát hiện và giúp cơ

quan, đơn vị gặp nhiều khó khăn trong CTDV và tìm ra các giải pháp giúp cơ quan,

đơn vị thuộc quyền trực thuộc quyền tiến hành CTDV một cách thiết thực nhất.

Ngoài ra, phải thực nhiệm vụ quản lý thu thập số liệu, thống kê tổng số, quản lý vũ

khí, phương tiện được trang bị; xây dựng kế hoạch và đảm bảo ngân sách phục vụ

cho CTDV tuân thủ theo nguyên tắc tài chính của sư đoàn quý định; giáo dục, rèn

luyện chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, chiến sĩ cố gắng, phấn đấu làm

hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ của trên được giao.

4.2.5. Phải biết thích ứng và tận dụng cơ hội của cuộc cách mạng công

nghiệp lần thứ tư trong công tác dân vận của các sư đoàn thuộc Quân đội

nhân dân Lào

Trước tác động cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, yêu cầu đối với

CTDV của QĐND Lào cần tập trung triển khai đồng bộ cả về chính trị, tư tưởng,

144

tổ chức gắn với tăng cường đầu tư hiện đại hóa trang thiết bị các phương tiện, vũ

khí, kỹ thuật, nhằm thực hiện tốt cho mục tiêu, quan điểm của Đảng đề ra. Trong

thời gian tới, các sư đoàn cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp trọng

tâm sau:

Một là, vận dụng cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư tổ chức hiệu quả

trong hoạt động thực hiện công tác dân vận của các sư đoàn thuộc Quân đội nhân

dân Lào

Hiện nay, đối với lĩnh vực quân sự QĐND Lào, cuộc cách mạng công

nghiệp lần thứ tư đã có những tác động to lớn, đặc biệt là hiện đại hóa phương tiện

kỹ thuật phục vụ cho Quân đội; tạo điều kiện thuận lợi cho hệ thống thông tin liên

lạc quân sự; đồng thời tạo ra khả năng nâng cao hiệu quả hoạt động của các lực

lượng trong quân đội; tạo lợi thế để đột phá nhanh ứng dụng khoa học công nghệ

quân sự mới; sản xuất được các loại vũ khí trang bị hiện đại đáp ứng yêu cầu sức

mạnh chiến đấu của quân đội, góp phần xây dựng QĐND Lào ngày càng vững

mạnh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Nhìn lại những năm vừa qua với nhiều diễn biến không thể dự đoán được,

đặc biệt là do đại dịch Covid-19 đã tác động sâu sắc đến mọi mặt đời sống xã hội,

trong đó có QĐND Lào. Các sư đoàn QĐND Lào thực hiện nhiệm vụ gặp những

thuận lợi, khó khăn đan xen, nhất là việc hoạt động tổ chức thực hiện CTDV.

Nhưng với tinh thần đổi mới, sáng tạo của cấp ủy, chỉ huy các sư đoàn đã chủ động

làm tốt công tác tham mưu, chỉ đạo, hướng dẫn các cơ quan, đơn vị trực thuộc, vận

dụng hiệu quả cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào trong tổ chức thực hiện

các hoạt động CTDV phù hợp với tình hình thực tiễn ở địa phương và đạt nhiều kết

quả thiết thực. Vì vậy, việc vận dụng cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào

trong hoạt động tổ chức thực hiện CTDV là yêu cầu cần thiết hơn bao giờ hết trong

hệ thống công nghệ và bùng nổ thông tin như hiện nay. Vì thế, cán bộ chỉ huy, của

các sư đoàn cần tăng cường học tập, rèn luyện, tìm tòi, nghiên cứu khoa học công

nghệ thông tin, biết sử dụng thành thạo tin học, công nghệ thông tin hiện đại.

Hai là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho mọi cán bộ, đảng viên, chiến sĩ

của các sư đoàn thuộc Quân đội nhân dân Lào về mục tiêu, yêu cầu công tác dân

vận trước tác động nhiều chiều của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

145

Mục tiêu, yêu cầu CTDV của Đảng trong tình hình mới nhằm củng cố vững

chắc lòng tin của nhân dân đối với Đảng; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc

và mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân; tập hợp, vận động nhân dân thực

hiện tốt các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy

sức mạnh to lớn của nhân dân, tạo phong trào cách mạng rộng lớn xây dựng và bảo

vệ Tổ quốc, thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.

Để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, trong thời gian tới, các sư đoàn

cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo theo định hướng xây dựng đơn vị thông minh, tiếp

cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; trong đó, các sư đoàn cần phát huy tối

đa lợi thế của mạng internet, tăng cường cung cấp, cập nhật thường xuyên các thông

tin, quan điểm đúng đắn của Đảng, Nhà nước trên cổng thông tin điện tử nhằm nâng

cao nhận thức của cấp ủy, chỉ huy và mọi cán bộ, chiến sĩ. Bởi vì, cuộc cách mạng

công nghiệp lần thứ tư đã có những tác động to lớn mạnh mẽ tới mọi mặt đời sống,

kinh tế, xã hội, QP - AN; tất cả các cấp độ toàn cầu, khu vực và các quốc gia.

Đồng thời, kiện toàn, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng kỹ

năng, kiến thức về CTDV; xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ cao về nghiệp vụ

chuyên môn CTDV, tạo sự hiểu biết và nhận thức đúng về bản chất, đặc trưng, các

cơ hội và thách thức của cách mạng công nghiệp lần thứ tư để có cách tiếp cận, giải

pháp phù hợp, hiệu quả. Vì vậy, nghiên cứu giải pháp này, các cấp ủy, chỉ huy,

cùng toàn thể cán bộ, chiến sĩ của các sư đoàn cần chủ động tìm hiểu về các yêu

cầu, nhiệm vụ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng như tích cực học

tập, rèn luyện kỹ năng để nâng cao năng lực bản thân đáp ứng các yêu cầu đó để

không bị lạc hậu và có thể trở thành một cán bộ hiện đại.

Ba là, chủ động và tích cực tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và các

phương pháp hiện đại vào trong hoạt động tiến hành CTDV của các sư đoàn thuộc

Quân đội nhân dân Lào.

Trước những thay đổi, diễn biến mới của tình hình khu vực và thế giới hiện

nay, nhất là sự phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cán bộ dân

vận của các sư đoàn cần có cách thức tuyên truyền phù hợp; cần giữ có quan điểm,

lập trường tư tưởng và bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng; không ngừng học

tập, rèn luyện nâng cao trình độ lý luận chính trị, giỏi về chuyên môn; thực sự là

146

phải chủ động và tích cực tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và các phương

pháp hiện đại vào trong hoạt động tiến hành CTDV. Trong đó, các sư đoàn cần có

nguồn thông tin chính thống của Ðảng, Nhà nước được truyền tải đến nhân dân

thông qua các kênh báo, đài, ti vi và mạng internet; đặc biệt là đồng bào dân tộc

thiểu số ở vùng sâu, vùng xa và ở nơi cần được tiếp nhận thông tin chính thống nhất

lại đang theo dõi, tiếp nhận thông tin từ các kênh mạng xã hội nhiều hơn. Ðây là

một trong những vấn đề các sư đoàn cần quan tâm đến hoạt động CTDV ở các địa

bàn vùng sâu, vùng xa hiện nay, nhằm nâng cao hiệu quả tuyên truyền, phổ biến

chủ trương, đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến nhân dân

các dân tộc trên địa bàn. Điều đó, các sư đoàn phải trang bị hệ thống loa truyền

thanh; thực hiện phát sóng mỗi ngày khi đó sẽ giúp nâng cao hiệu quả CTDV.

Thực hiện theo Văn kiện của Đại hội lần thứ XI của Đảng NDCM Lào đã

khẳng định về về phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng

công nghiệp lần thứ tư, đó là: “Phát triển nguồn nhân lực phải có trọng tâm, khuyến

khích giáo dục đào tạo nghề và chuyên gia hóa với hiện đại hóa trong thời đại cuộc

cách mạng công nghiệp lần thứ tư” 91, tr.48. Đồng thời khẳng định: “Cần phát

triển nguồn nhân lực có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của sự phát triển, có khả

năng nghiên cứu và vận dụng khoa học - kỹ thuật nhằm nâng cao hiệu quả; có thể

làm tăng thêm các giá trị sản xuất và dịch vụ” 91, tr.100.

4.2.6. Tăng cường kiểm tra, tổng kết rút kinh nghiệm, xây dựng mô

hình hay, khen thưởng, động viên tấm gương làm dân vận giỏi của các sư đoàn

thuộc Quân đội nhân dân Lào

Căn cứ Quy định số 4603/BQP, ngày 28/10/2019 của Bộ Quốc phòng về “Sơ

kết, tổng kết công tác dân vận - phát triển nông thôn trong toàn quân theo hướng 3

xây dựng trong những 5 năm qua (2016-2020) và phương hướng kế hoạch trong

những 5 năm tới (2021-2025)”. Chỉ thị số 696/TCCT, ngày 17/02/2020 của Tổng

Cục Chính trị về “Tổng kết công tác dân vận trong toàn quân theo hướng 3 xây

dựng lần thứ V (từ 2016-2020) và phương hướng trong những năm 5 tới (2021-

2025)”. Cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy, cơ quan chính trị của các sư

đoàn thuộc Quân đội nhân dân Lào căn cứ vào tình hình cụ thể, chỉ đạo tổ chức

công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm công tác dân vận. Thường xuyên tổ chức

147

thể theo định kỳ 6 tháng, 1 năm, 5 năm sau một đợt dân vận cụ thể. Đòi hỏi phải

được chuẩn bị chu đáo, đánh giá đúng thực trạng tình hình của đơn vị và địa

phương trong tiến hành công tác dân vận, chỉ rõ những nguyên của khuyết điểm,

hạn chế và có thể rút ra được những kinh nghiệm thiết thực có giá trị cho việc tiến

hành công tác dân vận trong thời gian tới. Tránh hiện tượng tổ chức sơ kết, tổng kết

công tác dân vận là một cách hình thức, không thiết thực, không chú ý đến mục

tiêu, đối tượng tiến hành. Vì vậy, để triển khai thực hiện có hiệu quả yêu cầu, nội

dung, biện pháp đối với việc sơ tổng kết, rút kinh nghiệm về hoạt động công tác dân

vận như sau:

Một là, yêu cầu cần đạt được trong sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm về công

tác dân vận.

