Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o

Tr−êng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n Tr−êng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n Tr−êng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n Tr−êng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n (cid:1)(cid:1)(cid:1)(cid:1)

Hµ THÞ THU

THU HóT Vµ Sö DôNG NGUåN VèN Hç TRî PH¸T TRIÓN CHÝNH THøC (ODA) VµO PH¸T TRIÓN N¤NG NGHIÖP Vµ N¤NG TH¤N VIÖT NAM: NGHI£N CøU T¹I VïNG DUY£N H¶I MIÒN TRUNG

KINH TÕ N¤NG NGHIÖP Chuyªn ngµnh: KINH TÕ N¤NG NGHIÖP Chuyªn ngµnh: KINH TÕ N¤NG NGHIÖP KINH TÕ N¤NG NGHIÖP Chuyªn ngµnh: Chuyªn ngµnh:

M· sè: M· sè: M· sè: M· sè:

62.62.01.15 62.62.01.15 62.62.01.15 62.62.01.15

Người hướng dẫn khoa học:

1. GS.TS Hoµng Ngäc ViÖt

2. PGS.TS Vò ThÞ Minh

Hµ néi, n¨m 2014

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng: Luận án tiến sĩ “Thu hút và sử dụng

nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) vào phát triển nông

nghiệp và nông thôn Việt Nam: nghiên cứu tại vùng Duyên hải

Miền Trung” là công trình nghiên cứu độc lập, do chính tôi hoàn

thành. Các tài liệu, trích dẫn trong luận án là trung thực, có nguồn

gốc rõ ràng.

Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan trên!

Hà Nội, ngày tháng năm 2014

Nghiên cứu sinh

Hà Thị Thu

ii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................... i

MỤC LỤC ................................................................................................................. ii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ...................................................................... v

DANH MỤC BẢNG BIỂU, BIỂU ĐỒ VÀ HÌNH VẼ ......................................... vi

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VÀ KHUNG

NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI ........................................................................................... 7

1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan mật thiết đến đề tài luận án ........... 7

1.1.1. Tình hình nghiên cứu về thu hút và sử dụng ODA ở các nước và các tổ

chức trên thế giới .................................................................................................... 7

1.1.2. Tình hình nghiên cứu về thu hút và sử dụng ODA ở Việt Nam ............... 10

1.1.3. Tổng kết các nghiên cứu trong và ngoài nước và xác định hướng nghiên cứu . 13

1.2. Nội dung và phương pháp nghiên cứu được sử dụng .............................. 14

CHƯƠNG 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CƠ BẢN VỀ

THU HÚT VÀ SỬ DỤNG ODA VÀO NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN

NÔNG THÔN ......................................................................................................... 18

2.1. Khái niệm và đặc điểm của Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) .......... 18

2.1.1. Khái niệm ODA ........................................................................................ 18

2.1.2. Phân loại ODA và các nhà tài trợ ODA .................................................... 23

2.1.3. Đặc điểm và các ưu, nhược điểm của ODA .............................................. 28

2.2. Vai trò của ODA đối với nông nghiệp và nông thôn ................................ 35

2.2.1. ODA góp phần công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ......... 36

2.2.2. ODA tác động tới đổi mới tư duy và phương thức sản xuất, chế biến nông

sản theo hướng thị trường .................................................................................... 37

2.2.3. ODA góp phần thúc đẩy đa dạng hóa nông nghiệp .................................. 38

2.2.4. ODA góp phần thực hiện chiến lược tăng trưởng toàn diện và xóa đói

giảm nghèo của Chính phủ ................................................................................... 39

iii

2.2.5. ODA góp phần phòng chống và giảm thiểu thiệt hại thiên tai, thích ứng

với biến đổi khí hậu. ............................................................................................. 40

2.2.6. ODA góp phần nâng cao năng lực quản lý và chuyên môn ...................... 41

2.3. Quy trình và tiêu chí đánh giá thu hút và sử dụng ODA vào nông nghiệp

và PTNT ................................................................................................................ 42

2.3.1. Quy trình thu hút và sử dụng ODA vào Nông nghiệp và PTNT .............. 42

2.3.2. Tiêu chí đánh giá thu hút và sử dụng ODA vào nông nghiệp và PTNT ... 46

2.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới thu hút và sử dụng ODA .............................. 49

2.4.1. Các nhân tố khách quan ............................................................................ 49

2.4.2. Các nhân tố chủ quan ................................................................................ 50

2.5. Kinh nghiệm của một số quốc gia về thu hút và sử dụng ODA trong phát

triển nông nghiệp và nông thôn .......................................................................... 52

2.5.1. Những kinh nghiệm thành công trong thu hút và sử dụng ODA .............. 52

2.5.2. Những kinh nghiệm từ sự không thành công trong sử dụng ODA ........... 55

2.5.3. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam .................................................... 57

CHƯƠNG 3 THỰC TRẠNG THU HÚT VÀ SỬ DỤNG ODA VÀO PHÁT

TRIỂN NÔNG NGHIỆP VÀ NÔNG THÔN TẠI VIỆT NAM VÀ VÙNG

DUYÊN HẢI MIỀN TRUNG ................................................................................ 58

3.1. Khái quát về nông nghiệp, nông thôn Việt Nam và đặc điểm vùng Duyên

Hải Miền Trung ................................................................................................... 58

3.1.1. Khái quát về nông nghiệp nông thôn Việt Nam........................................ 58

3.1.2. Đặc điểm vùng Duyên hải Miền Trung .................................................... 63

3.2. Tổng quan tình hình thu hút, sử dụng nguồn vốn ODA vào phát triển

nông nghiệp và nông thôn tại Việt Nam ............................................................ 71

3.2.1. Tình hình cam kết và giải ngân ODA tại Việt Nam thời kỳ 1993-2012 ... 71

3.2.2. Tình hình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA vào phát triển nông nghiệp

và nông thôn Việt Nam thời kỳ 1993-2012 ......................................................... 75

3.3. Thực trạng thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA vào phát triển nông

nghiệp và nông thôn vùng Duyên hải Miền Trung ........................................... 88

iv

3.3.1. Thực trạng thu hút ODA vào phát triển nông nghiệp, nông thôn vùng

Duyên hải Miền Trung ......................................................................................... 88

3.3.2. Thực trạng sử dụng ODA vào phát triển nông nghiệp, nông thôn vùng

Duyên hải Miền Trung ......................................................................................... 96

3.3.3. Đánh giá chung thực trạng thu hút và sử dụng ODA vào Phát triển nông

nghiệp, nông thôn vùng Duyên hải Miền Trung ................................................ 110

3.4. Các vấn đề cần giải quyết trong thu hút và sử dụng ODA phát triển nông

nghiệp và nông thôn Việt Nam và vùng Duyên hải Miền Trung đến năm 2020 .. 121

CHƯƠNG 4 ĐỊNH HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU THU HÚT

VÀ SỬ DỤNG ODA VÀO PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP VÀ NÔNG THÔN

VIỆT NAM VÀ VÙNG DUYÊNHẢI MIỀN TRUNG ĐẾN NĂM 2020 ......... 124

4.1. Định hướng phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam nói chung và vùng

Duyên hải Miền Trung nói riêng đến năm 2020 và nhu cầu nguồn vốn ODA ..... 124

4.1.1. Khái quát bối cảnh phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam đến năm 2020 ... 124

4.1.2. Mục tiêu và định hướng phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam đến

năm 2020 ............................................................................................................ 128

4.1.3. Định hướng phát triển nông nghiệp, nông thôn vùng Duyên hải Miền Trung ... 131

4.1.4. Nhu cầu vốn đầu tư phát triển nông nghiệp và nông thôn Việt Nam và

vùng Duyên hải Miền Trung .............................................................................. 132

4.2. Các giải pháp nhằm thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA cho phát triển nông

nghiệp, nông thôn Việt Nam và vùng Duyên hải Miền Trung đến năm 2020 .... 135

4.2.1. Nhóm giải pháp vĩ mô ............................................................................. 135

4.2.2. Nhóm giải pháp về tổ chức, thực hiện .................................................... 154

4.3. Một số kiến nghị với Nhà nước và cộng đồng các Nhà tài trợ .............. 163

4.3.1. Kiến nghị với Nhà nước .......................................................................... 163

4.3.2. Kiến nghị với Nhà tài trợ ........................................................................ 164

KẾT LUẬN ........................................................................................................... 166

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ............................... 168

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 169

PHỤ LỤC

v

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ADB Ngân hàng Phát triển Châu Á

ASEAN Hiệp hội các nước Đông Nam Á

DAC Ủy ban hỗ trợ phát triển

DCs Các nước đang phát triển

DHMT Duyên hải miền Trung

EU Liên minh Châu Âu

F/S Nghiên cứu tiền khả thi

FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài

GDP Tổng sản phẩm quốc nội

GNP Tổng sản phẩm quốc dân

GTGT Giá trị gia tăng

IMF Quỹ Tiền tệ Quốc tế

IRR Tỷ suất hoàn vốn nội bộ

JICA Cơ quan hợp tác Quốc tế Nhật Bản

KFW Ngân hàng Tái thiết Đức

KTXH Kinh tế Xã hội

LDCs Các nước kém phát triển

NGO Tổ chức phi Chính phủ

NPV Giá trị hiện tại thuần

NSNN Ngân sách Nhà nước

ODA Hỗ trợ Phát triển Chính thức

OECD Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế

PTNT Phát triển nông thôn

TA Hỗ trợ kỹ thuật

WB Ngân hàng Thế giới

WTO Tổ chức Thương mại Thế giới

XHCN Xã hội Chủ nghĩa

vi

DANH MỤC BẢNG BIỂU, BIỂU ĐỒ VÀ HÌNH VẼ

Danh mục bảng: Bảng 3.1: GDP của Vùng Duyên hải Miền Trung giai đoạn 2007- 2010 ................ 66

Bảng 3.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Vùng Duyên hải Miền Trung 2007 - 2010 .. 67

Bảng 3.3. Tăng trưởng giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản toàn Vùng năm 2008 – 2010 ..... 69

Bảng 3.4: Nguồn vốn ODA lĩnh vực NN&PTNT theo nhà tài trợ thời kỳ 1993-2012 ... 79

Bảng 3.5. Tình hình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA theo quy mô dự án thời kỳ

1993-2012 ................................................................................................................. 80

Bảng 3.6. Nguồn vốn ODA cho phát triển nông nghiệp và nông thôn ................... 89

phân theo vùng thời kỳ 1993-2012 ........................................................................... 89

Bảng 3.7. Đánh giá năng lực chuẩn bị, đàm phán và ký kết dự án ODA ................ 96

trong lĩnh vực Nông nghiệp và PTNT ...................................................................... 96

Bảng 3.8. Đánh giá năng lực quản lý và thực hiện dự án của các Ban quản lý dự án

ODA trong lĩnh vực nông nghiệp và PTNT ........................................................... 100

Bảng 3.9. Kết quả giảm nghèo thời kỳ 1993-2012 vùng Duyên hải Miền Trung . 111

Bảng 3.10. Kết quả phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn vùng Duyên hải Miền

Trung đến năm 2011 ............................................................................................... 112

Bảng 3.11. Kết quả khảo sát nguyên nhân chậm giải ngân của các dự án phát triển

nông nghiệp và nông thôn tại vùng DHMT ........................................................... 120

Bảng 4.1. Nhu cầu vốn đầu tư và vốn ODA cho phát triển nông nghiệp, nông thôn

Việt Nam và vùng Duyên hải Miền Trung đến năm 2020 ..................................... 133

Bảng 4.2. Tổng hợp ý kiến đánh giá về các đề xuất giải pháp thu hút và sử dụng có

hiệu quả nguồn vốn ODA ....................................................................................... 139

vii

Danh mục biểu đồ: Biểu đồ 2.1. ODA cung cấp cho các khu vực trên thế giới ...................................... 20

Biểu đồ 2.2. ODA cho nông nghiệp và phát triển nông thôn trên Thế giới ............ 36

Biểu đồ 3.1. Tỷ lệ hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản vùng DHMT năm 2006 và 2011 .. 65

Biểu đồ 3.2.Tổng vốn ODA cam kết, ký kết, giải ngân thời kỳ 1993-2012 tại Việt Nam .. 71

Biểu đồ 3.3. Cam kết, ký kết, giải ngân ODA thời kỳ 1993-2012 tại Việt Nam ..... 72

Biểu đồ 3.4. Tỷ trọng ODA vốn vay trong tổng vốn ODA giai đoạn 1993-2012 .... 72

Biểu đồ 3.5. ODA ký kết phân theo vùng ................................................................ 73

Biểu đồ 3.6. Tỷ lệ ODA phân theo vùng .................................................................. 74

Biểu đồ 3.7. Cam kết vốn ODA của các nhà tài trợ thời kỳ 1993-2012 .................. 74

Biểu đồ 3.8. Cơ cấu ODA ký kết theo ngành và lĩnh vực thời kỳ 1993-2012 ......... 76

Biểu đồ 3.9. Nguồn vốn ODA ký kết phân theo lĩnh vực nông nghiệp và phát triển

nông thôn, thời kỳ 1993-2012 .................................................................................. 77

Biểu đồ 3.10. Đánh giá sự hài hòa về khung thể chế quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA . 84

Biểu đồ 3.11. Diễn biến ODA qua các năm theo 5 lĩnh vực nông nghiệp và PTNT ..... 85

Biểu đồ 3.12: Phân bổ vốn ODA lĩnh vực NN&PTNT theo vùng thời kỳ 1993-2012 ... 88

Biểu đồ 3.13. Đánh giá sự phù hợp của dự án ODA với nhu cầu thực tế ................ 92

Biểu đồ 3.14: Đánh giá quy trình thẩm định và phê duyệt dự án ............................. 95

Biểu đồ 3.15: Tổng hợp kết quả báo cáo giám sát và đánh giá Dự án ODA ......... 102

Biểu đồ 3.16. Nhận thức của người hưởng lợi về ODA tại vùng DHMT .............. 117

viii

Danh mục hình vẽ:

Hình 1.1. Khung nghiên cứu của Luận án ................................................................ 16

Hình 3.1. Bản đồ Vùng Duyên hải Miền Trung ....................................................... 64

Hình 3.2. Cơ cấu bộ máy quản lý nhà nước về vốn ODA tại Việt Nam .................. 97

Hình 3.3. Đánh giá nguyên nhân sử dụng vốn ODA chưa hiệu quả của Nhà tài trợ .... 119

Hình 4.1. Mô hình tổ chức Ban quản lý dự án chuyên nghiệp đề xuất cho Vùng

Duyên Hải Miền Trung .......................................................................................... 142

1

MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài

Cách đây 20 năm, vào ngày 8/11/1993, Hội nghị bàn tròn về ODA dành cho

Việt Nam đã được tổ chức tại Paris, thủ đô nước Pháp. Sự kiện quan trọng này

chính thức đánh dấu cho sự mở đầu mối quan hệ hợp tác phát triển giữa Việt Nam,

một đất nước đang trên con đường đổi mới, với cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế.

Từ đó đến nay, “Việt Nam đã chứng kiến những đổi thay toàn diện trong đời sống

kinh tế và xã hội, đất nước đã đạt được nhiều thành tựu phát triển nổi bật với tốc độ

tăng trưởng GDP trung bình năm khoảng 7% trong suốt hai thập kỷ. Việt Nam đã

trở thành nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình vào năm 2010, mức thu nhập bình quân đầu người hiện nay là 1.600 USD”1 và “Tỷ lệ nghèo đói đã giảm

xuống còn 10% vào năm 2012, hơn 30 triệu người Việt Nam đã thoát khỏi đói

nghèo, các chỉ số xã hội cũng đã tốt hơn so với nhiều nước có trình độ phát triển tương đồng”2. Hiện nay, có khoảng 51 nhà tài trợ, trong đó có 28 nhà tài trợ song

phương và 23 nhà tài trợ đa phương đang hoạt động, cung cấp nguồn ODA không

hoàn lại và vốn vay ưu đãi cho nhiều ngành, nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội của Việt

Nam. Tổng vốn ODA ký kết trong các điều ước quốc tế cụ thể từ năm 1993 đến

2012 đạt trên 58,4 tỷ USD, bằng 71,69% tổng vốn ODA cam kết, trong đó vốn vay

ưu đãi đạt 51,6 tỷ USD (chiếm khoảng 88,4%), vốn ODA không hoàn lại đạt 6,76 tỷ

USD (chiếm khoảng 11,6%). Trong hai thập kỷ qua, tổng vốn ODA giải ngân đạt

37,59 tỷ USD, chiếm trên 66,92% tổng vốn ODA ký kết. “Nguồn vốn ODA đã hỗ

trợ hiệu quả cho Việt Nam trong việc hoàn thiện hệ thống chính sách, tăng cường

năng lực thể chế, cải cách hành chính, chuyển đổi nền kinh tế, hội nhập kinh tế quốc

tế; phát triển nguồn nhân lực; chuyển giao công nghệ, kiến thức và kinh nghiệm

quản lý tiên tiến, qua đó, góp phần nâng cao năng lực sản xuất và khả năng cạnh

1 Phát biểu của Ông Bùi Quang Vinh, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đàu tư tại Lễ kỷ niệm 20 năm quan hệ hợp tác phát triển giữa Việt Nam và các nhà tài trợ 2 Phát biểu của Bà Victoria Kwakwa, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam tại Lễ kỷ niệm 20 năm quan hệ hợp tác phát triển giữa Việt Nam và các nhà tài trợ

tranh của một số ngành kinh tế, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để thúc đẩy

2

thương mại, đầu tư và phát triển khu vực kinh tế tư nhân; tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế”3.

Ở Việt Nam, lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn kết hợp xóa đói

giảm nghèo là lĩnh vực được ưu tiên sử dụng vốn ODA. Vốn ODA cho lĩnh vực này

chỉ đứng sau các lĩnh vực Giao thông vận tải & Bưu chính viễn thông và Năng

lượng & Công nghiệp. Trong thời kỳ 1993-2012, tổng nguồn vốn ODA ký kết cho

ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam kết hợp xóa đói giảm nghèo

đạt trên 8,85 tỷ USD (bao gồm vốn vay 7,43 tỷ USD, vốn viện trợ không hoàn lại

1,42 tỷ USD). Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan chủ quản chính

các chương trình, dự án ODA với tổng vốn 5,89 tỷ USD, trong đó có 3,43 tỷ USD

vốn vay (chiếm 58,23%) và 2,46 tỷ USD vốn viện trợ không hoàn lại (chiếm

41,77%). Cũng trong 20 năm qua, vùng Duyên hải Miền Trung luôn được xem là

vùng ưu tiên của các nhà tài trợ lớn như WB, ADB, JICA, tỷ lệ huy động vốn của

Vùng luôn chiếm khoảng 40% tổng vốn ODA của cả nước

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, quá trình thu hút, quản lý và sử dụng

ODA trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn nói chung và ở vùng

Duyên hải Miền Trung nói riêng vẫn còn nhiều bất cập và hạn chế. Chẳng hạn như

năng lực hấp thu viện trợ chưa cao, tiến độ thực hiện và giải ngân vốn ODA còn

chậm so với kế hoạch, thủ tục trong nước vẫn còn phức tạp, khác biệt với quy định

của các nhà tài trợ quốc tế,… Trong khi đó, Nghị định số 38/2013/NĐ-CP về quản

lý và sử dụng nguồn Hỗ trợ phát triển chính thức và nguồn vốn vay ưu đãi của các

nhà tài trợ đã xác định nông nghiệp và phát triển nông thôn tiếp tục là một trong

chín lĩnh vực được ưu tiên sử dụng các nguồn vốn này. Mặt khác, từ khi Việt Nam

trở thành quốc gia có mức thu nhập trung bình, nguồn vốn ODA với Việt Nam sẽ

thay đổi cả về số lượng và tính chất tài trợ. Để tiếp tục thu hút và sử dụng có hiệu

quả nguồn ODA đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn trong

3 Phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Lễ kỷ niệm 20 năm quan hệ hợp tác phát triển giữa Việt Nam và các nhà tài trợ ngày 17/10/ 2013,

những năm tới, vấn đề cần thiết là phải đánh giá đúng thực trạng thu hút và sử dụng

3

ODA trong lĩnh vực này để có các giải pháp cụ thể, phù hợp. Qua nghiên cứu tổng

quan cho thấy đã có một số công trình nghiên cứu về ODA trong lĩnh vực nông

nghiệp, nông thôn trước năm 2010, chưa có đề tài nghiên cứu cho giai đoạn sau đó

khi Việt Nam trở thành nước có mức thu nhập trung bình tính chất hỗ trợ ODA có

nhiều thay đổi. Đặc biệt là chưa có nghiên cứu đề tài này tại vùng DHMT một cách

cụ thể. Vì vậy, Nghiên cứu sinh đã lựa chọn đề tài“Thu hút và sử dụng nguồn vốn hỗ

trợ phát triển chính thức (ODA) vào phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam:

Nghiên cứu tại vùng Duyên hải Miền Trung”, để nghiên cứu làm luận án tiến sĩ, với

mong muốn góp phần vào việc giải quyết vấn đề cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn

về huy động, sử dụng nguồn vốn ODA cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.

2. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu

2.1. Mục tiêu nghiên cứu

Trên cơ sở luận giải các cơ sở khoa học và phân tích thực trạng thu hút và sử

dụng ODA vào nông nghiệp và PTNT tại Việt Nam nói chung và vùng Duyên hải

Miền Trung nói riêng từ đó đề xuất phương các định hướng và các giải pháp nhằm

tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng ODA vào nông nghiệp và PTNT

Việt Nam và vùng DHMT thời kỳ 2013-2020. Các mục tiêu cụ thể của Luận án gồm:

- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và đưa ra khung lý thuyết nghiên cứu thu hút và

sử dụng nguồn vốn ODA nói chung và ODA đối với nông nghiệp và phát triển nông

thôn nói riêng.

- Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây có liên quan đến thu hút và sử

dụng ODA nói chung và ODA đối với lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn nói riêng, chỉ

ra những mặt hạn chế và bất cập của các nghiên cứu này cũng như những vấn đề chưa

được nghiên cứu và làm rõ về thu hút và sử dụng ODA vào nông nghiệp và PTNT.

- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA

vào phát triển nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam nói chung và ở vùng DHMT nói

riêng trong giai đoạn 1993-2012.

4

- Đề xuất các định hướng và hệ thống các giải pháp chủ yếu nhằm tăng

cường thu hút, nâng cao hiệu quả nguồn vốn ODA vào phát triển nông nghiệp và

nông thôn Việt Nam và vùng DHMT trong những năm tiếp theo.

2.2. Câu hỏi nghiên cứu

Luận án trả lời 4 câu hỏi nghiên cứu chính là:

- Những nhân tố nào ảnh hưởng đến thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA vào

nông nghiệp và PTNT?

- Các tiêu chí đánh giá nguồn vốn ODA đối với nông nghiệp và PTNT là gì?

- Thực trạng thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA vào nông nghiệp và PTNT

Việt Nam và vùng DHMT những năm qua như thế nào?

- Cần có các định hướng và giải pháp gì để nâng cao hiệu quả thu hút và sử

dụng nguồn vốn ODA vào nông nghiệp và PTNT Việt Nam và vùng DHMT?

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của Luận án là cơ chế, chính sách, biện pháp

tổ chức thu hút và quản lý, sử dụng nguồn vốn ODA vào nông nghiệp và phát

triển nông thôn Việt Nam nói chung, vùng DHMT nói riêng. Do việc thu hút

nguồn vốn ODA được thực hiện bằng các chính sách, cơ chế và giải pháp chủ yếu

do các Bộ/Ngành thuộc Chính phủ, nên tại vùng DHMT nghiên cứu tập trung

phân tích và đánh giá quá trình tổ chức, quản lý sử dụng nguồn vốn này trong lĩnh

vực nông nghiệp và PTNT và tác động của nó đến trình độ phát triển nông nghiệp,

nông thôn của Vùng.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu là nguồn vốn ODA được thu hút và sử dụng vào nông

nghiệp và PTNT ở Việt Nam do Bộ Nông nghiệp và PTNT quản lý (ngoại trừ các

dự án về phát triển nông thôn do các Bộ ngành khác quản lý) và nghiên cứu tại

vùng DHMT.

5

Đồng thời, Luận án cũng nghiên cứu các kinh nghiệm thành công và bài học

thất bại trong thu hút và sử dụng ODA vào nông nghiệp và PTNT từ các nước nhận

viện trợ ODA trên Thế giới.

Luận án tập trung đánh giá số liệu thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA vào

nông nghiệp và PTNT trong giai đoạn từ năm 1993 đến năm 2012, tức là từ khi

nguồn vốn ODA xuất hiện tại Việt Nam cho đến 2012.

4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

4.1. Đóng góp về mặt lý luận

Luận án đã làm rõ khái niệm, điều kiện để được công nhận là ODA, phân

loại ODA, tính chất và mặt trái của ODA, vai trò của nguồn vốn ODA đối với nông

nghiệp và PTNT, các nhân tố ảnh hưởng đến thu hút và sử dụng ODA, quy trình thu

hút và sử dụng ODA, tiêu chí đánh giá thu hút và sử dụng ODA trong nông nghiệp

và phát triển nông thôn.

4.2. Đóng góp về mặt thực tiễn, đề xuất rút ra từ kết quả nghiên cứu

- Luận án tổng kết và làm rõ một số bài học kinh nghiệm về thu hút và sử

dụng ODA vào nông nghiệp và PTNT từ các nước nhận viện trợ ODA trên thế giới,

có trình độ và lịch sử phát triển kinh tế tương đồng với Việt Nam như Thái Lan,

Trung Quốc, Đài Loan và một số nước Châu Phi.

- Luận án đã phân tích thực trạng thu hút và sử dụng ODA vào nông nghiệp và

PTNT của Bộ Nông nghiệp và PTNT nói chung và vùng DHMT nói riêng, rút ra

những thành tựu nổi bật và những điểm yếu cần khắc phục để làm cơ sở thực tiễn cho

việc đề xuất các nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng nguồn vốn

ODA vào nông nghiệp và PTNT tại Việt Nam nói chung và vùng DHMT nói riêng.

- Luận án đã phân tích và làm rõ định hướng phát triển nông nghiệp và

PTNT Việt Nam và tại vùng DHMT trong thời gian tới, từ đó xác định nhu cầu thu

hút ODA cho phát triển ngành và vùng.

6

- Luận án đã đề xuất các nhóm giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường thu hút,

nâng cao chất lượng quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA vào phát triển

ngành nông nghiệp và nông thôn những năm tiếp theo.

- Luận án đã đưa ra các kiến nghị với Nhà tài trợ và Cơ quan quản lý nhà

nước các cấp nhằm tăng cường thu hút và sử dụng ODA vào nông nghiệp và PTNT.

5. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, kết

cấu của luận án được trình bày trong 4 chương:

Chương 1: Tổng quan các công trình nghiên cứu khoa học có liên quan đến

đề tài.

Chương 2: Những vấn đề lý luận cơ bản về thu hút và sử dụng ODA cho

phát triển nông nghiệp và nông thôn của Việt Nam.

Chương 3: Thực trạng thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA vào phát triển

nông nghiệp và nông thôn tại Việt Nam và vùng DHMT.

Chương 4: Định hướng và những giải pháp chủ yếu về thu hút và sử dụng

nguồn vốn ODA vào nông nghiệp và phát triển nông thôn giai đoạn 2013 -2020.

7

CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VÀ KHUNG NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan mật thiết đến đề tài luận án

1.1.1. Tình hình nghiên cứu về thu hút và sử dụng ODA ở các nước và các

tổ chức trên thế giới

ODA ra đời sau chiến tranh Thế giới lần thứ II (năm 1943), khởi nguồn từ

Tổ chức tiền thân của OECD. Tổ chức này hình thành nhằm quản lý nguồn viện trợ

của Canada và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ trong khuôn khổ kế hoạch “Marshall

Plane” nhằm tái thiết lại Châu Âu sau chiến tranh Thế giới lần thứ II. Năm 1961,

Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế ra đời thay thế cho Tổ chức hợp tác kinh tế

Châu Âu, trong khuôn khổ hợp tác phát triển các nước thuộc tổ chức OECD, OECD

đã tiến hành thành lập ra các Uỷ ban chuyên môn nhằm điều phối toàn bộ hoạt động

của OECD, trong đó có DAC (Development Co-operation Directorate) là một trong

những Uỷ ban có nhiệm vụ hỗ trợ và cân đối toàn bộ nguồn viện trợ do các nước

thuộc OECD đóng góp tới các nước đang phát triển, giúp các nước này phát triển

kinh tế một cách bền vững.

Có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về thu hút và sử dụng hiệu quả

nguồn vốn ODA theo vùng và quốc gia chủ yếu là bài báo trên các tạp chí kinh tế,

các báo cáo của nhóm tư vấn, diễn văn họp thường niên của các nhà tài trợ. Các

công trình nghiên cứu của nước ngoài đề cập đến các nội dung sau đây:

Về khái niệm và nguồn gốc ra đời của ODA:

(1)Helmut FUHRER (1996), với nghiên cứu “A history of the development

assistance committee and the development co-operation directorate in dates, names

and figures”[62], cho thấy năm 1969, Tổ chức OECD đã đưa ra khái niệm về nguồn

vốn ODA lần đầu tiên như sau: “Nguồn vốn Phát triển chính thức (viết tắt là ODA)

là nguồn vốn hỗ trợ để tăng cường phát triển kinh tế và xã hội của các nước đang

8

phát triển; Thành tố hỗ trợ chiếm một khoảng xác định trong khoản tài trợ này”.

Như vậy, khái niệm sơ khai đã phân biệt ODA với các nguồn vốn đầu tư khác với

hai đặc điểm chính: (i) Đây là khoản hỗ trợ phát triển chính thức; (ii) Có bao gồm

thành tố hỗ trợ.

Các khái niệm sau về ODA đã bổ sung và lượng hóa tỷ lệ phần trăm thành tố

hỗ trợ là 20-30 % tùy vào Nhà tài trợ và Quốc gia nhận tài trợ. Tuy nhiên, qua thời

gian mục đích viện trợ cũng thay đổi, từ mục đích ban đầu là hàn gắn vết thương

chiến tranh, sau này là trách nhiệm của các nước giàu giúp các nước nghèo để phát

triển kinh tế - xã hội.

Về đánh giá hiệu quả của nguồn vốn ODA vào phát triển kinh tế - xã hội

của các nước đang phát triển:

(2) Các nghiên cứu của Boone (1996) [59] và Lensink và Morrissey

(2000)[66] đã tập trung đánh giá hiệu quả của nguồn vốn ODA đối với quá trình

phát triển kinh tế của các nước đang phát triển từ góc độ kinh tế vi mô, chỉ ra các

hạn chế và tác động xấu của các nước đang phát triển khi tiếp nhận nguồn vốn

ODA. Đó là việc nhận nguồn viện trợ không ổn định và không chắc chắn từ bên

ngoài đã ảnh hưởng tiêu cực đến chính sách tài chính và đầu tư của nước nhận viện

trợ. Các nghiên này đã nhấn mạnh trách nhiệm của các nhà tài trợ trong chính sách

ODA. Hơn nữa, các tác giả đã khẳng định rằng tác động của ODA là nguy hiểm và

tiêu cực đến phát triển kinh tế, phần lớn là do tham nhũng và thiếu hiệu quả trong

quá trình thực hiện nguồn vốn ODA của nước nhận viện trợ.

Đi ngược với quan điểm trên là phần đông các nhà nghiên cứu, trong đó có

các công trình nghiên cứu của:

(3) Chenery và Strout (1966 )[60] nhấn mạnh tầm quan trọng của nguồn vốn

ODA. Tác giả đã lập luận rằng hỗ trợ phát triển từ các nước giàu cho các nước đang

phát triển sẽ thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo, bằng cách cung cấp một lượng vốn cần

thiết ở giai đoạn đầu, rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của một quốc gia.

9

(4) Teboul và Moustier (2001 [73] cho thấy, lượng vốn ODA từ bên ngoài

ảnh hưởng tích cực đối với trường hợp của các nước trong tiểu vùng Sahara châu

Phi. Hỗ trợ phát triển từ nước ngoài đã tác động gia tăng tiết kiệm và tăng trưởng

GDP, góp phần phát triển kinh tế các nước tiếp nhận ODA của sáu quốc gia đang

phát triển trên biển Địa Trung Hải giai đoạn 1960-1966.

(5) SANGKIJIN, Korea Student Aid Foundation (KOSAF), South Korea

&CHEOLH.OH, Soongsil University, South Korea (2012 [72], đã nghiên cứu phân

tích hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA tại các nước nhận viện trợ, trên cơ sở phân

tích dữ liệu thu hút và sử dụng ODA tại 117 quốc gia trong suốt 28 năm 1980-2008.

