intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Thạc sĩ Luật học: Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:106

18
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án Thạc sĩ Luật học "Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam" trình bày các nội dung: Một số vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội; Thực tiễn thực hiện quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Thạc sĩ Luật học: Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam

  1. VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI ĐÀO TRUNG ĐỨC QUYỀN KHÔNG BUỘC PHẢI ĐƯA RA LỜI KHAI CHỐNG LẠI CHÍNH MÌNH HOẶC BUỘC PHẢI NHẬN MÌNH CÓ TỘI CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2023
  2. VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI ĐÀO TRUNG ĐỨC QUYỀN KHÔNG BUỘC PHẢI ĐƯA RA LỜI KHAI CHỐNG LẠI CHÍNH MÌNH HOẶC BUỘC PHẢI NHẬN MÌNH CÓ TỘI CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn: PGS.TS.Mai Đắc Biên. Hà Nội - 2023
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Mai Đắc Biên. Các kết quả nghiên cứu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu trong Luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đúng theo quy định. Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này. Tác giả luận văn (Ký, ghi rõ họ tên) Đào Trung Đức
  4. LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên em xin gửi lời cảm ơn tới tất cả các thầy, cô giáo trong Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, những người đã dạy dỗ, chỉ bảo và giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập. Em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới thầy PGS.TS Mai Đắc Biên - Phó hiệu trưởng nhà trường đã giúp đỡ em trong suốt thời gian nghiên cứu và hoàn thành luận văn này. Cảm ơn những ý kiến đóng góp của thầy đã giúp em hoàn thiện đề tài một cách tốt nhất. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn VKSND tối cao, TAND tối cao đã tạo điều kiện thuận lợi hỗ trợ em trong suốt quá trình nghiên cứu tài liệu, hồ sơ và tìm kiếm số liệu. Hà Nội, ngày tháng năm 2023 Tác giả luận văn Đào Trung Đức
  5. DANH MỤC CÁC TỪ NGỮ VIẾT TẮT Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, BLTTHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2021 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi BLHS năm 2015 bổ sung năm 2017 CQĐT CQĐT ĐTV ĐTV KSV KSV Tố tụng hình sự TTHS Tòa án nhân dân TAND Viện kiểm sát nhân dân VKSND VAHS VAHS
  6. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN LỜI CẢM ƠN DANH MỤC CÁC TỪ NGỮ VIẾT TẮT MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN KHÔNG BUỘC PHẢI ĐƯA RA LỜI KHAI CHỐNG LẠI CHÍNH MÌNH HOẶC BUỘC PHẢI NHẬN MÌNH CÓ TỘI CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI..............................................................................................................................7 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội ..............7 1.1.1. Khái niệm ..........................................................................................................7 1.1.2. Đặc điểm .........................................................................................................11 1.1.3. Ý nghĩa ............................................................................................................14 1.2. Quy định của pháp luật quốc tế và một số quốc gia trên thế giới về quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội ..........................................................................................................................16 1.2.1. Quy định của pháp luật quốc tế ......................................................................16 1.2.2. Quy định của pháp luật một số quốc gia ........................................................17 1.3. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội .................................................................................................................20 1.3.1. Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội được ghi nhận trực tiếp thông qua các quy định về quyền của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo ............................23 1.3.2. Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội được thể hiện rõ trong hoạt động lấy lời khai, hỏi cung trong giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, trong thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa xét xử................................................32
  7. 1.3.3. Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội được thể hiện rõ trong việc bị can, bị cáo khiếu nại vi phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng, kháng cáo quyết định, bản án của Tòa án .................................................................................................................35 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................36 Chương 2. THỰC TIỄN THỰC HIỆN QUYỀN KHÔNG BUỘC PHẢI ĐƯA RA LỜI KHAI CHỐNG LẠI CHÍNH MÌNH HOẶC BUỘC PHẢI NHẬN MÌNH CÓ TỘI ........................................................................................................37 2.1. Thực tiễn thực hiện quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của các cơ quan tiến hành tố tụng .......37 2.1.1. Kết quả thực hiện quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của các cơ quan tiến hành tố tụng ......................37 2.1.2. Kết quả sử dụng quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội ...........................................39 2.2. Những tồn tại, thiếu sót trong việc thực hiện quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội ..............................................................................................................................42 2.2.1. Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội theo quy định của pháp luật chưa được người tiến hành tố tụng thực hiện một cách hiệu quả, thống nhất. .....................................42 2.2.2. Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội được người bị buộc tội sử dụng chưa hiệu quả hoặc bị lạm dụng45 2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót ...................................................46 2.3.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự còn bất cập ......................................46 2.3.2. Cơ quan tiến hành tố tụng chưa thực hiện nghiêm túc quy định của pháp luật để bảo đảm thực hiện quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội ..............................................................................48 2.3.3. Người bị buộc tội chưa nhận thức đầy đủ về quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội ...................................49