Nắm chắc tình hình của địa phương và nhân dân, đánh giá sát thực trạng

công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác dân vận; chuẩn bị báo cáo và

ý kiến thảo luận bảo đảm chất lượng. Nội dung báo cáo phải thực chất, có ý nghĩa

sâu sắc, tránh hiện tượng tổ chức hội nghị một cách hình thức, không thiết thực,

không chú ý đến việc sơ kết, tổng kết công tác dân vận; những kinh nghiệm rút ra

phải có tính thuyết phục cao, nêu rõ những mặt thành công và một số vấn đề chưa

đạt được. Các nội dung thảo luận phải đề cao tính phấn đấu, tính tư tưởng, có trách

nhiệm cao. Việc tổ chức hội nghị rút kinh nghiệm ở các cơ quan, đơn vị trực thuộc

sư đoàn phải xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể, xác định rõ mục tiêu và các

mốc thời gian tiến hành, báo cáo cơ quan cấp trên để theo dõi, chỉ đạo. Dựa trên

thực tế tình hình của địa phương, các cơ quan, đơn vị tổ chức hội nghị rút kinh

nghiệm cho phù hợp, bảo đảm đúng tiến độ, đạt chất lượng, hiệu quả thiết thực.

Chính ủy căn cứ vào tình hình cụ thể, chỉ đạo tổ chức các hội nghị sơ, tổng kết về

công tác dân vận, chủ trì hội nghị các cấp trực thuộc nên nêu tóm tắt những nội

dung chính, mang tính khoa học, đưa ra những vấn đề nổi cộm nhất để báo cáo

trong hội nghị. Đồng thời, đánh giá đúng thực chất, khẳng định rõ những kết quả đã

đạt được trong thực hiện công tác dân vận; cần phải khắc phục những hạn chế, yếu

kém còn tồn tại và nguyên nhân, rút ra những bài học kinh nghiệm và các biện pháp

giải quyết vấn đề khuyết điểm, nhược điểm và đề xuất phương hứng hoạt động

trong thời gian tới.

148

Hai là, nội dung tổ chức thực hiện công tác sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm

về công tác dân vận.

Phải dự báo những nhân tố thuận lợi, khó khăn cả mặt chủ quan và khách

quan đến các hoạt động công tác dân vận; những khó khăn theo đặc thù nhiệm vụ

của các tập thể, cá nhân; xác định đúng phương hướng chủ yếu để tăng cường công

tác dân vận. Lãnh đạo, chỉ đạo các ban dân vận, các tổ, đội công tác, cán bộ chuyên

trách dân vận tổng hợp tình hình của nhân dân và địa phương, chuẩn bị số liệu phân

tích đánh giá, viết nội dung báo cáo, phổ biến các kế hoạch, hướng dẫn nội chương

trình bị phát biểu, quy định thời gian, địa điểm sơ kết, tổng kết; kịp thời biểu dương,

khen thưởng những tập thể, cá nhân có thành tích tốt, nhân rộng mô hình điển hình

tiên tiến trong tiến hành công tác dân vận, đồng thời ngăn chặn các hiện tượng vi

phạm kỷ luật quan hệ quân dân trong thực hiện nhiệm vụ công tác dân vận.

Ba là, phương thức tiến hành công tác sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm về

công tác dân vận.

Thường xuyên tổ chức sơ tổng kết, rút kinh nghiệm công tác dân vận sau

định kỳ hoặc một đợt hoạt động. Các cấp ủy, chỉ huy sư đoàn phải lãnh đạo, chỉ

đạo chặt chẽ từ trên xuống dưới, đảm bảo đúng nguyên tắc và đạt được các yêu

cầu: chính xác, dân chủ, kịp thời, công khai, minh bạch xây dựng được tinh thần

đoàn kết phấn khởi, tránh chủ quan, đơn giản, tranh công, đổ lỗi. Ngoài ra, phải đề

cao tinh thần tự phê bình và phê bình, trung thực, thẳng thắn và khách quan, chỉ rõ

ưu, khuyết điểm của tập thể và từng cá nhân, tìm ra nguyên nhân hạn chế, yếu

kém và rút ra được những bài học kinh nghiệm về xây dựng chương trình, kế

hoạch, nội dung, chỉ tiêu, yêu cầu và phương pháp cách thức tổ chức hoạt động

công tác dân vận. Việc sơ kết, tổng kết phải khám phá được những bài học quý giá

và lý tưởng sáng tạo, chọn được các tập thể và cá nhân tiên tiến xuất sắc, tiêu biểu,

đồng thời tiên phong làm tốt công tác dân vận; cán bộ, đảng viên nêu gương lo

cho dân, phục vụ nhân dân. Vì vậy, nếu thực hiện tốt phương thức tiến hành sơ

kết, tổng kết rút kinh nghiệm về công tác dân vận sẽ góp phần làm nền tảng vững

chắc để các cơ quan, đơn vị tiếp tục thực hiện tốt nhiệm vụ dân vận trong thời gian

tới, tạo sự đồng thuận của nhân dân, phát huy dân chủ, củng cố vững chắc khối đại

149

đoàn kết toàn dân tộc, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

trong tình hình mới.

Bốn là, xây dựng mô hình hay trong thực hiện công tác dân vận.

Đây là một biện pháp nhân rộng điển hình trong tiến hành CTDV đối với các

tổ chức, đoàn thể, tiếp tục tăng cường và đổi mới CTDV của Đảng; củng cố khối

đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững

chắc Tổ quốc trong thời kỳ mới. Là một nội dung cơ bản nhất được cấp ủy, lãnh

đạo các sư đoàn thống nhất triển khai trong quá trình thực hiện CTDV, nhằm phát

huy hiệu quả mô hình “Đơn vị dân vận gương mẫu” của các sư đoàn sẽ ngày càng

phát triển sâu rộng, thêm nhiều việc làm tốt, góp phần tăng cường mối quan hệ máu

thịt giữa Đảng, Quân đội với Nhân dân, tô thắm truyền thống, phẩm chất của “Bộ

đội Lào Ít Xa La” trong lòng nhân dân. Từ những bài học lịch sử và thực tiễn của

cách mạng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Lực lượng của dân rất to.

Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì

việc gì cũng thành công” [43, tr.234]... Để thực hiện hiệu quả các mô hình “Đơn vị

dân vận gương mẫu” trên các lĩnh vực công tác trong thời gian tới, các sư đoàn cần

tiếp tục quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, đổi mới nội dung và nâng cao trách nhiệm nêu

gương của cán bộ, chiến sĩ, nhất là người đứng đầu phụ trách CTDV. Tăng cường

sự lãnh đạo của các tổ chức đảng, trách nhiệm của chỉ huy, vai trò chỉ đạo, hướng

dẫn của cơ quan chính trị các sư đoàn đối với CTDV. Đẩy mạnh phong trào thi đua

xây dựng “Đơn vị dân vận gương mẫu” ở các cơ quan, đơn vị; xây dựng, nhân rộng

các mô hình, điển hình “Đơn vị dân vận gương mẫu” trên các lĩnh vực công tác;

cùng với tham gia xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, nâng cao sức

mạnh chiến đấu, tăng cường mối quan hệ gắn bó máu thịt với nhân dân, củng cố

khối đại đoàn kết toàn dân, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Tập trung xây dựng và nhân rộng các mô hình, điển hình “Đơn vị dân vận

gương mẫu” có hiệu quả. Hướng mạnh tuyên truyền, vận động nhân dân và cán bộ,

chiến sĩ tham gia chương trình xây dựng nông thôn mới; thực hiện theo phương

châm “Ở đâu có bộ đội, ở đó có công tác dân vận” để tiếp tục bồi đắp truyền thống

“Bộ đội Lào Ít Xa La” trong tình hình mới; tích cực tham gia có hiệu quả các

150

chương trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội gắn với thực hiện tốt nhiệm vụ QP,

AN ở địa phương. Chủ động chắc tình hình, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an

toàn xã hội; phối hợp triển khai có hiệu quả kế hoạch thực hiện CTDV với các cấp

ủy, chính quyền địa phương; gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo

đức, phong cách Hồ Chí Minh, tư tưởng Cay Xỏn Phôm Vi Hản và các phong trào

thi đua yêu nước do cấp ủy, chính quyền đại phương phát động; tiếp tục đẩy mạnh

công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức, trách nhiệm, phong cách, thái độ phục

vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, chiến sĩ. Đây là những vấn đề quan trọng góp phần

củng cố, phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ

phát triển kinh tế - xã hội, QP, AN của Đảng trong thời kỳ mới.

Năm là, biểu dương khen thưởng, động viên tấm gương làm dân vận giỏi ở

các cơ quan, đơn vị.

Công tác biểu dương khen thưởng có vai trò quan trọng, những đóng góp to

lớn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, dân tộc và những thành tựu của các sư

đoàn QĐND Lào trong thời gian qua; ghi nhận đến việc biểu dương khen thưởng

những kết quả và thành tích CTDV của các sư đoàn đã đạt được. Cho nên các sư

đoàn cần phải coi trọng CTDV là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của các cấp ủy, tổ

chức đảng các cấp và tất cả cán bộ, chiến sĩ; vấn đề trọng tâm là các cấp ủy, lãnh

đạo các sư đoàn, cùng các cơ quan, đơn vị phải tiếp tục quán triệt sâu sắc chủ

trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tư tưởng Hồ Chí

Minh và tư tưởng Cay Xỏn Phôm Vi Hản về CTDV; trong đó, cần xác định đúng

việc thực hiện phong trào thi đua đơn vị dân vận gương mẫu là trách nhiệm của các

cấp ủy, tổ chức đảng các cấp và tất cả cán bộ, chiến sĩ; đồng thời, cấp ủy, lãnh đạo

của các sư đoàn chỉ đạo, hướng dẫn các cơ quan, ban, ngành làm tốt vai trò tham

mưu trong thực hiện CTDV. Vì vậy, công tác biểu dương khen thưởng phải được

hình thành từ các phong trào xây dựng “ Đơn vị dân vận gương mẫu ”, phong trào

thi đua yêu nước - yêu phát triển và các cuộc vận động lớn của Đảng, Nhà nước đặt

ra. Mặt khác, các sư đoàn cần quan tâm động viên tấm gương làm dân vận giỏi,

nhằm tạo sự lan tỏa mạnh mẽ ở các cơ quan, đơn vị trong thực hiện phong trào thi

đua xây dựng “ Đơn vị dân vận gương mẫu ” với những nội dung cụ thể, có trọng

151

tâm, trọng điểm gắn với xây dựng phong trào thi đua yêu nước - yêu phát triển. Hơn

nữa, mỗi cán bộ, đảng viên, chiến sĩ phải làm tốt nhiệm vụ chính trị của mình để

người dân đồng thuận, ủng hộ, có niềm tin đối với Đảng, Nhà nước và chế độ chính

trị của nước ta; điều quan trọng là phải lựa chọn những tấm gương điển hình, tiêu

biểu trong CTDV để tạo sự thống nhất, đoàn kết toàn dân tộc vào trong sự nghiệp

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.