Kết quả phân tích cho thấy hiệu quả kinh tế ODA của các nước đang phát triển khác

nhau tùy thuộc vào điều kiện chính trị (ví dụ, minh bạch quốc gia), và điều kiện

kinh tế của từng quốc gia (ví dụ, mức thu nhập). Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng,

một khi mức độ minh bạch của một quốc gia đạt đến một điểm nhất định, hiệu ứng

cận biên ròng kinh tế ODA cho các quốc gia giảm, thì ODA tác động có hiệu quả

đến sự phát triển kinh tế - xã hội của các Quốc gia nhận viện trợ.

(6) Tun Lin Moe[74], với nghiên cứu “An empirical investigation of

relationships between official development assistance (ODA) and human and

educational development”, đã đánh giá tác động của nguồn vốn hỗ trợ phát triển

chính thức (ODA) vào sự phát triển giáo dục và con người ở tám quốc gia được lựa

chọn tại khu vực Nam Á và chỉ ra sự khác biệt các chỉ số phát triển con người; cơ

sở hạ tầng và chất lượng giáo trình, giáo viên đã được cải thiện sau 15 năm tiếp

nhận nguồn vốn ODA.

Về những bài học kinh nghiệm trong quá trình sử dụng ODA vào phát

triển kinh tế - xã hội, trong đó có nông nghiệp và phát triển nông thôn, xóa đói

giảm nghèo:

(7) Antonio Tujan Jr (2009)[56], đã đưa ra một số bài học kinh nghiệm trong

quá trình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA là: (i) Sự cởi bỏ vô điều kiện viện trợ,

bao gồm cả viện trợ lương thực và hỗ trợ kỹ thuật nhằm tăng cường năng lực sản xuất

và đời sống của người nghèo thông qua các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ; (ii) Tăng

10

cường quyền sở hữu và trách nhiệm của địa phương bằng cách giảm dần sự phụ thuộc

của họ vào nhà tài trợ; (iii) Tăng cường hỗ trợ trực tiếp cho các tổ chức xã hội dân sự là

đối tác quan trọng về các chương trình xoá đói giảm nghèo. Tác giả đã chỉ ra cụ thể

tình hình kinh tế, chính trị của nước nhận viện trợ, khu vực, lĩnh vực thu hút và sử dụng

viện trợ và các số liệu để đánh giá hiệu qủa sử dụng từ năm 1960 đến năm 2002.

(8) Asian Development Bank (1999)[57], đã chỉ ra một trong những thành

công trong thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA ở Thái Lan là thành lập một hệ

thống quản lý, điều phối và thực hiện các chương trình, dự án đủ mạnh từ trung

ương đến địa phương, các chương trình viện trợ được tập trung ở một cơ quan là

Tổng vụ hợp tác kinh tế và kỹ thuật trực thuộc Chính phủ.

(9) Jamie Morrision, Dirk Bezemer and Catherine Arnold (November 2004)

[64] thực hiện nghiên cứu động thái nguồn vốn ODA cho nông nghiệp và phát triển

nông thôn trên thế giới giảm liên tiếp trong hai thập kỷ qua, nhằm trả lời hai câu hỏi:

(i) Tính chất và khối lượng nguồn vốn ODA viện trợ cho nông nghiệp thay đổi như

thế nào?; (ii) Nguyên nhân của sự sụt giảm nguồn vốn ODA đối với nông nghiệp và

phát triển nông thôn là gì?. Kết quả của nghiên cứu này cho thấy: (i) Tỷ trọng nguồn

vốn ODA cho nông nghiệp cao nhất chiếm 17% vào năm 1982 và giảm xuống còn

3,5% tổng vốn ODA vào năm 2002, về phân bố địa lý từ năm 1982-2002, nguồn vốn

ODA cho nông nghiệp tại Châu Phi giảm 50% và giảm 83% tại khu vực Nam và

Trung Á; (ii) Nguyên nhân giảm hỗ trợ ODA cho nông nghiệp và nông thôn là do

một số nhà tài trợ chuyển đổi trọng tâm hỗ trợ sang y tế, giáo dục và một số các quốc

gia chuyển đổi cơ cấu kinh tế sang phát triển công nghiệp và dịch vụ thay vì phát

triển nông nghiệp. Đây là một thách thức trong quá trình thu hút nguồn vốn ODA vào

phát triển nông nghiệp và nông thôn tại Việt Nam trong những năm tới.

1.1.2. Tình hình nghiên cứu về thu hút và sử dụng ODA ở Việt Nam

Bên cạnh các công trình nghiên cứu của nước ngoài về ODA, cũng đã có một số

công trình nghiên cứu khoa học, bài báo và sách đề cập đến thu hút và sử dụng nguồn

vốn ODA tại Việt Nam, có thể kể ra các một số công trình nghiên tiêu biểu sau:

11

(1)Tôn Thành Tâm (Đại học Kinh tế Quốc dân, 2005)[39] với luận án về

“Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nguồn vốn Hỗ trợ phát triển chính thức

(ODA) tại Việt Nam”, đã đề cập đến các nội dung: (i) Những vấn đề lý luận cơ bản

về hiệu quả quản lý nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA); (ii) Phân tích,

đánh giá thực trạng hiệu quả quản lý nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)

ở Việt Nam; (iii) Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nguồn vốn ODA

trong thời gian tới (đến năm 2010). Tác giả đã phân tích kinh nghiệm sử dụng

nguồn vốn ODA của các nước trên thế giới và các bài học kinh nghiệm đối với Việt

Nam về quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA. Tuy nhiên phân tích này chỉ nêu lên

kết quả của các nước trong quá trình sử dụng vốn mà không phân tích sâu các

nguyên nhân, tác giả cũng không đưa ra các khuyến nghị về chính sách, mô hình

quản lý sử dụng ODA,... của các nước sử dụng và quản lý thành công hay thất bại

nguồn vốn ODA. Tác giả đã đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nguồn

vốn ODA tại Việt Nam trong thời gian tới gồm: thành lập ngân hàng bán buôn

nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức; hoàn thiện các cơ chế, chính sách quản lý

ODA; bổ sung, sửa đổi nội dung các văn bản qui phạm pháp luật có liên quan đến

quá trình thực hiện các chương trình, dự án; và các giải pháp bổ trợ khác nhằm góp

phần nâng cao năng lực quản lý về ODA.

(2) Vũ Thị Kim Oanh (Đại học Ngoại thương, 2002) [51], với đề tài nghiên

cứu tiến sỹ “Những giải pháp chủ yếu nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn hỗ trợ phát

triển chính thức ODA”, đã phân tích, đánh giá vai trò của vốn ODA trong chiến

lược phát triển kinh tế của các nước đang và chậm phát triển; thực trạng sử dụng

vốn ODA tại Việt Nam trong những năm qua, đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm

sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA tại Việt Nam trong thời gian đến 2010 như:

cần có chiến lược thu hút và sử dụng ODA, nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện

các quy hoạch phát triển lĩnh vực kinh tế đối ngoại, bao gồm quy hoạch ODA, đẩy

nhanh tốc độ giải ngân...

Có thể nói, hai luận văn tiến sỹ nêu trên là hai công trình nghiên cứu có hệ

thống đầu tiên về các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nguồn vốn ODA tại Việt

12

Nam. Tuy nhiên, các luận án có những bất cập sau: (i) Nội dung nghiên cứu của

luận án quá rộng nên không có những phân tích và đánh giá quá trình sử dụng

nguồn vốn ODA theo ngành, lĩnh vực, nhà tài trợ và địa phương, do vậy khó có thể

có những khuyến nghị mang tính thực tiễn cao; (ii) Số liệu tại hai luận án đều là số

liệu thứ cấp và chưa phản ánh một “bức tranh đa dạng và nhiều mầu sắc”của quá

trình thu hút, sử dụng và quản lý nguồn vốn ODA tại Việt Nam; (iii) Nhóm hệ

thống giải pháp của các tác giả căn cứ vào chiến lược thu hút trong thời gian 5 năm

từ năm 2005-2010 do vậy, tính đến thời điểm hiện tại thì các nhóm giải pháp này

cần được điều chỉnh cho phù hợp.

(3) Lê Quốc Hội (2012) [63], đã dựa trên số liệu cam kết và thu hút ODA

từ năm 1993-2007 tại Việt Nam để đưa ra một số nhận định là Việt Nam sẽ

chuyển một phần lớn các khoản vay ODA ưu đãi sang khoản vay thương mại sau

năm 2010, do vậy, cần thiết phải có kế hoạch hành động như: (i) Tăng cường

nhận thức về nguồn vốn ODA; (ii) Sử dụng nguồn vốn ODA một cách có lựa

chọn; (iii) Thúc đẩy giải ngân nguồn vốn ODA để tăng cường hiệu quả sử dụng;

(iv) Tăng cường các hoạt động giám sát đánh giá và quản lý nguồn vốn ODA;

(v) Xây dựng kế hoạch dài hạn để giảm thiểu các khoản vốn vay ngắn hạn và các

điều kiện ràng buộc.

(4) Trần Thị Phương Thảo (Học viện Tài chính, 2005) [45] với nghiên cứu

‘“Các giải pháp thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn Hỗ trợ Phát triển

chính thức (ODA) tại Bộ Nông nghiệp và PTNT trong giai đoạn hiện nay”, là

nghiên cứu liên quan đến ODA cho ngành nông nghiệp, đã chỉ ra một số giải pháp

mang tính chất vĩ mô đối với Bộ Nông nghiệp và PTNT. Tuy nhiên, thời gian tác

giả đưa các giải pháp là từ năm 2006-2010, trong khi sau năm 2010 qui mô và tính

chất hỗ trợ ODA cho Việt Nam có nhiều thay đổi nên việc thu hút nguồn vốn ODA

sau năm 2010 mới là một vấn đề vô cùng khó khăn của các nhà quản lý vì Việt Nam

không còn là nước nghèo để hưởng các ưu đãi về lãi suất. Hơn nữa, các giải pháp

của tác giả không gắn với các đặc điểm của vùng miền mà tiếp cận theo ngành kinh

tế (nông nghiệp và phát triển nông thôn).

13

1.1.3. Tổng kết các nghiên cứu trong và ngoài nước và xác định hướng

nghiên cứu

Tổng quan các nghiên cứu về thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA vào nông

nghiệp và phát triển nông thôn đã nêu ra được: (i) Một số vấn đề về lý luận ODA

như khái niệm, đặc điểm, ưu nhược điểm khi tiếp nhận và sử dụng ODA; (ii) Đúc

rút một số kinh nghiệm về thu hút, sử dụng ODA của các nước trong khu vực và

thế giới; (iii) Đưa ra nhóm giải pháp vĩ mô về thu hút, quản lý và sử dụng nguồn

vốn ODA cho thời kỳ 2006-2010. Tuy nhiên, khung lý thuyết về nguồn vốn, vấn

đề thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA chưa được nghiên cứu nào đề cập một cách

toàn diện và có hệ thống, đánh giá thực trạng thu hút và giải ngân chủ yếu dựa vào

các số liệu thứ cấp, các giải pháp đưa ra chủ yếu phù hợp với điều kiện trước năm

2010 và chưa đồng bộ, đồng thời các nghiên cứu chưa dựa vào sự khảo sát trên

một vùng miền nhất định chỉ nghiên cứu trên cấp độ ngành nông nghiệp và phát

triển nông thôn nên chưa đưa ra được giải pháp cụ thể, sát thực.

Tác giả nhận thấy rằng, một nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện hơn cả về

lý luận và thực tiễn về ODA, thu hút và sử dụng ODA vào nông nghiệp và phát

triển nông thôn giai đoạn 1993-2012 và những năm tiếp theo, nhằm đánh giá đúng

được thực trạng và cung cấp thông tin hữu ích cho các nhà tài trợ và nhà quản lý,

đồng thời đề xuất định hướng và giải pháp thu hút và sử dụng ODA phù hợp với

bối cảnh mới, vì vậy đề tài nghiên cứu rất cần thiết và có ý nghĩa. Để nghiên cứu

chuyên sâu các vấn đề trên, luận án tập trung vào giải quyết 04 (bốn) câu hỏi

chính: (1) Những nhân tố nào ảnh hưởng đến thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA

vào nông nghiệp và PTNT?; (2) Tiêu chí nào để đánh giá của ODA đối với nông

nghiệp và PTNT?; (3). Thực trạng thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA vào nông

nghiệp và PTNT Việt Nam và vùng DHMTnhư thế nào? và (4) Định hướng và

giải pháp nào để nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA vào nông

nghiệp và PTNT Việt Nam và vùng DHMT?

Trả lời được 4 câu hỏi trên chính là điểm nhấn và là những điểm mới của

Luận án.

14

1.2. Nội dung và phương pháp nghiên cứu được sử dụng

Luận án nghiên cứu 4 nội dung chính và các phương pháp được sử dụng

trong nghiên cứu từng nội dung như dưới đây:

Nội dung 1: Nghiên cứu tổng quan về các công trình có liên quan đến đề tài

Đối tượng nghiên cứu chính: Luận án nghiên cứu tổng quan các công trình

trong và ngoài nước có liên quan trực tiếp đến thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA

vào nông nghiệp và phát triển nông thôn.

Phương pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng phương pháp sưu tầm tổng hợp

tài liệu thứ cấp, phân tích tìm ra những nội dung đã nghiên cứu trong các công

trình trong và ngoài nước có liên quan mật thiết đến đề tài.

Mục tiêu và kết quả đạt được: Kế thừa những kết quả nghiên cứu đã có trong

và ngoài nước và tìm ra khoảng trống nghiên cứu cho luận án.

Nội dung 2: Nghiên cứu khung lý luận về ODA, thu hút và sử dụng

ODA vào nông nghiệp và PTNT

Đối tượng nghiên cứu chính, đó là: Lịch sử hình thành ODA; khái niệm

ODA; Điều kiện để khoản hỗ trợ được thừa nhận là ODA; phân loại ODA; Tính

chất của ODA và mặt trái của nó; vai trò của ODA đối với nông nghiệp, nông thôn;

các nhân tố ảnh hưởng đến thu hút và quản lý ODA; quy trình và tiêu chí đánh giá

thu hút và sử dụng ODA; một số kinh nghiệm trong và ngoài nước.

Phương pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng các phương pháp tiếp cận về hỗ

trợ phát triển, đầu tư; sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích tài liệu thứ cấp và

so sánh các quan điểm, khái niệm khác nhau của các nhà khoa học, các học giả và

các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến nguồn vốn ODA.

Mục tiêu và kết quả đạt được: Xây dựng một khung lý luận hoàn chỉnh, định

hướng và dẫn dắt nghiên cứu phân tích thực trạng và các đề xuất.

Nội dung 3: Nghiên cứu, đánh giá thực trạng thu hút và sử dụng nguồn

vốn ODA vào nông nghiệp và PTNT Việt Nam và vùng DHMT

15

Đối tượng nghiên cứu chính: Khái quát về nông nghiệp, nông thôn Việt Nam

và đặc điểm vùng DHMT; tổng quan tình hình thu hút, sử dụng ODA trong nông

nghiệp và nông thôn Việt Nam; thực trạng thu hút và sử dụng ODA vào phát triển

nông nghiệp nông thôn vùng DHMT, bao gồm các nội dung chi tiết về thực trạng

thu hút, quản lý, tổ chức bộ máy, giám sát và đánh giá, quản lý khai thác các công

trình xây dựng từ nguồn ODA, kết quả thực hiện một số dự án, đánh giá chung về

kết quả, hạn chế nguyên nhân, đồng thời xác định các vấn đề cần giải quyết.

Mục tiêu và kết quả đạt được: Mô tả bức tranh thực trạng về thu hút và quản

lý ODA trong nông nghiệp, nông thôn Việt Nam và Vùng DHMT; đặc biệt là phân

tích và chỉ rõ những kết quả tốt cần được kế thừa, những hạn chế cần khắc phục,

các vấn đề đặt ra cần giải quyết để thu hút nhiều hơn và nâng cao hiệu qủa sử dụng

ODA vào nông nghiệp và PTNT Việt Nam và vùng DHMT.

Phương pháp nghiên cứu: Trong phần này, luận án sử dụng phương pháp

phân tích kinh tế, phân tích thống kê, so sánh và tổng hợp. Đồng thời cũng sử dụng

phương pháp điều tra thu thập số liệu sơ cấp, tổng hợp và phân tích các ý kiến đánh

giá của các nhà tài trợ, các cán bộ quản lý và người hưởng lợi từ dự án ODA.

Nội dung 4: Đề xuất định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thu hút

và sử dụng nguồn vốn ODA vào Nông nghiệp và PTNT Việt Nam và vùng

DHMT, đưa ra một số kiến nghị đối với Chính phủ và đối với các nhà tài trợ.

Phương pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng phương pháp dự báo, chuyên gia,

kết hợp phân tích và tổng hợp.

Mục tiêu và kết quả đạt được: Dự báo bối cảnh nông nghiệp, nông thôn trong

và ngoài nước, xu hướng cung cấp ODA trong thời gian tới; Đề xuất các định

hướng phát triển nông nghiệp nông thôn vùng DHMT và nhu cầu vốn ODA cho

vùng; Đề xuất các nhóm giải pháp tổng thể và cụ thể có tính khả thi cao.

Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu đề tài luận án được tóm tắt trong

Hình 1.1 dưới đây.

16

PHƯƠNG PHÁP, CÔNG CỤ NGHIÊN CỨU NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CHÍNH KẾT QUẢ , MỤC TIÊU CHÍNH CẦN ĐẠT ĐƯỢC

Chương 1

- Sưu tầm - Phân tích - Tổng hợp

Tổng quan nghiên cứu thu hút, sử dụng ODA vào NN & PTNT

Xác định khoảng trống cần nghiên cứu về thu hút và sử dụng ODA vào NN&PTNT

Lý luận ODA, TH & SD ODA, đặc điểm & phân loại ODA

Khung lý thuyết ODA, thu hút & sử dụng ODA

Chương 2

Các nhân tố ảnh hưởng đến thu hút & sử dụng ODA

Đưa ra các nhân tố ảnh hưởng

- Phân tích - So sánh - Tổng hợp

Vai trò & tiêu chí đánh giá ODA đối với NN & PTNT

Đưa ra tác động & tiêu chí đánh giá

Thực trạng thu hút & sử dụng ODA vào NN & PTNT Việt Nam và vùng DHMT

- Phân tích, so sánh, phân tích thống kê

Tình hình thu hút & sử dụng

Chương 3

Điều tra, phỏng vấn theo bảng hỏi

Các vấn đề tồn tại cần giải quyết về thu hút & sử dụng ODA

- Phân tích - So sánh

Phương hướng & giải quyết

Phương hướng & giải pháp nâng cao hiệu quả thu hút & sử dụng ODA

Chương 4

Kiến nghị nâng cao hiệu quả thu hút & sử dụng ODA

- Tổng hợp - Chọn lọc

Đưa ra các kiến nghị đối với Nhà nước & Nhà tài trợ

Hình 1.1. Khung nghiên cứu của Luận án

17

Tóm lại, việc tổng quan các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước liên

quan mật thiết đến ODA, thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA vào nông nghiệp và

PTNT có ý nghĩa quan trọng đối với nghiên cứu, xây dựng cơ sở lý luận và thực

tiễn cho đề tài nghiên cứu của Luận án. Qua tổng quan và hệ thống hóa các công

trình nghiên cứu, có thể thấy chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống

và toàn diện về thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA tại Việt Nam, đặc biệt tại vùng

nghiên cứu là vùng DHMT trong giai đoạn 1993-2012, cùng với tổng quan nghiên

cứu có liên quan đến đề tài, chương một đã làm rõ mục tiêu nghiên cứu, nội dung và

phương pháp nghiên cứu của luận án.

18

CHƯƠNG 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CƠ BẢN VỀ THU HÚT VÀ SỬ DỤNG ODA VÀO NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

2.1. Khái niệm và đặc điểm của Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)

2.1.1. Khái niệm ODA

2.1.1.1. Quá trình hình thành ODA

Đại chiến Thế giới thứ II kết thúc cũng là thời điểm mở đầu cho một cuộc

chiến mới kéo dài gần nửa thế kỷ, đó là chiến tranh lạnh giữa hệ thống Xã hội Chủ

nghĩa (XHCN) và Tư bản chủ nghĩa, mà đứng đầu là Liên Xô và Hoa Kỳ, hai cường

quốc này thực thi nhiều biện pháp, đặc biệt là về kinh tế để củng cố hệ thống đồng

minh của mình.

Đối với Hoa Kỳ, nền kinh tế không những không bị tàn phá mà ngày càng

giàu có nhờ chiến tranh, năm 1945 GNP của Hoa Kỳ là 213,5 tỷ USD, bằng 40%

tổng sản phẩm toàn thế giới. Trong khi đó, các nước đồng minh của Hoa Kỳ lại chịu

tác động nặng nề của cuộc chiến tranh, sự yếu kém về kinh tế của các nước này

khiến Hoa Kỳ lo ngại trước sự mở rộng của phe XHCN; Để ngăn chặn sự phát triển

đó, giải pháp quan trọng lúc bấy giờ là giúp các nước tư bản sớm hồi phục kinh tế,

năm 1947 Hoa Kỳ triển khai kế hoạch Marshall, viện trợ ồ ạt cho các nước Tây Âu.

Từ năm 1947 đến 1951, Hoa Kỳ đã viện trợ cho các nước Tây Âu tổng cộng 12 tỷ

USD (tương đương 2,2% GDP của thế giới và 5,6% GDP của Hoa Kỳ lúc bấy giờ).

Về phía mình, Liên Xô cũng sử dụng biện pháp trợ giúp kinh tế để củng cố và gia

tăng số lượng các nước gia nhập hệ thống XHCN, với tinh thần “quốc tế vô sản”

Liên Xô đã tài trợ cho nhiều quốc gia trên thế giới, từ các nước ở châu Âu, châu Á,

đến châu Phi và Mỹ La-tinh. Năm 1991, khi Liên Xô tan rã, tổng số tiền các nước

còn nợ Liên Xô lên đến con số khổng lồ, quy đổi ra Đôla Mỹ là 120 tỷ USD.

Viện trợ của Hoa Kỳ cho các nước Tây Âu và của Liên Xô cho các nước

XHCN được coi là các khoản ODA đầu tiên, mặc dù mục tiêu chính của các khoản

19

viện trợ này là chính trị, nhưng chúng cũng đã có tác dụng nhất định giúp các nước

tiếp nhận phát triển KTXH. Đến năm 1960, trước sự đấu tranh mạnh mẽ của các

nước đang và kém phát triển, cộng với nhận thức thay đổi của các nước giàu đối với

sự phát triển của các nước nghèo, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD)

thành lập Uỷ ban Hỗ trợ phát triển (DAC), Uỷ ban này có nhiệm vụ yêu cầu,

khuyến khích và điều phối viện trợ của các nước OECD cho các nước đang và kém

phát triển. Kể từ khi bản báo cáo đầu tiên của DAC ra đời vào năm 1961, thuật ngữ

ODA được chính thức sử dụng, với ý nghĩa là sự trợ giúp có ưu đãi về mặt tài chính

của các nước giàu, các tổ chức quốc tế cho các nước nghèo.

Kể từ khi ra đời, ODA liên tục gia tăng với tốc độ khác nhau tùy từng giai

đoạn, trong những năm 1960, tổng khối lượng ODA tăng chậm đến những năm

(1970 - 1980) viện trợ từ các nước thuộc OECD đạt tốc độ tăng liên tục, giữa thập

niên 80 khối lượng viện trợ đạt mức gấp đôi đầu thập niên 70, cuối những năm 1980

đến những năm 1990 vẫn tăng nhưng với tỷ lệ thấp, đến năm 1995 viện trợ phát triển

chính thức đã đạt đến con số đỉnh điểm là trên 79 tỷ USD. Năm 1996 các nước tài trợ

OECD đã dành 0,25% tổng GDP của mình để tài trợ ODA, so với năm 1995 viện trợ

của OECD giảm 3,768 tỷ USD, lượng tài trợ ODA trong giai đoạn 1995-2009 được

thể hiện trong Biểu đồ 2.1. Theo OECD-DAC (2010), trong tổng số ODA năm 2009

đạt khoảng 165,4 tỷ USD, trong đó Châu Phi nhận $42.2 tỷ USD (chiếm 25,5%)

đứng vị trí thứ nhất, khu vực Châu Á đứng vị trí thứ hai với 38,2 tỷ USD, Châu Âu,

Trung và Nam Mỹ và khu vực khác nhận được chưa đến 4%.

Đến năm 2012, theo số liệu của câu lạc bộ Paris - câu lạc bộ gồm các chủ nợ

là các nước giàu, tổng viện trợ năm 2012 của DAC là 125,7 tỷ USD, giảm 4% so

với năm 2011 [68]. Nguyên nhân chính là do hầu hết các nước châu Âu cắt giảm chi

tiêu viện trợ, đặc biệt là các nước bị ảnh hưởng nặng nề bởi khủng hoảng kinh tế

như Ý, Tây Ban Nha, Hy Lạp, Bồ Đào Nha và Ireland. Riêng đối với Việt Nam, kể

từ khi nối lại quan hệ với các nước và tổ chức cung cấp viện trợ (năm 1993) thì các

nước viện trợ vẫn ưu tiên cho Việt Nam, ngay cả khi khối lượng viện trợ trên thế

giới giảm xuống.

20

Biểu đồ 2.1. ODA cung cấp cho các khu vực trên thế giới

2.1.1.2. Khái niệm về ODA

(Nguồn: OECD-DAC 2010)

Hỗ trợ (hay Viện trợ) nước ngoài bao gồm các dòng tài chính, trợ giúp kỹ

thuật và hàng hóa được cư dân một nước trao cho cư dân nước khác dưới hình thức

trợ cấp hay cho vay có trợ cấp bởi Chính phủ các nước, các quỹ, các tổ chức tài

chính đa phương, các doanh nghiệp hay cá nhân. Không phải mọi sự chuyển giao từ

nước giàu sang nước nghèo đều được xem là Hỗ trợ nước ngoài (Foreign Aid/

Foreign Assistance).

Hỗ trợ nước ngoài bao gồm 3 loại chính: (i) Hỗ trợ phát triển chính thức

(Official Development Assistance, ODA) là lớn nhất, bao gồm viện trợ của chính

phủ nước tài trợ (vì thế được gọi là chính thức) dành cho các nước thu nhập thấp

và trung bình; (ii) Hỗ trợ chính thức (Official Assistance, OA), là viện trợ cung

ứng bởi chính phủ các nước tài trợ dành cho những quốc gia giàu hơn; và (iii) Hỗ

trợ tự nguyện tư nhân (Private Voluntary Assistance, PVA) bao gồm trợ cấp từ các

21

tổ chức phi chính phủ, các nhóm tôn giáo, các tổ chức từ thiện, các quỹ và các

công ty tư nhân.

Năm 1972, lần đầu tiên OECD đã đưa ra khái niệm về ODA đầy đủ như sau:

“ODA là một giao dịch chính thức được thiết lập với mục đích chính là thúc đẩy sự phát

triến kinh tế - xã hội của các nước đang phát triển. Điều kiện tài chính của giao dịch này

có tính chất ưu đãi và thành tố viện trợ không hoàn lại chiếm ít nhất 25%” [68].

Đến năm 2009, “Báo cáo đánh giá viện trợ khi nào có tác dụng, khi nào

không và tại sao?” (WB, 1999) [51] đã bổ sung và hoàn thiện thêm khái niệm về

ODA như sau: “ODA là một phần của Tài chính phát triển chính thức (ODF) trong

đó có yếu tố viện trợ không hoàn lại cộng với cho vay ưu đãi và phải chiếm ít nhất

25% trong tổng viện trợ thì gọi là ODA”, trong đó ODF là tất cả các nguồn tài chính

mà Chính phủ các nước phát triển và tổ chức đa phương dành cho các nước đang

phát triển.

Theo từ điển của UNDP, Viện trợ phát triển chính thức (ODA) là khoản hỗ

trợ và vốn vay cung cấp cho các nước trong danh mục được nhận tài trợ của DAC,

khoản này hỗ trợ cho các lĩnh vực chính thức với dự định cho mục đích phát triển

và thành tố hỗ trợ chiếm ít nhất là 25%.

Việt Nam đã trải qua hơn 20 năm tiếp nhận nguồn vốn ODA, kể từ khi chính

thức nối lại quan hệ với cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế vào tháng 11 năm 1993.

Đến năm 2001, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 17/2001/NĐ-CP ngày

4/5/2001 quy định quy chế quản lý sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức

(ODA) - đây là văn bản quy phạm pháp luật cao nhất có liên quan đến quản lý ODA

tại Việt Nam tính đến thời điểm ban hành. Theo văn bản này, khái niệm về ODA

lần đầu tiên được cụ thể hóa tại Nghị định như sau: “Hỗ trợ phát triển chính thức

(sau đây gọi tắt là ODA) trong quy chế này được hiểu là hoạt động hợp tác phát

triển giữa Nhà nước hoặc Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam

với Nhà tài trợ”. Ngoài ra, tại Nghị định cũng đã đề cập và phân loại các nội dung

liên quan đến thu hút và sử dụng ODA, cụ thể: Nhà tài trợ ODA bao gồm: (i) Chính

22

phủ nước ngoài; (ii) các tổ chức liên chính phủ hoặc liên quốc gia; Hình thức cung

cấp ODA bao gồm: ODA không hoàn lại và ODA vay ưu đãi có yếu tố không hoàn

lại (còn gọi là thành tố hỗ trợ) đạt ít nhất 25%”; Các phương thức cung cấp ODA

bao gồm: Hỗ trợ cán cân thanh toán, hỗ trợ theo chương trình, hỗ trợ theo dự án;

Xác định các lĩnh vực ưu tiên được xác định riêng cho từng nhóm ODA (không

hoàn lại; vay ưu đãi). Theo đó, nông nghiệp và phát triển nông thôn chưa được ưu

tiên sử dụng ODA không hoàn lại, chỉ được ưu tiên sử dụng ODA vốn vay.

Ngày 7/11/2006, Nghị định số 131/2006/NĐ-CP được Chính phủ ban hành

thay thế Nghị định 17/2001/NĐ-CP quy định về quy chế quản lý sử dụng ODA.

Khái niệm ODA tại Nghị định số 131/2006/NĐ-CP được đề cập như sau: “ODA là

các hoạt động hợp tác phát triển giữa nhà nước hoặc Chính phủ với các nhà tài trợ

bao gồm chính phủ nước ngoài, các tổ chức tài trợ song phương và các tổ chức liên

Quốc gia hay liên Chính phủ”. Ngày 23/4/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số

38/2013/NĐ-CP về quản lý và sử dụng ODA và nguồn vốn vay ưu đãi của các nhà tài

trợ. Trong đó quy định: “ODA là nguồn vốn của Chính phủ nước ngoài, các tổ chức

quốc tế, các tổ chức liên chính phủ hoặc liên Quốc gia (gọi tắt là Nhà tài trợ) cung

cấp cho Nhà nước hoặc Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam dưới 2 hình thức: (i)

ODA viện trợ không hoàn lại và (ii) ODA vốn vay tức là phải hoàn trả lại cho nhà tài

trợ, yếu tố không hoàn lại đạt ít nhất 35% với khoản vay có ràng buộc và 25% đối với

khoản vay không ràng buộc”. Nghị định này cũng đã đưa ra khái niệm vốn vay ưu

đãi: “Là hình thức cung cấp vốn vay có điều kiện ưu đãi hơn so với vay thương mại,

nhưng yếu tố không hoàn lại chưa đạt tiêu chuẩn của ODA vốn vay”.

Như vậy, các khái niệm của Quốc tế và Việt Nam về ODA nêu trên đều

thống nhất nội dung về bản chất của ODA là: (i) ODA phản ánh mối quan hệ giữa

hai bên: bên tài trợ gồm các tổ chức Quốc tế, Chính phủ các nước phát triển, các tổ

chức liên Chính phủ hoặc liên Quốc gia và bên nhận tài trợ là Chính phủ một nước

(thường là nước đang phát triển hay kém phát triển); (ii) với mục đích giúp đỡ nước

này phát triển kinh tế - xã hội; (iii) bộ phận chính của nguồn vốn ODA là vốn vay

23

ưu đãi, Chính phủ nước nhận tài trợ (vay nợ) phải thực hiện nghĩa vụ hoàn trả nợ

trong tương lai.