  8. 2.3.4. Công tác kiểm tra, giám sát của các cơ quan dân cử và của nhân dân đối với việc thực hiện quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội chưa được chú trọng, quan tâm triệt để ................................50 2.3.5. Điều kiện cơ sở vật chất chưa đáp ứng được yêu cầu ....................................51 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................52 Chương 3. YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO THỰC HIỆN QUYỀN KHÔNG BUỘC PHẢI ĐƯA RA LỜI KHAI CHỐNG LẠI CHÍNH MÌNH HOẶC BUỘC PHẢI NHẬN MÌNH CÓ TỘI CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI ....53 3.1. Yêu cầu đảm bảo thực hiện quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội ............53 3.1.1. Yêu cầu cải cách tư pháp trong lĩnh vực hình sự ............................................53 3.1.2. Yêu cầu đảm bảo thi hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội ...........................................................................................54 3.1.3. Yêu cầu bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội ...............55 3.1.4. Yêu cầu thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm .......................................56 3.2. Giải pháp đảm bảo thực hiện quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội .................................................57 3.2.1. Hoàn thiện quy định của pháp luật .................................................................57 3.2.2. Bồi dưỡng nâng cao trình độ, nghiệp vụ, nhận thức về trách nhiệm của người tiến hành tố tụng ........................................................................................................59 3.2.3. Phát triển, nâng cao trình độ của đội ngũ luật sư đáp ứng yêu cầu tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý ...................................................................61 3.2.4. Nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật về quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mính hoặc buộc phải nhận mình có tội cho người dân ..................................................................................................................62 3.2.5. Nâng cao hiệu quả công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, hướng dẫn kịp thời những vướng mắc khó khăn và phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc thực hiện quyền ............................................................................63
  9. 3.2.6. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát trong việc thực hiện hoạt động áp dụng pháp luật tố tụng hình sự ..........................................................................................65 3.2.7. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, chế độ đãi ngộ, chính sách đối với công chức, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Thư ký Tòa án ......................................................65 KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ........................................................................................67 KẾT LUẬN ..............................................................................................................68 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC I PHỤ LỤC II PHIẾU KHẢO SÁT (1) PHIẾU KHẢO SÁT (2) PHỤ LỤC III
  10. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quyền con người là những quyền tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế. Điểm g khoản 3 Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (International Covenant on Civil and Political Rights, 1966-ICCPR 1966) mà Việt Nam đã ký kết gia nhập vào ngày 24/9/1982 thể hiện rõ ràng về quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội. Hiện nay, văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng xác định: “Hoạt động tư pháp phải bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, đấu tranh có hiệu quả với mọi loại tội phạm và vi phạm” [17, tr.59]. Hiến pháp năm 2013 có những đổi mới trong tư duy lập hiến khi lần đầu tiên ghi nhận, phân biệt rõ ràng quyền con người với các quyền của công dân. Khoản 1 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định, ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Trên tinh thần đó, pháp luật TTHS đặt ra yêu cầu bảo vệ tối đa quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong quá trình giải quyết VAHS cùng với việc phát hiện chính xác, xử lý kịp thời, đúng đắn mọi hành vi phạm tội, người phạm tội (pháp nhân thương mại phạm tội). BLTTHS năm 2015 ghi nhận thêm nhiệm vụ “góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân” tại Điều 2 so với quy định tại Điều 1 BLTTHS năm 2003. Theo đó, BLTTHS đã chú trọng đến việc tôn trọng, bảo vệ quyền con người trong quá trình giải quyết vụ án, đặc biệt là quyền của người thuộc các nhóm người dễ bị tổn thương như người bị buộc tội, người bị kết án, người khó có khả năng tự bảo vệ quyền của mình khi tham gia tố tụng, người tố giác, nhân chứng, người bị hại và những người thân thích của những người đó. Việc ghi nhận, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội trong quá trình chứng minh tội phạm có ý nghĩa quan trọng, góp phần xây dựng nền tư pháp tiến bộ, công bằng, văn minh.