Tiểu kết chương 4

Trong chương này, trên cơ sở dự đoán bối cảnh trong nước và quốc tế, tình

hình tổ chức và hoạt động của QĐND Lào trong những năm trước mắt đến năm

2030, tác giả luận án đã trình bày một số thuận lợi và khó khăn cho CTDV của các

sư đoàn.

Tác giả trình bày phương hướng của CTDV của các sư đoàn, trong đó nhấn

mạnh, một mặt phải bám sát nội dung, phương thức CTDV của Đảng, Nhà nước

Lào nói chung, song lưu ý cần phải bám sát hơn nữa những nhiệm vụ quân sự, quốc

phòng của các sư đoàn tại các địa bàn được giao phụ trách, nhằm mục tiêu vừa bảo

đảm cho các sư đoàn luôn sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù, vừa xây

dựng được thế trận quốc phòng nhân dân vững chắc, bảo đảm giữ vững độc lập, chủ

quyền, toàn vẹn lãnh thổ, môi trường hòa bình để phát triển đất nước theo định

hướng XHCN.

Tác giả nêu lên các giải pháp toàn diện, đồng bộ để tăng cường CTDV của

các sư đoàn. Trong đó chỉ rõ hơn hệ thống chủ thể của CTDV của các sư đoàn và

gợi ý cụ thể về việc tổ chức các đơn vị làm CTDV mang tính chính quy, chuyên

nghiệp và hiệu quả hơn, đó là các Đoàn công tác, Đội công tác, Tổ công tác thuộc

sư đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội. Đây là một đóng góp mới mang tính thực

tiễn của Luận án đối với vấn đề CTDV của sư đoàn thuộc QĐND Lào.

152

KẾT LUẬN

Qua các chương, các tiết của Luận án, tác giả nêu một số kết luận chính

như sau:

1. Công tác dân vận của các sư đoàn QĐND Lào là vấn đề mang tính đặc thù

của CHDCND Lào xuất phát từ đặc điểm nước nhỏ, dân số ít, hệ thống tổ chức

quân đội đơn giản hơn so với nhiều nước. Cụ thể là quân đội Lào không có cấp

quân khu, quân đoàn, quân chủng và sư đoàn là đơn vị quy mô nhất, chính quy,

hiện đại nhất của quân đội, vừa làm nhiệm vụ quân sự, vừa làm các nhiệm vụ quốc

phòng thuộc chức năng của quân khu. Từ đó phải khẳng định CTDV là cần thiết,

quan trọng với sư đoàn.

2. Mặc dù lý luận và tổng kết thực tiễn về CTDV của Đảng, Chính quyền,

các tổ chức CT-XH và quân đội nói chung ở Việt Nam, Trung Quốc, ở Lào khá

phong phú, song lý luận và tổng kết thực tiễn về CTDV của các sư đoàn QĐND

Lào rất ít (thậm chí có thể nói chưa có), vì vậy luận án về đề tài này có thể coi là

đầu tiên. Cũng vì vậy luận án còn khiếm khuyết, nhất là trong điều kiện khó khăn

của dịch bệnh COVID-19 không cho phép tác giả tiếp cận thực tiễn đầy đủ.

3. Trên cơ sở lý luận chung về CTDV của Đảng CS, thực tiễn CTDV của

QĐND Lào trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ và tay sai, cũng

như trong những năm hòa bình xây dựng đất nước vừa qua, tác giả đã cố gắng trình

bày một cách hệ thống lý luận về CTDV của sư đoàn QĐND Lào, từ định nghĩa

khái niệm đến đặc điểm, hệ thống chủ thể, đối tượng, nội dung, phương thức.

Điều tác giả muốn nhấn mạnh là phải thấy rõ đặc thù của CTDV của sư

đoàn QĐND so với CTDV của các tổ chức dân sự (Đảng, Chính quyền, Đoàn

thể CT-XH). Bên cạnh sự giống nhau, tính phổ biến trong nội dung, phương thức

của CTDV nói chung, có những nội dung, phương thức phù hợp với đơn vị quân

đội ở quy mô tổ chức cao nhất, chính quy nhất, hiện đại nhất của QĐND Lào.

Nếu nắm rõ điều này thì CTDV của các sư đoàn mới đúng mục tiêu và đạt hiệu

quả cao.

153

4. Tác giả đã cố gắng bám sát khuôn khổ lý luận đề đánh giá thực trạng

CTDV của các sư đoàn, đánh giá ưu điểm, khuyết điểm và hạn chế, chỉ ra nguyên

nhân và một số kinh nghiệm. Tác giả nhận thấy, từ nhận thức tư tưởng, tới thể chế

(tức quy định về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân lực) và tổ chức vận

động quần chúng của các sư đoàn đều có hai mặt ưu và khuyết, tích cực và hạn chế.

Nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến hạn chế của một số sư đoàn là chưa nắm

vững mục tiêu, nội dung, phương thức và phát huy ưu thế của đơn vị quân đội cấp

sư đoàn khi làm CTDV.

5. Căn cứ vào lý luận, tổng kết thực tiễn, dự đoán những thuận lợi, khó

khăn do bối cảnh khách quan và chủ quan của các sư đoàn, tác giả nêu phương

hướng, giải pháp tăng cường CTDV của các sư đoàn. Trong các giải pháp, tác giả

cố gắng nêu những gợi ý cụ thể, hy vọng sẽ là những đóng góp mới, thực tiễn cho

vấn đề này.

6. Luận án đã hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ đề ra. Tuy nhiên do điều kiện

nghiên cứu có khó khăn khách quan, do trình độ chủ quan của tác giả, nhất là về lý

luận và phương pháp điều tra thực tiễn còn hạn chế, nên luận án còn nhiều khiếm

khuyết, xin được thông cảm và ý kiến đóng góp của giáo sư, các nhà nghiên cứu.

154

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. PhongSaMay HounNaChamPa (2016),“Giáo dục, rèn luyện nhận thức, khả

năng cho cán bộ, chiến sĩ về công tác dân vận của Quân đội nhân dân Lào

trong thời kỳ mới”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, (54), tr.17-22.

2. PhongSaMay HounNaChamPa (2018), “Một số thực tế về công tác 3 xây

dựng của Quân đội nhân dân Lào”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, (60),

tr.41-43.

3. PhongSaMay HounNaChamPa (2018), “Một số phương hướng, nhiệm vụ và

giải pháp chủ yếu về công tác dân vận của lực lượng chủ lực và lực lượng đại

phương của Quân đội nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Quốc

phòng toàn dân, (52), tr.14-19.

4. PhongSaMay HounNaChamPa (2020), “Nâng cao chất lượng hiệu quả công

tác dân vận của Quân độ nhân dân Lào trong tình hình mới”, Tạp chí Quốc

phòng toàn dân, (69), tr.52-56.

5. PhongSaMay HounNaChamPa (2020), “Công tác dân vận của các sư đoàn

Quân đội nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Quốc phòng toàn

dân, (70).

6. Phongsamay Hounnachampa (2021), “Nâng cao hiệu quả công tác dân vận

của các sư đoàn thuộc Quân đội nhân dân Lào”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân,

(2), tr.114-116.

7. Phongsamay Hounnachampa (2021), “Công tác dân vận của các sư đoàn thuộc

Quân đội nhân dân Lào giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân,

(3), tr.110-116 (“Mass mobilization of devisions in Laos peopleʼs Army”,

Political - Theory Issu, (3), tr.152-160).

155

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

* TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT

1 Ban Dân vận Trung ương (2014), “Cẩm nang công tác dân vận”, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

2 Ban Dân vận Trung ương (2014), “Tập bài giảng về công tác dân vận”, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

3 Ban Dân vận Trung ương (MS 01 - 2010, Đề tài độc lập cấp Nhà nước) “Nâng

cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận của Đảng trong thời kỳ mới”, do

Hà Thị Khiết chủ nhiệm đề tài.

4 Bộ Chính trị (2010), Quyết định số 290-QĐ/TW ngày 25/02/2010 về việc Ban

hành Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị, Hà Nội

5 Lương Cường (2018), “Kết quả và kinh nghiệm trong thực hiện chương trình

phối hợp công tác giữa Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam với

Ban Dân vận Trung ương”, Tạp chí Dân vận, số 1.

6 Đồng Ngọc Châu (2011),“Công tác dân vận của các đơn vị quân đội ở vùng

đồng bào theo đạo trên địa bàn miền Đông Nam bộ giai đoạn hiện nay”, Luận

án tiến sĩ chính trị học, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng, Hà Nội.

7 Cục dân vận và tuyên truyền đặc biệt, Tổng cục chính trị (2005), “Tìm hiểu về

tôn giáo”, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

8 Trần Văn Dương (2016), “Phát huy vai trò đội ngũ cán bộ dân vận người dân

tộc thiểu số, các tôn giáo trên địa bàn trọng yếu về quốc phòng - an ninh”, Tạp

chí Dân vận số 5.

9 Trần Văn Dương (2016), “Tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác dân vận của

Quân đội ở vùng đồng bào tôn giáo”, Tạp chí Dân vận, số 9.

10 Nguyễn Phấn Đấu (2019), “Công tác dân vận trong đồng bào dân tộc Khmer

Tây Nam bộ hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh”. Luận án tiến sĩ Hồ Chí

Minh học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

11 Lê Văn Đính (2009),“Giải pháp tăng cường đoàn kết, tập hợp thanh niên các

dân tộc ở Tây Nguyên hiện nay”, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.

156

12 Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

IX, Nxb Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

13 Đảng Cộng sản Trung Quốc (2010), “Đổi mới công tác xây dựng Đảng ở

nông thôn Trung Quốc”, do tác giả Chu Chí Hoa làm chủ biên.

14 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,

Nxb Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2011.

15 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,

Nxb Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2016.

16 Đảng Cộng sản Trung Quốc,“Lấy dân làm gốc, cầm quyền vì dân là sự thể

hiện tập trung tính chất và tôn chỉ của Đảng Cộng sản Trung Quốc”, do tác

giả Lý Tiệp làm chủ biên, Nxb chính trị quốc gia - thật sự, Hà Nội, 2012.

17 Đảng Cộng sản Trung Quốc “Quá trình phát triển kinh tế - xã hội nông thôn ở

Trung Quốc (1978-2008)”, do tác giả Nguyễn Xuân Cường, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội, 2010.

18 Đại từ điển tiếng Việt (1998), NXb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

19 Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Xây dựng Đảng (2015), “Tài

liệu môn học công tác dân vận”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

20 Đào Đoan Hùng (2019), “Xây dựng và phát huy vai trò ảnh hưởng của người

có uy tín trong công tác dân vận ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số”, Tạp chí

Dân vận số 5.

21 Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2012 - 2013-M12-

28-2013), “Xây dựng lực lượng nòng cốt làm công tác dân vận trong cộng

đồng dân tộc thiểu số trên địa bàn Tây Nguyên”, do Nguyễn Thế Tư chủ

nhiệm đề tài.