Từ những khái niệm trên, chúng ta hiểu một cách đầy đủ rằng:

- ODA là khoản vốn các nước phát triển (nước giàu) hoặc các tổ chức quốc

tế hỗ trợ cho các nước đang phát triển và kém phát triển (nước nghèo). Khoản vốn

hỗ trợ này thường thể hiện dưới dạng tiền tệ, hàng hoá, chuyển giao công nghệ,

chuyển giao tri thức theo khuôn khổ Hiệp định, Thoả ước hoặc các văn bản thoả

thuận ký kết chính thức;

- Khoản hỗ trợ dưới hình thức hỗ trợ không hoàn lại hoặc có hoàn lại, nhưng

tỷ lệ phần ưu đãi không hoàn lại (phần cho không cộng với các phần ưu đãi về lãi

suất, ưu đãi ân hạn, …) phải chiếm ít nhất là 25% tổng giá trị hỗ trợ đối với khoản

ODA không ràng buộc và 35% đối với khoản ODA có ràng buộc;

- Khoản hỗ trợ này nhằm mục đích hỗ trợ cho các ngành, lĩnh vực với các

mục tiêu cụ thể như: phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với bảo vệ môi trường và thích

ứng với biến đổi khí hậu.

2.1.2. Phân loại ODA và các nhà tài trợ ODA

ODA có thể được phân loại theo 6 tiêu chí sau: tính chất nguồn vốn, mục đích

2.1.2.1. Phân loại theo tính chất nguồn vốn

sử dụng, nguồn cung cấp, điều kiện ràng buộc, hình thức hỗ trợ và cơ chế quản lý:

Theo tính chất nguồn vốn, ODA bao gồm 3 loại: Viện trợ không hoàn lại,

Viện trợ có hoàn lại và Viện trợ hỗn hợp.

Viện trợ không hoàn lại: Là các khoản cho không, bên nhận không phải trả

cho bên tài trợ. Bên nhận tài trợ phải thực hiện theo các chương trình, dự án đã

được thỏa thuận trước giữa các bên. ODA không hoàn lại cũng là một nguồn thu

của ngân sách nhà nước, được sử dụng trực tiếp cho chương trình, dự án đã ký kết

nhắm phục vụ cho các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

24

Viện trợ có hoàn lại: là khoản cho vay ưu đãi (hay còn gọi là tín dụng ưu

đãi), tức là cho vay với những điều kiện ưu đãi và rõ ràng hơn, khoản vay này có lãi

suất ưu đãi thấp hơn lãi suất thị trường, hoặc không lãi mà chịu phí dịch vụ, thời

hạn vay và thời hạn trả nợ dài. Tín dụng ưu đãi chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn

vay ODA trên thế giới, mục đích khoản vay giúp các nước đi vay bù đắp thâm hụt

ngân sách nhà nước, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội thông qua chương

trình, dự án.

Viện trợ hỗn hợp: là các khoản vay vừa cho không, vừa cho vay (có thể vay

ưu đãi, hoặc cho vay thông thường), thậm trí có dự án ODA kết hợp 3 loại hình

gồm một phần ODA không hoàn lại, một phần vốn ưu đãi và một phần vốn tín dụng

thương mại. Hiện nay, yếu tố không hoàn lại thường chiếm khoảng 20-25% trong

các dự án ODA.

Cách phân loại theo tính chất nêu trên giúp các quốc gia nhận ODA nắm rõ

được tình trạng nợ nần của mình trong từng thời kỳ, qua đó xây dựng kế hoạch huy

2.1.2.2. Phân loại theo mục đích sử dụng

động và sử dụng từng nguồn cho phù hợp.

Theo mục đích sử dụng, ODA được phân thành 8 loại: Hỗ trợ đầu tư phát

triển, Hỗ trợ cán cân thanh toán, Hỗ trợ nhập khẩu, Hỗ trợ theo chương trình, Hỗ trợ

theo dự án, Hỗ trợ kỹ thuật, Viện trợ nhân đạo và cứu trợ và Viện trợ quân sự.

Hỗ trợ đầu tư phát triển: thường chiếm khoảng 50-60% tổng vốn ODA,

được chính phủ các nước tiếp nhận trực tiếp tổ chức đầu tư, quản lý dự án và có

trách nhiệm trả nợ phần vốn vay. Hỗ trợ đầu tư phát triển thường được dành để đầu

tư cho xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển bền vững (như tạo việc làm, xóa đói

giảm nghèo, bảo vệ tài nguyên môi trường) và cho các dự án thuộc lĩnh vực nông,

lâm, ngư nghiệp hoặc lĩnh vực mũi nhọn của nền kinh tế. Đối với một số dự án

thuộc lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp hoặc lĩnh vực mũi nhọn khác, Chính phủ giao

cho các doanh nghiệp tổ chức kinh doanh, đầu tư, quản lý dự án và có trách nhiệm

thu hồi vốn để trả nợ.

25

Hỗ trợ cán cân thanh toán (còn gọi là vốn tín dụng điều chỉnh cơ cấu tài

chính): loại vốn này được cung cấp nhằm giúp chính phủ các nước thanh toán các

khoản nợ đến hạn và các loại lãi suất được tính lãi từ những năm trước (cộng dồn).

Trong một số trường hợp, đây là vốn tài trợ giúp các nước khắc phục khủng hoảng

tài chính (như các khoản IMF cho Inđônêxia, Hàn Quốc, Thái Lan vay trong cuộc

khủng hoảng tài chính - tiền tệ năm 1997-1998), nguồn vốn này chủ yếu được lấy từ

vốn ODA đa phương.

Hỗ trợ nhập khẩu (viện trợ hàng hóa): là khoản hỗ trợ bằng hàng hóa, Chính

phủ các nước được tài trợ ODA tiếp nhận một lượng hàng hóa có giá trị tương

đương với các khoản cam kết, mang bán cho thị trường nội địa và thu nội tệ cho

ngân sách.

Hỗ trợ theo chương trình: là hỗ trợ theo khuôn khổ đạt được bằng Hiệp định

với các nhà tài trợ nhằm cung cấp một lượng ODA trong một khoảng thời gian mà

không phải xác định trước một cách chính xác nó sẽ được sử dụng như thế nào, đây

là loại ODA trong đó các bên lồng ghép một hay nhiều mục tiêu với tập hợp nhiều

dự án. Loại hỗ trợ này được ADB và WB áp dụng trong lĩnh vực nông nghiệp và

phát triển nông thôn để tăng hiệu quả sử dụng nguồn ODA và tránh sự chồng chéo.

Hỗ trợ theo dự án: là khoản hỗ trợ mà để nhận được nó thì trước đó các nước

phải chuẩn bị chi tiết dự án. Hỗ trợ theo dự án thường chiếm tỷ trọng cao nhất trong

tổng nguồn ODA và chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực cơ sở hạ tầng kinh tế - xã

hội như giao thông, thủy lợi, nước sạch, giáo dục, y tế và môi trường. Hỗ trợ theo

dự án cũng thường là những khoản vay ưu đãi.

Hỗ trợ kỹ thuật: là các khoản vốn tài trợ để đào tạo chuyên gia, nâng cao

năng lực tổ chức và quản lý, thực hiện cải cách thể chế và cơ cấu kinh tế, mục đích

của viện trợ kỹ thuật là giúp các cơ quan quản lý nhà nước của các nước nhận vốn

nâng cao năng lực quản lý của mình, bao gồm cả năng lực sử dụng viện trợ tài

chính. Về mặt kinh tế, loại hỗ trợ này không có đầy đủ các yếu tố của hoạt động đầu

tư và do vậy thường là các khoản viện trợ không hoàn lại và thường chiếm khoảng

20-30% tổng vốn ODA.

26

Viện trợ nhân đạo và cứu trợ: Loại hỗ trợ này được sử dụng cho các mục

đích cứu trợ đột xuất, cứu đói, khắc phục thiên tai hoặc chiến tranh và thường

chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn ODA.

Viện trợ quân sự: chủ yếu là các khoản viện trợ song phương cho các nước

đồng minh trong thời kỳ chiến tranh lạnh. Mỹ và Liên Xô cũ là hai nước trước đây viện

2.1.2.3. Phân loại theo nguồn cung cấp

trợ quân sự nhiều nhất, từ khi chiến tranh lạnh kết thúc, viện trợ quân sự giảm mạnh.

Phân loại theo nguồn cung cấp, ODA có hai loại là Viện trợ song phương và

Viện trợ đa phương:

Viện trợ song phương: là hỗ trợ phát triển chính thức của nước phát triển

dành cho nước đang và kém phát triển thông qua Hiệp định được ký kết giữa hai

Chính phủ, trong tổng số ODA lưu chuyển trên thế giới, phần viện trợ song phương

chiếm tỷ trọng lớn, cao hơn rất nhiều so với viện trợ đa phương.

Viện trợ đa phương: là viện trợ chính thức của một tổ chức quốc tế (chẳng

hạn như IMF, WB) hay tổ chức khu vực (chẳng hạn như ADB, EU), hoặc của một

Chính phủ của một nước dành cho Chính phủ nước khác nhưng được thực hiện

thông qua tổ chức đa phương (chẳng hạn như UNDP, UNICEF), các tổ chức tài

2.1.2.4. Phân loại theo điều kiện ràng buộc

chính quốc tế cung cấp viện trợ đa phương chủ yếu là IMF, WB và ADB.

Theo cách phân loại này, ODA bao gồm có ODA không ràng buộc và ODA

ràng buộc.

ODA không ràng buộc: là khoản ODA mà nước tiếp nhận sẽ được sử dụng

mà không bị ràng buộc bởi nguồn sử dụng hay mục đích sử dụng.

ODA ràng buộc: là khoản ODA mà trong quá trình sử dụng, nước nhận

ODA bị ràng buộc bởi nguồn sử dụng hay mục đích sử dụng. Ràng buộc bởi nguồn

sử dụng có nghĩa là khi dùng ODA để mua sắm hàng hóa hay thiết bị, dịch vụ, thì

việc mua sắm đó chỉ được giới hạn mua từ một số công ty nhất định của nước tài trợ

27

(đối với viện trợ song phương) hoặc công ty của các nước thành viên (đối với viện

trợ đa phương). Ràng buộc bởi mục đích sử dụng có nghĩa là nước nhận ODA chỉ

2.1.2.5. Phân loại theo hình thức hỗ trợ

được sử dụng ODA vào một số lĩnh vực nhất định, hoặc một số dự án cụ thể.

Theo cách phân loại này, Hỗ trợ ODA bao gồm có Hỗ trợ dự án và Hỗ trợ

phi dự án.

Hỗ trợ dự án: Là các khoản ODA cho các dự án cụ thể, loại hỗ trợ này có thể

là hỗ trợ cơ bản hoặc hỗ trợ kỹ thuật, có thể là hỗ trợ cho không hoặc cho vay ưu

đãi. Hỗ trợ ODA theo dự án là hình thức chủ yếu của ODA.

Hỗ trợ phi dự án: bao gồm có các khoản: (i) Hỗ trợ cán cân thanh toán, có

thể là hỗ trợ tài chính trực tiếp (chuyển giao tiền tệ) hoặc hỗ trợ hàng hóa, hỗ trợ

nhập khẩu, và các khoản này ngoại tệ hoặc hàng hóa này được sử dụng để bổ sung

cho ngân sách của nước nhận tài trợ; (ii) Hỗ trợ trả nợ, là khoản để giúp các nước

đang phát triển có số nợ lớn nhưng khả năng trả nợ kém thực hiện việc trả bớt một

phần nợ để có thể tiếp tục được vay thêm hoặc giảm bớt gánh nặng nợ nần, giảm

sức ép đối với nền kinh tế; và (iii) Viện trợ chương trình, là khoản ODA dành cho

một mục đích lớn, trong một thời gian nhất định mà không phải xác định một cách

2.1.2.6. Phân loại theo cơ chế quản lý

chính xác nó sẽ được sử dụng như thế nào.

Theo tiêu chí này, ODA được chia thành ODA do quốc gia điều hành, ODA

do nhà tài trợ quản lý toàn bộ và ODA theo cơ chế đồng tài trợ.

ODA do quốc gia điều hành: là loại ODA mà nước tiếp nhận vốn được trực tiếp

điều hành việc thực hiện dự án trên cơ sở văn kiện dự án đã được ký kết, hay được thỏa

thuận bằng những hiệp định, văn bản thỏa thuận riêng. Nhà tài trợ không can thiệp sâu

vào công việc điều hành cũng như cơ chế quản lý tài chính - kế toán của bên nhận tài

trợ liên quan đến dự án được tài trợ. Tuy nhiên, nhà tài trợ thực hiện việc kiểm tra giám

sát thông qua các đoàn làm việc theo định kỳ hoặc thông qua một tổ chức tư vấn quốc

28

tế, loại này thường là ODA vay (cả song phương và đa phương) và ODA không hoàn

lại của các tổ chức quốc tế dành cho đầu tư và xây dựng cơ bản.

ODA do nhà tài trợ quản lý toàn bộ: là loại ODA Nhà tài trợ quản lý toàn bộ

nguồn kinh phí dự án mà họ tài trợ. Tất cả các khoản chi tiêu cho dự án đều do nhà

tài trợ quyết định. Trách nhiệm cụ thể của mỗi bên trong việc thực hiện và quản lý tài

chính dự án được qui định trong văn kiện dự án. Thông thường nhà tài trợ trực tiếp

thanh toán các khoản phát sinh liên quan đến dự án tài trợ tại nước tài trợ (lương

chuyên gia, thiết bị, chi phí đi lại), trường hợp đặc biệt thì họ mở tài khoản tại ngân

hàng thương mại của nước nhận tài trợ nhưng Chủ tài khoản là người đại diện của

bên tài trợ. Dạng này chủ yếu là ODA không hoàn lại song phương, tài trợ cho các dự

án hỗ trợ kỹ thuật, tăng cường năng lực thể chế sử dụng chuyên gia nước ngoài.

ODA theo cơ chế đồng tài trợ: Đây là loại ODA đồng giám đốc, một đại diện

cho bên tài trợ, một đại diện cho bên nhận tài trợ. Với loại dự án này thông thường mọi

hoạt động của dự án được quản lý và xử lý theo một cơ chế thống nhất và được đồng

thuận của đại diện cả hai bên. Thuộc loại này gồm các dự án hỗ trợ tổng hợp (vừa có

chuyên gia, vừa trang bị kỹ thuật, vừa đào tạo tập huấn, chuyển giao công nghệ) do

một số nước tài trợ như Đan Mạch, EU và các tổ chức quốc tế của Liên hợp quốc.

Việc phân loại ODA theo những tiêu thức khác nhau nêu trên giúp cho

chúng ta hiểu rõ một cách tổng thể các dự án ODA để có phương thức vận động,

thu hút để tranh thủ được nhiều nguồn vốn ODA cũng như hiểu được mục đích, tính

chất nguồn vốn, nguồn cung cấp, điều kiện ràng buộc, cơ chế điều hành của từng dự

án để có cách thức quản lý phù hợp.

2.1.3. Đặc điểm và các ưu, nhược điểm của ODA

2.1.3.1. Đặc điểm của ODA

Một khoản tài trợ được coi là ODA, nếu đáp ứng đầy đủ 3 đặc điểm sau:

- Được cung cấp bởi các tổ chức chính thức hoặc đại diện của các tổ chức

chính thức, tổ chức chính thức bao gồm các nhà nước mà đại diện là Chính phủ, các

29

tổ chức liên chính phủ hoặc liên quốc gia, và các tổ chức phi chính phủ hoạt động

không vì mục tiêu lợi nhuận.

- Có mục tiêu chính là giúp các nước đang phát triển phát triển kinh tế, nâng

cao phúc lợi xã hội. Các lĩnh vực được ưu tiên sử dụng vốn ODA bao gồm: xoá đói,

giảm nghèo, nông nghiệp và phát triển nông thôn; cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật

như giao thông vận tải, thông tin liên lạc, năng lượng; cơ sở hạ tầng xã hội như giáo

dục, y tế, bảo vệ môi trường; các vấn đề xã hội như tạo việc làm, phòng chống dịch

bệnh, phòng chống các tệ nạn xã hội; cải cách hành chính, tư pháp, tăng cường năng

lực của cơ quan quản lý nhà nước, cải cách thể chế.

- Mang tính ưu đãi: Vốn ODA có thời gian cho vay (hoàn trả vốn vay) và thời

gian ân hạn dài. Chẳng hạn, vốn ODA của WB, ADB, JBIC có thời gian hoàn trả là

40 năm và thời gian ân hạn là 10 năm, thông thường trong ODA có thành tố viện trợ

không hoàn lại (cho không), đây cũng chính là điểm phân biệt giữa viện trợ và cho

vay thương mại. Thành tố cho không được xác định dựa vào thời gian cho vay, thời

gian ân hạn và so sánh lãi suất viện trợ với mức lãi suất tín dụng thương mại.

Sự ưu đãi còn được thể hiện ở điểm là vốn ODA chỉ dành riêng cho các nước

đang và chậm phát triển, vì mục tiêu phát triển, hai điều kiện cơ bản nhất để các

nước đang và chậm phát triển có thể nhận được ODA là:

- Có Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người thấp, nước nào có

GDP bình quân đầu người càng thấp thì thường được nhận được khoản ODA có tỷ

lệ viện trợ không hoàn lại càng cao, khả năng được vay với lãi suất thấp và thời hạn

ưu đãi càng lớn.

- Mục tiêu sử dụng vốn ODA của các nước này phải phù hợp với chính sách

và hướng ưu tiên xem xét trong mối quan hệ giữa bên cấp và bên nhận ODA, thông

thường các nước cung cấp ODA đều có những chính sách và ưu tiên riêng của

mình, tập trung vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay có khả năng kỹ thuật và tư

vấn. Đồng thời, đối tượng ưu tiên của các nước cung cấp ODA cũng có thể thay đổi

theo từng giai đoạn cụ thể.

30

Vì vậy, nắm bắt được xu hướng ưu tiên và tiềm năng của các nước, các tổ

chức cung cấp ODA là điểm then chốt trong công tác vận động và thu hút ODA.

Theo Nghị định số 38/2013/NĐ-CP ngày 23/4/2013 của Chính phủ về quản

lý và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và nguồn vốn vay ưu

đãi của các nhà tài trợ, công thức xác định thành tố không hoàn lại của các dự án

ODA [35] như sau:

[2.1]

Trong đó:

GE: Thành tố không hoàn lại.

r: Tỷ lệ lãi suất hàng năm.

a: Số lần trả nợ trong năm (theo điều kiện của bên tài trợ).

d: Tỷ lệ chiết khấu của mỗi kỳ. d = (1 + d’)1/a – 1(%), trong đó: d’: Tỷ lệ

chiết khấu của cả năm (theo thông báo của OECD hoặc các thoả thuận của

bên tài trợ).

G: thời gian ân hạn (năm).

M: Thời hạn cho vay (năm).

Thành tố không hoàn lại (Grant element - GE) phải đạt ít nhất 35%, đối với

khoản vay có ràng buộc và 25% đối với khoản vay không ràng buộc. Thành tố

không hoàn lại là một chỉ số biểu hiện tính “ưu đãi” của ODA so với các khoản vay

thương mại theo điều kiện thị trường, thành tố không hoàn lại càng cao càng thuận

lợi cho nước tiếp nhận. Chỉ tiêu này được xác định dựa trên tổ hợp các yếu tố đầu

vào: Lãi suất, thời gian ân hạn, thời hạn cho vay, số lần trả nợ trong năm và tỷ lệ

chiết khấu.

Về thực chất, ODA là sự chuyển giao có hoàn lại hoặc không hoàn lại trong

những điều kiện nhất định một phần tổng sản phẩm quốc dân từ các nước phát triển

31

sang các nước đang phát triển. Do vậy, ODA rất nhạy cảm về mặt xã hội và chịu sự

điều chỉnh của dư luận xã hội từ phía nước cung cấp cũng như từ phía nước tiếp

2.1.3.2. Các tính chất của ODA và mặt trái của nó

nhận ODA.

a. Tính chất của ODA

Tính chất của ODA là khoản vốn ưu đãi hỗ trợ cho phát triển của nước

nghèo được thể hiện trên các điểm chính sau đây:

Thứ nhất, ODA là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho đầu tư phát triển, là

nguồn vốn “rẻ” trong đó các khoản vay ODA có thời gian trả nợ dài, mức lãi suất

ưu đãi và thành tố viện trợ không hoàn lại trong khoản vay ODA chiếm tối thiểu ở

mức 25% hoặc 35% tương ứng với dự án không ràng buộc hay có ràng buộc nói ở

trên. Trong điều kiện tài chính của những nước đang và kém phát triển nguồn vốn

trong nước còn hạn chế thì việc tranh thủ các nguồn vốn ODA đặc biệt là ODA vay

để đầu tư cho phát triển là rất cần thiết, lĩnh vực như xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế

xã hội phục vụ lợi ích công công, trong các vùng khó khăn nơi mà hiệu quả tài

chính của đầu tư chưa cao không thu hút được vốn đầu tư tư nhân, thì sử dụng vốn

ODA đầu tư vào các lĩnh vực đó, các vùng đó để rút ngắn khoảng cách chênh lệch

về sự phát triển, tạo nên công bằng xã hội là chiến lược đúng đắn. Đồng thời, để

tiếp nhận vốn vay ODA gắn với đầu tư, nước nhận viện trợ phải thu xếp vốn đối

ứng, cắt giảm chi tiêu công, tăng tỷ trọng tiết kiệm, như vậy nguồn vốn ODA sẽ có

tác dụng rất lớn trong khuyến khích đầu tư phát triển.

Thứ hai, ODA là nguồn bổ sung ngoại tệ cho đất nước và bù đắp cán cân

thanh toán. Hiện nay ở một số nước ASEAN tỷ lệ tiết kiệm nội địa khá cao, chiếm

khoảng 30-40% GDP nhưng vẫn xảy ra hiện tượng thâm hụt cán cân vãng lai.

Trong điều kiện ở một nước không có khả năng tự do chuyển đổi tiền tệ thì một dự

án đầu tư bằng 100% vốn trong nước, nếu có nhu cầu nhập khẩu trang thiết bị, sẽ

không khả thi do nguồn ngoại tệ không được đáp ứng. Như vậy thì số tiền tiết kiệm

nội địa cũng không thể chuyển thành đầu tư. Việt Nam hiện vừa thiếu hụt cán cân

32

tiết kiệm và đầu tư, vừa thiếu hụt cán cân vãng lai nên việc huy động được vốn

ODA trong giai đoạn này sẽ phát huy được đồng thời hai tác dụng nêu trên.

Thứ ba, ODA trợ giúp phát triển nguồn nhân lực, nâng cao trình độ quản lý

và khoa học công nghệ, trong quá trình sử dụng nguồn vốn ODA để đầu tư phát

triển kinh tế, xã hội, đội ngũ cán bộ tham gia quản lý, thực hiện dự án được đào tạo

nâng cao kiến thức, kỹ năng và trình độ quản lý, họ làm quen và ứng dụng những

quy định, quy trình, những thông lệ quốc tế về quản lý tài chính, đấu thấu, quản lý

dư án, v.v... . Những người hưởng lợi cũng được tập huấn về chuyên môn kỹ thuât,

tất cả đội ngũ này sẽ áp dụng các kiến thức và kỹ năng đó vào thực tế, nó có hiệu

ứng lan tỏa đến các đối tượng khác, góp phần cải thiện trình độ quản lý, chuyên

môn và nghiệp vụ nguồn nhân lực của nước nhận tài trợ, đây chính là lợi ích lâu dài,

căn bản của quốc gia nhận viện trợ. Mặt khác, khi tiếp nhận ODA thông qua các dự

án, chương trình, các cán bộ dự án được tiếp cận, am hiểu thêm quy trình công nghệ

tiên tiến, hiện đại trong các lĩnh vực về công nghệ sinh học, công nghệ gen, mô hình

sản xuất và các công nghệ chế biến, bảo quản tiên tiến. Có một số công nghệ này

được chuyển giao và áp dụng vào các vùng dự án, lan tỏa đến các vùng khác, làm

cho trình độ khoa học kỹ thuật và công nghệ của nước tiếp nhận ODA tiến kịp các

nước tiến tiến.

Thứ tư, ODA giúp cải thiện thể chế và chính sách kinh tế, cải thiện thể chế và

chính sách ở các nước đang phát triển là nhân tố rất quan trọng về quản lý để thúc

đẩy tăng trưởng, xóa đói giảm nghèo và giảm thiểu bất công bằng xã hội. Để được

tiếp nhận và trong quá trình sử dụng vốn ODA các nước nhận ODA phải tuân thủ các

chính sách, lĩnh vực ưu tiên, cơ chế quản lý vận hành, thanh tra, kiểm tra của nhà tài

trợ. Chính quyền nước nhận tài trợ và Ban quản lý các dự án cụ thể phải giải trình rõ

ràng, minh bạch về việc quản lý sử dụng nguồn ODA. Tất cả những yêu cầu này tạo

nên áp lực phải cải thiện những chính sách và thể chế không phù hợp, bất cập hiện

hành của nước nhận tài trợ, việc làm này không chỉ hướng tới sự phù hợp với xu

hướng của thế giới nhằm thu hút đầu tư nước ngoài, mà còn tác động tích cực đối với

đối mới chính sách, thể chế quản lý nền kinh tế, xã hội của đất nước.

33

Thứ năm, khi nhận vốn ODA mà thực chất là khoản vay nợ, cho dù tỷ trọng

phần vay nợ là 65% hay 75% tùy theo có điều kiện ràng buộc hay không ràng buộc,

thì đây cũng là khoản vay, tuy món vay này có lãi suất thấp hơn vay nội địa nhưng

về số lượng là khoản vay lớn, tuy có thời gian trả nợ dài, nhưng đã vay là phải trả.

Điều này cũng là một áp lực đặt lên các nhà lãnh đạo đất nước, các cơ quan tài

chính quốc gia, những người quản lý và sử dụng ODA phải thay đổi tư duy, nếp

nghĩ của các nhà quản lý cũng như người dân trực tiếp thụ hưởng viện trợ, phải thấu

hiểu rằng đây không phải là “món trời cho” mà là món vay hôm nay mà ngày mai

phải trả, không thể áp dụng cơ chế “xin - cho”, không thể sử dụng “vô tội vạ” để

lãnh phí, thất thoát mà phải quản lý sử dụng có hiệu quả ODA.

b. Mặt trái của ODA

ODA là khoản hỗ trợ đóng góp tích cực vào sự phát triển của nước nghèo.

Tuy nhiên, nếu cả phía tài trợ và phía hưởng lợi không vì mục tiêu trong sáng, lành

mạnh, bên nhận tài trợ không có biện pháp quản lý sử dụng hợp lý, chặt chẽ, ODA

có thể gây nên một số mặt trái sau đây:

Trước hết, vốn ODA trong một số trường hợp đi liền với yếu tố chính trị hơn

là yếu tố hiệu quả kinh tế, hầu hết các nước phát triển sử dụng ODA như một công

cụ chính trị, xác định vị trí và ảnh hưởng của mình tại các nước và các khu vực tiếp

nhận ODA. Mỹ dùng ODA làm công cụ để thực hiện ý đồ gây “ảnh hưởng chính trị

trong thời gian ngắn”, một mặt dùng viện trợ kinh tế để bày tỏ sự thận thiện, tiến

đến gần gũi thân thiết về chính trị, mặt khác tiếp cận với quan chức cao cấp của các

nước đang phát triển để mở đường cho hoạt động ngoại giao trong tương lai. Mỹ

“lái” các nước nhận viện trợ chấp nhận một lập trường nào đó của Mỹ trong ngoại

giao và tác động, can thiệp vào sự phát triển chính trị của các nước đang phát triển.

Nhật Bản cũng sử dụng ODA như một công cụ ngoại giao lợi hại, nhờ tăng cường

viện trợ cho các nước đang phát triển, Nhật Bản đã tranh thủ sự ủng hộ của các

nước này để trở thành thành viên của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Nhật Bản

muốn quốc tế hóa đồng tiền của mình bằng cách hình thành số nợ tính bằng đồng

Yên và gắn với những dự án có công ty Nhật tham gia.

34

Bên cạnh đó, ODA vay làm tăng gánh nợ quốc gia, Ở Việt Nam, chỉ sau

gần 20 năm tái lập việc tiếp nhận ODA (1993-2012), số nợ vay đã khá lớn. Theo

dự báo trong vòng hơn 10 năm tới Việt Nam sẽ phải lần lượt trả các khoản nợ

này, ước tính mỗi năm phải trả từ 10%-14% kim ngạch xuất khẩu cho tất cả các

khoản vay, khi đó trong một chừng mực nhất định, Việt Nam sẽ phải trả giá và

tốc độ tăng trưởng kinh tế có thể bị chậm lại. Nếu nước tiếp nhận quản lý chặt

chẽ và đầu tư hợp cho một số ngành và lĩnh vực, thì lợi ích thu được bù đắp cho

khoản trả nợ này. Nếu không quản lý ODA chặt chẽ, có thể bị lợi dụng nguồn

vốn hỗ trợ này và các hiện tượng tham nhũng, lãng phí, cơ chế “xin-cho” dự án,

đưa nguồn hỗ trợ này vào phục vụ lợi ích một nhóm nào đó thì đây thực sự là

gánh nợ lớn cho các thế hệ sau này...

Điểm quan trọng nữa cần hết sức lưu tâm ODA là khoản cung cấp có vay

có trả, gắn với những ràng buộc của các nước, tổ chức cung cấp viện trợ. Mỗi

nước cung cấp ODA đều có chính sách riêng của mình và những quy định ràng

buộc khác nhau đối với nước nhận, nhiều khi ràng buộc này rất chặt chẽ. Nếu

nước tiếp nhận không khéo đàm phán thương lượng để hạn chế bớt những ràng

buộc, có thể bị rơi vào tình trạng phụ thuộc vào công nghệ, hàng hóa và dịch vụ

của nước cung cấp ODA. Hầu hết các nhà tài trợ đều gắn việc cung cấp ODA với

việc sử dụng công nghệ, hàng hóa và dịch vụ của họ, chẳng hạn như Bỉ, Đức,

Đan Mạch yêu cầu khoảng 50% viện trợ mua công nghệ, hàng hóa và dịch vụ

của nước mình; Canada thì yêu cầu tới 65%, trung bình khoảng 22% viện trợ

ODA phải được sử dụng để mua hàng hóa của các quốc gia viện trợ.

Hơn nữa, các thủ tục để sử dụng ODA thường phức tạp và mất nhiều thời

gian, vì vậy, nước tiếp nhận ODA thường phải thay đổi, điều chỉnh nhiều lần thì

dự án ODA mới được nhà tài trợ chấp nhận thẩm định. Ngoài ra, các chi phí như

chi phí quản lý dự án, thuê tư vấn quốc tế, giải phóng mặt bằng của dự án ODA

cũng có yêu cầu cao hơn những dự án cùng loại sử dụng vốn trong nước, do nhà

tài trợ can thiệp trực tiếp vào các quy trình này.

35

2.2. Vai trò của ODA đối với nông nghiệp và nông thôn

Nông nghiệp theo nghĩa hẹp là ngành sản xuất ra của cải vật chất mà con

người phải dựa vào quy luật sinh trưởng của cây trồng, vật nuôi để tạo ra sản

phẩm như lương thực, thực phẩm... để thoả mãn các nhu cầu của mình. Nông

nghiệp theo nghĩa rộng còn bao gồm cả lâm nghiệp, ngư nghiệp, thủy sản và phát

triển nông thôn. Như vậy, nông nghiệp là ngành sản xuất phụ thuộc rất nhiều vào

tự nhiên. Nông nghiệp cũng là ngành sản xuất có năng suất lao động thấp, vì đây

là ngành sản xuất phụ thuộc rất nhiều vào tự nhiên, đồng thời là ngành sản xuất

mà việc ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra

sản xuất nông nghiệp ở các nước kém phát triển thường gắn liền với những

phương pháp canh tác, lề thói, tập quán,... đã có từ hàng nghìn năm. Ở những

nước nghèo, nông nghiệp thường chiếm tỷ trọng rất lớn trong GDP và đại bộ

phận lao động xã hội làm việc trong nông nghiệp.

Nông thôn là khái niệm dùng để chỉ phần lãnh thổ của một nước hay của

một đơn vị hành chính mà ở đó sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn, dân cư

chủ yếu làm nông nghiệp. Kinh tế nông thôn là một khu vực của nền kinh tế gắn

liền với địa bàn nông thôn. Nó là một phức hợp những nhân tố cấu thành của lực

lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong nông - lâm - ngư nghiệp, cùng với các

ngành tiểu - thủ công nghiệp, công nghiệp chế biến và phục vụ nông nghiệp, các

ngành thương nghiệp và dịch vụ,... tất cả có quan hệ hữu cơ với nhau trong kinh

tế vùng và lãnh thổ và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

Theo thống kê của OECD/DAC năm 2009, sau gần một thập kỷ nguồn

vốn ODA cho lĩnh vực này từ 3,5 tỷ USD năm 2000 đã tăng lên 9,7 tỷ USD năm

2009. (xem biểu đồ 2.2). Theo OECD/DAC, từ năm 2010, nông nghiệp và phát

triển nông thôn, bao gồm nông nghiệp, thủy sản, lâm nghiệp và thủy lợi, xóa đói

giảm nghèo là lĩnh vực tài trợ được ưu tiên.