  11. 2 BLTTHS năm 2015 đã bổ sung các quy định trực tiếp về quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội. Như vậy, việc vận dụng quyền này góp phần loại trừ trường hợp người bị nghi thực hiện tội phạm bị xâm phạm đến quyền con người, các quyền chính đáng của mình. Đồng thời, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm chứng minh tội phạm theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định cũng như đảm bảo việc thực hiện buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội. Pháp luật TTHS Việt Nam đã có những tiến bộ trong tư duy lập pháp về quyền con người nói chung hay quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội nói riêng. Tuy nhiên, việc áp dụng quyền này vẫn còn khó khăn và vướng mắc. Mặc dù quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội đã được nhiều tác giả nghiên cứu nhưng việc tiếp tục hoàn thiện quy định của pháp luật và phân tích cụ thể về tình hình thực tế cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo đảm thực hiện quyền này khi giải quyết VAHS trong giai đoạn năm 2018-2022 là điều cần thiết. Chính vì những lí lẽ trên, nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, tăng cường cơ chế bảo vệ quyền con người trong TTHS, hạn chế tình trạng oan, sai trong điều tra, bắt, tạm giữ, tạm giam, truy tố, xét xử, học viên lựa chọn đề tài: “Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội trong TTHS Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học. Qua đó, góp phần làm sâu sắc hơn lý luận về quyền của người bị buộc tội và vấn đề thực tiễn, đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quyền này trên thực tế. 2. Tình hình nghiên cứu Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội trong pháp luật quốc tế được các tác giả nước ngoài nghiên cứu dưới tên gọi “quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội” (The right to silence) hoặc “Đặc quyền chống lại sự tự buộc tội” (The privilege against self-incrimination) [59]. Quyền
  12. 3 không buộc phải đưa ra lời chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội trong TTHS Việt Nam được nhiều tác giả quan tâm, nghiên cứu như nhóm Luận văn thạc sĩ: Quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội trong luật TTHS Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội),(2017), Đại học quốc gia Hà Nội, Đinh Hải Ninh; Bảo vệ quyền của người bị buộc tội (người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tam giam, bị can, bị cáo) trong luật TTHS Việt Nam, (2019), Đại học quốc gia Hà Nội, Lê Tiến Quân; Nguyễn Hữu Hậu (2019), Đảm bảo quyền con người của người bị buộc tội trong hoạt động chứng minh buộc tội của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử VAHS, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội; Vũ Công Giao - Nguyễn Minh Tâm (2015), “Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội trong pháp luật quốc tế, pháp luật của một số quốc gia và Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (3); Nguyễn Vũ Linh Giang (2016), “Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội trong TTHS”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (12);… Những công trình nghiên cứu trên phần lớn tập chung vào nội dung cơ bản về quyền của người bị buộc tội nói chung; một số bài viết, công trình nghiên cứu về quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội nhưng chưa làm rõ tình hình sử dụng quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội và việc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo đảm thực hiện quyền này trong quá trình giải quyết VAHS. BLTTHS năm 2015 ra đời cùng với sự phát triển, thay đổi về kinh tế - xã hội, việc thực hiện quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội bộc lộ một số hạn chế, vướng mắc nên vấn đề tiếp tục nghiên cứu quyền này là hết sức cần thiết để bảo vệ quyền con người, quyền của người bị buộc tội trong TTHS. Từ tình hình nghiên cứu trên, việc nghiên cứu đề tài “Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội trong TTHS” là cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn.