22 Hội đồng lý luận Trung ương, “Làm tốt công tác quần chúng trong tình hình

mới - kinh nghiệm Trung Quốc, kinh nghiệm Việt Nam”, Nxb chính trị quốc

gia - thật sự, Hà Nội, 2012.

23 Hội thảo khoa học quốc tế liên minh chiến đấu Lào - Việt Nam Trên chiến

trường cánh Đồng Chum Xiêng Khoảng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.432.

24 Phạm Hảo (2009), “Một số giải pháp góp phần ổn định và phát triển Tây

Nguyên hiện nay”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

157

25 Trần Thị Vân Hoa (2019) “Cách mạng công nghiệp 4.0 - Vấn đề đặt ra cho

phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của Việt Nam”, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

26 Điểu K'Ré (2019), “Những chuyển biến tích cực, đồng bộ của công tác dân

vận năm 2018”, Tạp chí Dân vận, số 1+2.

27 V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

28 V.I. Lênin (1980), Toàn tập, tập 13, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

29 V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

30 V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

31 V.I. Lênin (1979), Toàn tập, tập 24, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

32 Ngô Xuân Lịch (2019), “Quân đội nhân dân Việt Nam tăng cường công tác

dân vận, góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, đáp ứng

yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, Tạp chí Dân vận,

số 12.

33 Vũ Ngọc Lân (2016), “Vài suy nghĩ về dân vận bằng nêu gương trong giai

đoạn hiện nay”, Tạp chí Dân vận, số 9.

34 Lý luận và kinh nghiệm của Đảng cộng sản Việt Nam về công tác dân vận,

(2014), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

35 C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

36 C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 22, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

37 Trương Thị Mai (2018), “Nâng cao hiệu quả công tác dân vận, góp phần củng

cố vững chắc niềm tin của Nhân dân với Đảng”, Tạp chí Dân vận, số 1.

38 Trương Thị Mai (2019), “Xây dựng mô hình "Dân vận khéo" gắn với lợi ích

người dân - Bài học từ thực tiễn”, Tạp chí Dân vận, số 3.

39 Hồ Chí Minh (1949), “Dân vận”, Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

40 Hồ Chí Minh (1949-1950), Toàn tập, Tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

41 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

42 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

158

43 Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

44 Trần Quang Phương (2020), “Quân đội nâng cao hiệu quả thực hiện Quy chế

công tác dân vận của hệ thống chính trị trong tình hình mới”, Tạp chí Dân

vận, số 8.

45 Nguyễn Xuân Phúc (2019), “Công tác dân vận đã góp phần quan trọng thực

hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”, Tạp chí

Dân vận, số 1+2.

46 Quân đội nhân dân Việt Nam, Tổng cục chính trị (1996), Đổi mới công tác

dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam trong tình hình mới”, Nxb Quân đội

nhân dân, Hà Nội.

47 Quân đội nhân dân Việt Nam, Tổng cục chính trị (1999), “Tăng cường công

tác quần chúng của Đảng trong quân đội thời kỳ mới”, Nxb Quân đội nhân

dân, Hà Nội.

48 Quân đội nhân dân Việt Nam, Tổng cục Chính trị (2006), “Công tác dân vận

của Quân đội trong tham gia giải quyết các điểm nóng ở địa phương”, Nxb

Quân đội nhân dân, Hà Nội.

49 Quân đội nhân dân Việt Nam, Tổng cục chính trị (2008), Giáo trình công tác

Đảng, công tác chính trị tập 2: “Công tác dân vận ở đơn vị cơ sở Quân độ

nhân dân Việt Nami”, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

50 Quân đội nhân dân Việt Nam, Tổng cục chính trị (1999), “Tăng cường công

tác quần chúng của Đảng trong quân đội thời kỳ mới”, Nxb Quân đội nhân

dân, Hà Nội.

51 Nguyễn Thế Trung (2018), “Công tác dân vận chính quyền góp phần phòng

ngừa điểm nóng, vụ việc phức tạp”, Tạp chí Dân vận, số 9.

52 Vũ Xuân Thủy (2017), “Các tỉnh ủy ở Tây Nguyên lãnh đạo công tác dân vận

giai đoạn hiện nay”, Luận án tiến sĩ khoa học lịch sử, Học viện Chính trị quốc

gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

53 Đặng Trí Thủ (2012), “Công tác vận động đồng bào Khmer của Đảng bộ xã,

phường, thị trấn ở Tây Nam Bộ giai đoạn hiện nay”, Học viện Chính trị-Hành

chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

159

54 Nguyễn Thanh Tuyền (2007), Báo cáo tổng quan đề tài “Các giải pháp đổi

mới hoạt động của hệ thống dân vận các tỉnh Tây Nguyên ở nước ta hiện nay”,

Mã số KHBĐ (2005)-33, Hà Nội.

55 Nguyễn Minh Tuấn, Trần Khắc Việt (Đồng chủ biên),“350 thuật ngữ xây

dựng Đảng”, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội (2018).

56 Lê Kim Việt (2002), “Công tác vận động nông dân của Đảng trong thời kỳ

đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Luận án Tiến sĩ Lịch sử,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

* TÀI LIỆU TIẾNG LÀO (Đã dịch sang tiếng Việt)

57 Bộ Chính trị (2003), Chỉ thị số 20/BCT, ngày 26/9/2003, về “Tăng cường làm

công tác dân vận ở cơ sở vững mạnh”.

58 Bộ Chính trị (2004), Chỉ thị số 09/BCT, ngày 8/6/2004, về “Xây dựng làng và

cụm làng phát triển toàn diện”.

59 Bộ Chính trị (2011), Chỉ thị số 03/BCT, ngày 30/5/2011 về “Xây dựng làng

trở thành đơn vị phát triển, xây dựng làng lớn trở thành thị trấn ở nông thôn”.

60 Bộ Quốc phòng (2009), “Lịch sử Quân đội nhân dân Lào (1945-2009)”, Nxb

Quân đội nhân dân Lào, Viêng Chăn.

61 Bộ Quốc phòng (2019), “Lịch sử Quân đội nhân dân Lào (1949-2019)”, Nxb

Quân đội nhân dân Lào, Viêng Chăn.

62 Ban dân vận của các sư đoàn thuộc Quân đội nhân dân Lào (2020), “Báo cáo

tình hình tổ chức thực hiện công tác dân vận tại Hội nghị tổng kết công tác

dân vận trong toàn quân lần thứ V” năm 2016-2020.

63 “Ban Chỉ đạo chương trình phát triển nông thôn, xóa đói, giảm nghèo (2006-

2010 ”, Nxb Văn phòng Chính phủ.

64 Ban chỉ đạo công tác phát triển nông thôn và xóa đói giảm nghèo quốc gia

(2015), “Kế hoạch phát triển nông thôn và xóa đói giảm nghèo 5 năm (2011 -

2015)”, Nxb Quốc gia, Viêng Chăn.

65 Ban Dân vận Tỉnh Viêng Chăn, “Cẩm nang dành cho cán bộ dân vận (Tài liệu

nhóm kinh tế)”, Nxb Viêng Chăn, 2006.

160

66 Ban Dân vận Tỉnh Viêng Chăn, “Cẩm nang dành cho cán bộ dân vận (Tài liệu

nhóm chính trị, văn hóa - xã hội)”, Nxb Viêng Chăn, 2006.

67 Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Lào (2012): “Cơ cấu tổ chức của các

Sư đoàn Quân đội nhân dân Lào”, Nxb Quân đội nhân dân Lào, Viêng Chăn

68 Bộ Chính trị (2020), Chỉ thị số 097/BCT, ngày 18/2/2020 về “Tăng cường

lãnh đạo, chỉ đạo công tác phát triển nông thôn và giải quyết xóa đói giảm

nghèo của nhân dân, vừa là một công việc chiến lược quan trọng và cần tập

trung nguồn vốn đầu tư đến tất cả các mọi lĩnh và liên tục, để làm cho vùng

nông thôn ở nước ta có một diện mạo mới và từng bước thay đổi”.

69 Bộ Chính trị (2014), Nghị quyết số 25-NQ/BCT, ngày 22/12/2014 về “Mục

tiêu, đối tượng và biện pháp xây dựng tỉnh thành đơn vị chiến lược, xây dựng

huyện thành đơn vị vững mạnh toàn diện, xây dựng làng thành đơn vị phát

triển”, Viêng Chăn.

70 Bộ Quốc phòng Lào Chỉ thị số 705/BQP ngày 16/2/2017, “Về xây dựng gia

đình và làng quốc phòng vững mạnh”.

71 Bộ Quốc phòng Quyết định số 3579/BQP ngày 4/10/2012 về “Vị trí, vai trò,

chức năng, nhiệm vụ và phong cách làm việc của Ban chỉ đạo công tác dân

vận và phát triển nông thôn cấp Bộ Quốc phòng”.

72 Bộ Quốc phòng Lào, “Báo cáo tổng kết đánh giá kết quả thực hiện công tác

dân vận- phát triển nông thôn toàn diện, gắn với công tác 3 xây trong toàn

quân lần thứ IV trong thời gian năm 5 qua (2016-2020) và phương hướng kế

hoạch trong những 5 năm tới (2021-2025)”.

73 Bộ Kế hoạch và Đầu tư, “Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội quốc gia 5 năm

lần thứ IX (2021 - 2025)”, Nxb Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

74 Ban Tuyên giáo Trung ương (2010), “Cẩm nang công tác dân vận dành cho

cán bộ cấp làng” Nxb Ban Tuyên huấn Trung ương.

75 Ban Tuyên giáo Trung ương “Tổng kết chiến tranh nhân dân dưới sự lãnh đạo

của Đảng nhân dân cách mạng Lào (1945 - 1975)”, Nxb Ban Tuyên huấn

Trung ương.

161

76 BounThoong ChitMaNy (2010), “Đảng nhân dân cách mạng Lào lãnh đạo

xây dựng nông thôn mới giai đoạn hiện nay”, Luận án tiến sĩ khoa học chính

trị, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.

77 BuaKhay VongXomPhou (2017), “Đẩy mạnh phát triển nông nghiệp hàng

hóa, giải quyết xóa đói, giảm nghèo của nhân dân”, Tạp chí xây dựng Đảng,

Số (193)

78 Cục thống kê quốc gia Lào: “Tổng điều tra dân số và nơi dân cư năm 2018”,

Nxb Quốc gia Lào, Viêng Chăn.

79 Cục bản đồ quốc gia: “Bản đồ Nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào năm

2015”, Nxb Quốc gia Lào, Viêng Chăn.

80 “Cay-xỏn Phôm-vi-hản (1985), Tuyển tập”, tập 1, Nxb Quốc gia, Viêng Chăn.