36

Đơn vị tính: Tỷ USD

Biểu đồ 2.2. ODA cho nông nghiệp và phát triển nông thôn trên Thế giới

(Nguồn: OECD/DAC, 2010)

Đối với lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, nguồn vốn ODA trong

thời kỳ qua đã có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội nước ta:

2.2.1. ODA góp phần công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn

Quan điểm của Đảng ta luôn: “Coi công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông

nghiệp, nông thôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Phát triển công nghiệp, dịch vụ phải gắn bó chặt

chẽ, hỗ trợ đắc lực và phục vụ có hiệu quả cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông

nghiệp, nông thôn” (nguồn: Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI). Mục tiêu tổng quát

và dài hạn của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là xây dựng

một nền nông nghiệp và kinh tế nông thôn có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ

cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ và phù hợp để tăng năng suất lao động

và ngày càng nâng cao chất lượng sản phẩm, giải quyết việc làm, xóa đói giảm

nghèo, nhanh chóng nâng cao thu nhập và đời sống của dân nông thôn, đưa nông

thôn nước ta tiến lên văn minh hiện đại.

37

Để thực hiện thắng lợi mục tiêu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại

hóa nông nghiệp, nông thôn, Việt Nam cần số vốn đầu tư rất lớn. Trong khi nguồn

vốn đầu tư trong nước còn hạn chế thì ODA chính là nguồn vốn cần thiết giúp Việt

Nam thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Sử dụng

vốn ODA đầu tư xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật trong

nông nghiệp, nông thôn như đường giao thông, thuỷ lợi, điện, nước sạch, y tế, chợ,

hệ thống thông tin, các trang thiết bị kỹ thuật,…Vốn ODA cùng với các nguồn đầu

tư khác trong nước, vốn FDI tạo ra một lực lượng sản xuất công nghiệp tiến bộ hơn,

có tác động tích cực đến sự thành công của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

nông nghiệp, nông thôn. Cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật phát triển sẽ là điều

kiện đảm bảo cho sản xuất nông nghiệp, các hoạt động kinh tế khác ở nông thôn

tăng trưởng nhanh và bền vững. Việt Nam tuy là một nước nông nghiệp nhưng kết

cấu hạ tầng nông thôn còn lạc hậu chưa đáp ứng được yêu cầu của một nền nông

nghiệp sản xuất hàng hóa, đặc biệt là vấn đề giao thông nông thôn, giao thông miền

núi. Thực tế, từ năm 1993 đến nay, nhờ có các dự án, chương trình ODA trong nông

nghiệp, nhiều cơ sở hạ tầng nông thôn tại các vùng tham gia dự án đã và đang được

nâng cấp, cải tạo theo hướng hiện đại hoá và bền vững.

2.2.2. ODA tác động tới đổi mới tư duy và phương thức sản xuất, chế biến

nông sản theo hướng thị trường

Công tác phát triển nguồn lực thông qua các chương trình đào tạo trong và

ngoài nước của các chương trình, dự án ODA trong nông nghiệp đã góp phần nâng

cao chất lượng nguồn lực của toàn ngành cũng như người dân vùng hưởng lợi. Từ

đó, góp phần đẩy nhanh sự tiếp cận với sản xuất nông nghiệp theo hướng thị trường,

nâng cao đời sống văn hoá tinh thần của cộng đồng dân cư. Công tác đào tạo kèm

theo các hỗ trợ tín dụng cần thiết đã giúp người dân dám nghĩ, dám đầu tư lớn vào

sản xuất cũng như chế biến nông sản theo hướng sản xuất hàng hóa đáp ứng nhu

cầu ngày một cao của nền kinh tế thị trường. Bên cạnh đó, các chương trình, dự án

ODA trong nông nghiệp đã đầu tư mới trang thiết bị cho các Viện nghiên cứu thuộc

38

Bộ Nông nghiệp và PTNT, qua đó đã góp phần cải tạo giống cây trồng, vật nuôi

theo hướng tăng cả về số lượng, cũng như chất lượng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng

ngày một cao của trong và ngoài nước. Ngoài ra, nhờ nguồn vốn ODA của các

chương trình, dự án trong nông nghiệp mà hệ thống thông tin về khuyến nông và

thông tin thị trường được trang bị hiện đại, chuyển giao các phương thức canh tác,

các mô hình sản xuất tiến bộ, đã góp phần cập nhật, áp dụng nhanh và kịp thời công

nghệ kỹ thuật tiên tiến trong nước cũng như trên thế giới vào ngành sản xuất nông

nghiệp nói chung, và trực tiếp là vào các đối tượng cây trồng, vật nuôi trong phạm

vi các chương trình, dự án ODA nói riêng, ví dụ: Dự án Phát triển chè và cây ăn quả

(VIE-1781, vay vốn ADB),...

2.2.3. ODA góp phần thúc đẩy đa dạng hóa nông nghiệp

Ngoài đầu tư vào hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn thì việc phát triển cây con

giống, công nghệ sinh học, góp phần vào quá trình đa dạng hóa nông nghiệp cũng

được các nhà tài trợ ODA quan tâm. Ngoài việc nỗ lực hỗ trợ về vốn, các nhà tài trợ

còn giúp Việt Nam kỹ thuật lai tạo giống mới và biện pháp phòng ngừa dịch bệnh.

Đa dạng hóa nông nghiệp nhằm phá thế độc canh cây lúa là một trong

những mục tiêu phát triển mà ngành nông nghiệp hướng tới, đây là một lĩnh vực

được các nhà tài trợ ưu tiên đầu tư vốn. Đã có rất nhiều dự án đã được thực hiện

thành công trong giai đoạn 1993 - 2012, trong số đó phải kể đến Dự án đa dạng hóa

nông nghiệp, Dự án có tổng mức đầu tư là 86,88 triệu USD, vay vốn WB và AFD,

được triển khai thực hiện tại 6 tỉnh miền Bắc, 8 tỉnh DHMT và 4 tỉnh Tây Nguyên

trong vòng 8 năm (1998 - 2006). Dự án đã góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy

đa dạng hóa nông nghiệp trong thời gian qua, cụ thể đã đo cấp đất 300.000 ha cho

75.000 hộ nông dân thâm canh đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi, chăn nuôi (vỗ béo

bò, lợn), tăng sản lượng thịt hơi lên 16%; trồng mới 30.100 ha cao su tiểu điền,

phục hồi 17.000 ha cao su cũ của Chương trình 327; nghiên cứu kỹ thuật đa dạng

hóa, thâm canh cao su, cây ăn quả phù hợp với tiểu nông; tăng cường mạng lưới

khuyến nông để sau khi dự án kết thúc, nông dân có thể chuyển đổi cơ cấu kinh tế,

39

tăng thu nhập. Ngoài ra, một số dự án như Dự án phát triển chè và cây ăn quả; Dự

án phát triển sản xuất mía đường, cà phê; Dự án phát triển chăn nuôi bò, lợn và sản

xuất sữa cũng đã góp phần quan trọng vào quá trình đa dạng hóa ngành nông nghiệp

trong thời gian qua.

2.2.4. ODA góp phần thực hiện chiến lược tăng trưởng toàn diện và xóa

đói giảm nghèo của Chính phủ

Phát triển nhanh và bền vững, xóa đói giảm nghèo đồng thời mang lại chất

lượng cuộc sống cao cho người dân là tầm nhìn phát triển của Chính phủ Việt Nam.

Cộng đồng các nhà tài trợ đã và đang giúp Chính phủ Việt Nam triển khai Chiến

lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo và Kế hoạch phát triển kinh tế

- xã hội. Hỗ trợ phát triển chính thức tập trung vào tăng trưởng kinh tế và các

chương trình giảm nghèo mục tiêu của Chính phủ. Trong những năm qua, hơn 130

tổ chức phi chính phủ quốc tế đã huy động khoảng 100 triệu USD hàng năm từ

nguồn lực ODA để giảm nghèo tại Việt Nam [41]

Kể từ khi quay trở lại đầu tư ở Việt Nam vào năm 1993, WB đã tài trợ 35 dự

án để giúp cho cuộc chiến xoá đói giảm nghèo tại Việt Nam thông qua hỗ trợ tài

chính cho nông nghiệp, cơ sở hạ tầng, các chương trình y tế nông thôn, trường học

và các nhu cầu thiết yếu khác. Hỗ trợ phát triển chính thức của Ngân hàng Phát

triển Châu Á (ADB) trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì người nghèo được

thực hiện thông qua những nỗ lực của các Nhà tài trợ trong việc kết nối cơ sở hạ

tầng nông thôn với mạng lưới cơ sở hạ tầng quốc gia và quốc tế để có thể tạo ra

những tác động lớn về giảm nghèo. ADB cũng hỗ trợ mục tiêu giảm nghèo của Việt

Nam thông qua các chương trình ngành Y tế và Giáo dục tại nông thôn và thông

qua đồng tài trợ các chương trình giảm nghèo then chốt, chương trình Hỗ trợ tín

dụng giảm nghèo. Hỗ trợ phát triển chính thức của ADB về hợp tác kinh tế tiểu

vùng đã tạo ra các cơ hội kinh tế tại một số vùng nghèo nhất. Trong nông nghiệp,

vốn ODA đã góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế nông nghiệp, nông

thôn kết hợp xoá đói giảm nghèo. Theo tính toán của Tổng cục Thống kê trên cơ sở

40

sử dụng chuẩn nghèo tính theo chỉ tiêu của Tổng cục Thống kê và WB, tỷ lệ nghèo

của Việt Nam đã giảm liên tục trong vòng hai thập kỷ qua, từ 58% năm 1993 xuống

còn 37,4 % năm 1998, 28,9% năm 2004 và 14,5 % năm 2008 [40]. Kết quả này cho

thấy Việt Nam đã hoàn thành vượt mức giảm một nửa số người nghèo và một nửa

số người dân bị đói của Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ đã cam kết với thế giới.

Những kết quả này có sự góp phần quan trọng của ODA.

2.2.5. ODA góp phần phòng chống và giảm thiểu thiệt hại thiên tai, thích

ứng với biến đổi khí hậu.

Việt Nam nằm trong khu vực ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa. Vị

trí và địa hình làm cho Việt Nam trở thành một trong những quốc gia chịu nhiều

thiên tai (bão, lốc xoáy, lũ lụt, hạn hán, nhiễm mặn, sạt lở đất và cháy rừng) nhất

trên thế giới. Trong những năm gần đây, hiện tượng biến đổi khí hậu và thời tiết cực

đoan, đã làm gia tăng thảm họa thiên tai cả về số lượng, tần suất, mức độ trầm trọng

và biến đổi phức tạp. Trung bình hàng năm Việt Nam chịu ảnh hưởng trực tiếp 8-

12 cơn bão. Bão kèm theo mưa lớn đã gây ra hiện tượng lũ quét, sạt lở đất, làm ảnh

hưởng nghiêm trọng đến các công trình cơ sở hạ tầng như đường giao thông nông

thôn, các công trình thủy lợi, các công trình bảo về đê điều, cầu, cống và gây tổn

thất về tính mạng, tài sản và sinh kế của hàng triệu người dân. Vì vậy, công tác

phòng chống và giảm thiểu thiệt hại do thiên tai gây ra là một công việc cấp bách

hiện nay. Tuy nhiên, công tác này đòi hỏi số vốn lớn để đầu tư cho trang thiết bị dự

báo bão tầm xa; cũng như cho việc khôi phục các công trình hạ tầng, nhà cửa bị phá

hủy. Trong khi nguồn vốn trong nước cho công tác phòng chống và giảm thiểu hậu

quả thiên tai còn hạn chế thì nguồn vốn ODA do các nhà tài trợ cung cấp có vai trò

và ý nghĩa hết sức quan trọng. Các dự án trong lĩnh vực phòng chống thiên tai như

Dự án khắc phục khẩn cấp hậu quả thiên tai năm 2005 của ADB, Dự án phòng

chống và giảm nhẹ thiên tai của WB,… đã góp phần không nhỏ vào việc nâng cao

cơ sở hạ tầng, cung cấp các trang thiết bị phục vụ phòng chống thiên tai đặc biệt là

lụt bão, lũ quét, và sạt lở đất. Các mô hình quản lý thiên tai dựa vào cộng đồng đã

41

bắt đầu được vận hành thí điểm, nhận thức của nhân dân đối với việc tự bảo vệ

người và tài sản đã được nâng cao. Các làng xã an toàn đang được xây dựng tại một

số địa phương đã và sẽ góp phần xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam.

2.2.6. ODA góp phần nâng cao năng lực quản lý và chuyên môn

Trong những năm gần đây, năng lực, trình độ ngoại ngữ cũng như kinh

nghiệm quản lý của đội ngũ cán bộ quản lý và thực hiện dự án của Việt Nam đã có

nhiều tiến bộ, song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Vì vậy, công tác đào

tạo, tập huấn nhằm nâng cao năng lực quản lý và chuyên môn cho cán bộ trực tiếp

quản lý và thực hiện các chương trình, dự án ODA trong nông nghiệp được các nhà

tài trợ chú trọng. Trong giai đoạn 1993 - 2012, có 569 dự án hỗ trợ kỹ thuật và tăng

cường năng lực cho ngành nông nghiệp được thực hiện [4], đã góp phần nâng cao

năng lực quản lý và chuyên môn cho đội ngũ cán bộ quản lý và thực hiện dự án của

Việt Nam từ cấp trung ương tới địa phương. Thông qua các dự án hỗ trợ và tăng

cường năng lực, các cán bộ quản lý và thực hiện dự án được tiếp cận phương pháp

thực hiện dự án, tiếp thu kỹ thuật và công nghệ mới qua chuyên gia tư vấn Quốc tế.

Phương pháp tiếp cận dự án đầu tư một cách toàn diện, kỹ năng quản lý dự án đầu

tư xây dựng từ các chuyên gia nước ngoài đã giúp cho các cán bộ quản lý và thực

hiện dự án của Việt Nam có thể xử lý được những khó khăn, vướng mắc trong quá

trình thực hiện. Từ đó, đã giúp đẩy nhanh tiến độ thực hiện các chương trình, dự án

ODA. Cùng với việc tổ chức thực hiện thành công các chương trình, dự án ODA

trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn trong thời gian qua, năng lực của cán bộ

trong các Ban quản lý dự án các cấp cũng từng bước được nâng cao. Nhờ vậy, các

chương trình, dự án ODA trong nông nghiệp, nông thôn đã nhận được sự ủng hộ

của nhân dân các địa phương.

Ngành nông nghiệp vừa là ngành sản xuất vật chất, vừa là một trong những

ngành mang tính xã hội rộng lớn có liên quan trực tiếp đến đời sống của hàng triệu

người dân và đến việc bảo vệ môi trường sinh thái. Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp

lại luôn phải đối mặt với sự tác động to lớn của thiên nhiên, khí hậu, thời tiết, chịu

42

nhiều yếu tố rủi ro nên không hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Chính vì vậy, nguồn vốn ODA lại càng có vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

2.3. Quy trình và tiêu chí đánh giá thu hút và sử dụng ODA vào nông

nghiệp và PTNT

2.3.1. Quy trình thu hút và sử dụng ODA vào Nông nghiệp và PTNT

Từ năm 2001 đến 2013, Việt Nam đã có 3 Nghị định ban hành Quy chế quản

lý và sử dụng ODA, đó là Nghị định 17/2001/NĐ-CP, Nghị định 131/2006/NĐ-CP,

Nghị định 38/2013/NĐ-CP. Ngay từ Nghị định 17/2001 đã có một điều quy định về

thu hút và quản lý sử dụng ODA với trình tự 9 bước khác nhau. Quy trình đó đã

được cụ thể hóa, điều chỉnh cả về các bước và nội dung từng bước qua 3 Nghị định

đã nói ở trên. Hiện nay, quy trình thu hút và sử dụng ODA được thực hiện theo quy

định tại Nghị định 38/2013/NĐ-CP ngày 23/4/2013 của Thủ tướng Chính phủ về

quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và nguồn vốn vay ưu

2.3.1.1. Quy trình thu hút ODA

đãi của các nhà tài trợ.

Quy trình thu hút, vận động ODA được thực hiện theo các bước sau:

Bước 1: Xây dựng danh mục và vận động chương trình, dự án ODA

Danh mục tài trợ là danh mục gồm một hay nhiều chương trình, dự án và các

khoản viện trợ phi dự án yêu cầu tài trợ ODA, được cấp có thẩm quyền của Việt

Nam phê duyệt và Nhà tài trợ thống nhất tài trợ, làm cơ sở để cơ quan chủ quản

phối hợp với Nhà tài trợ xây dựng văn kiện chương trình, dự án và viện trợ phi dự

án. Vận động ODA cho ngành nông nghiệp và PTNT được thực hiện trên cơ sở sau:

Thứ nhất, các lĩnh vực cần ưu tiên thu hút ODA gồm: (i) Hỗ trợ thực hiện

Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới với những hoạt động như

quy hoạch xây dựng nông thôn mới; (ii) Phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội (giao

thông nông thôn, lưới điện nông thôn, phát triển y tế, giáo dục, xây dựng thủy

lợi,…); (iii) Chuyển dịch cơ cấu, phát triển kinh tế (nâng cao thu nhập thông qua

43

phát triển sản xuất hàng hóa có hiệu quả kinh tế cao); (iv) Tăng cường công tác

khuyến nông; đẩy nhanh nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản

xuất nông - lâm - ngư nghiệp, cơ giới hóa nông nghiệp, giảm tổn thất sau thu hoạch

trong sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp; (v) Bảo tồn và phát triển làng nghề truyền

thống theo phương châm “mỗi làng một sản phẩm”, phát triển ngành nghề theo thế

mạnh của địa phương; (vi) Đẩy mạnh đào tạo nghề cho lao động nông thôn, thúc đẩy

đưa công nghiệp vào nông thôn, giải quyết việc làm và chuyển dịch nhanh cơ cấu lao

động nông thôn, ngoài ra vốn ODA và vốn vay ưu đãi cũng ưu tiên để hỗ trợ thực

hiện Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn.

Thứ hai, chương trình, chiến lược và định hướng hợp tác giữa Việt Nam và

Nhà tài trợ

Căn cứ vào cơ sở vận động vốn vay ưu đãi nêu trên, hàng năm, Bộ Kế hoạch

và Đầu tư chủ trì và phối hợp với Bộ Tài chính, các cơ quan có liên quan và từng

nhà tài trợ xây dựng định hướng hợp tác và lĩnh vực ưu tiên sử dụng ODA, báo cáo

Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Danh mục tài trợ.

Bước 2: Chuẩn bị, thẩm định và phê duyệt văn kiện dự án ODA

Sau khi có Quyết định phê duyệt Danh mục tài trợ và văn bản cam kết tài trợ

của Nhà tài trợ, Bộ Nông nghiệp và PTNT (Bộ được Chính phủ giao chủ quản đối

với các dự án về nông nghiệp và PTNT) và Ủy ban Nhân dân tỉnh có nhiệm vụ sau:

1) Ban hành quyết định về Chủ dự án

2) Chỉ đạo Chủ dự án phối hợp với Nhà tài trợ trong việc chuẩn bị, lập văn

kiện chương trình, dự án và hoàn tất hồ sơ để thực hiện các thủ tục về thẩm

định và phê duyệt văn kiện chương trình, dự án.

3) Bố trí các nguồn lực (con người, hiện vật, ngân sách) theo thẩm quyền cho

việc chuẩn bị chương trình, dự án.

4) Tổ chức thẩm định và phê duyệt văn kiện chương trình, dự án.

Bước 3: Ký kết điều ước quốc tế về ODA

44

Cơ sở đề xuất ký kết điều ước quốc tế khung về ODA là kết quả vận động,

chiến lược và chính sách hợp tác phát triển, lĩnh vực ưu tiên về ODA đã được thống

nhất giữa Việt Nam và Nhà tài trợ, cơ sở đề xuất ký kết điều ước quốc tế cụ thể về

ODA là văn kiện chương trình đã được Thủ tướng Chính phủ (hoặc Bộ Nông

nghiệp và PTNT, Ủy ban Nhân dân tỉnh) phê duyệt.

Trình tự, thủ tục ký kết điều ước quốc tế về ODA như sau:

Thứ nhất, cơ quan đề xuất lấy ý kiến của các cơ quan liên quan, ý kiến kiểm

tra của Bộ ngoại giao, ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp, tổng hợp trình Thủ tướng

Chính phủ xem xét, quyết định việc đàm phán, ký kết điều ước quốc tế về ODA.

Thứ hai, Thủ tướng Chính phủ báo cáo Chủ tịch nước và quyết định việc

đàm phán, ký điều ước quốc tế về ODA nhân danh Nhà nước, điều ước quốc tế

nhân danh Chính phủ có quy định phải phê chuẩn.

Thứ ba, cơ quan được Thủ tướng Chính phủ giao chủ trì đàm phán tiến hành

đàm phán với nhà tài trợ về dự thảo điều ước quốc tế về ODA

Thứ tư, căn cứ kết quả đàm phán phù hợp với nội dung dự thảo điều ước

quốc tế về ODA đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận và ủy quyền ký, người

được Thủ tướng Chính phủ ủy quyền tiến hành ký điều ước quốc tế với đại diện của

Nhà tài trợ.

Thứ năm, đối với trường hợp Điều ước quốc tế sau khi ký phải được phê

duyệt hoặc phê chuẩn, cơ quan đề xuất lấy ý kiến các cơ quan có liên quan, trình

Thủ tướng Chính phủ để Thủ tướng chính phủ phê duyệt hoặc trình Chủ tịch nước

2.3.1.2. Quy trình quản lý thực hiện chương trình, dự án ODA về nông nghiệp

và PTNT

phê chuẩn.

a. Thành lập Ban quản lý dự án ODA

Trong vòng 30 ngày làm việc sau khi chương trình, dự án được cấp có thẩm

quyền phê duyệt, chủ dự án ra quyết định thành lập ban quản lý dự án, riêng đối với

một số các khoàn hỗ trợ dưới 200.000 USD thì không thành lập ban quản lý dự án,

45

Chủ dự án sử dụng bộ máy chuyên môn của mình để quản lý, điều hành chương

trình dự án.

Việc thành lập Ban quản lý dự án phải xem xét khả năng sử dụng các Ban

quản lý dự án chuyên nghiệp hoặc các Ban quản lý dự án hiện có của Chủ dự án để

giảm chi phí quản lý và sử dụng năng lực, kinh nghiệm của các cán bộ quản lý dự án.

Ban quản lý dự án có nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: Hỗ trợ chủ dự án lập

kế hoạch tổng thể và kế hoạch chi tiết hàng năm thực hiện chương trình, dự án; Hỗ

trợ chủ dự án trong công tác chuẩn bị thực hiện và thực hiện chương trình, dự án;

Hỗ trợ chủ dự án thực hiện các hoạt động đấu thầu và quản lý hợp đồng; Hỗ trợ chủ

dự án trong công tác giải ngân, quản lý tài chính và tài sản của chương trình, dự án;

Thực hiện công tác theo dõi và đánh giá tình hình thực hiện chương trình, dự án;

Chuẩn bị để chủ dự án nghiệm thu và bàn giao các kết quả đầu ra của chương trình,

dự án sau khi hoàn thành; hoàn tất công tác kiểm toán, bàn giao tài sản của chương

trình, dự án; lập báo cáo kết thúc và báo cáo quyết toán chương trình, dự án.

b. Bố trí vốn đối ứng

Các chương trình, dự án phải được đảm bảo đủ vốn đối ứng để chuẩn bị thực

hiện và thực hiện chương trình, dự án, trong đó, nguồn, mức vốn và cơ chế vốn đối ứng

phải phù hợp với nội dung nêu trong văn kiện chương trình, dự án đã được phê duyệt.

c. Bồi thường, hỗ trợ tái định cư, đấu thầu

Phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của chương trình, dự án ODA phải

có cam kết chính thức bằng văn bản của cơ quan có thẩm quyền về tiến độ, thời hạn

hoàn thành bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bẳng và tái định cư phù hợp với tiến

độ thực hiện của từng gói thầu thuộc chương trình, dự án.

Việc đấu thầu thực hiện các chương trình, dự án phải thực hiện theo quy định

của pháp luật hiện hành và điều ước quốc tế về ODA mà nước Cộng hòa Xã hội chủ

nghĩa Việt Nam là thành viên.

d. Quản lý thực hiện dự án, nghiệm thu, bàn giao, kiểm toán và quyết toán

Đối với chương trình, dự án hỗ trợ kỹ thuật sau khi hoàn thành, cơ quan chủ

quản tổ chức nghiệm thu và tiến hành các biện pháp cần thiết để tiếp tục khai thác

46

và phát huy kết quả đạt được cũng như thực hiện các quy định của pháp luật hiện

hành về quản lý tài chính và tài sản của chương trình, dự án.

Việc quản lý thực hiện dự án, kiểm toán và quyết toán chương trình dự án

được thực hiện theo quy định của Nhà tài trợ và Chính phủ Việt Nam.

Ngoài những nội dung chính của Quy trình thu hút và Quản lý vốn ODA đã

nêu trong phần này, một nội dung tuy không chứa đựng trong quy trình nhưng hết

sức quan trong đó là quy định về cơ chế tài chính trong nước đối với việc sử dụng

nguồn vốn ODA, Theo Nghị định 38/NĐ-CP, quy định rằng ngân sách nhà nước

cấp phát ODA cho các chương trình dự án đầu tư CSHT, phúc lợi xã hội hoặc các

lĩnh vực khác không có khả năng thu hồi vốn thuộc nhiệm vụ chi của nhà nước. Nhà

nước sẽ cho vay lại toàn bộ hay một phần vốn ODA với các chương trình dự án có

khả năng thu hồi vốn, hoặc các chương trình dự án không thuộc nhiệm vụ chi cuả

nhà nước, cho UBND tỉnh vay lại đối với các chương trình, dự án do UBND tỉnh

làm chủ quản thuộc đối tượng phải vay lại ODA của Chính phủ. Như vậy các dự án

ODA thuộc lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn triển khai ở các tỉnh DHMT có phần

sẽ được cấp phát, nhưng có phần phải vay lại và phải có trách nhiệm bố trí ngân

2.3.2.1. Tiêu chí đánh giá thu hút ODA

sách địa phương để hoàn trả vốn vay này. 2.3.2. Tiêu chí đánh giá thu hút và sử dụng ODA vào nông nghiệp và PTNT

Việc đánh giá thu hút ODA được dựa trên một số chỉ tiêu định lượng chính

như: tổng số vốn ODA cam kết, ODA ký kết, tỷ suất ODA ký kết/ODA cam kết đầu

tư vào ngành nông nghiệp và PTNT. Ngoài ra còn có các chỉ tiêu về cơ cấu vốn

ODA phân theo thời kỳ, theo lĩnh vực, theo nhà tài trợ và theo tính chất tài trợ

(hoàn lại/ không hoàn lại). Dựa vào các chỉ tiêu này, chúng ta đánh giá được thực

trạng thu hút nguồn vốn ODA vào nông nghiệp và PTNT trong từng thời kỳ nhất

2.3.2.2. Tiêu chí đánh giá sử dụng ODA

định là nhiều hay ít và mức độ ưu đãi cao hay thấp.

Việc sử dụng ODA được biểu hiện trước nhất ở các chỉ tiêu như tỷ lệ giải

ngân, cơ cấu vốn ODA giải ngân theo lĩnh vực, mức độ hài lòng của Nhà tài trợ.

47

Bên cạnh đó, để đánh giá tổng thể sử dụng ODA, cộng đồng các nhà tài trợ trong

thời gian qua đã đưa ra một số tiêu chí đánh giá “Hiệu quả”, “Hiệu suất”, “Tác

động”, “Phù hợp” và “Bền vững” của ODA, như sau:

a. Hiệu quả (Efectiveness)

Tiêu chí này phản ánh mức độ đạt được hoặc dự kiến đạt được các mục tiêu

của dự án ODA, có xét đến tầm quan trọng tương đối của chúng, là phép đo mức độ

một dự án đạt được các mục tiêu đã đề ra; tức là mức độ mà một can thiệp phát triển

đã đạt được hoặc dự kiến sẽ đạt được những mục tiêu liên quan một cách hiệu quả

và bền vững (IFAD 2002).

Để đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA về mặt kinh tế - tài chính,

trong từng dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA, có thể sử dụng chỉ tiêu Giá trị hiện

tại ròng NPV (Net Present Value) hoặc chỉ tiêu Tỷ suất sinh lợi IRR (Internal Rate

of Return) [54b].

Chỉ tiêu Giá trị hiện tại thực NPV (Net Present Value) được tính toán theo

t

−=

+

+

+

+

−=

+

........

Co

NPV

Co

công thức sau:

1

2

t

i

C +

)

1(

)

1(

Ci + r

)

1(

2 r

Ct + r

= 1

i

1(

)

C 1 + r

[2.2]

(Trong đó: Ci là dòng tiền thực thu (số dương) và thực chi (số âm); r là tỷ lệ chiết

khấu; t là độ dài thời gian của dự án đầu tư).

Nếu NPV >0, dự án thực sự làm tăng của cải hay làm lợi cho nhà đầu tư.

Nếu NPV=0, dự án không làm tăng lợi ích cho nhà đầu tư (hay nói cho đúng

hơn là chỉ mang lại khoản lợi bằng với mức mà bất kỳ ai cũng có thể kiếm được

thông qua thị trường tài chính.

Nếu NPV <0, dự án sẽ làm giảm của cải của nhà đầu tư.

Do vậy, chỉ nên đầu tư vào dự án có NPV > 0 hoặc tối thiểu =0.

Do NPV phụ thuộc vào tỷ lệ chiết khấu r, mà tỷ lệ này lại biến động tuy thuộc

vào thị trường tài chính, nên gần đây các tổ chức tài chính quốc tế thường chỉ sử dụng

48

chỉ tiêu Tỷ suất sinh lợi IRR (bao gồm Tỷ suất sinh lợi tài chính FIRR và Tỷ suất sinh

lợi kinh tế EIRR) để đánh giá hiệu quả dự kiến của dự án đầu tư ODA phục vụ cho

việc ra quyết định đầu tư, do IRR là chỉ tiêu riêng có của mỗi dự án, chỉ phụ thuộc

vào dòng thu (lợi ích) và dòng chi (chi phí) của dự án đó mà thôi. Thông thường, WB

và ADB chỉ đầu tư vào các dự án có FIRR và EIRR tối thiểu bằng 10%.

Để tính IRR có nhiều phương pháp, nhưng tính IRR theo phương pháp nội

suy thường được sử dụng vì việc tính toán không phức tạp, độ chính xác hợp lí có

thể chấp nhận được.

(

)

; (1)

= + IRR r 1

r 2

r 1

Công thức:

NPV 1 − NPV NPV 2

1

[2.3]

Trong đó:

1r : tỷ suất chiết khấu thấp hơn tại đó

1NPV >0 gần sát 0 nhất

2r : tỷ suất chiết khấu cao hơn tại đó

2NPV <0 gần sát 0 nhất

IRR: Tỷ suất sinh lợi (%)

Tuy nhiên, do tính chất của nguồn vốn ODA có thành tố hỗ trợ đạt khoảng

25-35% và không phải là nguồn vốn đầu tư để sinh lợi tài chính thông thường, đặc

biệt là với các dự án phát triển nông nghiệp và nông thôn, xóa đói giảm nghèo, nên

ngoài chỉ tiêu IRR, hiệu quả dự án ODA còn được xem xét, đánh giá thông qua một

số chỉ tiêu về giảm nghèo, bình đẳng giới, tiếp cận giáo dục.

b. Hiệu suất (Efficiency)

Hiệu suất là phép đo về phương diện kinh tế trong việc biến các nguồn lực,

đầu vào (ngân sách, chuyên gia, thời gian…) thành kết quả. (OECD-WB 2001),

(OECD-DAC 2002), (SIDA 2004). Tức là so sánh đầu tư một đơn vị yếu tố đầu vào

sẽ đưa lại bao nhiêu sản phẩm đầu ra.

c. Tác động (Impacts)

Tiêu chí này phản ánh các ảnh hưởng của chương trình đối với môi trường rộng

lớn, và đóng góp của chương trình đối với các mục tiêu lớn hơn hoặc mục tiêu tổng

thể, các ảnh hưởng này bao gồm các ảnh hưởng dài hạn tích cực và tiêu cực, nguyên

49

phát và thứ phát do một can thiệp phát triển gây ra trực tiếp hoặc gián tiếp, có chủ định

và không chủ định. (OECD-WB, 2001), (OECD-DAC, 2002), (SIDA, 2004).

d. Phù hợp (Relevance)

Tiêu chí này xem xét tính phù hợp của các mục tiêu của dự án đối với các

vấn đề thực tế, các nhu cầu và những ưu tiên cho các mục tiêu và các đối tượng thụ

hưởng mà dự án cần phải chú trọng; và phù hợp với môi trường vật chất và chính

sách mà dự án đang hoạt động (EC-PCM).

e. Bền vững (Sustainability)

Tiêu chí này xem xét sự tiếp tục hưởng lợi từ một can thiệp phát triển sau khi

những hỗ trợ phát triển đã kết thúc, hoặc khả năng để một dự án tiếp tục có lợi ích

lâu dài. (OED-WB 2001), (OECD-DAC, 2002), (SIDA, 2004).