  13. 4 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn hoàn thiện các vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội trong pháp luật TTHS Việt Nam. Đồng thời, làm rõ những bất cập, vướng mắc về quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng quyền này của người bị buộc tội trong quá trình giải quyết VAHS từ năm 2018-2022. Từ đó, học viên đưa ra những giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật, nâng cao thực hiện quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn có những nhiệm vụ cụ thể sau: - Nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề lý luận về quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội gồm khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa. - Nêu và phân tích quy định về quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội trong pháp luật TTHS quốc tế và một số quốc gia trên thế giới (Mỹ, Đức, Nhật Bản). Phân tích, đánh giá quy định của BLTTHS năm 2015, các văn bản hướng dẫn về quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội. - Nghiên cứu tình hình tội phạm, thực tiễn thực hiện quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội trong TTHS trong giai đoạn 05 năm (2018-2022). - Kiến nghị các giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện hiệu quả quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội trong TTHS. 4. Đối tượng phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu
  14. 5 Đối tượng nghiên cứu của luận văn là một số vấn đề lý luận về quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội; quy định của pháp luật TTHS quốc tế và một số quốc gia về quyền này; quy định của BLTTHS năm 2015 và thực tiễn thực hiện quyền này của người bị buộc tội từ năm 2018 đến năm 2022. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận, quy định của BLTTHS năm 2015 về quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội. Đồng thời, luận văn nghiên cứu về tình hình tội phạm (khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử) từ năm 2018-2022 trên phạm vi cả nước, tình hình thực tiễn người bị buộc tội thực hiện quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo đảm thực hiện quyền này trong TTHS. Từ đó, đưa ra các yêu cầu, các giải pháp thực hiện hiệu quả quyền không phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng nhà nước pháp quyền, về cải cách tư pháp, chính sách bảo vệ quyền con người, quyền công dân. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học pháp lý hình sự như: phân tích, đánh giá, so sánh, tổng hợp, thống kê, xã hội học… Cụ thể: - Phương pháp phân tích, tổng hợp, đánh giá, so sánh các quan điểm của các tác giả về quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội; quy định của pháp luật quốc tế và một số quốc gia; quy định của BLTTHS năm 2015 về quyền này của người bị buộc tội.
  15. 6 - Phương pháp xã hội học (lập bảng Anket), tổng hợp, phân tích, thống kê thực tiễn người bị buộc tội sử dụng quyền không phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo đảm việc thực hiện quyền này trong các VAHS. - Phương pháp phân tích, hệ thống nhằm đề xuất các giải pháp đảm bảo thực hiện quyền không phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội quá trình giải quyết VAHS. 6. Ý nghĩa của luận văn Đề tài “Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội trong TTHS” góp phần hoàn thiện một số vấn đề lý luận về người bị buộc tội, quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; đưa ra các kiến nghị khắc phục những vướng mắc của BLTTHS, nâng cao áp dụng quyền này trong thực tiễn. Qua đó, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, hạn chế tình trạng oan, sai trong TTHS. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu luật pháp hoặc phục vụ hoạt động thực tiễn trong điều tra, truy tố, xét xử VAHS. 7. Bố cục của luận văn Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn có kết cấu gồm 03 chương, gồm: Chương 1: Một số vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội Chương 2: Thực tiễn thực hiện quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội Chương 3: Yêu cầu và giải pháp đảm bảo thực hiện quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội
  16. 7 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN KHÔNG BUỘC PHẢI ĐƯA RA LỜI KHAI CHỐNG LẠI CHÍNH MÌNH HOẶC BUỘC PHẢI NHẬN MÌNH CÓ TỘI CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội 1.1.1. Khái niệm 1.1.1.1. Khái niệm người bị buộc tội Thuật ngữ pháp lý “người bị buộc tội” lần đầu tiên xuất hiện trong Hiến pháp năm 2013. Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 2013, điểm đ khoản 1 Điều 4 BLTTHS năm 2015 ghi nhận người bị buộc tội gồm: người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Đồng thời, khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015 quy định: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện…”. Một trong những điểm mới nổi bật của BLTTHS năm 2015 là ghi nhận người bị buộc tội có thể là pháp nhân thương mại thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà BLHS quy định là tội phạm. Hiện nay, nhiều tác giả đã đưa ra các quan điểm khác nhau về khái niệm người bị buộc tội như: Người bị buộc tội là người bị các cơ quan tiến hành tố tụng có đủ căn cứ nghi ngờ họ thực hiện hành vi phạm tội và với họ đã bị bắt, tạm giữ, khởi tố bị can hoặc bị Tòa án đưa ra xét xử theo quy định của pháp luật [28, tr.14]. Khái niệm chưa nêu ra trường hợp người bị buộc tội là người bị bắt, bị tạm giữ thực hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm theo BLHS, chưa nêu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp ra các quyết định tố tụng làm phát sinh địa vị pháp lý của người bị buộc tội. Đồng thời, cũng có quan điểm cho rằng, người bị buộc tội là người (cá nhân) bị cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng biện pháp tố tụng để bảo đảm cho việc
  17. 8 phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, truy cứu trách nhiệm hình sự khi có đủ căn cứ theo luật định xác định người đó có thể đã thực hiện tội phạm hoặc hành vi có dấu hiệu tội phạm mà BLHS quy định là tội phạm. Người bị buộc tội có địa vị pháp lý cụ thể là người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được pháp luật quy định tương ứng với từng giai đoạn tố tụng cụ thể [31, tr.12-13]. Theo quan điểm của học viên, người bị buộc tội còn có thể là người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại trong trường hợp thực hiện hành vi phạm tội hoặc hành vi nguy hiểm cho xã hội có dấu hiệu tội phạm theo Điều 75, 76 BLHS năm 2015. Để làm rõ khái niệm người bị buộc tội cần hiểu quy định pháp luật về người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo: Về người bị bắt. Điều 55, khoản 2 Điều 109 BLTTHS năm 2015 chưa định nghĩa người bị bắt mà chỉ quy định là người tham gia tố tụng, liệt kê các trường hợp bắt người gồm bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã, bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt người bị yêu cầu dẫn. Về người bị tạm giữ. Người bị tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ. Họ là người chưa bị khởi tố về hình sự, trừ người bị bắt theo quyết định truy nã đã bị khởi tố về hình sự được quy định tại Điều 59 BLTTHS năm 2015. Về bị can. Bị can là người hoặc pháp nhân đã bị khởi tố về hình sự. Quyền và nghĩa vụ của bị can là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định (Điều 60 BLTTHS năm 2015). Như vậy, BLTTHS có điểm mới khi việc ghi nhận pháp nhân có thể là bị can nếu có đủ căn cứ xác định pháp nhân đã thực hiện hành vi mà BLHS quy định là tội phạm. Về bị cáo. Theo Điều 61 BLTTHS năm 2015, bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Quyền và nghĩa vụ của bị cáo là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng dựa vào các tình tiết thực tế, các căn cứ pháp lý (BLHS, BLTTHS) để xác định chủ thể đã thực hiện hành vi có
  18. 9 dấu hiệu tội phạm hoặc đã thực hiện hành vi phạm tội được BLHS quy định. Từ đó, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng ban hành các quyết định tố tụng như: Lệnh bắt, quyết định tạm giữ, quyết định khởi tố bị can, quyết định truy tố, quyết định đưa vụ án ra xét xử… để xác định địa vị pháp lý và quyền, nghĩa vụ của người bị buộc tội. Ví dụ, bị cáo là người hoặc pháp nhân thương mại đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Tư cách pháp lý và quyền, nghĩa vụ của bị cáo phát sinh từ khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử (Điều 61, 277 BLTTHS năm 2015). Theo BLTTHS năm 2015, người bị buộc tội có thể bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn hoặc bị khởi tố, điều tra, truy tố, đưa ra xét xử nhưng họ chưa thể bị coi là có tội. Như vậy, người bị buộc tội chưa bị coi là người phạm tội mà là người bị nghi thực hiện tội phạm, có thể bị áp dụng các biện pháp luật định khi cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng xác định sự thật khách quan của vụ án, xử lý chính xác tội phạm, người phạm tội. Việc chứng minh tội phạm phải tuân theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định để rút ra kết luận, quyết định buộc tội, kết tội hoặc không buộc tội, kết tội. Hoạt động chứng minh tội phạm cần bảo đảm được các quyền tố tụng của người bị buộc tội và những người tham gia tố tụng khác. Từ những nội dung đã phân tích, có thể đưa ra khái niệm người bị buộc tội như sau: Người bị buộc tội là người hoặc pháp nhân thương mại (thông qua đại diện theo pháp