81 “Cay-xỏn Phôm-vi-hản (1987), Tuyển tập”, tập 2, Nxb Quốc gia, Viêng Chăn.

82 “Cay-xỏn Phôm-vi-hản (1997), Tuyển tập”, tập 3, Nxb Quốc gia, Viêng Chăn.

83 “Cay-xỏn Phôm-vi-hản (2005), Tuyển tập”, tập 4, Nxb Quốc gia, Viêng Chăn.

84 Đảng Nhân dân cách mạng Lào: “Văn kiện Đại hội IV”, Nxb Ban Tuyên huấn

Trung ương, Viêng-chăn, 1986.

85 Đảng Nhân dân cách mạng Lào: “Văn kiện Đại hội V”, Nxb Ban Tuyên huấn

Trung ương, Viêng-chăn, 1991.

86 Đảng Nhân dân cách mạng Lào: “Văn kiện Đại hội VI”, Nxb Ban Tuyên huấn

Trung ương, Viêng-chăn, 1996.

87 Đảng Nhân dân cách mạng Lào: “Văn kiện Đại hội VII”, Nxb Ban Tuyên huấn

Trung ương, Viêng-chăn, 2001.

88 Đảng Nhân dân cách mạng Lào: “Văn kiện Đại hội VIII”, Nxb Ban Tuyên

huấn Trung ương, Viêng-chăn, 2006.

89 Đảng Nhân dân cách mạng Lào: “Văn kiện Đại hội IX”, Nxb Ban Tuyên huấn

Trung ương, Viêng-chăn, 2011.

90 Đảng Nhân dân cách mạng Lào: “Văn kiện Đại hội X”, Nxb Ban Tuyên huấn

Trung ương, Viêng-chăn, 2016.

91 Đảng Nhân dân cách mạng Lào: “Văn kiện Đại hội XI”, Nxb Ban Tuyên huấn

Trung ương, Viêng-chăn, 2021.

162

92 Đảng Ủy Bộ Quốc phòng Lào: “Văn kiện Đại hội V”, Nxb Quốc Phòng toàn

dân, Viêng-chăn, 2020.

93 Đảng ủy Bộ Quốc phòng (2011), Nghị quyết số 650-NQ/ĐUBQP ngày

4/4/2011 về “Quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các lực lượng vũ trang có tiềm

năng, tiềm lực chuyển xuống làm công tác dân vận ngày càng vững mạnh theo

4 nội dung, 4 mục tiêu, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân 3 cấp, gắn với

xây dựng làng và cụm làng phát triển” Viêng Chăn.

94 Đảng ủy Bộ Quốc phòng (2012), Nghị quyết số 04-NQ/ĐUBQP ngày

12/12/2012 về “4 nhiệm vụ lớn, 26 chương trình để phấn đấu đột phá theo nội

dung, tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng có hiệu quả” Viêng

Chăn.

95 Hội đồng Khoa học Xã hội Quốc gia Lào (MS 13 - 2019, Đề tài độc lập cấp

Nhà nước): “Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân ngày càng chặt chẽ, vững

mạnh và hiện đại”, do GS. TS Kị-Kẹo Khay-Khăm-Phi-Thun làm chủ nhiệm

đề tài.

96 Học viện Quốc Phòng Cay-xỏn Phôm-vi-hản (2006), “Xây dựng thế trận chiến

tranh nhân dân 3 cấp”, Nxb Học viên Quốc phòng, Viêng Chăn.

97 KhamLa SiDuangXay (2018), “Kết quả lãnh đạo, chỉ đạo trong xây dựng

làng và cụm làng phát triển để xóa đói giảm nghèo ở Tỉnh Xiêng Khoảng”,

Tạp chí xây dựng Đảng, Số (196).

98 Khăm-phăn Phôm-mạ-thắt (2020) “Quan điểm quần chúng là vấn đề gốc,

trong đạo đức cách mạng của Chủ tịch Cay Xỏn Phom Vi Hản”, Nxb Ban

Tuyên huấn Trung ương, Viêng Chăn.

99 Khăm-phăn Phôm-mạ-thắt (2020) “Tập trung khối đại đoàn kết toàn dân tộc

là trung tâm”, Nxb Ban Tuyên huấn Trung ương, Viêng Chăn.

100 “Hồ Chí Minh (1912 - 1924), Toàn tập”, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội, 2017.

101 “Hồ Chí Minh (1924 - 1929), Toàn tập”, tập 2, Nxb Sự thật, Hà Nội, 2018.

102 Hồ Chí Minh (1945 - 1946), Toàn tập, tập 4, Nxb Sự thật, Hà Nội, 2018.

103 Hồ Chí Minh (1947 - 1948), Toàn tập, tập 5, Nxb Sự thật, Hà Nội, 2018.

104 Hồ Chí Minh (1949 - 1950), Toàn tập, tập 6, Nxb Sự thật, Hà Nội, 2018.

163

105 Hồ Chí Minh (1951 - 1952), Toàn tập, tập 7, Nxb Sự thật, Hà Nội, 2019.

106 Hồ Chí Minh (1953 - 1954), Toàn tập, tập 8, Nxb Sự thật, Hà Nội, 2018.

107 PhouVanh XayYaVong (2017), “Một số bài học kinh nghiệm đã tổ chức

thực hiện công tác 3 xây dựng ở Tỉnh Chăm Pa Sắc”, Tạp chí xây dựng

Đảng, Số (193).

108 Quốc hội ban hành Luật số 43/QH, ngày 14/6/2018 về “Luật sĩ quan Quân đội

nhân dân Lào sửa đổi”.

109 SouBanh HounNaChamPa (2014),“Công tác vận động tuyên truyền của

QĐND Lào trong tham gia xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh, bảo đảm

cho sự ổn định toàn diện của Tổ quốc”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 4.

110 SanTiSouc CangPhouVong (2013), “Kết quả hoạt động công tác dân vận của

bộ đội địa phương các tỉnh Tây Bắc Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào”, Tạp

chí Giáo dục lý luận Chính trị quân sự, số 6.

111 SanTiSouc CangPhouVong (2015) “Công tác dân vận của bộ đội địa phương

các tỉnh Tây Bắc Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào giai đoạn hiện nay”, Luận

án tiến sỹ khoa học chính trị, Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng.

112 SomVay NengXayKhoun (2012) “Công tác dân vận của các tổ chức cơ sở

đảng bộ đội địa phương miền Nam nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào”,

Luận án tiến sỹ xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

113 Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Lào (2009), “Một số lý luận và thực

tiễn về công tác dân vận - phát triển nông thôn toàn diện, gắn với xây dựng

làng và cụm làng vững mạnh về mặt quốc phòng”, Nxb Quân đội nhân dân,

Viêng Chăn.

114 Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Lào (2009), “Công tác dân vận của

Quân đội nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay”, Nxb Quân đội nhân dân,

Viêng Chăn.

115 Tổng Cục Chính trị (2020), Chỉ thị số 696/TCCT, ngày 17/02/2020 của về

Tổng kết công tác dân vận trong toàn quân theo hướng 3 xây dựng lần thứ

V (từ 2016-2020) và phương hướng trong những năm 5 tới (2021-2025),

Viêng Chăn.

164

116 Tổng Cục Chính trị Quân đội nhân dân Lào (2020), “Cẩm nang công tác dân

vận”, Nxb Quân đội nhân dân Lào, Viêng Chăn.

117 Tổng Cục Chính trị (2015), Chỉ thị số 0178/TCCT, ngày 23/2/2015 về “Tăng

cường công tác dân vận ở cơ sở vững mạnh”.

118 Ủy ban Trung ương Mặt trận Lào Xây dựng Đất nước (2010) “Công tác Mặt

trận Tổ quốc trong tình hình mới ”, Nxb Mặt trận Lào Xây dựng Đất nước,

Viêng Chăn.

119 Ủy ban Trung ương Mặt trận Lào xây dựng đất nước (2012) “Công tác 3 xây

dựng”, Nxb Mặt trận Lào Xây dựng Đất nước, Viêng Chăn.

120 Văn phòng Chính phủ (2011), Nghị định số 285/2011/NĐ-CP ngày 30 tháng

05 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ quy định, “kết quả kiểm tra sự nghèo

đói và sự phát triển”, Nxb Văn phòng Chính phủ, Viêng Chăn.

165

PHỤ LỤC

BIỂU 1:

Nguồn: Cục Bản đồ quốc gia 2015

166

BIỂU 2:

DIỆN TÍCH, DÂN SỐ CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

Nam

Nữ

TT Đơn vị hành chính

Số Bản

Số huyện

Diện tích (Km²)

Dân số trung bình (người)

Thủ đô Viêng Chăn

3,900

826,807

416,846 409,961

481

09

1

2

Tỉnh Phông Xa Lì

16,270

184,782

93,772

91,010

520

07

3

Tỉnh Luông Nậm Thà

9,325

184,092

91,159

92,933

364

05

4

Tỉnh U Đôm Xay

15,370

316,848

158,537 158,311

472

07

5

Tỉnh Bò Keo

6,196

316,848

225,854

90,994

248

05

6

Tỉnh Luông Pha Băng

16,875

451,245 231,1076 220,169

757

12

7

Tỉnh Hủa Phăn

16,500

305,041

156,003 149,038

727

10

8

Tỉnh Xay Nhạ Bu Ly

16,389

387,386

199,283 188,103

431

11

9

Tỉnh Xiêng Khoảng

14,751

264,139

134,381 129,758

477

07

10 Tỉnh Viêng Chăn

15,610

448,691

222,134 226,557

432

11

11 Tỉnh Xay Xổm Bun

8,551

88,253

45,687

42,566

89

05

12 Tỉnh Bô Ly Khăm Xay

14,863

301,080

153,630 147,450

291

07

13 Tỉnh Khăm Muộn

16,315

414,510

205,588 208,922

574

10

14 Tỉnh Sa Vẳn Nạ Khểt

21,774

994,637

493,073 501,564 1,022

15

15 Tỉnh Xa La Văn

10,691

413,389

204,692 208,697

579

08

16 Tỉnh Xê Kong

7,665

119,978

60,043

59,935

197

04

17 Tỉnh Chăm Pa Sắc

15,415

708,162

352,068 356,094

641

10

18 Tỉnh Ắt Tạ Pư

10,320

146,008

71,953

74,053

146

05

Ngồn: Cục thống kê quốc gia Lào (Tổng điều tra dân số và nơi dân cư năm 2018)

167

BIỂU 3:

CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA CÁC SƯ ĐOÀN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN LÀO