Qua nghiên cứu các tiêu chí “hiệu quả”, “hiệu suất”, “tác động”, “phù hợp”

và “bền vững” và trên cơ sở phạm vi nghiên cứu của luận án là “Thu hút và sử dụng

nguồn vốn ODA vào Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam: nghiên cứu tại

vùng Duyên Hải Miền Trung”, đề tài sẽ đánh giá việc thu hút và sử dụng nguồn

ODA trên cơ sở: (i) xem xét tính phù hợp của các mục tiêu của nguồn vốn ODA với

các vấn đề thực tế, các nhu cầu và những ưu tiên cho các mục tiêu phát triển của

ngành nông nghiệp; (ii) xem xét tác động của dự án đến chính sách, con người, cơ

sở vật chất, khoa học công nghệ, … của ngành như thế nào?; (iii) xem xét liệu hiệu

quả đầu tư của các dự án ODA có đạt được theo các mục tiêu đã đặt ra hay không?

và (iv) xem xét tính bền vững của các chương trình/dự án sử dụng nguồn vốn ODA.

2.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới thu hút và sử dụng ODA

2.4.1. Các nhân tố khách quan

Tình hình kinh tế, chính trị ở quốc gia tài trợ: Các yếu tố như tăng trưởng

kinh tế, tổng thu nhập quốc dân, lạm phát, thất nghiệp hay những thay đổi chính trị

ở một quốc gia có tác động đến các hoạt động hỗ trợ phát triển cho các quốc gia

khác. Chẳng hạn, các quốc gia đang cung cấp ODA, do nền kinh tế gặp khủng

50

hoảng, tỷ lệ thất nghiệp tăng hoặc có sự thay đổi về thể chế,… có thể giảm mức

cam kết ODA với các quốc gia nhận tài trợ.

Các chính sách, quy chế của Nhà tài trợ: Nhìn chung, mỗi nhà tài trợ đều có

chính sách và thủ tục riêng đòi hỏi các quốc gia tiếp nhận viện trợ phải tuân thủ khi

thực hiện các chương trình, dự án sử dụng vốn ODA của họ. Các thủ tục này

thường khác nhau ở một số lĩnh vực như xây dựng báo cáo nghiên cứu tiền khả thi,

các thủ tục về đấu thầu, các thủ tục về giải ngân hay chế độ báo báo cáo định kỳ,…

Các thủ tục này có thể khiến cho nhiều quốc gia tiếp nhận viện trợ lúng túng trong

quá trình thực hiện dự án. Tiến độ các chương trình dự án bị đình trệ, kéo dài hơn

so với dự kiến, giảm hiệu quả đầu tư. Vì vậy, việc hiểu biết và thực hiện đúng các

chủ trương, hướng dẫn và quy định của từng Nhà tài trợ là một điều vô cùng cần

thiết đối với các quốc gia tiếp nhận viện trợ.

Môi trường cạnh tranh: Trong thời gian gần đây, tổng lượng ODA trên Thế

giới đang có chiều hướng suy giảm, trong khi đó nhu cầu ODA của các nước đang

phát triển tăng liên tục, nhất là sau các cuộc khủng hoảng kinh tế và các cuộc xung

đột vũ trang khu vực. Vì vậy, trên thế giới hiện đang diễn ra cuộc cạnh tranh quyết

liệt giữa các nước đang phát triển để tranh thủ nguồn vốn ODA. Vì vậy, để thu hút

được nguồn vốn ODA trong thời gian tới đòi hỏi các quốc gia tiếp nhận viện trợ

phải không ngừng nâng cao hơn nữa trình độ kinh nghiệm và năng lực của mình

trong công tác quản lý, điều phối và thực hiện các chương trình, dự án sử dụng

nguồn vốn này.

2.4.2. Các nhân tố chủ quan

Thông thường các nhà tài trợ đầu tư vốn ODA vào các nước có mối quan hệ

chính trị tốt và sử dụng vốn ODA có hiệu quả. Vì vậy, các nhân tố kinh tế chính trị

của nước nhận tài trợ có ảnh hưởng lớn đến thu hút nguồn vốn ODA. Các nhân tố

chủ quan ảnh hưởng đến thu hút nguồn vốn ODA bao gồm:

Tình hình kinh tế, chính trị ở quốc gia tiếp nhận viện trợ: Trong môi trường

này, các yếu tố như tăng trưởng kinh tế, tổng thu nhập quốc dân, lạm phát, thất

51

nghiệp, cơ chế quản lý kinh tế, sự ổn định chính trị,… sẽ có những tác động trực

tiếp đến quá trình thu hút và sử dụng vốn ODA. Ví dụ, ở các quốc gia có cơ chế

quản lý kinh tế tốt, viện trợ tương đương 1% GDP có thể dẫn đến mức tăng trưởng

bền vững tương đương 0,5% GDP. Vì vậy, ổn định về mặt chính trị, tăng trưởng về

kinh tế là một trong những yếu tố đặc biệt quan trọng để vận động, thu hút ODA

cho đất nước và sử dụng ODA hiệu quả.

Qui trình và thủ tục của nước tiếp nhận viện trợ: Đây là nhân tố quan trọng

nhất tác động trực tiếp tới hoạt động thu hút và sử dụng vốn ODA. Ở những quốc

gia có quy trình và thủ tục thông thoáng, thuận lợi cho công tác thực hiện các

chương trình, dự án ODA thì ở nơi đó các chương trình, dự án ODA sẽ triển khai

thuận lợi, đúng tiến độ và phát huy tốt, qua đó sẽ làm tăng khả năng thu hút thêm

nguồn vốn này.

Năng lực của cán bộ hoạt động trong lĩnh vực thu hút và sử dụng vốn ODA:

Năng lực của các cán bộ thực hiện chương trình, dự án ODA cũng là một nhân tố

ảnh hưởng không nhỏ tới công tác thu hút và sử dụng vốn ODA. Các cán bộ hoạt

động trong lĩnh vực thu hút và sử dụng vốn ODA cần phải có năng lực về đàm

phán, ký kết dự án, triển khai thực hiện, quản lý nguồn vốn… Điều này đòi hỏi các

cán bộ phải có kiến thức chuyên môn sâu về pháp luật, kinh tế, kỹ thuật, ngoại ngữ.

Bởi vì trên thực tế, các hoạt động thực hiện dự án vừa phải tuân thủ các quy định,

luật pháp của Chính phủ Việt Nam vừa phải tuân thủ các quy định, hướng dẫn của

Nhà tài trợ. Ngoài năng lực công tác chuyên môn, các cán bộ quản lý dự án nhất

thiết phải có phẩm chất trung thực, khách quan và có khả năng chịu đựng được áp

lực cao trong công việc.

Năng lực tài chính của các nước tiếp nhận viện trợ ODA: Đối với các

chương trình dự án ODA, để tiếp nhận 1 USD vốn ODA thì các quốc gia tiếp nhận

phải có ít nhất 0,15 USD vốn đối ứng (khoảng 15%). Ngoài ra, cũng cần một lượng

vốn đầu tư nhất định từ ngân sách cho công tác chuẩn bị các chương trình, dự án. Vì

vậy, để thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA các quốc gia tiếp nhận vốn

phải biết tăng cường và phát huy năng lực tài chính tự có.

52

2.5. Kinh nghiệm của một số quốc gia về thu hút và sử dụng ODA trong

phát triển nông nghiệp và nông thôn

Vốn ODA đã tồn tại trên thế giới hơn 60 năm và được đánh giá là đóng vai

trò quan trọng đối với phát triển kinh tế của nhiều nước chậm và đang phát triển.

Tuy nhiên, việc sử dụng nguồn vốn ODA của các nước nghèo trên thế giới không

phải lúc nào và ở đâu cũng thành công. Mỗi nước nhận viện trợ có những đặc thù

riêng. Việc sử dụng viện trợ có hiệu quả hay không còn phụ thuộc vào chính sách

kinh tế, xã hội, thể chế chính trị, đội ngũ cán bộ… của nước nhận viện trợ. Có

những trường hợp cùng một lượng viện trợ cho hai nước khác nhau đem lại kết quả

hoàn toàn trái ngược nhau.

Mỗi quốc gia nhận ODA đều có cách tiếp cận riêng của mình, theo đó công

tác quản lý và điều phối của Nhà nước ở các quốc gia này cũng có những nét riêng.

Hàng năm, WB, các nhà tài trợ song phương và bản thân các nước nhận tài trợ đều

có những đánh giá độc lập để rút ra kinh nghiệm thành công cũng như thất bại. Với

Việt Nam, trong giai đoạn hiện nay, ODA còn khá mới mẻ nên việc nghiên cứu

kinh nghiệm của các nước đi trước là rất cần thiết.

2.5.1. Những kinh nghiệm thành công trong thu hút và sử dụng ODA

Sự thành công của mỗi quốc gia không bao giờ diễn ra một cách ngẫu nhiên

mà nhất định phải có nguyên nhân của sự thành công đó:

- Xác định lĩnh vực ưu tiên hợp lý: Thông thường căn cứ vào kế hoạch phát

triển kinh tế, xã hội dài hạn và ngắn hạn mà mỗi nước xác định những lĩnh vực đầu

tư dùng vốn ODA cụ thể.

Kenya là một nước đang phát triển điển hình ở Đông Phi, là nước có tầm

quan trọng về cả kinh tế và chính trị của khu vực; đồng thời cũng là một thị trường

tiềm năng, là nơi cung cấp một khối lượng cà phê và chè lớn trên thế giới. Tại

Kenya, từ năm 1987 đến 1996, vốn ODA được thu hút và trải rộng trên nhiều lĩnh

vực, nhưng cũng tập trung vào một số lĩnh vực cơ bản: 30% dành cho cơ sở hạ

tầng, giao thông vận tải và năng lượng; 15% cho nông nghiệp và lâm nghiệp; 10%

53

cho các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế. Các dự án về giáo dục và đào tạo ở Kenya

đã được các nhà tài trợ đánh giá là có hiệu quả cao. Giáo dục tiểu học miễn phí đã

làm cho lượng học sinh đến trường tăng lên đáng kể, từ 891.103 em năm 1963 đã

tăng lên 1,4 triệu em vào năm 1970, năm 1990 là 5,5 triệu em theo học tại 16.500

trường tiểu học.

Ở Đài Loan, do xác định nông nghiệp là lĩnh vực ưu tiên hàng đầu nên thời

kỳ 1951-1953, trong tổng số 267 triệu USD nhận viện trợ, vùng lãnh thổ này đã chi

50% cho lĩnh vực nông nghiệp, tiếp theo là các lĩnh vực khác như kỹ thuật, công

nghiệp, hạ tầng, thuỷ lợi giao thông... Trong nông nghiệp, Chính phủ Đài Loan tập

trung đầu tư vào cơ sở hạ tầng nông thôn, xây dựng hệ thống thuỷ lợi, phát triển lâm

nghiệp, và cải tạo đất. Một phần không nhỏ của hỗ trợ phát triển chính thức được

đầu tư cho các hộ nông dân mua máy móc, thiết bị nông nghiệp loại nhỏ nhằm tăng

năng suất lương thực. Các nước khác như Thái Lan, Singapore... chủ yếu dành vốn

ODA cho các dự án hạ tầng kinh tế giao thông, viễn thông, năng lượng...là những

dự án đòi hỏi vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn chậm nên không hấp dẫn các nhà

đầu tư trong nước và nước ngoài nhưng lại giúp nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế xã

hội, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh

nghiệp trong và ngoài nước.

- Tạo ra một khung chính sách và hệ thống luật khuyến khích thu hút ODA vào

phát triển nông nghiệp làm cơ sở cho sự phát triển rộng khắp. Trong thời kỳ Hàn Quốc

thực hiện "tái thiết nền kinh tế" (1951-1962), Chính phủ đã đưa ra những luật khuyến

khích thu hút ODA và đã dành 40% tổng số ODA để khôi phục cơ sở hạ tầng và cơ sở

công nghiệp bị tàn phá trong chiến tranh, 60% còn lại tập trung vào chuyển dịch cơ cấu

kinh tế của Hàn Quốc trong giai đoạn này là tập trung cho nông nghiệp và phát triển

nông thôn. Việc khuyến khích thu hút ODA vào phát triển nông nghiệp nhằm nhanh

chóng tự túc lương thực, xây dựng cơ sở hạ tầng, và hiện đại hoá nông nghiệp, cùng

với các chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp đã góp phần giúp Hàn Quốc

trở thành quốc gia duy nhất trên thế giới cho đến nay thay đổi từ vị trí là một nước

nhận viện trợ sau đại chiến Thế giới lần thứ hai trở thành nước viện trợ [54].

54

- Xác định các mục tiêu chung và các mục tiêu cụ thể của dự án phải xuất

phát từ yêu cầu thực sự của nông dân. Từ kinh nghiệm của các nước đang phát triển

cho thấy việc bảo đảm tính khả thi của dự án và mang lại hiệu quả thiết thực cho

nông dân là nhân tố có tính quyết định sự thành công của các dự án hay chương

trình tiếp nhận nguồn ODA. Muốn đạt được mục tiêu này phải nghiên cứu lựa chọn

mục tiêu, đối tượng dự án một cách khách quan, có cơ sở khoa học.

- Thành lập một hệ thống quản lý, điều phối và thực hiện các chương trình,

dự án ODA trong nông nghiệp đủ mạnh từ Trung ương đến địa phương. Các cán bộ

lãnh đạo chủ chốt được đào tạo, tập huấn nhằm có đủ năng lực, chuyên môn và hiểu

biết chế độ hiện hành của Chính phủ và Nhà tài trợ. Chính phủ Ấn Độ đã tuyển

chọn rất kỹ các quan chức và nhân viên đảm trách phân phối và sử dụng ODA theo

nguyên tắc tài chính công khai, sử dụng hiệu quả và tinh thần liêm khiết để quản lý

và điều phối các chương trình, dự án ODA trong nông nghiệp. Còn ở Thái Lan, các

chương trình, dự án ODA nói chung và các chương trình, dự án ODA trong nông

nghiệp nói riêng được tập trung ở một cơ quan là Tổng vụ hợp tác kinh tế và kỹ

thuật, ở đây đã có một hệ thống quản lý chặt chẽ từ Trung ương đến địa phương.

- Xây dựng những chương trình, dự án ODA trong nông nghiệp hướng tới

mục đích xoá đói giảm nghèo và chống thất nghiệp ở nông thôn. Chính phủ các

nước đang phát triển đã xây dựng và thực thi các chương trình, dự án đến với các

nhóm người nghèo thông qua việc (i) xác định và lựa chọn các xóm hoặc thôn (hoặc

huyện) nghèo cần ưu tiên đặt trọng tâm trong chương trình, dự án; (ii) đảm bảo cho

các chương trình mục tiêu xoá đói giảm nghèo có hiệu quả về kinh tế và không làm

suy yếu cơ chế tăng trưởng.

- Công khai hóa thông tin về các dự án đầu tư và các vùng lãnh thổ được

đầu tư. Ví dụ, Inđônêxia hàng năm xuất bản "Quyển sách xanh" để gửi cho các nhà

tài trợ ODA. Quyển sách này bao gồm đầy đủ các nội dung để cung cấp thông tin

cần thiết như các dự án trong nông nghiệp thuộc các lĩnh vực ưu tiên của Chính

phủ, kế hoạch vận động thu hút ODA trong đó có đề cập chi tiết đối với từng vùng

lãnh thổ sao cho có sự cân bằng giữa nông thôn và thành thị. Đồng thời để thu hút

55

và sử dụng vốn ODA sao cho hợp lý, Inđônêxia cũng chuẩn bị và sẵn sàng cung cấp

các thông tin để đáp ứng các yêu cầu từ các nhà tài trợ.

2.5.2. Những kinh nghiệm từ sự không thành công trong sử dụng ODA

- Chưa xác định đúng chiến lược sử dụng ODA trong nông nghiệp, sử dụng

ODA tràn lan dẫn tới hiệu quả sử dụng thấp. Xác định chiến lược sử dụng ODA

trong nông nghiệp là một yêu cầu đầu tiên của công tác quản lý ODA. Việc xác

định chiến lược sử dụng ODA trong nông nghiệp sẽ làm cho sử dụng ODA đúng

mục đích và không dẫn đến gánh nặng nợ nần cho các nước nhận viện trợ. Tuy

nhiên, có một số nước lại không quan tâm đến vấn đề này, khi nguồn viện trợ ngày

càng tăng thì việc sử dụng lãng phí, đầu tư tràn lan cũng có xu hướng ngày càng

cao, nhất là trong giai đoạn đầu khi nghĩa vụ trả nợ gốc chưa đến hạn (tức trong thời

gian ân hạn). Một số quốc gia đã không cân nhắc đến nhu cầu thực tế, đến khả năng

hấp thụ ODA, khả năng trả nợ của đất nước, xây dựng những chương trình, dự án

thiếu căn cứ khoa học và luận chứng kỹ thuật chưa chặt chẽ dẫn đến tình trạng

phiêu lưu trong sử dụng vốn. Ở Châu Mỹ Latinh, điển hình là Braxin, bằng vốn vay

nước ngoài, nước này tiến hành một chương trình xây dựng kinh tế cực kỳ to lớn

bao gồm: Xây dựng nhiều công trình thủy lợi với số vốn lớn tại vùng Đông Bắc,

xây dựng tổ hợp nông - công nghiệp vùng Đông Bắc với số vốn khổng là 620 triệu

USD. Kết quả là Braxin đã trở thành một con nợ lớn nhất thế giới với 108 tỷ USD

năm 1986 và là một trong hai nước đầu tiên tuyên bố vỡ nợ vào tháng 8 năm 1992.

- Không chú trọng đầu tư cho nông nghiệp và chưa quan tâm thu hút sự

tham gia của người dân/người hưởng lợi vào quá trình chuẩn bị dự án ODA. Ví

dụ như ở Châu Phi, nguồn vốn ODA được tập trung quá mức vào xây dựng hàng

loạt công xưởng, biệt thự lớn, đầu tư chủ yếu vào phát triển đô thị, không quan

tâm đến phát triển nông nghiệp, đầu tư không cân đối dẫn đến sử dụng vốn kém

hiệu quả, gây tổn thất to lớn cho nền kinh tế quốc dân. Kết quả là mặc dù nguồn

vốn ODA đổ vào các nước Châu Phi những năm thập kỷ 80 lên tới 30-40% tổng

ODA thế giới với mức ưu đãi cao, tỷ lệ cho không lên tới 60-80% nhưng tốc độ

56

tăng trưởng của các nước Châu Phi trong những năm này vẫn liên tục giảm. Theo

đuổi số lượng dự án sẽ dẫn tới sự đầu tư lãng phí, chỉ chạy theo tốc độ giải ngân

mà không quan tâm đến người hưởng lợi trực tiếp thì dự án khó thành công. Trong

quá trình thiết kế dự án, Chính phủ nhiều nước đang phát triển và nhà tài trợ quá

chú trọng vào mục tiêu số lượng dự án và công nghệ hiện đại mà quên mất người

hưởng lợi. Sự lãng quên này thực tế đã dẫn đến kết quả tồi tệ. Ví dụ, năm 1996,

một hệ thống thủy lợi được tài trợ lớn ở Nêpan đã được các chuyên gia kỹ thuật

thiết kế với vùng hưởng lợi chưa được tưới tiêu. Tình cờ dự án bị chậm trễ, người

ta có thời gian để phát hiện ra rằng trên thực tế đã có 85 hệ thống thủy lợi do nông

dân quản lý đang hoạt động tốt ở đó.

Trong nhiều trường hợp, do quá chú trọng tới tăng khối lượng viện trợ tài

chính, các nhà tài trợ và Chính phủ nước nhận ODA chỉ tập trung vào quy mô và

tốc độ giải ngân mà quên đi người hưởng lợi trực tiếp. Họ chỉ được huy động thực

hiện dự án một cách miễn cưỡng, vì sự tham gia của họ thường làm kéo dài thời

gian thực hiện của dự án. Tuy nhiên, những đánh giá về kinh nghiệm trong lĩnh vực

thủy lợi của WB đã chỉ ra rằng, sự tham gia của người hưởng lợi vào dự án là rất

quan trọng. Năm 1995, một công trình đánh giá 121 dự án cấp nước nông thôn được

tài trợ bởi các Chính phủ và các Tổ chức phi chính phủ (NGOs) ở 49 nước đã cho

thấy tầm quan trọng của sự tham gia của những người hưởng lợi đối với sự thành

công của dự án. Theo đánh giá này, 68% các dự án có sự tham gia của người hưởng

lợi ở mức độ cao rất thành công, trong khi chỉ có 12% các dự án ít có sự tham gia

của các chủ thể này là có kết quả. Khi coi sự tham gia của người hưởng lợi là một

mục tiêu thì 62% số dự án thành công, còn nếu không làm như vậy thì chỉ có 10%

số dự án thành công. Vì vậy, các nước nhận ODA nên sử dụng đội ngũ cán bộ và

người hưởng lợi tại địa phương trong các chương trình, dự án ODA trong nông

nghiệp, đặc biệt là các dự án duy tu và mở rộng các tuyến đường, cải tạo các công

trình cơ sở hạ tầng ở địa phương, nâng cấp hệ thống thủy lợi, hệ thống cung cấp

nước sạch nông thôn và dự án phủ xanh đất trống đồi trọc, phát triển mạng lưới điện

nông thôn miền núi.

57

2.5.3. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam

Từ những kinh nghiệm của các nước trong quá trình thu hút và sử dụng ODA

trong nông nghiệp, nông thôn, có thể rút ra bốn bài học về thu hút và sử dụng ODA

như sau:

Một là, cần nhận thức đúng đắn về ODA, coi ODA là nguồn lực bên ngoài

có tính chất bổ sung chứ không thay thế nguồn lực nội sinh. ODA không phải là

“thứ cho không” mà chủ yếu là vay nợ nước ngoài theo điều kiện ưu đãi, gắn với uy

tín và trách nhiệm quốc gia trong quan hệ với cộng đồng tài trợ quốc tế.

Hai là, nâng cao năng lực quản lý, trình độ chuyên môn và phát huy vai trò

làm chủ cũng như tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ trong thu hút và sử

dụng ODA nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn này.

Ba là, sự cam kết mạnh mẽ, chỉ đạo sát sao và có sự tham gia của đối tượng

hưởng lợi sẽ bảo đảm việc thực hiện các chương trình, dự án ODA có hiệu quả;

phòng và chống được thất thoát, lãng phí và tham nhũng.

Bốn là, xây dựng mối quan hệ đối tác tin cậy với các nhà tài trợ trên cơ sở tin

cậy lẫn nhau, hợp tác xây dựng và cùng chia sẻ trách nhiệm trong cung cấp và tiếp

nhận ODA là yếu tố không thể thiếu để thu hút và sử dụng ODA có hiệu quả.

Tóm lại, trong Chương 2, luận án đã hệ thống hóa lịch sử hình thành, khái

niệm, phân loại, tính chất và mặt trái của ODA, các nhân tố ảnh hưởng đến quá

trình thu hút và sử dụng ODA, phân tích vai trò của ODA đối với sự phát triển nông

nghiệp, nông thôn Việt Nam, qui trình và tiêu chí đánh giá thu hút và sử dụng ODA,

cũng như một số kinh nghiệm quốc tế về thu hút và sử dụng ODA trong nông

nghiệp và nông thôn. Đây là cơ sở lý luận định hướng cho việc nghiên cứu và đi

sâu phân tích thực trạng thu hút và sử dụng ODA cho phát triển nông nghiệp và

nông thôn Việt Nam nói chung và tại vùng DHMT nói riêng.

58

CHƯƠNG 3 THỰC TRẠNG THU HÚT VÀ SỬ DỤNG ODA VÀO PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP VÀ NÔNG THÔN TẠI VIỆT NAM VÀ VÙNG DUYÊN HẢI MIỀN TRUNG

3.1. Khái quát về nông nghiệp, nông thôn Việt Nam và đặc điểm vùng

Duyên Hải Miền Trung

3.1.1. Khái quát về nông nghiệp nông thôn Việt Nam

3.1.1.1. Thành tựu của nông nghiệp, nông thôn Việt Nam trong những năm

gần đây

Nông nghiệp và nông thôn luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp xây

dựng và bảo vệ tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế-xã

hội. Hiện nay, ở nước ta có trên 75% dân số sống ở nông thôn với 73% lực lượng

lao động đang làm việc, sinh sống nhờ vào hoạt động sản xuất nông lâm ngư

nghiệp, sản phẩm nông nghiệp trong nước là nguồn cung cấp lương thực thực phẩm

cho tiêu dùng, tạo nguyên liệu cho nền sản xuất công nghiệp, cung cấp trực tiếp và

gián tiếp cho các ngành kinh tế khác phát triển, tạo sự ổn định, đảm bảo sự bền

vững cho xã hội phát triển.

Sản xuất nông lâm ngư nghiệp duy trì tốc độ tăng trưởng khá cao: từ năm

2000 đến 2011, ngành nông - lâm - thủy sản đã đạt được tốc độ tăng tăng trưởng

hàng năm tương đối cao, với giá trị sản xuất tăng bình quân đạt gần 5,36%/năm, giá

trị gia tăng (GDP) tăng 3,7%/năm.

Cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn chuyển dịch tích cực: cơ cấu sản

xuất nông, lâm, thủy sản chuyển dịch tích cực theo hướng nâng cao năng suất, chất

lượng, hiệu quả gắn với nhu cầu thị trường, đặc biệt trong giai đoạn 2000 đến nay.

Tỷ trọng nông nghiệp (bao gồm cả nông, lâm, diêm nghiệp và thủy sản) trong tổng

GDP cả nước giảm từ 24,5% năm 2000 xuống còn 22,02% năm 2011. Trong nội bộ

ngành, đang có xu hướng tăng nhanh tỷ trọng thủy sản, giảm tỷ trọng trồng trọt

59

trong giá trị sản xuất. Tỷ trọng tiểu thủy sản tăng từ 15,6% năm 2000 và 24,6% năm

2011. Trong khi đó, tỷ trọng nông nghiệp giảm từ khoảng 78-82% giai đoạn trước

năm 2002 xuống còn 72% năm 2011 (Nguồn: Bộ Nông nghiệp và PTNT, Báo cáo

hàng năm, 2011).

Cơ cấu ngành nghề ở khu vực nông thôn có sự thay đổi nhanh theo hướng

tích cực; giảm số lượng và tỷ trọng nhóm hộ nông, lâm, thủy sản; tăng số lượng và

tỷ trọng nhóm hộ công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. So với năm 2006, tỷ trọng hộ

nông, lâm, thủy sản khu vực nông thôn giảm từ 71,1% xuống còn 62%; tỷ trọng hộ

công nghiệp và xây dựng tăng từ 10,2% lên 14,7%; tỷ trọng hộ dịch vụ từ 14,9%

lên 18,4% [42].

Đời sống vất chất, tinh thần của cư dân nông thôn được cải thiện: về cơ bản,

Việt Nam đã xóa được đói. Công tác giảm nghèo được tập trung đẩy mạnh, hướng

vào các đối tượng khó khăn vùng sâu vùng xa, đồng bào dân tộc. Nhờ đó, tỷ lệ hộ

nghèo đã giảm từ 18,1% năm 2004 xuống còn 10,7% năm 2010, trung bình mỗi

năm giảm 1,1%.

Thu nhập bình quân một nhân khẩu hộ nông thôn tăng từ 3,3 triệu

đồng/người năm 2002 lên 12,9 triệu đồng/người năm 2010 tính theo giá hiện hành.

Từ năm 2001 đến năm 2011, tích lũy để dành của hộ nông thôn tăng lên gấp 5,3 lần,

bình quân từ 3,2 triệu đồng/hộ lên 16,8 triệu đồng/hộ [43].

Kết cấu hạ tầng KT-XH nông thôn được tăng cường: Đầu tư thủy lợi đang

hướng sang phục vụ đa mục tiêu. Trong 4 năm 2006-2010, tổng vốn đầu tư qua Bộ

Nông nghiệp và PTNT cho thủy lợi là 29,532,1 tỷ đồng (chiếm 80% tổng vốn thực

hiện các dự án do Bộ quản lý). Giao thông nông thôn có bước phát triển cả về số

lượng lẫn chất lượng, từ năm 1999 đến nay đã làm mới được 24.167 km đường.

Ngoài ra, các cơ sở hạ tầng khác như chợ, y tế, nước sạch cũng được cải thiện rõ

rệt, góp phần nâng cao đời sống cho người dân nông thôn.

60

3.1.1.2. Những vấn đề còn tồn tại trong phát triển nông nghiệp và nông thôn

hiện nay

Phát triển nông nghiệp, nông thôn hiện có một số tồn tại, vướng mắc sau:

Nông nghiệp tăng trưởng kém bền vững, khả năng cạnh tranh thấp. Tăng

trưởng GDP nông nghiệp có xu hướng giảm dần, trong giai đoạn 1995-2000 đạt

4%/năm, giảm xuống còn 3,83%/năm trong giai đoạn 2001-2005 và còn

3,4%/năm trong giai đoạn 2006-2011. Tỷ lệ giá trị gia tăng so với tổng giá trị sản

xuất nông nghiệp cũng có xu hướng giảm, từ chiếm 66,35% năm 2000 xuống

57,6% năm 2011 (theo giá thực tế) và từ 45,6% năm 2000 xuống 38,3% năm 2011

(theo giá cố định). Năng suất, chất lượng, khả năng cạnh tranh của nhiều sản phẩm

nông nghiệp còn thấp; kết cấu hạ tầng phục vụ bảo quản, chế biến như kho tàng,

sân phơi, bến bãi... còn kém phát triển. Công nghệ chế biến nông sản còn thủ

công, quy mô nhỏ nên chất lượng nhiều loại nông sản còn thấp. Phần lớn nông sản

xuất khẩu ở dạng sơ chế, giá trị gia tăng thấp, chưa có thương hiệu, mẫu mã bao bì

chưa hấp dẫn. Chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm chưa đảm bảo. Hiện có

quá nhiều doanh nghiệp chế biến nông, thủy sản quy mô nhỏ, chưa được coi trọng

áp dụng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về vệ sinh an toàn thực phẩm; tổn thất

sau thu hoạch cả về số lượng và chất lượng còn lớn. Ngoài ra, vấn đề dịch bệnh

trong cả trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản cũng ảnh hưởng không nhỏ

đến tăng trưởng toàn ngành và thu nhập của người nông dân.

Cơ cấu kinh tế nông nghiệp và kinh tế nông thôn chuyển dịch chậm. Tỷ

trọng thủy sản trong tổng giá trị sản xuất toàn ngành tăng nhanh trong giai đoạn

từ 2000 đến 2007 (đạt mức cao nhất là 26,5% năm 2007), nhưng bắt đầu từ năm

2008 lại có xu hướng giảm, chỉ còn 22% vào năm 2008 và 24,6% năm 2011.

Lao động nông nghiệp dư thừa tương đối ở các vùng nông thôn sâu, xa.

Điều này đồng nghĩa với tỷ lệ thất nghiệp cao, thu nhập phi nông nghiệp thấp.

Tuy nhiên, do ảnh hưởng của đô thị hóa và công nghiệp hóa, xu hướng chuyển

dịch lao động từ nông thôn sang khu vực thành thị, từ nông nghiệp sang phi nông

61

nghiệp đang diễn ra, dẫn đến tình trạng thiết hụt lao động mang tính thời vụ ở

nông thôn. Người lao động nông nghiệp hiện còn thiếu kiến thức khoa học công

nghệ mới, kiến thức và kỹ năng quản lý đồng ruộng, quản lý trang trại và quản lý

kinh tế còn hạn chế.

Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng được yêu cấu chuyển đổi cơ

cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn, nhiều nơi còn yếu kém. Nguồn

vốn đầu tư phát triển nông nghiệp và xây dựng công trình kết cấu hạ tầng nông

thôn còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nâng cao

đời sống của người dân, nhất là ở các vùng miền núi (đặc biệt là giao thông, thủy

lợi, thông tin liên lạc).