luật) đã bị cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng nghi thực hiện tội phạm, xác lập tư cách pháp lý của họ là người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và tiến hành các hoạt động luật định để xem xét buộc tội họ. 1.1.1.2. Khái niệm nhận mình có tội của người bị buộc tội Từ điển Tiếng Việt định nghĩa nhận là “2. Chịu là có, là đúng; thừa nhận. Nhận lỗi…” [30, tr.712]. BLTTHS năm 2015 đề cập về hành vi nhận mình có tội của người bị buộc tội thông qua các quy định: Một là, hành vi tự thú, đầu thú (điểm h, i Điều 4 BLTTHS năm 2015). Theo đó, tự thú là việc người bị buộc tội tự nguyện khai báo với cơ quan, tổ chức về hành vi phạm tội của mình trước khi người bị buộc tội, hành vi phạm tội của họ bị phát
  19. 10 hiện. Đầu thú là trường hợp người bị buộc tội sau khi bị phát hiện đã tự nguyện ra trình diện và khai báo với cơ quan có thẩm quyền về hành vi phạm tội của mình. Hai là, lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, lời khai của bị can, bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố (Điều 95, 98, 309 BLTTHS năm 2015). Khi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiến hành lấy lời khai, người bị bắt, bị tạm giữ trình bày những tình tiết liên quan đến việc họ bị nghi thực hiện tội phạm. Trong quá trình hỏi cung, bị can trình bày rõ ràng, đầy đủ về những tình tiết của vụ án mà người đó đang bị tình nghi thực hiện tội phạm. Lời nhận tội chỉ có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với những chứng cứ khách của vụ án, không được dùng lời nhận tội của bị can làm chứng cứ duy nhất để buộc tội, kết tội. Ba là, khi hỏi bị cáo, bị cáo nói lời sau cùng (Điều 309, 324 BLTTHS năm 2015) tại phiên tòa sơ thẩm. Bị cáo trả lời những câu hỏi làm rõ tình tiết, chứng cứ, tài liệu, vật chứng trong vụ án của Hội đồng xét xử, Viện kểm sát, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự. Bị cáo trình bày ý kiến về bảo cáo trạng và những tình tiết của vụ án. Kết thúc tranh luận, bị cáo được nói lời sau cùng. Theo đó, bị cáo “tự nhận mình có tội” là đồng ý về tội danh và những nội dung liên quan đến việc xác định người đó có tội trong bản cáo trạng, bản luận tội của Viện kiểm sát. Như vậy, BLTTHS năm 2015 quy định việc “nhận mình có tội” của người bị buộc tội thể hiện ra ngoài bằng hình thức nói, viết (biên bản) và được thực hiện theo trình tự, thủ tục BLTTHS. Theo quan điểm của học viên, nhận mình có tội của người bị buộc tội là sự thừa nhận của người bị buộc tội về việc đã thực hiện tội phạm hoặc hành vi có dấu hiệu tội phạm mà BLHS quy định là tội phạm được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng xác minh, thu thập theo trình tự, thủ tục của BLTTHS trong quá trình giải quyết VAHS. 1.1.1.3. Khái niệm lời khai chống lại chính mình của người bị buộc tội Từ điển Tiếng Việt định nghĩa chống là “3. Hoạt động ngược lại, gây trở lực cho hành động của ai hoặc cho tác động của cái gì” [30, tr.170].
  20. 11 Trong quá trình giải quyết VAHS, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội. Theo điểm b khoản 1 Điều 87 BLTTHS năm 2015, lời khai, lời trình bày là một trong những nguồn chứng cứ để làm rõ tội phạm, người phạm tội. Lời khai của người bị buộc tội là lời trình bày của người bị bắt, người bị tạm giữ về những tình tiết liên quan đến việc họ bị tình nghi thực hiện tội phạm; lời khai của bị can, bị cáo về những tình tiết của vụ án. Người bị buộc tội có quyền chủ động, tự nguyện khi khai báo về những vấn đề liên quan đến vụ án nhưng không buộc phải trả lời những câu hỏi, yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng khi cho rằng việc trả lời có khả năng dẫn đến hậu quả pháp lý bất lợi cho quyền và lợi ích của họ [39, tr. 43]. Như vậy, có thể hiểu, lời khai chống lại chính mình của người bị buộc tội là lời trình bày của người bị buộc tội chứa đựng những tình tiết, thông tin, chứng cứ về VAHS có thể dẫn đến hậu quả pháp lý bất lợi cho họ. Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội trong TTHS: Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội trong TTHS là quyền của người bị buộc tội mà theo đó họ được tự do ý chí trình bày hoặc không trình bày lời khai của mình về nội dung, tình tiết, sự kiện của vụ án mà người đó cho rằng có thể dẫn đến hậu quả pháp lý bất lợi, khiến họ có nguy cơ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. 1.1.2. Đặc điểm - Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội là quyền con người của người bị buộc tội trong TTHS Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội thể hiện nguyên tắc đảm bảo quyền con người trong TTHS. Quyền con người của người bị buộc tội trong TTHS bao gồm nhiều
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2