LÃNH ĐẠO SƯ ĐOÀN

PHÒNG KỸ THUẬT

PHÒNG HẬU CẬN

PHÒNG THAM MƯU

PHÒNG CHÍNH TRỊ

PHÒNG HÀNH CHÍNH

Tiểu đoàn Phòng không

Tiểu đoàn Thông tin

Tiểu đoàn Huấn luyện

Tiểu đoàn Tên lửa

Tiểu đoàn Công binh

Tiểu đoàn Pháo binh

Tiểu đoàn Trinh sát

2 Trung đoàn Bộ binh

Tiểu đoàn Tăng- Thiết giáp

Đại đội bảo vệ kho

Tiểu đoàn Vận tải

Tiểu đoàn Sửa chữa

Tiểu đoàn Xây dựng

Tiểu đoàn Quân y

Đại đội Bảo vệ

Đại đội Sản xuất

Nguồn: Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Lào năm 2012, Viêng chăn

168

BIỂU 4:

KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG CÔNG TÁC DÂN VẬN

CỦA CÁC SƯ ĐOÀN TRONG THAM GIA XÂY DỰNG

VÀ CỦNG CỐ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở CƠ SỞ NĂM 2016-2020

NỘI DUNG

ĐƠN VỊ TÍNH

SỐ TT 1

SỐ LƯỢNG

GHI CHÚ

Bản Bản Người Người Người Đầi mối 5 đợt

Tham gia xây dựng, củng cố tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể ở địa phương - Tham mưu cho địa phương bầu Bí thư và phó Bí thư - Xóa được thôn, bản trắng - Kết nạp đảng viên - Kết nạp đoàn viên thanh niên - Kết nạp hội viên phụ nữ - Xây dựng đảng bộ trong sạch, vững mạnh - Tập huấn về vai trò, quyền hạn, nhiệm vụ, phong cách làm việc cho chính quyền thôn, bản - Tổ chức kết nghĩa - Xây dựng và củng cố tổ chức cơ sở đảng ở địa phương

506 159 1.062 1.426 541 943 185 lượt người 910 191

253

- Xây dựng và củng cố tổ chức chính quyền các cấp ở địa phương

Đầu mối Chi bộ đảng Huyện, Cụm bản, Bản Bản Đồng chí Đồng chí Đồng chí Đồng chí 69 buổi

- Xây dựng và củng cố Mặt trận Tổ quốc - Bổ nhiệm làm trưởng bản, làng - Bổ nhiệm làm Bí thư bản, làng - Bổ nhiệm làm ban thường vụ huyện ủy - Bổ nhiệm làm ủy viên cụm bản Tham gia tuyên truyền, vận động nhân dân - Tiếp xúc, đối thoại với nhân dân

2

5.896 đọt

2.521 đợt

174 22 22 134 89 2.830 lượt người 2.600 lượt người 158.823 lượt người

4 lần

- Tuyên truyền, giáo dục các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Nhà nước, nhất là truyền thống của Đảng, của Dân tộc, của Quân đội bằng ngôn ngữ dân tộc - Tuyên truyền, giáo dục bằng các văn bản để giải thích các nội dung chỉ thị, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhất là luật gia đình, luật Lâm nghiệp, luật Phòng Chống ma túy đến đồng bào nhân dân - Đưa các già làng, trưởng bản, trưởng thôn và các chức sắc tôn giáo đi tham quan ở các thành phố lớn và thủ đô

163 buổi

- Tổ chức tập huấn công tác tôn giáo, dân tộc cho các già làng, trưởng thôn, bản và các chức sắc tôn giáo

Có tổng số 225 người 4.938 lượt người

169

BIỂU 5:

KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG CÔNG TÁC DÂN VẬN

CỦA CÁC SƯ ĐOÀN TRONG THAM GIA PHÁT TRIỂN

KINH TẾ, VĂN HÓA-XÃ HỘI NĂM 2016-2020

NỘI DUNG

SỐ TT 1

GHI CHÚ

ĐƠN VỊ TÍNH Héc-ta Ha ruộng

SỐ LƯỢNG 253 594

Tham gia phát triển kinh tế - Cải tạo vườn sản xuất cho nhân dân - Tổ chức khai hoang bàn giao cho nhân dân canh tác - Cấp giống cây trồng - Hỗ trợ công cụ sản xuất - Cấp giống cá các loại - Cấp giống lúa - Xây dựng gia đình gương mẫu về mặt sản xuất - Xây dựng quỹ đầu tư phát triển bản

Giống Hộ Con Kg Hộ 21 quỹ

- Giúp nhân dân lao động thu hoạch lúa

135 công

- Xây dựng nhóm trồng, chăn nuôi được

253 nhóm

2

200.000 2.240 160.000 5.200 542 8.601.503. 600 tỷ kip vốn lưu động 2.430 lượt người 9.038 hộ tham gia 23 1.83,725 6 2 759 6.537 99% 283 tỷ kip

Đường Km Kênh Cầu Cụm bản Bản Hộ 60 Công trình

Công ty

13

Đơn vị Người

14 2.265

Tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng - Xây dựng đường giao thông - Độ dài đường giao thông - Làm kênh mương thủy lợi - Sửa chữa cầu gỗ - Cụm bản sử dụng được hệ thống viễn thông - Bản có đường giao thông đi lại thuận tiện hai mùa - Hộ có sử dụng được điện - Đẩy mạnh, khuyến khích các công ty đầu tư xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng ở khu vực biên giới gồm có 12 cụm bản - Quản lý đầu tư nước ngoài trong khu vực Sư đoàn đặc trách - Quản lý đơn vị kinh doanh nước ngoài - Quản lý nước ngoài đầu tư ở khu vực Sư đoàn đặc trách - Giúp đỡ nhân dân ngày công lao động tu sửa - Nâng cấp đường nông thôn - Xây dựng doanh trại cho các đội công tác

Công Km Doanh trại

3.860 128 5

170

NỘI DUNG

SỐ TT 3

Tham gia xây dựng văn hóa-xã hội - Xây dựng làng phát triển - Xây dựng nhà văn hóa

ĐƠN VỊ TÍNH Đầu mối 17 nhà

Buổi

SỐ LƯỢNG 1.179 3.423.000. 000 tỷ kịp 47

GHI CHÚ

Làng Hộ

Trung tâm

75 27.984 5

Lần

19

260 đợt

4

Trường Trường Trường 52 lớp

5

- Hoạt động giao lưu văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao - Xây dựng làng văn hóa - Xây dựng gia đình văn hóa - Mở rộng trung tâm mạng vô tuyến truyền thanh quân đội ở địa bàn các Sư đoàn đóng quân - Chiếu phim truyền thống của quân đội phục vụ nhân dân ở vùng đồng bào dân tộc, tôn giáo, vùng sâu, vùng xa - Cung cấp tạp chí, báo chí quốc phòng toàn dân và thông tin của Đảng, Nhà nước Tham gia phát triển giáo dục-đào tạo - Xây dựng trường học - Xây dựng trường trung học cơ sở - Xây dựng trường trung học phổ thông - Mở lớp xóa mù chữ - Sửa phòng học, trường học - Tỷ lệ vào học của trẻ em 3-5 tuổi - Tỷ lệ vào học của trẻ em 6 tuổi - Tỷ lệ vào học cấp tiểu học - Tỷ lệ vào học 15 - 24 tuổi Chăm sóc sức khỏe - Bệnh viện vĩnh viễn - Xây dựng mô hình trạm y tế - Xây dựng làng y tế - Xây dựng máy lọc nước - Khám chữa bệnh - Cấp thuốc miễn phí

Phòng Tỷ lệ học Tỷ lệ học Tỷ lệ học Tỷ lệ học Bệnh viện Trạm Làng Nơi Người Tỷ kip

Bác sĩ

52.000 phiên bản 3 2 2 1.630 lượt người 17 27% 100% 98% 99% 01 4 95 15 14.773 1.385.000. 000 10

6

Phòng Triệu kip Nhà Tấn Tỷ kip

- Tổ chức bác sĩ của quân đội tăng cường cho mỗi đội công tác - Xây dựng phòng vệ sinh công cộng Đền ơn đáp nghĩa, chính sách xã hội - Thăm hỏi, tặng quà - Làm nhà tình nghĩa - Nhân dân cùng cấp gạo cho cán bộ, chiến sĩ - Mang lại một số vật chất, tình thần giúp hộ gia đình nghèo ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa - Xóa đói giảm nghèo cho hộ dân

Hộ

12 521.000.000 33 15 1.415.000. 000 4.430

171

BIỂU 6:

KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA CÁC SƯ ĐOÀN TRONG THAM GIA XÂY DỰNG VÀ CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG, AN NINH NĂM 2016-2020

NỘI DUNG

SỐ LƯỢNG

SỐ TT

ĐƠN VỊ TÍNH

Ghi chú

1 Tham gia xây dựng và củng cố lực lượng

- Trang bị vũ khí

Khẩu

50 - 70%

- Tham gia tổ chức lực lượng du kích

Lượt người

121.243

- Tham gia tổ chức thành đại đội du kích

Đại đội

1.081

- Tham gia tổ chức trung đội du kích

Trung đội

3.485

- Tham gia tổ chức tiểu đội du kích

Tiểu đội

10.799

- Tham gia tổ chức lực lượng dân quân tự vệ Lượt người

3.019

- Trang bị trang xe quân sự UAZ (thần thánh) Xe quân sự

5

Lần 9.101 255.546 lượt người

- Lãnh đạo lực lược du kích hoạt động tuần tra vùng biên giới

- Bảo vệ ngày lễ của quốc gia

1.268 lần

44.443 lượt người

94 khóa

5.751 lượt người

Làng

388

- Tập huấn kiến thức quốc phòng, an ninh cho các đối tượng lực lượng du kích và dân quân tự vệ - Xây dựng làng chiến đấu - Xây dựng cụm bản chiến đấu liên hoàn

Cụm bản

127

- Xây dựng gia đình quốc phòng vững mạnh

Hộ

135.300

- Xây dựng làng quốc phòng vững mạnh

Làng

1.930

- Tham gia xây dựng gia đình bảo vệ an ninh tốt

Hộ

3.682

- Huấn luyện dã ngoại làm công tác dân vận

113 đầu mối

4.121 lượt người

25 khóa

16.875 lượt người

- Tổ chức huấn luyện quân sự cho các đối tượng học sinh, sinh viên các trường đại học, cao đẳng, phổ thông trung học