Nông thôn chưa có chuyển biến rõ nét, đời sống một bộ phận nông dân

chậm cải thiện. Tuy đời sống một bộ phận dân cư nông thôn được nâng cao,

nhưng so với mặt bằng chung thì nông thôn vẫn nghèo và phát triển chậm,

khoảng cách chênh lệch giữa thành thị và nông thôn ngày càng lớn; yêu cầu về

việc làm ngày càng bức xúc. Mặc dù tỷ lệ người nghèo giảm nhanh và đáng kể

trong thời gian qua nhưng tốc độ giảm số hộ nghèo của nông thôn thấp hơn so

với thành thị khoảng 20%, vẫn còn một bộ phận người dân sống dưới hoặc cận

kề mức nghèo đói.

Bộ máy tổ chức và quản lý ngành nông nghiệp và nông thôn còn yếu. Bộ

máy quản lý nông nghiệp ở Trung ương và cấp tỉnh khá lớn nhưng ở cấp huyện

và cấp xã thì mỏng, khó đủ sức giải quyết các vấn đề đặt ra. Trình độ chuyên

môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ nông nghiệp các cấp còn hạn chế với 48,7%

cán bộ chưa qua đào tạo chuyên môn, 55,5% chưa được đào tạo về quản lý hành

chính nhà nước.

Đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn thấp. Từ năm 2000 - 2010, tỷ trọng chi

tiêu công cho ngành nông nghiệp chỉ chiếm 5-6% tổng chi ngân sách nhà nước, rất

thấp so với mức bình quân của các nước trong vùng (Hàn Quốc, Malaysia trong giai

đoạn tương tự thường có mức đầu tư ngân sách cho lĩnh vực này trên 20%). Năm

62

2010, đầu tư cho nông nghiệp chiếm 6,9% tổng đầu tư từ ngân sách, tương đương

với 11% tổng giá trị sản xuất nông nghiệp. Trong khi nông nghiệp đóng góp 21%

GDP thì đầu tư toàn xã hội cho nông nghiệp chỉ chiếm 2,9% GDP. Đầu tư từ ngân

sách của Việt Nam cho nông nghiệp tương đương 1,4% tổng GDP, thấp hơn so với

mức trung bình của Trung Quốc, Ấn Độ và Thái Lan là 8-16% và của các nước

Đông Nam Á khác là khoảng 8-9% trong giai đoạn 1990-1993 [34].

Diễn biến thời tiết, môi trường, dịch bệnh, thị trường phức tạp: trong thời

gian gần dây, do diễn biến xấu của biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường và phát

triển không bền vững, diễn biến thiên tai ngày càng phức tạp, hàng năm gây ra

thiệt hại lớn về người và của cho sản xuất nông nghiệp và đời sống người dân.

Tần xuất thiên tai ngày càng dày, mức độ nghiêm trọng và quy mô ngày càng

lớn. Ở nước ta trong các năm qua liên tục xuất hiện bão lớn, mưa to gây lũ lụt, lở

đất, hạn hán, cháy rừng... Chẳng hạn trong năm 2011, thiên tai đã gây thiệt hại

hơn 10 tỷ đồng, 54 nghìn ha lúa và hoa màu bị mất trắng, hơn 330 nghìn ha lúa

và hoa mầu bị hư hỏng. Trong 8 tháng đầu năm 2012, thiên tai cũng xẩy ra

thường xuyên, làm ngập trên 100 nghìn ha lúa và hoa màu và gây nhiều thiệt hại

về người và của. Trong tương lai, xu hướng nóng lên toàn cầu sẽ tiếp tục gây

thiệt hại lớn cho Việt Nam.

Sau khi vượt ngưỡng sản xuất nông nghiệp chỉ để đảm bảo an ninh lương

thực quốc gia, nông nghiệp đã trở thành ngành sản xuất hàng hóa định hướng

xuất khẩu. Hội nhập quốc tế toàn ngành ngày càng trở nên sâu rộng nên sản xuất

nông nghiệp Việt Nam ngày càng chịu tác động mạnh mẽ từ thị trường quốc tế.

Bộ Nông nghiệp và PTNT đang triển khai đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp

theo hướng: ”Nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững”. Do vậy, nguồn

vốn cho ngành (bao gồm cả nguồn vốn ODA) sẽ ưu tiên cho các mục tiêu cụ thể

như: đổi mới chính sách công về nông nghiệp, nông dân và nông thôn, tăng

cường chuyển giao ứng dụng KHCN, sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, phát

triển hình thức kinh tế nông nghiệp phù hợp, đào tạo nghề cho nông dân và nâng

cao chất lượng nguồn nhân lực của ngành.

63

3.1.2. Đặc điểm vùng Duyên hải Miền Trung

3.1.2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội

Vùng Duyên hải Miền Trung gồm 8 tỉnh thành theo thứ tự Bắc - Nam: Đà

Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận,

Bình Thuận (Hình 3.1). Vùng có phía Bắc là đèo Hải Vân, điểm cuối của dãy

Trường Sơn Bắc, giáp với Bắc Trung Bộ; phía Tây là dãy Trường Sơn Nam với hệ

thống cao nguyên đất đỏ bazan, giáp với Lào và Tây Nguyên, phía Đông là biển

Đông với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có thềm lục địa và biển sâu tạo điều

kiện phát triển các cảng quốc tế; phía Nam giáp với vùng Đông Nam Bộ.

Vùng DHMT thuộc khu vực cận giáp biển. Địa hình ở đây bao gồm đồng

bằng ven biển và núi thấp, có chiều ngang theo hường Đông - Tây (trung bình 40 -

50km), hạn hẹp hơn so với Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên. Có hệ thống sông ngòi

ngắn và dốc, bờ biển sâu với nhiều đoạn khúc khuỷu, thềm lục địa hẹp. Các miền

đồng bằng có diện tích không lớn do các dãy núi phía Tây trải dọc theo hướng Nam

tiến dần ra sát biển và có hướng thu hẹp dần diện tích lại. Đồng bằng chủ yếu do

sông và biển bồi đắp, khi hình thành nên thường bám sát theo các chân núi.

Về khí hậu, đây là một trong các vùng có điều kiện khí hậu khắc nghiệt nhất

so với cả nước. Hàng năm thường xảy ra nhiều thiên tai như bão, lũ, hạn hán, mà

nguyên nhân cơ bản là do vị trí, cấu trúc địa hình tạo ra. Thêm vào đó vùng còn

chịu ảnh hưởng của sự thất thường do gió bão, dông nhiệt. Tất cả những tác nhân

trên đã tạo điều kiện hình thành những dải cồn cát kéo dài liên tục qua các tỉnh từ

Quảng Nam vào đến Ninh Thuận. Các cồn cát khá lớn phân bố ở Quảng Ngãi, Hoài

Nhơn, Phù Mỹ (Bình Định), Ninh Hoà (Khánh Hoà), nhưng điển hình nhất là ở

Ninh Thuận - Bình Thuận. Điều kiện khí hậu của vùng gây khó khăn cho sản xuất

đặc biệt là sản xuất nông nghiệp.

64

Hình 3.1. Bản đồ Vùng Duyên hải Miền Trung

Diện tích tự nhiên của Vùng khoảng 44.376,9 km2. Vùng có tài nguyên đất

hạn chế với diện tích đất cát, sỏi, đất bạc màu chiếm tỷ lệ lớn. Có 3 loại đất chính là

đất đỏ vàng phân bố ở vùng trung du miền núi, thích hợp cho trồng cây công nghiệp

dài ngày và khai thác lâm nghiệp, trồng cây ăn quả; đất phù sa ven sông thích hợp

cây lương thực, hoa màu, cây công nghiệp ngắn ngày; đất cát hoặc cát pha ven biển

chất lượng thấp chỉ trồng một số loại cây hoa màu, trồng rừng phi lao, bạch đàn

chống gió, cát. Tài nguyên rừng của Vùng khoảng 1,7 triệu ha, chiếm 14% diện tích

rừng cả nước, đã cung cấp một phần quan trọng về gỗ và lâm sản hàng hoá, đáp ứng

một phần xuất khẩu của Việt Nam.

Về tài nguyên biển, biển vùng này khá sâu ở sát bờ, nhiều eo biển, cửa sông,

vũng, vịnh thuận lợi cho phát triển kinh tế biển du lịch, giao thông biển, đánh bắt

65

cá, phát triển các hải cảng lớn. Biển có nhiều đảo và quần đảo; ngoài khơi có quần

đảo Hoàng Sa và Trường Sa có ý nghĩa chiến lược về an ninh quốc phòng và là nơi

cư ngụ của tàu thuyền, là bình phong chắn gió, cát biển cho ven bờ. Vùng biển có

nhiều loài cá có giá trị như cá trích, mòi, nhồng (tầng nổi) cá thu (tầng trung), cá

mập, mối... (tầng đáy), tạo điều thuận lợi cho phát triển khai thác đánh bắt hải sản.

Về dân số, Vùng DHMT là vùng đất trải qua nhiều giai đoạn biến động phức

tạp, được hình thành trong lịch sử lâu dài. Đây là vùng sản sinh ra nhiều nhân tài

của đất nước, nơi có đóng góp về sức người sức của cho công cuộc bảo vệ Tổ quốc.

Dân số năm 2012 là 8.900,9 nghìn người, mật độ trung bình là 201 người/ km2. Dân

số trong vùng chủ yếu sống dựa vào nghề nông, với tỷ lệ hộ nông, lâm nghiệp và thủy

sản năm 2011 chiếm 65,9%, cao hơn đáng kể so với cả nước (xem biểu đồ 3.1).

72,2

73,7

74,2

73,0

80,0

71,1

71,2

66,3

70,9

68,8

66,0

66,2

65,9

70,0

62,0

62,0

59,2

61,7 59,8

60,0

52,9

52,4

50,0

39,5

40,0

30,0

20,0

10,0

0,0

Cả nước

Vùng DHMT

Đà Nẵng

Quảng Nam

Quảng Ngãi

Bình Định

Phú Yên

Khánh Hòa

Ninh Thuận

Bình Thuận

2006

2011

Đơn vị tính: %

Biểu đồ 3.1. Tỷ lệ hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản vùng DHMT năm 2006 và 2011

Vị thế kinh tế của Vùng DHMT ngày càng được cải thiện trong những năm

gần đây, tổng sản phẩm nội địa của vùng (theo giá so sánh) năm 2012 là 87.270,2 tỷ

đồng, chiếm tỷ lệ 14,21% so với cả nước. Tổng kim ngạch xuất khẩu của vùng năm

2012 đạt 5.137,1 triệu USD, chiếm 4,48% so với kim ngạch xuất khẩu của cả nước

và tăng 39,63% so với năm 2011.

66

Tổng vốn đầu tư toàn vùng giai đoạn 2007- 2012 là 605.032,9 tỷ đồng, tăng

dần qua các năm với mức tăng bình quân giai đoạn là 10,98%. GDP của Vùng giai

đoạn 2007-2010 tăng bình quân 12,4%/năm. (xem Bảng 3.1)

Cùng với tăng trưởng kinh tế, GDP bình quân đầu người của Vùng cũng

có sự cải thiện đáng kể, năm 2007 đạt 11 triệu đồng/người theo giá hiện hành

(tương ứng 5,4 triệu đồng/người theo giá cố định năm 1994), thấp hơn mức

trung bình của cả nước nhưng đến năm 2010 đã đạt 21,9 triệu đồng/người (tương

ứng 7,5 triệu đồng/người theo giá cố định năm 1994), gấp 1,2 lần so với bình

quân cả nước; năm 2011 đạt 27,6 triệu đồng/người (tương ứng 8,3 triệu

đồng/người theo giá cố định năm 1994), gấp 1,2 lần so với bình quân cả nước,

song chênh lệch về thu nhập bình quân đầu người giữa các tỉnh trong Vùng còn

khá lớn và có xu hướng gia tăng.

Bảng 3.1: GDP của Vùng Duyên hải Miền Trung giai đoạn 2007- 2010

2007 2008 2009 2010 Giai đoạn 2007 - 2010

GDP toàn Vùng (tỷ đồng) 42.656 47.398 52.889 60.604

GDP toàn Vùng/GDP cả nước (%) 9,2 9,7 10,2 11,0

Tăng trưởng GDP của Vùng (%) 11,1 11,6 14,6 12,4

Nguồn: Tổng hợp từ số liệu của Tổng cục Thống kê và Cục Thống kê các tỉnh, thành phố

Cơ cấu kinh tế của Vùng chuyển dịch khá nhanh, tỷ trọng ngành nông nghiệp

trong GDP của Vùng giảm từ 22,1% năm 2007 xuống còn 18,5% năm 2010, trong

khi mức độ đóng góp của ngành công nghiệp - xây dựng có xu hướng tăng, từ

37,8% lên 41,7%, chuyển dịch cơ cấu kinh tế Vùng DHMT giai đoạn 2007-2010

được phản ánh trong Bảng 3.2.

67

Bảng 3.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Vùng Duyên hải Miền Trung 2007 - 2010

Đơn vị tính: %

2007 2010

Tỉnh, Thành phố Dịch vụ Dịch vụ Nông, lâm nghiệp và thủy sản Công nghiệp và xây dựng Nông, lâm nghiệp và thủy sản Công nghiệp và xây dựng

Đà Nẵng 4,3 45,5 50,2 3,8 42,0 54,2

Quảng Nam 26,1 37,9 36,0 21,4 40,1 38,5

Quảng Ngãi 29,9 36,0 34,1 18,6 59,3 22,1

Bình Định 34,9 28,9 36,2 35,1 28,9 36,0

Phú Yên 32,2 31,9 35,9 29,2 34,4 36,4

Khánh Hòa 17,5 41,6 40,9 13,5 41,8 44,6

Ninh Thuận 29,0 34 47 30 35 35

Bình Thuận 21,8 38,2 40 20,5 35,5 44,6

Toàn vùng 22,1 37,8 40,1 18,5 41,7 39,8

Cả nước 20,3 41,5 38,2 20,6 41,1 38,3

3.1.2.2. Tiềm năng và lợi thế phát triển nông nghiệp, nông thôn

Nguồn: Tổng hợp từ số liệu của Tổng cục Thống kê và Cục Thống kê các tỉnh, thành phố

Vùng DHMT có một số thế mạnh trong phát triển kinh tế nông, lâm, ngư nghiệp.

Về nông nghiệp, thế mạnh của vùng là phát triển cây công nghiệp hàng năm

như lạc, cói, mía, dâu tằm, dứa..., gần đây là phát triển chè, cao su, cà phê, ca cao...

trong đó phải kể đến cà phê tại Phú Yên, dứa ở Khánh Hòa.

Ngoài ra, trong vùng còn canh tác một loại cây ăn quả chủ lực, có giá trị xuất

khẩu cao là cây Thanh Long (ở tỉnh Bình Thuận). Đến đầu tháng tư năm 2013, toàn

tỉnh Bình Thuận có 20.000 ha Thanh long, tăng 13.000 ha so với năm 2006. Theo

số liệu từ Bộ Công Thương, năm 2012, xuất khẩu Thanh long (chủ yếu từ Bình

Thuận) đã mang về cho đất nước 150 triệu USD trong tổng 800 triệu USD kim

68

ngạch xuất khẩu rau quả, nếu mở rộng được thị trường thì Thanh long Bình Thuận

còn có tiềm năng phát triển cả về sản lượng và giá trị.

Chăn nuôi trong vùng ngoài trâu, bò, lợn còn có triển vọng phát triển nuôi

dê, hươu, cừu ở Phú Yên, Quảng Nam và Bình Thuận, chương trình Sin hoá đàn bò

và nuôi lợn hướng nạc phát triển tốt.

Về lâm nghiệp, khai thác, chế biến, tu bổ và trồng rừng được chú trọng trong

Vùng, tại một số tỉnh như Quảng Nam, Phú Yên cũng đã hình thành nhiều lâm

trường lớn chuyên khai thác, chế biến tu bổ rừng. . Trong những năm qua, vùng

DHMT cũng đã chú ý đến việc phủ xanh đất trống đồi núi trọc, trồng rừng chắn cát

ven biển, tạo vành đai xanh quanh các khu đô thị, khu công nghiệp. Gỗ và sản phẩm

chế biến từ gỗ đang là những ngành hàng đưa lại giá trị cao, thay đổi cơ cấu nông

nghiệp trong những năm qua, nếu tăng cường trồng rừng, quản lý tốt nguyên liệu gỗ

và đẩy mạnh công nghiệp chế biến, thì đây là một ngành có triển vọng của Vùng.

Về ngư nghiệp, Vùng có truyền thống khai thác và nuôi trồng thuỷ hải sản

từ lâu đời, hiện các địa phương đã đầu tư, đổi mới trang thiết bị đánh bắt. Ngoài

đánh bắt cá còn khai thác tôm, mực, cua... Trong vùng cũng đã phát triển các cơ sở

chế biến thuỷ hải sản, vùng DHMT đang có một số mô hình tổ chức đánh bắt xa bờ

có hiệu quả, đã hình thành một số cơ sở đóng tàu thuyền công suất lớn có uy tín.

Vùng này cũng có tiềm năng xây dựng một số cảng biển dịch vụ hậu cần đánh bắt

trên biển và bảo vệ an ninh biển đảo của nước ta.

Giá trị sản xuất nông, lâm và thủy sản của toàn Vùng trong giai đoạn 2008

- 2010 có xu hướng tăng nhanh với tốc độ tăng 3,89% năm 2008 tăng lên 5,3%

năm 2010, trong đó Bình Định và Phú Yên là hai tỉnh có tốc độ tăng trưởng cao

nhất tương ứng đạt 8,27%/năm và 5,3%/năm. Đà Nẵng và Khánh Hòa là hai

thành phố có giá trị sản xuất ngành nuôi trồng và khai thác thuỷ sản đạt cao nhất

với tỷ trọng đóng góp của ngành thủy sản vào cơ cấu GDP của ngành nông -

lâm, thủy sản từ 55% -65%; trong khi đó con số này ở những địa phương còn lại

chỉ ở mức 22% - 33%.

69

Bảng 3.3. Tăng trưởng giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản toàn Vùng năm 2008 - 2010

Đơn vị tính: %

2008 2009 2010 Tổng số 4,41 5,30 3,89

Nông nghiệp 3,60 5,46 2,96

Trồng trọt 0,37 4,63 2,43

Chăn nuôi 11,87 7,87 3,93

Dịch vụ, khác 6,89 3,34 5,67

Lâm nghiệp 1,33 5,47 5,08

Trồng và nuôi rừng -0,02 3,79 5,74

Khai thác lâm sản 0,21 6,80 5,34

Dịch vụ và hoạt động lâm nghiệp khác 10,25 2,05 1,70

Thủy sản 6,30 4,99 5,44

Nuôi trồng thủy sản 2,18 11,94 12,30

Khai thác thủy sản 4,70 6,77 2,36

Dịch vụ thủy sản 6,30 -30,84 -0,60

3.1.2.3. Những khó khăn, thách thức và yêu cầu hỗ trợ đối với phát triển nông

nghiệp và nông thôn vùng DHMT

Nguồn: Tổng cục Thống kê (2010)

Bên cạnh những thuận lợi và tiềm năng để phát triển nông nghiệp và nông

thôn như trên, vùng DHMT còn có những khó khăn và thách thức riêng so với các

vùng miền khác trong cả nước, đó là:

Thứ nhất, đây là vùng có điều kiện khí hậu khắc nghiệt, ngành nông nghiệp

luôn đứng trước những thách thức to lớn: thiên tai lũ lụt, cháy rừng, dịch bệnh xẩy

ra liên tiếp trên tại các tỉnh DHMT, gây tổn thất rất lớn về người và tài sản, ảnh

hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp, nhất là về cơ sở hạ tầng kỹ thuật

nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Khả năng phòng chống, giảm nhẹ thiên tai của

70

vùng hạn chế, môi trường ở nhiều vùng nông thôn bị suy thoái; rừng bị tán phá ở

nhiều nơi; tình trạng xói mòn, thoái hóa đất, ô nhiễm nguồn nước diễn ra khá

nghiêm trọng.

Thứ hai, đất đai, thổ nhưỡng của Vùng, chủ yếu là đất cát, sỏi, bạc mầu

không phù hợp cho phát triển nông nghiệp, đa dạng hóa cây trồng ngắn ngày.

Thứ ba, sự rủi ro đối với phát triển nông nghiệp và nông thôn trong Vùng do

sự phát triển du lịch, khu công nghiệp thiếu quy hoạch, nhiều diện tích đất nông

nghiệp, vùng nuôi trồng thủy sản phải chuyển đổi sang mục đích khác, người nông

dân mất đất - công cụ chính để lao động và sản xuất nên gặp nhiều khó khăn, bên

cạnh đó vẫn còn một bộ phận trong cộng đồng dân cư nông thôn, nhất là ở khu vực

miền núi và đồng vào dân tộc trong vùng còn phải sống trong tình trạng nghèo đói.

Thứ tư, rừng sản xuất trong Vùng chủ yếu là rừng nghèo kiệt, rừng gỗ quí và

rừng giàu chỉ còn tập trung ở vùng giáp biên giới, do vậy việc khai thác kết hợp tu

bổ và trồng rừng là một nhiệm vụ phải đặt lên hàng đầu trong phát triển nông

nghiệp của vùng.

Thứ năm, nguồn tiềm năng to lớn trong nông nghiệp, nông thôn nhất là đất

đai, lao động chưa được khai thác hợp lý và có hiệu quả, đầu ra của nông sản tiếp

tục khó khăn, cạnh tranh ngày càng gay gắt không chỉ trên thị trường thế giới mà

ngay cả thị trường trong nước, trong khi chi phí đầu vào của nông sản liên tục tăng;

vốn đầu tư XDCB của Nhà nước lại giảm dần.

Thứ sáu, cơ sở hạ tầng nông thôn trong Vùng còn yếu kém: thủy lợi, giao

thông, điện, thông tin liên lạc, kho tàng, chợ... đều rất thiếu, chưa đáp ứng được yêu

cầu của nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa.

Trên đây là những khó khăn, thách thức mà ngành nông nghiệp của vùng

phải đương đầu trong thời gian tới, do vậy thu hút các nguồn đầu tư, trong đó có

nguồn ODA vào nông nghiệp và phát triển nông thôn trong Vùng để tạo nên bước

đột phá cho nông nghiệp, nông thôn của Vùng là yếu tố hết sức quan trọng. Nguồn

đầu tư ODA nhằm tăng cường khoa học nông nghiệp, đào tạo nhân lực, hoàn thiện

71

cơ sở hạ tầng, phòng chống thiên tai, xóa đói giảm nghèo... là một trong những giải

pháp hang đầu để khắc phục những khó khăn và thách thức nêu trên, góp phần phát

triển một nền nông nghiệp bền vững, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã

hội của Vùng và của cả nước.

3.2. Tổng quan tình hình thu hút, sử dụng nguồn vốn ODA vào phát

triển nông nghiệp và nông thôn tại Việt Nam

3.2.1. Tình hình cam kết và giải ngân ODA tại Việt Nam thời kỳ 1993-2012

Trong hai thập kỷ qua, tổng vốn ODA ký kết trong các điều ước quốc tế cụ thể

từ năm 1993 đến 2012 đạt trên 58,4 tỷ USD (chiếm 71,69% tổng vốn ODA cam kết),

trong đó vốn vay ưu đãi đạt 51,6 tỷ USD (chiếm 88,4%), vốn ODA không hoàn lại

đạt 6,76 tỷ USD (chiếm 11,6%). Tổng vốn ODA giải ngân trong thời kỳ này đạt

37,59 tỷ USD, chiếm 66,92% tổng vốn ODA ký kết (xem Biểu đồ 3.2 và 3.3).

Đơn vị tính: Tỷ USD

Biểu đồ 3.2.Tổng vốn ODA cam kết, ký kết, giải ngân thời kỳ 1993-2012 tại Việt Nam

Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư

72

Đơn vị tính: %

Biểu đồ 3.3. Cam kết, ký kết, giải ngân ODA thời kỳ 1993-2012 tại Việt Nam

Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Theo số liệu thống kê, tỷ trọng ODA vốn vay trong tổng vốn ODA tăng dần

từ 80% trong thời kỳ 1993-2000 lên 93% thời kỳ 2006-2010 và trong hai năm 2011-

2012 gần đây đã ở mức 95,7% (xem Biểu đồ 3.4).

Đơn vị tính: %

Biểu đồ 3.4. Tỷ trọng ODA vốn vay trong tổng vốn ODA giai đoạn 1993-2012

Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư

73

Có thể thấy mức giải ngân vốn ODA đã có tiến bộ qua các năm song chưa

tương xứng với mức cam kết. Riêng hai năm trở lại đây, nhờ quyết tâm cao của

Chính phủ, nỗ lực của các ngành, các cấp và nhà tài trợ, giải ngân của một số nhà

tài trợ lớn (như Nhật Bản, Ngân hàng Thế giới - WB) đã có tiến bộ vượt bậc. Tỷ lệ

giải ngân vốn ODA của Nhật Bản tại Việt Nam năm 2011 đứng thứ nhì và năm

2012 đứng thứ nhất thế giới, tỷ lệ giải ngân của WB tại Việt Nam tăng từ 13% năm

2011 lên 19% năm 2012.

Đơn vị tính: tỷ USD

Biểu đồ 3.5. ODA ký kết phân theo vùng

Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Trong thời kỳ 1993-2012, trong số các vùng trong cả nước, Vùng Đồng bằng

Sông Hồng có ODA cam kết lớn nhất đạt 10,42 tỷ USD, Vùng Miền Trung đứng

thứ hai với 7,52 tỷ USD, giữa các vùng miền trong cả nước có sự chênh lệch lớn, cụ

thể Vùng Tây Nguyên chỉ đạt 1,36 tỷ USD. (xem biểu đồ 3.5)

Lĩnh vực giao thông vận tải và bưu chính viễn thông được ưu tiên tiếp nhận và

sử dụng nguồn vốn ODA lớn nhất trong tổng số 7 lĩnh vực với khoảng 16,47 tỷ USD,

trong đó 15,9 tỷ USD là ODA vốn vay. Nông nghiệp và phát triển nông thôn kết hợp

với xóa đói giảm nghèo đã ký kết đạt 8,85 tỷ USD, giải ngân đạt 7,4 tỷ USD.

Hiện vẫn tồn tại tình trạng thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA không đồng

đều giữa các vùng trong cả nước, trong đó vùng Đồng bằng sông Hồng tiếp nhận

nguồn vốn ODA lớn nhất với 10,42 tỷ USD và vùng Tây Nguyên tiếp nhận nguồn

74

vốn ODA thấp nhất với 1,36 tỷ USD. Chính phủ Việt Nam có chính sách sử dụng

ODA để hỗ trợ các ngành, lĩnh vực và địa phương ưu tiên, nhất là đối với những địa

bàn có nhiều khó khăn trong từng thời kỳ phát triển. (xem biểu đồ 3.6)

Đơn vị tính: %

Biểu đồ 3.6. Tỷ lệ ODA phân theo vùng

Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Nhật Bản là nhà tài trợ song phương lớn nhất cho Việt Nam trong giai đoạn

1993-2012 với khoảng 19,81 tỷ USD. Pháp đứng thứ hai với 3,91 tỷ USD. Hàn

Quốc đứng thứ ba với 2,33 tỷ USD. WB đứng đầu trong nhóm 6 ngân hàng phát

triển với khoảng 20,1 tỷ USD. Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) đứng thứ hai

với 14,23 tỷ USD vốn ODA cam kết. (xem biểu đồ 3.7)

Đơn vị: tỷ USD

Biểu đồ 3.7. Cam kết vốn ODA của các nhà tài trợ thời kỳ 1993-2012

Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư

75

Các nhà tài trợ (hay còn gọi là các nhà cung cấp) ODA, cung cấp nguồn vốn

ODA cho Việt Nam từ năm 1993 đến nay, bao gồm:

1) Các nhà tài trợ song phương: có 28 nhà tài trợ song phương, trong đó có

24 nhà tài trợ cam kết ODA thường niên (Úc, Bỉ, Canađa, Séc, Đan Mạch, Phần

Lan, Pháp, Đức, Italy, Nhật Bản, Hàn Quốc, Lux-xem-bua, Hà Lan, New Zealand,

Na Uy, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sỹ, Thái Lan, Anh, Hoa Kỳ, Ailen, ); 4 nhà

tài trợ không cam kết ODA thường niên (Áo, Trung Quốc, Nga, Singapore) mà cam

kết ODA theo từng dự án cụ thể. Trong các nhà tài trợ song phương, Nhật Bản là

nhà tài trợ lớn nhất cho Việt Nam trong giai đoạn 1993-2012 với khoảng 19,81 tỷ

USD. Pháp đứng thứ hai với 3,91 tỷ USD. Hàn Quốc đứng thứ ba với 2,33 tỷ USD.

2) Các nhà tài trợ đa phương: có 23 tổ chức tài trợ ODA đa phương cho Việt

Nam, bao gồm ADB, WB, JBIC, KFW, AFD (nhóm 5 ngân hàng), Uỷ ban Châu Âu

(EC), Quỹ các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC), Quỹ Kuwait, Chương trình Phát

triển của Liên hiệp quốc (UNDP), Quỹ Dân số Thế giới (UNFPA), Quỹ Nhi đồng

Liên hiệp quốc (UNICEF), Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Quỹ Phát triển Nông

nghiệp Quốc tế (IFAD), Chương trình Lương thực Thế giới (WFP), Quỹ Môi

trường toàn cầu (GEF) và Quỹ Đầu tư phát triển của Liên hiệp quốc (UNCDF), Quỹ

Tiền tệ Thế giới (IMF). Trong các nhà tài trợ đa phương, WB đứng đầu trong nhóm

6 ngân hàng phát triển với khoảng 20,1 tỷ USD. Ngân hàng Phát triển châu Á

(ADB) đứng thứ hai với 14,23 tỷ USD vốn ODA cam kết.

3.2.2. Tình hình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA vào phát triển nông

nghiệp và nông thôn Việt Nam thời kỳ 1993-2012

kinh tế, xã hội nông thôn

3.2.2.1. Thu hút và sử dụng ODA vào phát triển nông nghiệp và các ngành

Trong 20 năm 1993-2012, nguồn vốn ODA được thu hút và sử dụng vào lĩnh

vực nông nghiệp và phát triển nông thôn kết hợp xóa đói giảm nghèo với tổng trị

giá ký kết khoảng 8,85 tỷ USD (trong đó ODA vốn vay là 7,43 tỷ USD và ODA

viện trợ không hoàn lại là 1,42 tỷ USD), chiếm khoảng 18% trong tổng nguồn vốn

76

ODA vào Việt Nam, đứng thứ ba sau lĩnh vực giao thông vận tải - bưu chính viễn

thông (chiếm 33%) và lĩnh vực năng lượng và công nghiệp (chiếm 23%). Trong đó

nguồn vốn ký kết giao cho Bộ Nông nghiệp và PTNT làm chủ quản dự án là 5,58 tỷ

USD, còn lại các Bộ ngành khác là 3,27 tỷ USD (xem Biểu đồ 3.8)

Đơn vị tính: %

Biểu đồ 3.8. Cơ cấu ODA ký kết theo ngành và lĩnh vực thời kỳ 1993-2012

Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan Chính phủ chịu trách

nhiệm chính về quản lý nguồn vốn ODA cho nông nghiệp và PTNT, tại Bộ đã thành

lập ba Ban quản lý dự án: Nông nghiệp, Lâm nghiệp, Thủy lợi (gọi tắt là CPO). CPO

được thành lập xuất phát từ đặc thù của ngành Nông nghiệp, nông thôn và tình hình

thực tế của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để giúp Bộ quản lý và thực hiện

các chương trình/dự án có nguồn vốn ODA. Mỗi CPO có nhiều dự án, mỗi dự án

thành lập Ban quản lý dự án Trung ương và mỗi tỉnh tham gia dự án thành lập Ban

quản lý dự án tỉnh. CPO là đơn vị sự nghiệp kinh tế, có dấu và tài khoản riêng.

Các chương trình, dự án lớn do các Bộ, Ngành khác quản lý với số vốn 3,27

tỷ USD gồm có Dự án Cơ sở hạ tầng nông thôn dựa trên phát triển cộng đồng, vốn

vay WB, trị giá 102,8 triệu USD và Dự án Hạ tầng cơ sở nông thôn miền núi phía

77

Bắc 140 triệu USD (do Bộ Kế hoạch và Đầu tư quản lý và thực hiện); Dự án Tài

chính nông thôn 1 và 2, vốn vay WB, trị giá gần 400 triệu USD, Dự án Tài chính

nông thôn 3, vốn vay WB trị giá 200 triệu USD và Chương trình phát triển ngành

nông nghiệp, vốn vay ADB, trị giá 30 triệu USD (do Ngân hàng Nông nghiệp và

Phát triển nông thôn quản lý thực hiện); Dự án quản trị sử dụng đất Việt Nam, vốn

vay WB, trị giá 75 triệu USD (do Bộ Tài nguyên và Môi trường quản lý và thực

hiện); Dự án giao thông nông thôn do Ngân hàng Thế giới tài trợ. Các dự án này có

ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến phát triển nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên,

trong nghiên cứu này chỉ tập trung phân tích những chương trình, dự án ODA do Bộ

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là chủ quản.