2 Công tác xây dựng chuyên ngành

170 buổi

4.557 lượt người

- Tập huấn nghiệp vụ công tác dân vận cho đội ngũ cán bộ chuyên trách

- Tổ chức 5 đội công tác chuyên trách

Tổng số

934

172

NỘI DUNG

SỐ LƯỢNG

ĐƠN VỊ TÍNH

SỐ TT

Ghi chú

3 Tham gia giải quyết các tệ nạn xã hội

- Giải quyết các vụ án xảy ra tất cả

Vụ

1.299

- Bắt được tên tội phạm

Người

1.351

- Phá hủy lực lượng biệt kích tham báo

Tên địch

1.540

18

Khẩu

- Thu được khẩu súng

36 vụ

53 người tội phạm

- Phá án tội phạm ma túi

64

Máy

35

Máy

- Điện thoại di động - Máy tính

2

Máy

- Ti Vi

13

Thẻ

- Tạm giữ chứng minh thư

13

Cuốn

- Tạm giữ hộ chiếu

92.178.000

Kip

- Thu được tiền Lào

586.290

Bạt

- Thu được tiền Thái Lan

24.000

Bạt

- Thu được tiền Thái Lan giả

9.750

Đô la

- Thu được tiền Đô la Mỹ

191

Chỉ

- Thu giữ vàng

913

- Quản lý, kiểm tra người xuất nhập cảnh

Lượt người

193

- Kiểm tra, phát hiện người nhập khẩu trái phép

Người

494

Kg

469

Kg

- Thu được ma túy tổng hợp - Hêrôin

186

Kg

- Thuốc phiện

6

Chiếc

- Xe ô tô

14

Chiếc

- Xe máy

19

Vụ

- Vụ tuyên truyền đạo trái phép

12

Vụ

- Vụ tranh chấp lãnh thổ

15

Vụ

- Giải quyết vụ khiếu kiện

152

Vụ

- Giải quyết nạn phá rừng tùy tiện, khai thác và vận chuyển gỗ trái phép

198

Vụ

- Vụ trộm cắp tài sản

8

Vụ

- Vụ tụ tập tuyên truyền nói xấu chế độ

173

NỘI DUNG

SỐ LƯỢNG

SỐ TT

ĐƠN VỊ TÍNH

Ghi chú

- Vụ án gian lận tài sản dân sự

Vụ

15

- Bắt được người nhập cư trái phép

Người

9.179

Người

185.576

- Nhân dân tham gia tín ngưỡng tôn giáo Giê Su, Kitô giáo, Công Giáo trái phép

- Bắt được vụ đánh bạc

Vụ

157

- Có nhà thờ trái phép

Nhà

2.019

4 Việc khen thưởng các “Đơn vị dân vận gương

mẫu”

- Cấp trên bằng khen cho các tập thể

Đơn vị

530

- Cấp bằng khen cho các cá nhân

Đồng chí

438

- Thăng quân hàm

Đồng chí

2.113

5 Tham gia phòng chống, khắc phục hậu quả

thiên tai

- Hỗ trợ tiền cứu đói, cứu trợ thiên tai

Triệu kip

1.235.000.0000

- Di dời hộ gia đình đến vị trí an toàn

Hộ

3.400

- Tham gia phòng chống cháy rừng

Ha

204

Lượt người

60.000

- Huy động cán bộ, chiến sĩ tham gia khắc phục hậu quả thiên tai

Lượt người

30.460

- Huy động đội du kích, dân quân tự vệ tham gia khắc phục hậu quả thiên tai

- Giúp đỡ gia đình bị ảnh hưởng bởi đám cháy

Hộ dân

22

- Xây nhà tạm cho hộ dân thiên tai

Hộ dân

140

- Sử dụng xe tải cứu hộ thiên tai

Xe tải

43

- Sử dụng thuyền cứu hộ thiên tai

Thuyền

24

Tấn

31

- Vận chuyển lương thực giúp đồng bào bị thiên tai

174

BIỂU 7:

PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN

(Dùng cho cán bộ sĩ quân, quân nhân chuyên nghiệp)

Đồng chí thân mến !

Để phục vụ cho công trình nghiên cứu khoa học, góp phần nâng cao

hiệu quả công tác dân vận của các Sư đoàn Quân đội nhân dân Lào hiện nay,

đồng chí vui lòng trả lời cầu hỏi dưới đây của chúng tôi đã nêu ra. Trong từng

câu hỏi đã có những phương án trả lời, đồng chí tự chọn và trả lời đúng theo

suy nghĩ của mình, nếu đồng ý phương án nào thì đánh dấu (X) vào chỗ trống

hoặc ô trống bên tay phải. Đồng chí không cần ghi họ tên mình vào phiếu này.

Câu 1: Theo đồng chí, công tác dân vận của các Sư đoàn Quân đội

nhân dân Lào thuộc trách nhiệm của ai ?

- Chính ủy

- Chính trị viên

- Tổ chức đảng các cấp

- Tất cả cán bộ, chiến sĩ

Câu 2: Theo đồng chí, nhận thức của cán bộ chính trị ở các cơ

quan, đơn vị về công tác dân vận như thế nào ?

- Hiểu biết sâu sắc

- Khá

- Trung bình

- Có hạn chế

Câu 3: Theo đồng chí, về sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các cơ

quan, đơn vị của Sư đoàn trưởng trong tiến hành công tác dân vận như

thế nào ?

- Quan tâm

- Đôi khi

- Ít quan tâm

- Không quan tâm

175

Câu 4: Theo đồng chí, công tác tuyên truyền, vận động nhân dân

chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của

Nhà nước trong những thời gian qua như thế nào?

- Tốt

- Khá

- Trung bình

- Yếu

Câu 5: Theo đồng chí, việc phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa

phương, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và các lực

lượng có liên quan trong tiến hành công tác dân vận thời gian qua như

thế nào ?

- Có hiệu quả

- Mang tính hình thức

- Chưa hiệu quả

- Chưa thống nhất với nhau

Câu 6: Theo đồng chí, việc hoạt động tham gia xây dựng, củng cố

quốc phòng, an ninh trên địa bàn đơn vị đóng quân trong thời gian qua

như thế nào?

- Tốt

- Khá

- Trung bình

- Kém hiệu quả

Câu 7: Theo đồng chí, trong hoạt động tiến hành công tác dân vận

trong những thời gian qua, thấy rằng có phương pháp nào đạt hiệu quả

tốt hơn?

- Hành quân dã ngoại

- Mở rộng hình thức hợp tác và kết nghĩa

- Cử tổ, đội công tác đi cơ sở

- Tổ chức giao lưu, gặp mặt với nhân dân

176

Câu 8: Theo đồng chí, cơ sở vật chất, trang thiết bị phương tiện, kỹ

thuật phục vụ cho công tác dân vận như thế nào?

- Đầy đủ

- Khá tốt

- Hạn chế

- Khó trả lời

Câu 9: Theo đồng chí, việc tổ chức giáo dục và quản lý bộ đội giữ

nghiêm kỷ luật mối quan hệ quân dân trong thời gian qua như thế nào?

- Tốt

- Khá

- Trung bình

- Yếu kém

Câu 10: Theo đồng chí, việc chỉ đạo giáo dục nâng cao nhận thức,

trách nhiệm, bồi dưỡng năng lực tiến hành công tác dân vận cho cán bộ,

chiến sĩ trong thời gian qua như thế nào?

- Quan tâm

- Đôi khi

- Không quan tâm

- Khó đánh giá

Câu 11: Theo đồng chí, chính sách của Đảng, Nhà nước CHDCNDL

đối với đời sống của nhân dân như thế nào?

- Tốt

-Trung bình

- Bình thường

- Chưa tốt

Câu 12: Theo đồng chí, những nguyên nhân của hạn chế nào dẫn

đến ảnh hưởng giảm chất lượng công tác dân vận?

- Do hạn chế về năng lực lãnh đạo, chỉ đạo

- Trình độ nhận thức, khả năng

- Chính sách thiếu đồng bộ, bất cập

177

- Sự tác động tiêu cực của từ mặt trái kinh tế thị trường 

- Các nguyên nhân khác, xin đồng chí góp ý………………..

Câu 13: Theo đồng chí, về tổ chức bộ máy và biên chế cán bộ dân

vận của các Sư đoàn Quân đội nhân dân Lào hiện nay như thế nào?

- Đồng bộ

- Rất hoàn chỉnh

- Tương đối

- Hạn chế

Câu 14: Theo đồng chí, đánh giá về thái độ và sự tin tưởng của

nhân dân đối với Đảng, Nhà nước như thế nào?

- Tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, đồng lòng hướng về Tổ quốc

- Có lòng tự hào, thân thiện, nhiệt tình

- Với thái độ bị bắt buộc phải làm

- Khó đánh giá

Câu 15: Theo đồng chí, hiện tượng tiêu cực xã hội tham ô, tham

nhũng, lãng phí, quan liêu của cán bộ lãnh đạo trong thực hiện công tác

dân vận có xảy ra hay không ?

- Luôn thường xuyên xảy ra rất nguy hiểm

- Có lúc xảy ra

- Ít khi xảy ra

- Không có

Câu 16: Xin đồng chí vui lòng cho biết một số thông tin về bản thân ?

 Độ tuổi:

- Dưới 20 tuổi

- Từ 21-30 tuổi

- Từ 31-40 tuổi

- Từ 41-50 tuổi

- Từ 51 tuổi trở lên

178

 Đồng chí là bộ phận:

- Cán bộ chính trị

- Cán bộ quân sự

- Cán bộ hậu cần

- Cán bộ kỹ thuật

- Cán bộ hành chính

 Học vấn:

- Trung cấp, trung học chuyên nghiệp

- Cao đẳng, đại học

- Sau đại học

 Đồng chí là:

- Cán bộ lãnh đạo

- Sĩ quan

- Quân nhân chuyên nghiệp

- Hạ sĩ quân, chiến sĩ

 Chức vụ:

- Cấp trưởng (hoặc tương đương)

- Cấp phó (hoặc tương đương)

- Tợ lý

 Cơ quan trực thuộc:

- Phòng chính trị

- Phòng tham mưu

- Phòng hậu cần

- Phòng kỹ thuật

- Phòng hành chính

Xin chân thành cảm ơn đồng chí !