Trong tổng nguồn vốn ODA 5,58 tỷ USD đã huy động của Bộ Nông nghiệp

và Phát triển nông nghiệp, vốn huy động cho lĩnh vực Nông nghiệp đạt khoảng

1.169 triệu USD, chiếm 20%; Lâm nghiệp đạt khoảng 962 triệu USD, chiếm 16%;

Thủy sản đạt thấp nhất 358 triệu USD, chiếm 6 %; Thủy lợi đạt cao nhất 2.748 triệu

USD, chiếm 47%; và lĩnh vực Phát triển nông thôn đạt khoảng 655 triệu USD,

chiếm 11%. (xem Biểu đồ 3.9).

6%

16%

11%

Lâm nghiệp

Nông nghiệp

Thuỷ lợi

20%

PTNT

Thuỷ sản

47%

Đơn vị tính: %

Biểu đồ 3.9. Nguồn vốn ODA ký kết phân theo lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, thời kỳ 1993-2012

(Nguồn: Vụ Tài chính, Bộ NN&PTNT)

78

Tình hình thu hút vốn ODA trong ngành Nông nghiệp và phát triển nông

thôn qua các năm của các tiểu ngành thời kỳ 1993-2012 được trình bày chi tiết

trong Phụ lục 04. Trong thời kỳ 1993-2012, vốn ODA được huy động ở từng giai

đoạn không đồng đều, trong đó vốn huy động trong giai đoạn trước năm 1993 và từ

1993-1995 chiếm 11%, giai đoạn 1996-2000 chiếm 15%, giai đoạn 2001-2005

chiếm 26% và giai đoạn 2006-2012 chiếm 48% tổng vốn ODA của Bộ NN&PTNT.

Tỷ lệ huy động vốn ODA cho tiểu ngành Lâm nghiệp tăng dần, đạt tỷ lệ cao nhất

trong hai giai đoạn 1996-2000 và 2006-2012, chiếm 71% do thời kỳ này ngành tiếp

nhận các dự án vốn vay có giá trị tài trợ cao, cụ thể là dự án Phục hồi và quản lý

bền vững rừng phòng hộ JICA2 (năm 2012, số tiền 117 triệu USD). Tiểu ngành

Nông nghiệp tăng dần trong các giai đoạn, giai đoạn 2006-2012 đạt cao nhất chiếm

tỷ trọng 50%. Tiểu ngành Thủy lợi đạt tỷ trọng huy động thấp nhất là 5% giai đoạn

1996-2000, sau đó tăng dần và đạt tỷ trọng qua các giai đoạn là 12%, 30% và 50%,

tiểu ngành Phát triển nông thôn và Thủy sản cũng như các tiểu ngành khác trong Bộ

Nông nghiệp và PTNT tăng dần và đạt tỷ trọng cao trong các năm gần đây. Như

vậy, các tiểu ngành lâm nghiệp, nông nghiệp, phát triển nông thôn, thủy sản, thủy

lợi đều có tỷ trọng nguồn vốn ODA ký kết tăng dần và đạt tỷ trọng cao nhất trong

thời kỳ 2006-2012.

3.2.2.2. Tình hình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA theo nhà tài trợ

Trong thời kỳ 1993 - 2012, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã vận

động đàm phán thu hút và ký kết với 41 nhà tài trợ, trong đó bao gồm: các nhà tài trợ

song phương chủ yếu tài trợ vốn không hoàn lại, các tổ chức phi Chính phủ cũng chủ

yếu tài trợ vốn không hoàn lại, nhưng quy mô nhỏ, các nhà tài trợ đa phương chủ yếu

tài trợ thông qua các khoản cho vay. Trong số các nhà tài trợ ODA cho lĩnh vực nông

nghiệp và phát triển nông thôn, Ngân hàng Thế giới (WB) là nhà tài trợ lớn nhất với

số vốn chiếm 28,1%, tiếp đó là Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) với 27%. Tài trợ

của JIBIC & JICA chiếm 10,4%, của AUSAID chiếm 5,5%, DANIDA chiếm 3,2%

còn các nhà tài trợ chính khác có tỷ lệ chiếm khoảng 2-3% (xem bảng 3.4)

79

Bảng 3.4: Nguồn vốn ODA lĩnh vực NN&PTNT theo nhà tài trợ thời kỳ 1993-2012

Đơn vị tính: Lượng vốn Triệu USD; Tỷ lệ: %

Trong đó:

TT Nhà tài trợ Tổng vốn Tỷ lệ Vốn vay Tỷ lệ Tỷ lệ Vốn không hoàn lại

1 ADB 1,592,3 27.0 1,566,9 98.4 25,5 1.6

2 WB 1,653,7 28.1 1,463,5 88.5 190,2 11.5

3 JIBIC & JICA 613,2 10.4 216,5 35.3 396,7 64.7

4 DANIDA 0 188,9 3.2 188,9 100

5 AUSAID 0 325,2 5.5 325,2 100

6 AFD 147,0 97.8 150,3 2.6 3,31 2.2

7 EC + EU 169,4 2.9 0 169,4 100

8 Các tổ chức UN 0 177,9 3.0 177,9 100

9 WFP 0 169,4 2.9 169,4 100

10 RNE 0 103,2 1.8 103,2 100

11 SIDA 0 96,9 1.6 96,9 100

12 KFW 152,5 2.6 29,7 19.5 122,8 80.5

13 Các nhà TT khác 501,3 8.0 8,5 1.7 492,8 98.3

Tổng cộng 5,894,2 100.0 3,432,1 58.23 2,462,1 41.77

(Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ các báo cáo của Bộ Nông nghiệp và PTNT)

Nguồn vốn huy động cho ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn bao gồm

vốn vay (chiếm 58,23%) và vốn không hoàn lại (chiếm 41,77%). Nguồn vốn của

ADB, WB và ADF chủ yếu là vốn vay với lãi suất ưu đãi (ADB) chiếm 98,4%, còn

WB chiếm 88,5%, AFD chiếm 97,8%), vốn không hoàn lại của các ngân hàng này

chiếm tỷ lệ thấp và thông qua các hỗ trợ kỹ thuật (TA) để nghiên cứu, làm tiền đề xây

dựng các đề xuất dự án vốn vay. Vốn của JIBIC & JICA chủ yếu là vốn không hoàn

lại, chiếm 64,7%. Các nhà tài trợ khác như DANIDA, AUSAID, EU, các tổ chức của

UN, WFP, RNE, SIDA…vốn không hoàn lại chiếm 100%, (xem tại Phụ lục 05).

80

3.2.2.3. Tình hình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA theo dự án thời kỳ

1993 - 2012

Tình hình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA theo dự án thời kỳ 1993-2012

được trình bày ở Phụ lục 06. Trong thời kỳ 1993-2008 đã có tổng số 569 dự án

ODA được huy động, trong đó có 281 dự án (chiếm 49,38% số dự án và 1,47% tổng

vốn) có quy mô dưới 1 triệu USD, 138 dự án (chiếm 24,25 số dự án và 5,57% tổng

vốn) có quy mô từ 1- 5 triệu USD. Đây chủ yếu là các dự án hỗ trợ kỹ thuật hoặc

các dự án về nghiên cứu, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật sử dụng nguồn vốn không

hoàn lại. Có 18 dự án có quy mô 50-70 triêu USD; 11 dự án có quy mô 70-100

triệu USD và chỉ có 16 dự án có quy mô trên 100 triệu USD. Các dự án có quy mô

từ 50 triệu USD trở lên, ngoại trừ các dự án do DANIDA tài trợ cho tiểu ngành

Nông nghiệp, Thuỷ lợi, Thuỷ sản, còn hầu hết là các dự án do ADB, WB, AFD tài

trợ cho Thuỷ lợi, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (xem Bảng 3.5).

Bảng 3.5. Tình hình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA

theo quy mô dự án thời kỳ 1993-2012

Tỷ lệ (%) STT Quy mô dự án Tổng vốn (USD) Dự án Vốn

1 Dưới 1 triệu USD 86.845.993 49,38 1,47 Số dự án ODA 281

Từ 1 triệu đến < 5 triệu USD 138 328.050.750 24,25 5,57 2

Từ 5 triệu đến < 10 triệu USD 371.886.453 9,31 6,31 53 3

10 triệu đến < 30 triệu USD 683.816.436 7,38 11,60 42 4

30 triệu đến < 50 triệu USD 720.236.285 3,16 12,22 18 5

50 triệu đến < 70 triệu USD 686.985.000 1,93 11,66 11 6

70 triệu đến < 100 triệu 828.589.400 1,76 14,06 10 7

Trên 100 triệu USD 16 2.187.739.725 2,81 37,12 8

Tổng số 569 5.894.150.043 100,00 100,00

Nguồn: Vụ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

81

3.2.2.4. Đánh giá chung về thu hút và sử dụng ODA vào phát triển nông

nghiệp và Nông thôn Việt Nam

a. Đóng góp của nguồn vốn ODA

Với kết quả thu hút được phân tích ở trên, nguồn vốn ODA đầu tư phát triển

nông nghiệp, nông thôn trong thời kỳ 1993-2012 chiếm khoảng 15,6% tổng vốn đầu

tư phát triển của Nhà nước. Nguồn vốn ODA đã có tác động mạnh mẽ tới sự phát

triển nông nghiệp và nông thôn Việt Nam, thể hiện trên các mặt sau:

Thứ nhất, trong hai mươi năm qua, nguồn vốn ODA chiếm khoảng 30% tổng

vốn đầu tư phát triển trong toàn lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, bổ sung một

nguồn vốn quan trọng mà năng lực tài chính của Việt Nam chưa đáp ứng để đầu tư

vào nông nghiệp nông thôn.

Thứ hai, vốn ODA đã góp phần đáng kể đảm bảo cho tốc độ tăng GDP cho

ngành nông nghiệp từ đạt bình quân 4,3% trong thời kỳ 1980- 1990, tăng lên 4,9%

trong thời kỳ 1990-2000, đạt 3,83% thời kỳ 2001-2005, và đạt 3,4% giai đoạn 2006-

2012 [15]. Nguồn vốn ODA cũng góp phần xóa đói giảm nghèo cho người dân

nông thôn, giúp giảm tỷ lệ đói nghèo của Việt Nam từ 60% năm 1993 xuống còn

khoảng 10% sau 20 năm, vào năm 2012 [16].

Thứ ba, với nguồn vốn ODA vay ưu đãi, hệ thống cơ sở hạ tầng nông

nghiệp, nông thôn đã được xây dựng và cải thiện, đặc biệt là các hệ thống thuỷ lợi,

giao thông nông thôn, hệ thống điện nông thôn, hệ thống trường học, trạm y tế

xã…tại các vùng nghèo, xã nghèo. Cụ thể, dự án Ngành cơ sở hạ tầng nông thôn

(DA 1564-VIE, với vốn vay ADB 105 triệu USD và Cơ quan phát triển Pháp - AFD

15 triệu USD) đã góp phần cải thiện hệ thống giao thông với tổng chiều dài 1887

km trên địa bàn của 23 tỉnh nghèo trong cả nước; phát triển 63 tiểu dự án thuỷ lợi

đảm bảo nước tưới cho 60.314 ha; xây dựng 31 tiểu dự án cấp nước sạch phục vụ

cho 1,5 triệu người; xây dựng 15 chợ nông thôn… Nhờ có các dự án nước sinh hoạt

nông thôn, tỷ lệ dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh đã tăng từ 40% năm

1998 lên 78% năm 2012, trong đó vốn ODA chiếm 18,2% trong tổng số vốn đầu tư

82

cho cấp nước và vệ sinh môi trường nông thôn, nếu không có vốn ODA thì ngân

sách nhà nước không thể đảm đương nổi, khu vực tư nhân cũng không có động lực

đầu tư vào lĩnh vực CSHT công cộng này.

Thứ tư, với sự hỗ trợ của ODA từ năm 1993 đến nay, nhiều văn bản quy

phạm pháp luật, nhiều chính sách mới trong ngành nông nghiệp đã được xây dựng

và hoàn thiện nhờ tài trợ quốc tế, trong đó chuyên gia quốc tế đóng vai trò quan

trọng, chẳng hạn như Pháp lệnh Giống cây trồng, Pháp lệnh Thú y, Luật Thuỷ sản,

Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Luật Tài nguyên nước v.v. Một số chiến lược phát

triển của ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn cũng được xây dựng với sự hỗ

trợ kỹ thuật quan trọng của các chuyên gia trong và ngoài nước, chẳng hạn như

Chiến lược phát triển ngành Lâm nghiệp; Chiến lược quản lý rủi ro thiên tai… Các

dự án hỗ trợ kỹ thuật đóng góp đáng kể trong kết quả này được tài trợ bởi các nhà

tài trợ Đan Mạch, Đức và Thuỵ Điển…. Điều có ý nghĩa là các văn bản pháp quy

này đã tiếp cận, giảm thiểu sự khác biệt và từng bước hài hòa với thông lệ, quy định

của quốc tế, cũng như các nước tiên tiến.

Thứ năm, với số lượng đáng kể các dự án hỗ trợ kỹ thuật và tăng cường

năng lực, nguồn ODA đã hỗ trợ đắc lực trong xây dựng, điều chỉnh chiến lược,

chính sách phát triển và quản lý ngành nông nghiệp, nông thôn. Nguồn ODA đã góp

phần quan trọng trong phát triển bền vững nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt trong

phòng chống thiên tai, dịch bệnh và bảo vệ môi trường. Nguồn ODA đã đóng góp

trực tiếp, kịp thời hỗ trợ kinh phí và công nghệ để khống chế dịch bệnh đối với cây

trồng và vật nuôi, như dịch cúm gia cầm, dịch tai xanh ở lợn, hỗ trợ phòng chống

giảm nhẹ thiên tai bão lụt, hỗ trợ phổ biến công nghệ sản xuất nông nghiệp an toàn

v.v. Các đóng góp quan trọng này gắn kết Việt nam với khu vực và công đồng quốc

tế trong phòng chống thiên tai, dịch bệnh, giảm thiểu tác hại của biến đổi khi hậu,

đưa Việt Nam trở thành một quốc gia có tinh thần trách nhiệm cao, chung tay giải

quyết các vấn đề quốc tế, tạo thêm sự tin tưởng và vị thế của Việt Nam

Thứ sáu, nguồn vốn ODA cũng đã góp phần trợ giúp tăng cường tiềm lực

nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ mới. Thông qua các dự án hỗ trợ

83

phát triển ngành, hỗ trợ khoa học và công nghệ nông nghiệp, các trang thiết bị

nghiên cứu được tăng cường; nhiều cán bộ khoa học đã được cử đi đào tạo bậc sau

đại học tại nước ngoài để làm chủ các công nghệ tiên tiến; nhiều giống tốt đã được

nghiên cứu ứng dụng và đưa nhanh vào sản xuất. Cụ thể, chương trình hỗ trợ phát

triển ngành nông nghiệp (1972 -VIE và 1973 -VIE), vay vốn ADB đã dành khoảng

924 tỷ đồng để tăng cường cơ sở hạ tầng, trang thiết bị cho các viện nghiên cứu;

thiết lập hệ thống thông tin thị trường và tăng cường khuyến nông ở 40 tỉnh thành.

Nhờ vậy, đã có đóng góp rất lớn trong công tác khuyến nông, nhất là trong đợt

chống dịch cúm gia cầm, lợn tai xanh, lở mồm long móng. Nguồn ODA cũng hỗ

trợ đáng kể cho cán bộ quản lý các cấp của ngành nông nghiệp và phát triển nông

thôn tiếp nhận các kiến thức và kinh nghiệm quản lý tiên tiến trên thế giới. Ngoài

ra, một bộ phận cán bộ quản trị trong các doanh nghiệp nông, lâm nghiệp vừa và

nhỏ cũng được tăng cường năng lực nhờ hỗ trợ từ nguồn trợ giúp không hoàn lại.

Chẳng hạn, với sự hỗ trợ của Quỹ ủy thác Lâm nghiệp (TFF), trong dự án Phát triển

Lâm nghiệp vùng Tây Nguyên (FLITCH), 18 doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động

trong lĩnh vực lâm nghiệp đã được hỗ trợ tư vấn tăng cường kiến thức và kỹ năng

quản trị kinh doanh trong nền kinh tế thị trường và hội nhập. Các kết quả này tác

động vào 2 trụ cột chính cho tăng trưởng và phát triển nông nghiệp đó là KHCN và

phát triển nguồn nhân lực.

b. Hạn chế

Tuy nhiên, công tác thu hút và sử dụng ODA vào lĩnh vực nông nghiệp và

phát triển nông thôn những năm qua được đánh giá chỉ mới đạt ở mức trung bình so

với các lĩnh vực kinh tế khác trong nước. Thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA ở

Việt Nam nói chung và lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn nói riêng vẫn

còn một số hạn chế, bất cập chính như sau:

Một là, Khung thể chế về quản lý và sử dụng ODA của Chính phủ Việt Nam

chưa hài hòa với các quy định quản lý nguồn vốn ODA của các nhà tài trợ. Trong

những năm qua, Chính phủ Việt Nam đã nỗ lực ban hành và hoàn thiện các văn bản

pháp lý để hỗ trợ cho việc huy động và tạo thuận lợi cho việc giải ngân các nguồn vốn

84

ODA. Tuy nhiên, kết quả khảo sát cán bộ quản lý ODA cấp bộ, ngành và các ban quản

lý dự án các cấp cho thấy có 17/36 người không đồng ý với nhận định cho là khung thể

chế về quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA của Chính phủ Việt Nam hài hòa với các

quy định của các nhà tài trợ, và chỉ có 4/36 người đồng ý (xem Biểu đồ 3.10).

17

18

15

16

14

12

10

Series1

8

6

4

4

0

2

0

0

Đồng ý

Không đồng ý

Tạm chấp nhận

Hoàn toàn đồng ý

Hoàn toàn không đồng ý

Đơn vị tính: người

Biểu đồ 3.10. Đánh giá sự hài hòa

về khung thể chế quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA

Nguồn: Khảo sát của tác giả năm 2013

Nhiều trường hợp, sự cụ thể hóa các nghị định của Chính phủ tại cấp Bộ còn

chậm, do vậy việc triển khai thực hiện tại cấp dự án sử dụng vốn ODA gặp khó

khăn. Ví dụ, Chính phủ ban hành Nghị định 131/2006/NĐ-CP về Quy chế quản lý

và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức vào ngày 9/11/2006, nhưng đến ngày

04/8/2009 (tức sau gần 3 năm) Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn mới ban

hành Thông tư số 49/2009/TT-BNNPTNT hướng dẫn quản lý và sử dụng nguồn

vốn hỗ trợ nước ngoài thuộc Bộ. Ngoài ra, tại Thông tư này cũng chưa có cơ chế,

chế tài xử lý và chế độ khen thưởng cụ thể đối với các đơn vị quản lý dự án (PMU)

và các cơ quan quản lý nhà nước khác. Điều này dẫn đến việc thực thi những quy

định liên quan đến vốn ODA của các đơn vị thuộc Bộ còn hạn chế. Mặt khác, đến

23/4/2013 Chính phủ lại ban hành Nghị định số 38/2013/NĐ-CP thay thế Nghị định

85

131/2006/NĐ-CP. Vì vậy, việc ban hành các thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị

định này của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nhanh hay chậm sẽ có ảnh

hưởng đến việc thu hút và sử dụng vốn ODA cho giai đoạn tới.

Hai là, Chưa có một định hướng tổng thể về thu hút và sử dụng ODA vào phát

triển nông nghiệp, nông thôn. Trong quá trình vận động thu hút và sử dụng nguồn vốn

ODA, cần thiết phải có một định hướng tổng thể để cụ thể hoá các chủ trương, chính

sách của Đảng và Nhà nước vào huy động nguồn lực đặc thù này cho phát triển nông

nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, trên thực tế trong những năm qua, Bộ NN&PTNT chưa

ban hành một văn bản chính thức về qui hoạch, định hướng thu hút và sử dụng nguồn

vốn ODA chung của toàn ngành (ngoại trừ đến ngày 6/2/2013 Bộ đã ban hành Quyết

định số 255/QĐ-BNN-TCLN về việc phê duyệt định hướng thu hút, quản lý và sử

dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức, vay ưu đãi và hỗ trợ quốc tế khác cho

ngành lâm nghiệp giai đoạn 2013-2020). Trong một số trường hợp, việc thu hút nguồn

vốn ODA vào lĩnh vực NN&PTNT cũng chưa thực sự chủ động xuất phát từ nhu cầu

thực tế mà còn bị động và phụ thuộc vào nhà tài trợ trong quá trình hình thành dự án

ODA. Vì vậy, vốn ODA vào 5 lĩnh vực thuộc ngành nông nghiệp (lâm nghiệp, nông

nghiệp, thủy sản, thủy lợi và phát triển nông thôn) qua các năm thiếu ổn định, không đi

theo một định hướng xác định mà biến đổi rất thất thường (xem Biểu đồ 3.11).

Biểu đồ 3.11. Diễn biến ODA qua các năm theo 5 lĩnh vực nông nghiệp và PTNT

Nguồn: Bộ Nông nghiệp - PTNT, 2013

86

Cũng do thiếu định hướng tổng thể chung nên quá trình vận động thu hút

ODA cũng chưa chú trọng đầy đủ đến yếu tố vùng, chưa có sự quy hoạch rõ ràng về

tỷ lệ đầu tư và ưu tiên theo vùng, khu vực, Biểu đồ 3.12 cho thấy các vùng Tây Bắc,

Tây Nguyên là các vùng nghèo khó nhưng lại nhận được rất ít nguồn vốn ODA cho

phát triển nông nghiệp, nông thôn.

Ba là, Giải ngân nguồn vốn ODA chậm. Tiến độ thực hiện và giải ngân

nguồn vốn ODA nói chung của Việt Nam và của Bộ Nông nghiệp và Phát triển

nông thôn nói riêng vẫn chưa đạt yêu cầu và đối với một số nhà tài trợ, còn thấp

hơn với mức bình quân của khu vực và thế giới. Chẳng hạn, với vốn của WB, tỷ lệ

giải ngân của Việt Nam là 11,6% so với 19,4% của khu vực; với vốn của Cơ quan

Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), tỷ lệ giải ngân của Việt Nam là 13,6% so với

16,6% của quốc tế. Tỷ lệ giải ngân của các dự án thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát

triển nông thôn còn thấp so với tỷ lệ giải ngân trung bình của Việt Nam, đặc biệt là

đối với các dự án Lâm nghiệp (có dự án thời gian thực hiện đạt 80% nhưng tỷ lệ

giải ngân mới đạt 31% như dự án FLITCH). Giải ngân chậm nguồn vốn ODA dẫn

tới dự án bị kéo dài làm giảm hiệu quả dự án, hạn chế khả năng trả nợ, là nguy cơ

làm tăng nợ quá hạn cho Chính phủ, làm ùn đọng vốn ODA cam kết và ký kết. Giải

ngân vốn ODA chậm cũng dẫn đến chậm đưa công trình vào sử dụng chậm, gây

lãng phí, thất thoát nguồn lực, làm giảm tính ưu đãi và ý nghĩa của thời gian ân hạn,

kéo dài thời gian trả phí cam kết, đồng thời làm ảnh hưởng uy tín Việt Nam đối với

các nhà tài trợ về năng lực tiếp nhận và sử dụng ODA, và tác động không tốt đến

vận động thu hút nguồn vốn này.

Bốn là, Bố trí vốn đối ứng không kịp thời: Nhìn chung, bộ ngành và các địa

phương chủ quản dự án còn thiếu tầm nhìn dài hạn và thiếu kinh nghiệm trong quá

trình thiết kế dự án, xây dựng kế hoạch vốn đối ứng cho dự án và trong đàm phán,

ký kết với các nhà tài trợ. Trong các văn kiện dự án ký kết, cơ chế quản tài chính

chưa đầy đủ, rõ ràng, đặc biệt là các định mức chi tiêu và tổ chức bộ máy kế toán.

Vì vậy, tổ chức triển khai thực hiện dự án thường gặp khó khăn. Một số địa phương

do ngân sách hạn hẹp nên thường bố trí vốn đối ứng không kịp thời, việc huy động

87

nguồn vốn góp từ người hưởng lợi ở một số nơi cũng gặp không it vướng mắc.

Thực tế việc không xác định rõ cơ chế tài chính đối với dự án ODA đã làm chậm

giải ngân và kéo dài thời gian thực hiện dự án.

Năm là, Năng lực quản lý và giám sát thực hiện dự án của các ban quản lý

dự án (PMU) các cấp còn hạn chế. Nhiều Ban quản lý dự án ở cấp tỉnh lần đầu tiên

quản lý sử dụng vốn ODA vay ưu đãi nên rất lúng túng và phải mất khoảng 2 năm,

mới hiểu rõ và làm đúng theo các quy định và thủ tục của nhà tài trợ. Hạn chế này

là do việc tiếp cận nguồn vốn ODA vay ưu đãi vẫn còn mới mẻ đối với một số địa

phương, trong khi cán bộ quản lý dự án lại chưa được đào tạo bồi dưỡng kịp thời. Ở

một số địa phương, các Ban quản lý dự án tỉnh khó tuyển được cán bộ có đủ năng

lực và kinh nghiệm do công việc làm dự án có tính chất tạm thời và lương thấp so

với thu nhập trên thị trường lao động.

Sáu là, Công tác đánh giá sau khi dự án kết thúc hiện chưa được quan tâm

đúng mức. Hiện tại chỉ có nhà tài trợ thực hiện việc đánh giá sau dự án còn các cơ

quan liên quan của Việt Nam lại chưa thực hiện công tác này do kinh phí hạn hẹp,

điều này hạn chế khả năng học tập nâng cao năng lực quản lý sử dụng nguồn vốn

ODA từ chính kinh nghiệm của chúng ta. Việc đánh giá hiệu quả dự án sau khi

hoàn thành của nhà tài trợ, trong một số trường hợp, chưa phản ánh sát thực tế và

nguyên nhân mà chỉ thể hiện quan điểm riêng của nhà tài trợ, nhưng phía Việt Nam

lại phản biện chậm nên cũng gây ảnh hưởng không tốt đến công tác thu hút vốn

ODA trong tương lai.

Bẩy là, Một số nơi việc sử dụng ODA còn thiếu hiệu quả, lãnh phí. Trong

quan niệm của một số cơ quan thụ hưởng ODA (cả ở trung ương và địa phương)

vẫn còn vương vấn suy nghĩ về “ODA thời bao cấp” coi đó là tiền Chính phủ

“cho”. Hậu quả của quan niệm sai lệch này là ra sức “tranh thủ” nguồn vốn ODA

mà không tính đến hiệu quả kinh tế, tính bền vững sau dự án cũng như khả năng

trả nợ.

88

3.3. Thực trạng thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA vào phát triển

nông nghiệp và nông thôn vùng Duyên hải Miền Trung

3.3.1. Thực trạng thu hút ODA vào phát triển nông nghiệp, nông thôn

vùng Duyên hải Miền Trung

3.3.1.1. Kết quả thu hút ODA vào phát triển nông nghiệp, nông thôn của Vùng

Trong thời kỳ 1993- 2012, tỷ lệ huy động nguồn vốn ODA vào phát triển

nông nghiệp và nông thôn của vùng DHMT chiếm 15% tổng vốn ODA của Bộ

Nông nghiệp & PTNT, với số vốn ODA ký kết đạt trên 884 triệu USD (đứng thứ 4

so với các vùng miền trong cả nước, sau vùng Đông Bắc, Bắc Trung Bộ và Đồng

bằng sông Cửu Long). Trong đó vốn đã giải ngân đạt trên 486 triệu USD (đạt 55%

lượng vốn ODA đã ký kết với Nhà tài trợ), chiếm 14,56% tổng vốn đã giải ngân

(xem Biểu đồ 3.12 và Bảng 3.6).

Đông Bắc; 16%

ĐB sông Cửu Long; 14%

Đông Nam bộ; 5%

Tây Bắc; 8%

Tây Nguyên; 5%

ĐB sông Hồng; 11%

Duyên hải miền Trung; 15%

Bắc Trung bộ ; 26%

Đơn vị tính: %

Biểu đồ 3.12: Phân bổ vốn ODA lĩnh vực NN&PTNT theo vùng thời kỳ 1993-2012

Nguồn: Vụ Tài chính, Bộ NN&PTNT, 2013

89

Bảng 3.6. Nguồn vốn ODA cho phát triển nông nghiệp và nông thôn

phân theo vùng thời kỳ 1993-2012

Đơn vị tính: Lượng vốn: Triệu USD;Tỷ lệ: %

TT Tên vùng Vốn ký kết Vốn giải ngân

1 Đông Bắc 943,1 Tỷ lệ giải ngân so với ký kết 52 490,4

2 Tây Bắc 471,5 57 268,8

3 Đồng bằng sông Hồng 648,4 64 415,0

4 Bắc Trung Bộ 1,532,5 62 950,1

5 Duyên hải Miền Trung 884,1 55 486,3

6 Tây Nguyên 294,7 49 144,4

7 Đông Nam Bộ 294,7 50 147,4

8 Đồng bằng sông Cửu Long 825,2 53 437,4

Tổng cộng 5,894,2 3,339,6 56

Nguồn: Vụ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2013

Để thu hút được lượng vốn ODA nêu trên, cùng với sự định hướng, hỗ trợ

của các Bộ, Ngành cấp Trung ương, các tỉnh trong vùng DHMT đã có những hành

động thiết thực trong vận động nguồn ODA, cụ thể là:

Thứ nhất, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn các tỉnh đã tư vấn cho

UBND tỉnh đề xuất các dự án yêu cầu hỗ trợ ODA, phối hợp với Bộ Nông nghiệp

và PTNT, Bộ Kế hoạch và Đầu tư để tiếp xúc, vận động các nhà tài trợ. Khi được

phê duyệt là một bộ phân của chương trình, dự án, các tỉnh đã phối hợp tổ chức

triển khai, quản lý giám sát theo quy định chung.

Quy trình thu hút nguồn vốn ODA tại các tỉnh trong Vùng bước đầu được thực

hiện khá tốt. Sở Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp các Sở, ngành tại địa phương đề

xuất ý tưởng, xây dựng đề cương dự án chủ động tiếp cận nhà tài trợ, nhằm vận động

các dự án có quy mô lớn theo định hướng ưu tiên của tỉnh đã được xác định trong

danh mục ưu tiên vận động ODA và phù hợp với tiêu chí tài trợ của nhà tài trợ.

90

Đối với các chương trình, dự án ODA do các Bộ ngành quản lý: Các Sở

ngành trong Vùng đã tăng cường quan hệ với các Bộ ngành trung ương để nắm

thông tin, chủ động xây dựng các tiểu dự án của tỉnh phù hợp với tiêu chí tài trợ và

của từng chương trình, dự án để đăng ký tham gia chương trình dự án do các Bộ

ngành trung ương quản lý, nhất là các lĩnh vực y tế, giáo dục, giao thông nông thôn,

nước sạch vệ sinh môi trường nông thôn, xoá đói giảm nghèo.

Thứ hai, ngoài các hoạt động phối hợp với các Bộ, một số địa phương trong

Vùng đã tổ chức các Hội nghị vận động viện trợ tại địa phương mình để giới thiệu,

quảng bá tiềm năng của tỉnh và nhu cầu viện trợ, chẳng hạn như các Hội nghị vận

động tài trợ ODA tổ chức tại Huế (năm 1998), tại Hội An (năm 2001) và tại Nha

Trang (năm 2006).

Thứ ba, trong giai đoạn 2006-2010, các tỉnh thuộc vùng DHMT đã xây dựng và

Ủy ban Nhân dân các tỉnh đã phê duyệt Đề án vận động, thu hút dự án ODA đến năm

2015. Trong đề án của các tỉnh đều đánh giá tỉnh hình thu hút và sử dụng vốn ODA của

tỉnh mình thời kỳ 1993-2006, đánh giá hiệu quả thực hiện các dự án ODA trong thời

gian qua và đề xuất định hướng thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA của tỉnh mình đến

năm 2015. Trong đó, lĩnh vực phát triển nông nghiệp và nông thôn được xếp vào nhóm

ưu tiên hàng đầu để thu hút và tăng cường hiệu quả sử dụng trong thời gian tới.