179

BIỂU 8:

KẾT QUẢ ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC

Thời gian tiến hành khảo sát: từ tháng 01 năm 2020

Người trực tiếp điều tra: PHONGSAMAY HOUNNACHAMPA

Đơn vị điều tra: 5 Sư đoàn thuộc Quân đội nhân dân Lào

Phương pháp khảo sát: phát phiếu điều tra

Đối tượng điều tra: Sĩ quân, quân nhân chuyên nghiệp

Tổng số người điều tra: 200 đồng chí

KẾT QUẢ

TT

NỘI DUNG ĐIỀU TRA

PHƯƠNG ÁN TRẢ LỜI

Tổng số

Tỷ lệ %

- Chính ủy

26%

53

1

- Chính trị viên

22%

44

Nhận thức trách nhiệm công tác dân vận của sĩ quân, quân nhân chuyên nghiệp

- Tổ chức đảng các cấp

20%

41

- Tất cả cán bộ, chiến sĩ

31%

62

- Hiểu biết sâu sắc

116

58%

2

- Khá

33%

67

Nhận thức của cán bộ chính trị ở các cơ quan, đơn vị về công tác dân vận

- Trung bình

8%

17

- Có hạn chế

0%

0

- Quan tâm

142

71%

- Đôi khi

11%

23

3

Sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị của Sư đoàn trưởng trong tiến hành công tác dân vận

- Ít quan tâm

17%

35

- Không quan tâm

0%

0

- Tốt

147

73%

4

- Khá

16%

32

Công tác tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước

- Trung bình

10%

21

- Yếu

0%

0

180

- Có hiệu quả

102

51%

5

- Mang tính hình thức

65

32%

- Chưa hiệu quả

14

7%

Việc phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và các lực lượng có liên quan trong tiến hành công tác dân vận

- Chưa thống nhất với nhau

19

9%

190

95%

- Tốt

6

- Khá

6

3%

- Trung bình

4

2%

Việc hoạt động tham gia xây dựng, củng cố quốc phòng, an ninh trên địa bàn đơn vị đóng quân

- Kém hiệu quả

0%

- Hành quân dã ngoại

44

22%

58

29%

7

- Mở rộng hình thức hợp tác và kết nghĩa

Trong hoạt động tiến hành công tác dân vận trong những thời gian qua, thấy rằng có phương pháp nào đạt hiệu quả

- Cử tổ, đội công tác đi cơ sở

62

31%

36

18%

- Tổ chức giao lưu, gặp mặt với nhân dân

88

44%

- Đầy đủ

8

67

33%

- Khá tốt

Cơ sở vật chất, trang thiết bị phương tiện, kỹ thuật phục vụ cho công tác dân vận

45

22%

- Hạn chế

0

0%

- Khó trả lời

- Tốt

187

93%

9

- Khá

8

4%

Việc tổ chức giáo dục và quản lý bộ đội giữ nghiêm kỷ luật mối quan hệ quân dân

5

2%

- Trung bình

0

0%

- Yếu kém

94

47%

- Quan tâm

10

86

43%

- Đôi khi

20

10%

- Không quan tâm

Việc chỉ đạo giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm, bồi dưỡng năng lực tiến hành công tác dân vận cho cán bộ, chiến sĩ

0

0%

- Khó đánh giá

181

178

89%

- Tốt

11

22

11%

- Trung bình

Chính sách của Đảng, Nhà nước CHDCNDL đối với đời sống của nhân dân

0

0%

- Chưa tốt

0

0%

- Khó trả lời

67

33%

- Do hạn chế về năng lực lãnh đạo, chỉ đạo

12

Những nguyên nhân của hạn chế nào dẫn đến ảnh hưởng giảm chất lượng công tác dân vận

14

7%

- Sự tác động tiêu cực của từ mặt trái kinh tế thị trường

32

16%

- Chính sách thiếu đồng bộ, bất cập

87

43%

- Trình độ nhận thức, khả năng

76

38%

- Đồng bộ

Tổ chức bộ máy và biên chế cán bộ dân vận của các sư đoàn

13

44

22%

- Rất hoàn chỉnh

42

21%

- Tương đối

38

19%

- Hạn chế

97

48%

14

Đánh giá về thái độ và sự tin tưởng của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước

- Tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, đồng lòng hướng về Tổ quốc

87

43%

- Có lòng tự hào, thân thiện, nhiệt tình

16

8%

- Với thái độ bị bắt buộc phải làm

- Khó đánh giá

0

0%

119

59%

- Luôn thường xuyên xảy ra rất nguy hiểm

15

- Có lúc xảy ra

69

34%

Hiện tượng tiêu cực xã hội tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu của cán bộ lãnh đạo trong thực hiện công tác dân vận

- Ít khi xảy ra

12

6%

- Không có

0

0%

182

BIỂU 9:

PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN

(Dùng cho hạ sĩ quân-chiến sĩ)

Đồng chí thân mến !

Để phục vụ cho công trình nghiên cứu khoa học, góp phần nâng cao

hiệu quả công tác dân vận của các Sư đoàn Quân đội nhân dân Lào hiện nay.

Xin đồng chí vui lòng cho biết ý kiến của mình về những chúng tôi đã đưa ra

dưới đây. Trong từng câu hỏi đã có những phương án trả lời, đồng chí tự chọn

và trả lời đúng theo suy nghĩ của mình, nếu đồng ý phương án nào thì đánh

dấu (X) vào chỗ trống hoặc ô trống bên tay phải. Đồng chí không cần ghi họ

tên mình vào phiếu này.

Câu 1: Theo đồng chí, công tác dân vận ở đơn vị cơ sở trong Quân

đội nhân dân Lào có vị trí, vai trò như thế nào?

- Rất quan trọng

- Quan trọng

- Bình thường

- Không quan trọng

Câu 2: Đồng chí có thường xuyên tham gia tiến hành công tác dân

vận hay không?

- Thường xuyên

- Từng đợt tiến hành

- Không thường xuyên

- Không tiến hành

Câu 3: Theo đồng chí, công tác dân vận của các Sư đoàn là trách

nhiệm của ai?

- Của lãnh đạo, chỉ huy các cấp

- Của Phòng Chính trị

- Của cán bộ chính trị

- Tất cả các tổ chức và các lực lượng của Sư đoàn

183

Câu 4: Theo đồng chí, trình độ nhận thức, khả năng của hạ sĩ

quân, chiến sĩ trong thực hiện nhiệm vụ công tác dân vận như thế nào ?

- Tốt

- Khá

- Trung bình

- Kém

Câu 5: Đồng chí đã thường xuyên tham gia hình thức dân vận nào

ở dưới dây?

- Tiếp xúc, đối thoại với nhân dân

- Giao lưu gặp mặt với nhân dân

- Tuyê truyền miệng

- Lao động giúp nhân dân

Câu 6: Khi được cấp trên giao nhiệm vụ làm công tác dân vận,

đồng chí có cảm giác như thế nào?

- Tự hào và phấn khởi

- Bình thường

- Được giao thì phải làm

- Không muốn làm

Câu 7: Nếu cấp trên cử đồng chí làm đội trưởng công tác dân vận

của Sư đoàn tại địa phương, đồng chí có khả năng làm được không?

- Sẽ thực hiện tốt nhiệm vụ của trên giao cho

- Vừa làm, vừa rút kinh nghiệm

- Ngần ngại vì khó thực hiện

- Không giám làm

Câu 8: Kiến thức đã học qua các nhà trường trong quân đội đã

giúp đồng chí hiểu biết và vận dụng vào trong quá trình thực hiện công

tác dân vận như thế nào?

- Hiểu rõ và sử dụng có hiệu quả cao

- Bình thường

- Hiệu quả thấp so với học qua các nhà trường

- Khó trả lời

184

Câu 9: Theo đồng chí, yếu tố nào quan trọng nhất trong hoạt động

thực thực hiện công tác dân vận của quân đội hiện nay?

- Ngân sách đầu tư

- Vật chất, phương tiện, kỹ thuật

- Lực lượng

- Quan trọng cả 3 vấn đề ở trên

Câu 10: Theo đồng chí, vui lòng viết thêm thông tin bản thân?

- Chiến sĩ năm thứ nhất

- Chiến sĩ năm thứ hai

- Đảng viên

- Đoàn viên thành niên

- Đoàn viên

Xin chân thành cảm ơn đồng chí !

185

BIỂU 10:

KẾT QUẢ ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC

Thời gian tiến hành khảo sát: từ tháng 01 năm 2020

Người trực tiếp điều tra: PHONGSAMAY HOUNNACHAMPA

Đơn vị điều tra: 5 Sư đoàn thuộc Quân đội nhân dân Lào

Phương pháp khảo sát: phát phiếu điều tra

Đối tượng điều tra: Hạ sĩ quân, chiến sĩ

Tổng số người điều tra: 200 đồng chí

KẾT QUẢ

TT

NỘI DUNG ĐIỀU TRA

PHƯƠNG ÁN TRẢ LỜI

Tổng số

Tỷ lệ %

160

80%

- Rất quan trọng

34

17%

- Quan trọng

1

6

3%

- Bình thường

Nhận thức của hạ sĩ quân, chiến sĩ về vị trí, vai trò công tác dân vận ở đơn vị cơ sở trong Quân đội nhân dân Lào

0

0%

- Không quan trọng

90

45%

- Thường xuyên

98

49%

- Từng đợt tiến hành

2

12

6%

- Không thường xuyên

Nhận thức của hạ sĩ quân, chiến sĩ về mức độ tiến hành công tác dân vận của đơn vị

0

0%

- Không tiến hành

47

23%

- Của lãnh đạo, chỉ huy các cấp

46

23%

- Của Phòng Chính trị

3

52

26%

- Của cán bộ chính trị

Nhận thức của hạ sĩ quân, chiến sĩ về trách nhiệm công tác dân vận của các Sư đoàn

55

27%

- Tất cả các tổ chức và các lực lượng của Sư đoàn

61

30%

- Tốt

75

37%

- Khá

4

57

28%

- Trung bình

Nhận thức, khả năng của Hạ sĩ quân, chiến sĩ trong thực hiện nhiệm vụ công tác dân vận

7

3%

- Kém

186

76

38%

- Tiếp xúc, đối thoại với nhân dân

54

27%

5

- Giao lưu gặp mặt với nhân dân

Nhận thức của hạ sĩ quân, chiến sĩ về hình thức hoạt động công tác dân vận

24

12%

- Tuyên truyền miệng

- Lao động giúp nhân dân

46

23%

- Tự hào và phấn khởi

118

59%

62

31%

- Bình thường

6

16

8%

- Được giao thì phải làm

Nhận thức của hạ sĩ quân, chiến sĩ khi được cấp trên giao nhiệm vụ làm công tác dân vận

4

2%

- Không muốn làm

104

52%

- Sẽ thực hiện tốt nhiệm vụ của trên giao cho

83

41%

- Vừa làm, vừa rút kinh nghiệm

7

13

6%

Nhận thức của hạ sĩ quân, chiến sĩ khi được cấp trên giao nhiệm vụ làm đội trưởng công tác dân vận tại địa phương

- Ngần ngại vì khó thực hiện

- Không giám làm

0

0%

126

63%

- Hiểu rõ và sử dụng có hiệu quả cao

- Bình thường

54

27%

8

20

10%

- Hiệu quả thấp so với học qua các nhà trường

Kiến thức đã học qua các nhà trường trong quân đội đã giúp hạ sĩ quân, chiến sĩ hiểu biết và vận dụng vào trong quá trình thực hiện công tác dân vận

- Khó trả lời

0

0%

29

14%

- Ngân sách đầu tư

21

10%

- Vật chất, phương tiện, kỹ thuật

9

- Lực lượng

27

13%

Những yếu tố quan trọng trong hoạt động thực hiện công tác dân vận

143

71%

- Quan trọng cả 3 vấn đề ở trên