Thứ tư, các tỉnh trong Vùng đã bước đầu chú trọng tạo môi trường để thu

hút nguồn vốn ODA, cụ thể là đã tích cực cải cách thủ tục hành chính, nâng cao

năng lực thể chế, sửa đổi hệ thống văn bản pháp quy theo hướng thật minh bạch, cụ

thể và có tính đồng bộ cao. Nhận thức đúng đắn về ODA, lãnh đạo các tỉnh đã có sự

cam kết mạnh mẽ, chỉ đạo sát sao nhằm đảm bảo việc thực hiện các chương trình,

dự án ODA có hiệu quả, phòng và chống thất thoát, lãng phí. Thông qua đó, đã tạo

dựng được niềm tin của cộng đồng quốc tế đối với Việt Nam nói chung và đối với

Vùng nói riêng. Bên cạnh đó, các tỉnh cũng đã chú trọng củng cố đội ngũ thực hiện

dự án, đảm bảo có đầy đủ năng lực quản lý, trình độ chuyên môn, đáp ứng yêu cầu

thực hiện tốt mục tiêu dự án; xây dựng các chương trình, dự án có hiệu quả, hiệu

suất, có lợi ích và tính bền vững.

91

Thứ năm, các tỉnh trong Vùng cũng đã bước đầu thực hiện lồng ghép các dự

án sử dụng nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ vào kế hoạch phát

triển ngành, lĩnh vực, địa bàn; kết hợp đồng bộ với việc thực hiện các dự án liên

quan từ các nguồn vốn khác để phát huy tốt hiệu quả đầu tư; thường xuyên cập

nhật, bổ sung danh mục dự án cho phù hợp với yêu cầu thực tế, đảm bảo tính hợp

lý, khả thi trong thực hiện.

Tuy nhiên, công tác thu hút ODA của các tỉnh trong Vùng vẫn còn nhiều bất

cập. Những bất cập đó được thể hiện cụ thể trong một khâu công tác trong quy trình

thu hút, vận động ODA.

3.3.1.2. Những hạn chế trong công tác thu hút nguồn vốn ODA của Vùng

a. Hạn chế trong xác định và chuẩn bị dự án ODA

Xác định và chuẩn bị dự án là khâu hết sức quan trọng trong thu hút, vận

động ODA. Thực tế trong những năm qua, công tác này trong ngành nông nghiệp

và phát triển nông thôn ở cấp Trung ương cũng như ở cấp địa phương tại các tỉnh

vùng DHMT vẫn còn bộc lộ nhiều yếu kém. Sự yếu kém này thể hiện ở chỗ: việc

lập kế hoạch và xác định các ý tưởng thiết kế dự án ODA vẫn chưa bám sát vào nhu

cầu thực tiễn và các chủ trương vận động ODA của Chính phủ, còn chắp vá, dàn

trải, thiếu một quy hoạch tổng thể và dài hạn, chưa có sự liên kết giữa các vùng, các

ngành, các địa phương. Đặc biệt là chưa có sự gắn kết giữa các nguồn vốn ODA

vay ưu đãi với nhau, cũng như chưa có sự gắn kết với các nguồn vốn “nội lực” mà

phía Việt Nam huy động được trong nước hoặc các dự án FDI để cùng thực hiện

các chương trình dự án. Điều này dẫn đến tình trạng trùng lắp về nội dung cũng như

mục tiêu tài trợ giữa các chương trình, dự án với nhau.

Kết quả khảo sát cán bộ quản lý ODA cấp bộ, ngành và các ban quản lý dự

án các cấp tại vùng DHMT cho thấy có 23/36 người đồng ý với nhận định cho là

thu hút nguồn vốn ODA vào ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn chưa thực

sự xuất phát từ nhu cầu thực tế mà còn bị động và phụ thuộc vào nhà tài trợ trong

quá trình hình thành dự án, và chỉ có 13/36 người đồng ý (xem Biểu đồ 3.13).

92

14

13

12

10

10

9

8

Series1

6

4

4

2

0

0

Đồng ý

Không đồng ý

Tạm chấp nhận

Hoàn toàn đồng ý

Hoàn toàn không đồng ý

Đơn vị tính: người

Biểu đồ 3.13. Đánh giá sự phù hợp của dự án ODA với nhu cầu thực tế

Nguồn: Khảo sát của tác giả năm 2013

Nội dung các chương trình, dự án dự kiến vay vốn ODA để thực hiện tại

Vùng chưa tuân theo đúng các quy định của Nhà tài trợ và Chính phủ Việt Nam về

mẫu đề xuất dự án, còn sơ sài, chưa đánh giá hết tính khả thi về mặt kỹ thuật, kinh

tế, tổ chức triển khai thực hiện, đặc biệt là chưa tính đến hiệu quả sử dụng vốn, coi

vốn ODA vay ưu đãi như nguồn vốn cho không, dẫn đến tình trạng lập kế hoạch

vay vốn ODA tràn lan theo phong trào.

Bên cạnh đó, việc lập kế hoạch và xác định các ý tưởng thiết kế dự án vẫn

chưa bám sát vào lĩnh vực ưu tiên và yêu cầu của phía các Nhà tài trợ, do đó mức

độ hài hòa trong thiết kế dự án giữa hai bên vẫn chưa đạt yêu cầu đề ra. Chính yếu

tố thiếu hài hòa đã làm cho quá trình huy động vốn thông qua các chương trình, dự

án vay vốn bị hạn chế so với các yêu cầu đề ra. Vì vậy, dẫn đến kết quả là danh mục

các chương trình, dự án đưa ra vận động vay vốn thì nhiều nhưng số lượng các

chương trình, dự án được phía các nhà tài trợ chấp thuận thì ít. Thậm chí nếu được

phía các nhà tài trợ chấp thuận thì tính khả thi về mặt kỹ thuật và kinh tế của nhiều

dự án lại khộng đạt yêu cầu đặt ra, do khâu quản lý “đầu vào” đối với các chương

trình, dự án dự kiến vay vốn ODA mà các Bộ, Ngành, địa phương trình lên còn lỏng

lẻo, thiếu qui hoạch, đặc biệt là chưa có sự sàng lọc kỹ trước khi đưa ra vận động

93

vay vốn. Vì vậy nhiều dự án sau này khi đi vào giai đoạn thực hiện đã gặp không ít

khó khăn về thực hiện, giám sát đánh giá và bàn giao kết quả dự án.

b. Thực trạng công tác thẩm định, phê duyệt dự án ODA

Công tác thẩm định và phê duyệt các dự án ODA là khâu hết sức quan trọng

nhằm bảo đảm tính hiệu quả và chất lượng của các dự án ODA. Các dự án nông

nghiệp được triển khai và thực hiện tại Vùng được chia thành 02 nhóm: (i) Các dự

án nhóm O do Bộ Nông nghiệp và PTNT (hoặc các Bộ ngành khác) là cơ quan chủ

quản và sau khi phê duyệt dự án xong, thì thành lập Ban quản lý dự án tại tỉnh và

giao cho Ủy ban nhân dân tỉnh là cơ quan chủ quản dự án tại địa phương; và (ii)

Các dự án trực tiếp do tỉnh đàm phán, thẩm định và triển khai.

Công tác thẩm định, phê duyệt dự án tại Vùng DHMT trong những năm qua

gặp nhiều khó khăn, cụ thể:

- Thời gian phê duyệt luận chứng khả thi, thiết kế kỹ thuật kéo dài, từ khi

phê duyệt đến khi thi công phải mất từ 1 đến 1,5 năm. Tình hình triển khai thực tế

có nhiều thay đổi nên nhiều dự án đòi hỏi phải có sự điều chỉnh cho phù hợp với

thực tế. Tuy nhiên, việc phê duyệt những thay đổi của cả hai phía là chủ dự án và

nhà tài trợ thường bị chậm trễ. Hơn nữa đối với một số dự án như thủy lợi hoặc dự

án rừng phòng họ, do mấy năm qua chính sách thuế đối với các nguyên liệu đầu vào

và giá cả vật liệu, nhân công thường xuyên thay đổi, đồng thời dự án lại được triển

khai tại nhiều tỉnh, nên thời gian thẩm định và phê duyệt rất dài. Có những dự án

hợp tác với JICA, kể từ khi Thủ tướng phê duyệt danh mục dự án đầu tư cho đến

khi dự án ký kết hiệp định phải mất thời gian khoảng 5 năm, do việc điều tra và

thiết kế kỹ thuật kéo dài dẫn đến phải chuyển địa điểm thực hiện dự án.

- Các quy định về thẩm định các dự án ODA nhóm A đòi hỏi phải có sự cam

kết chắc chắn nguồn vốn nước ngoài thì mới có căn cứ để thẩm định và trình Thủ

tướng Chính phủ phê duyệt. Tuy nhiên, nhiều nhà tài trợ, đặc biệt là Nhật Bản - nhà

tài trợ chủ yếu các dự án phát triển hạ tầng quy mô lớn thuộc nhóm A, lại yêu cầu

dự án phải được các cấp có thẩm quyền phê duyệt thì mới có thể xem xét cấp vốn.

94

- Thủ tục phê duyệt thiết kế chi tiết, tổng dự toán, nội dung đấu thầu của phía

Việt Nam (do các cơ quan Bộ ngành địa phương tiến hành) thường bị chậm trễ,

không chính xác cả trước và sau khi ký kết hiệp định vay vốn ưu đãi. Sự không hài

hòa thủ tục giữa Luật Đấu thầu và hướng dẫn mua sắm của Nhà tài trợ là một trong

những lý do dẫn đến trình trạng này. Cụ thể, đối với các dự án ODA do ADB, WB

tài trợ, sau khi ký kết hiệp định, Nhà tài trợ đồng ý kế hoạch mua sắm trong 18

tháng, tuy nhiên Luật Đấu thầu của Việt Nam thì lại quy định đối với các dự án đầu

tư sau khi dự án được ký kết và có hiệu lực sẽ phê duyệt kế hoạch đấu thầu tổng thể.

Mặt khác, việc thẩm định các phương án tài chính của một số dự án cũng chưa

chặt chẽ, chủ yếu được thực hiện tại bàn, chưa giúp lựa chọn được các phương án tối ưu.

Điều này, một mặt do hạn chế của phương pháp “thẩm định tại bàn”, mặt khác do áp lực

từ nhiều phía trong quá trình vận động của dự án gây ra. Tâm lý các ngành, các cấp đều

muốn có nhiều dự án được thực hiện trong phạm vi quyền quản lý của mình nên việc

thẩm định dự án không được khách quan, thấu đáo, có khi chấp nhận cả những ràng

buộc bất lợi hoặc lựa chọn những dự án không có hiệu quả cao xét trên tổng thể nền kinh

tế. Kết quả là nhiều dự án có phương án cho vay lại không phù hợp, đến kỳ trả nợ dự án

không trả được nợ và xin hoãn nợ, hoặc có dự án địa phương không có năng lực bố trí

vốn đối ứng để thực hiện các nghĩa vụ của mình như đã cam kết...

Thủ tục hành chính của Việt Nam cũng gây nhiều khó khăn cho các Ban

quản lý dự án tỉnh trong Vùng, đặc biệt là bước thẩm định và phê duyệt nghiên cứu

khả thi, phê duyệt để triển khai các hạng mục sử dụng vốn sau đấu thầu. Ở mỗi

bước, các Ban quản lý dự án tỉnh đều phải gửi hồ sơ đến Ban quản lý dự án Trung

ương xem xét trước, trước khi trình Bộ chủ quản và Nhà tài trợ. Do các tiêu chuẩn

đòi hỏi không đồng nhất nên để có được sự đồng ý của tất cả các cấp thì phải mất

nhiều thời gian và công sức, dẫn đến có những gói thầu phải mất vài tháng mới có

kết quả đồng ý, gây chậm tiến độ thực hiện dự án.

Các quy định về phê duyệt các dự án ODA cho thấy ý định kiểm soát chặt

chẽ hiệu quả của các dự án ODA của Nhà nước. Tuy nhiên các quy định này chỉ

phù hợp trong bối cảnh số lượng các dự án ODA do Thủ tướng Chính phủ phê

95

duyệt ở mức vừa phải. Khi số lượng các dự án tăng nhanh như trong thời gian qua

và quy trình xây dựng dự án của các nhà tài trợ phức tạp sẽ tạo ra gánh nặng trong

quá trình thẩm định và phê duyệt dự án cho Chính phủ và các cơ quan tổng hợp.

Theo kết quả khảo sát đối với 10 Nhà tài trợ và 36 cán bộ cơ quan quản lý

dự án tại vùng DHMT về nhận định: “Quy trình thẩm định và phê duyệt dự án đối

với ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn đơn giản và thời hạn phê duyệt phù

hợp với nhà tài trợ?”, cho thấy chỉ có 15/46 người đồng ý với nhận định, còn 31/46

người không đồng ý (xem Biểu đồ 3.14).

Đơn vị tính: người

14

12

10

8

6

4

2

0

Đồng ý

Hoàn toàn đồng

Hoàn toàn

Không đồng ý

Tạm chấp

14

7

10

10

5

Series1

Biểu đồ 3.14: Đánh giá quy trình thẩm định và phê duyệt dự án

Nguồn: Khảo sát của tác giả năm 2013.

Bên cạnh đó, năng lực xây dựng, đàm phán, ký kết các dự án ODA trong linhc

vực Nông nghiệp và PTNT còn chưa tốt. Kết quả khảo sát về năng lực này ở cả hai cấp

Trung ương (Chính phủ và các Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài

chính và Bộ Nông nghiệp và PTNT) và Địa phương (cấp tỉnh, huyện trong vùng Duyên

hải Miền Trung) cho thấy 89% số cán bộ quản lý được hỏi đồng ý với nhận định cho là

năng lực chuẩn bị và đàm phán dự án ODA trong lĩnh vực Nông nghiệp và PTNT chưa

tốt, chưa đạt yêu cầu đặt ra ở cấp Trung ương, 94% cho là năng lực này chưa tốt ở cấp

Địa phương. Riêng về năng lực đàm phán và ký kết dự án ODA (chủ yếu ở cấp Trung

ương), có 100% ý kiến đánh giá năng lực này là chưa tốt. (xem Bảng 3.7)

96

Bảng 3.7. Đánh giá năng lực chuẩn bị, đàm phán và ký kết dự án ODA

trong lĩnh vực Nông nghiệp và PTNT

Đơn vị tính: Số lượng: Số ý kiến; Tỷ lệ: %

TT Nội dung Không đồng ý Đồng ý Tổng số ý kiến Hoàn toàn đồng ý Hoàn toàn không đồng ý Tạm chấp nhận được

1 Năng lực xây dựng dự án chưa tốt ở cấp:

1.1 Trung ương 36 1 3 13 15 4

Tỷ lệ 3 8 36 42 11

1.2 Địa phương 36 0 2 8 20 6

0 6 22 56 17 Tỷ lệ

Năng lực đàm phán và ký kết các dự án hỗ trợ 2 ngành nông nghiệp và

36 0 0 6 21 9 PTNT chưa tốt

0 0 17 58 25 Tỷ lệ

Nguồn: Khảo sát của tác giả năm 2013.

3.3.2. Thực trạng sử dụng ODA vào phát triển nông nghiệp, nông thôn

vùng Duyên hải Miền Trung

3.3.2.1. Thực trạng Tổ chức Bộ máy quản lý dự án ODA của Vùng

Khác với các hoạt động quản lý nhà nước khác (bao gồm 4 cấp là Trung

ương; tỉnh, huyện, xã), hiện nay Việt Nam có 4 cấp tham gia vào quá trình quản lý

thu hút và sử dụng vốn ODA, bao gồm:

(1) Chính phủ;

(2) Các Bộ/ngành tổng hợp, gồm: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ

Ngoại giao, Ngân hàng Nhà nước và Văn phòng Chính phủ; trong đó Bộ Kế

hoạch và Đầu tư là cơ quan đầu mối.

97

(3) Các Bộ chuyên ngành, UBND các địa phương

(4) Các chủ dự án, Ban quản lý dự án.

Chức năng, nhiệm vụ cụ thể của các cơ quan này (Chính phủ, Bộ Kế hoạch

và Đầu tư, Bộ Tài chính, Các Bộ ngành và Uỷ ban nhân dân Tỉnh,...) được quy định

chi tiết trong Nghị định 38/NĐ-CP (thay thế nghị định số 131/NĐ-CP và Nghị định

số 17/NĐ-CP). Ngoài ra, quản lý nhà nước về vốn ODA muốn đạt được hiệu quả rất

cần sự quan tâm hợp tác từ phía các nhà tài trợ.

CHÍNH PHỦ

Nước tài trợ

Bộ KH & ĐT

Bộ Tài Chính

Ngân hàng NNVN

Văn phòng CP

Bộ Nông nghiệp và PTNT

UBND Tỉnh, thành phố trực thuộc TW

Dự án triển khai ở địa phương

Nhà tài trợ

Ban QLDA Cấp Tỉnh, TP

Ban Quản lý Dự án

Dự án triển khai tại cấp Bộ

Nhà tài trợ

Quản lý trực tiếp

Phối hợp làm việc

Phối hợp quản lý

Hình 3.2. Cơ cấu bộ máy quản lý nhà nước về vốn ODA tại Việt Nam

98

Công tác quản lý nhà nước về vốn ODA về cơ bản đã được tập trung vào

một đầu mối, ở Trung ương là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ở các Bộ là các Vụ Kế

hoạch đầu tư hoặc Vụ Hợp tác quốc tế, ở các tỉnh là các Sở Kế hoạch và Đầu tư.

Tuy nhiên, việc phân định chức năng của các cơ quan quản lý ODA còn

mang tính dàn trải, có nơi chưa tập trung được vào một đầu mối, một số địa phương

vẫn còn duy trì hai đầu mối là Sở Kế hoạch và Đầu tư và Phòng Ngoại vụ thuộc

Văn phòng Uỷ ban nhân dân tỉnh hoặc việc ký kết các Hiệp định vay cũng được

giao cho hai cơ quan quản lý là Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước, nhưng sau đó

toàn bộ việc quản lý Hiệp định lại do Bộ Tài chính quản lý. Bên cạnh đó, việc ký kết

các Hiệp định ODA hiện vẫn tồn tại hai nấc: Hiệp định khung do Bộ Kế hoạch và

Đầu tư chủ trì và ký kết, Hiệp định ODA vay cụ thể cho từng dự án do Bộ Tài chính

chủ trì và ký kết. Trong một số trường hợp, khi mà Bộ Tài chính thay mặt Chính phủ

đóng vai trò “người vay” thì có lẽ không cần thiết tồn tại hai nấc như vậy.

Một tồn tại khá phổ biến khác là trong một Bộ/địa phương thì chủ đầu tư là

một cơ quan thuộc Bộ/địa phương, đồng thời Ban quản lý dự án tỉnh, nhà thầu cũng

là của Bộ/địa phương đó, vì vậy khi có vấn đề xảy ra trong thực hiện dự án, các đơn

vị này có thể thông đồng, dàn xếp riêng với nhau.

Một trong những yếu tố cơ bản tác động khiến việc thực hiện nhiều dự án tại

Vùng chưa thực sự đạt được hiệu quả mong muốn chính là hoạt động điều hành từ

các Ban quản lý dự án tỉnh. Có một thực tế tồn tại, không chỉ tại Vùng DHMT là

mỗi dự án đều có Ban chuẩn bị, song khi chuyển sang giai đoạn thực hiện dự án lại

tiến hành thành lập mới các Ban quản lý dự án. Như vậy, có những người mới lại

được tuyển vào và ban giám đốc dự án có thay đổi nên ảnh hưởng đến tiến độ triển

khai thực. Hoặc có địa phương lại bộ trí cán bộ thực hiện dự án phần lớn là cán bộ

các sở, ngành kiêm nhiệm, do vậy thời gian dành cho quản lý dự án hạn chế, dẫn

đến làm chậm tiến độ dự án. Chẳng hạn như trường hợp Dự án Cải thiện vệ sinh

môi trường thành phố Nha Trang, mặc dù được ký kết từ năm 2004 nhưng đến năm

2007 mới triển khai được. Nguyên nhân chính là do Ban quản lý dự án hầu hết là

lãnh đạo, cán bộ kiêm nhiệm nên việc thực hiện và triển khai dự án phụ thuộc hoàn

toàn vào đơn vị tư vấn.

99

3.3.2.2. Thực trạng tổ chức quản lý và thực hiện dự án ODA

Các dự án ODA tại vùng DHMT được chia thành 2 loại là: (1) Các dự án

trực thuộc tỉnh, do Ủy ban Nhân dân tỉnh thẩm định và ký kết văn kiện tài trợ; và

(2) Các dự án nhóm O, do các Bộ ngành Trung ương làm cơ quan chủ quản và đề

nghị Ủy ban Nhân dân tỉnh thành lập Ban quản lý dự án tại tỉnh.

Nhìn chung nhiệm vụ chủ yếu của các Ban quản lý dự án tỉnh thuộc Vùng

được thực hiện như sau:

Ban quản lý dự án tỉnh là cơ quan thường trực giúp việc cho Ban chỉ đạo dự

án tỉnh (thường lãnh đạo tỉnh phụ trách ngành nông nghiệp là Trưởng ban chỉ đạo),

Ban quản lý dự án tỉnh có trụ sở tại Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hoặc

do tỉnh bố trí phù hợp với điều kiện thực tế tại địa phương, có con dấu và tài khoản

để giao dịch theo quy định của Pháp luật.

Ban quản lý dự án tỉnh chịu trách nhiệm trước Ủy ban Nhân dân tỉnh và Bộ

Nông nghiệp và PTNT (cơ quan chủ quản dự án) về việc quản lý, thực hiện các hoạt

động của dự án về nông nghiệp và phát triển nông thôn trên địa bàn tỉnh, phù hợp với

quy định của Nhà tài trợ và Chính phủ Việt Nam về quản lý dự án đầu tư, quản lý tài

chính theo Luật Đấu thầu và các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có liên quan.

Ban quản lý dự án tỉnh thực hiện các công việc quản lý và thực hiện dự án như

sau: xây dựng kế hoạch hoạt động dự án hàng năm; chỉ đạo và giám sát các Nhà thầu

thực hiện các hoạt động của dự án đảm bảo chất lượng, hiệu quả; tổ chức thực hiện dự

án theo mục tiêu và kế hoạch được duyệt trên địa bàn tỉnh; bảo đảm sử dụng kinh phí

của dự án trên cơ sở các định mức chi phí của dự án và Nhà nước ban hành, đúng mục

đích, tiết kiệm và có hiệu quả; phối hợp với với các cơ quan liên quan thực hiện việc

kiểm tra, kiểm toán và đánh giá các hoạt động của dự án tỉnh theo quy định; tổ chức

thực hiện, kiểm tra, giám sát và nghiệm thu công trình; tổ chức tập huấn và chuyển

giao kỹ thuật cho cán bộ cấp tỉnh, huyện và các đơn vị có liên quan trong phạm vi dự

án tỉnh quản lý và quản lý các thiết bị và phương tiện làm việc của Ban quản lý dự án

tỉnh theo đúng quy định của dự án và quy định hiện hành của Nhà nước.

100

Bảng 3.8. Đánh giá năng lực quản lý và thực hiện dự án

của các Ban quản lý dự án ODA trong lĩnh vực nông nghiệp và PTNT

Đồng ý

Hoàn toàn đồng ý

Không đồng ý

Tạm chấp nhận được

Tổng số ý kiến

Hoàn toàn không đồng ý

Đánh giá của Nhà tài trợ

- Năng lực quản lý

12

1

5

5

0

1

thực hiện dự án chưa

tốt ở cấp Trung ương

Tỷ lệ %

8,3

41,7

41,7

0,0

8,3

Năng lực quản lý thực

12

3

4

3

2

0

hiện dự án chưa tốt ở

cấp Địa phương

Tỷ lệ %

25,0

33,3

25,0

16,7

0,0

Tự đánh giá của cán bộ quản lý dự án

- Năng lực quản lý

36

5

7

7

13

4

thực hiện dự án chưa

tốt ở cấp Trung ương

Tỷ lệ %

13,9

19,4

19,4

36,1

11,1

Năng lực quản lý thực

36

6

8

11

9

2

hiện dự án chưa tốt ở

cấp Địa phương

Tỷ lệ %

16,7

22,2

30,6

25,0

5,6

Đánh giá của Người hưởng lợi

- Năng lực quản lý

4

4

7

0

4

19

thực hiện dự án chưa

tốt ở cấp Trung ương

Tỷ lệ %

21,1

21,1

36,8

0,0

21,1

Năng lực quản lý thực

19

1

2

11

3

2

hiện dự án chưa tốt ở

cấp Địa phương

Tỷ lệ %

5,3

10,5

57,9

15,8

10,5

Nguồn: Khảo sát của Tác giả, 2013.

101

Năng lực quản lý và thực hiện dự án của các ban quản lý dự án trung ương

và các ban quản lý dự án tỉnh có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng nguồn

vốn ODA. Kết quả khảo sát ý kiến đánh giá về năng lực quản lý và thực hiện dự án

các cấp (gồm 12 nhà tài trợ, 36 cán bộ quản lý dự án và 19 người hưởng lợi) cho

thấy, có 50% nhà tài trợ, 66,7% cán bộ dự án và 57,9% người hưởng lợi đồng ý cho

là năng lực quản lý thực hiện dự án chưa tốt ở cấp trung ương. Đồng thời 41,7%

nhà tài trợ, 61,1% cán bộ dự án và 84,2% người hưởng lợi đồng ý cho rằng năng lực

quản lý thực hiện dự án chưa tốt ở cấp địa phương (xem bảng 3.8).

3.3.2.3. Thực trạng giám sát và đánh giá dự án ODA

Trong những năm qua, công tác giám sát và theo dõi dự án được triển khai ở

mọi cấp từ Trung ương (các Bộ), địa phương chủ quản cho đến các Ban quản lý dự

án tại vùng DHMT. Ngoài ra công tác này còn được thực hiện bởi chính các nhà tài

trợ hoặc phối hợp thực hiện giữa các nhà tài trợ với các cơ quan liên quan của phía

Việt Nam. Theo quy định hiện hành, các Ban quản lý dự án phải lập báo cáo tiến độ

triển khai thực hiện dự án theo tháng, quý, năm và báo cáo kết thúc dự án cho các

cơ quan cấp trên. Báo cáo này bao gồm các thông tin về các công việc đã được triển

khai thực hiện hoặc hoàn thành, các khoản viện trợ đã được giải ngân... Các Bộ, địa

phương chủ quản có trách nhiệm thực hiện các báo cáo quý về tiến độ triển khai các

dự án ODA thuộc phạm vi quản lý của Bộ và địa phương mình. Bộ Kế hoạch và

Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm lập báo cáo nửa năm và

hàng năm về tình hình triển khai thực hiện các dự án ODA.

Công tác giám sát, theo dõi và đánh giá các dự án ODA trong thời gian qua

có một số điểm sau:

Thứ nhất, công tác theo dõi và đánh giá dự án bị buông lỏng trong một số

năm đầu sử dụng nguồn vốn ODA, thể hiện chỉ có khoảng 15% các cơ quan quản lý

nhà nước thực hiện tốt công tác theo dõi và báo cáo đúng thời hạn quy định. Nhiều

cơ quan chủ quản ở Trung ương và các tỉnh chưa quản lý sâu sát được các dự án của

mình. Kỷ luật báo cáo về tình hình thực hiện các chương trình, dự án ODA thực

102

hiện thiếu nghiêm túc. Tuy nhiên công tác này dần được cải thiện những năm gần

đây, với tỷ lệ số dự án nộp báo cáo giám sắt và đánh giá dự án đúng thời gian quy

định đã tăng lên rõ rệt. (xem tại Biểu đồ 3.15)

89,27%

2012

87,54%

2011

2010

59,97%

2009

Tỷ lệ % số dự án nộp Báo cáo giám sát và đánh giá đúng thời gian quy định

56,21%

0,00% 20,00% 40,00% 60,00% 80,00% 100,00

%

Đơn vị tính: %

Biểu đồ 3.15: Tổng hợp kết quả báo cáo giám sát và đánh giá Dự án ODA

Nguồn: Vụ Kế hoạch, Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2013

Thứ hai, năng lực quản lý và giám sát thực hiện dự án của các Ban quản lý

dự án tại vùng DHMT còn hạn chế, nhất là với các đơn vị lần đầu tiên sử dụng vốn

vay ưu đãi của các nhà tài trợ. Yếu kém bắt nguồn từ các nguyên nhân như cán bộ

chưa được đào tạo đầy đủ, cơ sở vật chất còn thiếu, khó tuyển được cán bộ có đủ

năng lực do lương thấp vì định mức chi phí cho các ban quản lý dự án tỉnh thấp.

Công tác đánh giá sau khi dự án kết thúc hiện chưa được quan tâm đúng

mức. Hiện nay chỉ có nhà tài trợ thực hiện việc đánh giá dự án sau khi kết thúc

trong khi các cơ quan liên quan của phía Việt Nam không có đầy đủ kinh phí thực

hiện công tác này. Hơn nữa, các bộ chỉ tiêu đánh giá tại nhiều dự án được đặt ra quá

cao, công cụ đánh giá không phù hợp… gây khó khăn trong quá trình giám sát và

đánh giá. Chẳng hạn, tại dự án “Tái tạo và Quản lý rừng bền vững tại Quảng Nam,

Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên” do KFW tài trợ, theo “Thoả thuận riêng” được

103

ký giữa KfW và chủ dự án, cứ mỗi 6 tháng, Ban quản lý án Trung ương phải gửi

cho Ngân hàng báo cáo dài 5 trang. Theo yêu cầu ban đầu, báo cáo này phải bao

gồm các phụ lục có rất nhiểu chỉ số về tình hình phát triển của ngành và của cơ

quan thực hiện dự án cũng như các tác động và kết quả chính của dự án. Tuy nhiên,

trong thực tế những mẫu biểu và chỉ số báo cáo 6 tháng này đã không được áp dụng

vì các Ban quản lý dự án địa phương và trung ương không thể thu thập được dữ liệu

theo tần xuất được yêu cầu. Thay vào đó, Ban quản lý dự án Trung ương và KfW đã

thảo luận và đi đến thống nhất xây dựng một bộ mẫu biểu báo cáo mới đơn giản

hơn (bao gồm cả báo cáo tiến độ nửa năm) trên Word và Excel để lưu trữ và xử lý

dữ liệu. Đến nay, cơ chế báo cáo này đang được vận hành tốt và hỗ trợ tích cực cho

quá trình quản lý dự án.

Thứ ba, các thông tin về tình hình thực hiện dự án thường không được các

cấp thông báo kịp thời, đầy đủ. Điều này gây khó khăn cho các cơ quan tổng hợp,

đặc biệt là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong việc tổng hợp tình hình thực hiện dự án để

báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, nhiều chủ dự án khi gặp khó khăn trong

quá trình thực hiện lại thường yêu cầu các cơ quan cấp trên giải quyết. Do thiếu các

thông tin cập nhật thường xuyên nên việc giải quyết các vướng mắc thường mang

tính chất sự vụ, không có tính hệ thống, đồng bộ và kịp thời.

Hệ thống thông tin theo dõi trực tuyến từ Trung ương đến cơ sở chưa được

xây dựng hoàn chỉnh. Mặt khác, hệ thống thông tin kinh tế, xã hội, chính trị của nền

kinh tế, của ngành và địa phương chưa được quản lý thống nhất và chưa có sự chia

sẻ thông tin hợp lý giữa các cơ quan nhà nước, trong nội bộ các nhà tài trợ cũng như

giữa nhà tài trợ với các cơ quan liên quan. Chính vì vậy, những thông tin về vốn

ODA có độ xác thực và cập nhật chưa cao. Trong khi đó, nguồn vốn ODA ở Việt

Nam cần một kênh thông tin đa chiều để bên Việt Nam có thể nâng cao khả năng

điều phối tránh tình trạng trùng lặp, chồng chéo hạn chế hiệu quả sử dụng nguồn

vốn này.

Theo tinh thần của Nghị định 131/2006/NĐ-CP, mỗi cơ quan quản lý, thực

hiện các chương trình dự án ODA từ Trung ương đến địa phương sẽ phải thành lập

104

đơn vị chuyên trách về theo dõi và đánh giá dự án. Tuy nhiên công tác này mới chỉ

được triển khai ở một số cơ quan tổng hợp và quản lý dự án, chưa phát triển thành

một hệ thống thông tin bao quát được toàn bộ hoạt động tiếp nhận và sử dụng vốn

ODA ở vùng DHMT.

Quá trình tin học hoá công tác theo dõi đánh giá dự án hiện triển khai còn

chậm do các khó khăn về trang thiết bị cũng như thiếu một chế tài bắt buộc các đơn

vị thực hiện các báo cáo định kỳ.

Thứ tư, hiện nay chưa có một hệ thống biểu mẫu báo cáo tiến độ thực hiện

chung cho cả nhà tài trợ và các cơ quan Việt Nam. Các cơ quan quản lý dự án phải

cùng một lúc lập hai báo cáo và điều này tạo ra gánh nặng cho các ban quản lý dự án.

Tóm lại, tuy hệ thống các quy định về việc giám sát, theo dõi dự án đã được

ban hành đầy đủ, nhưng do thiếu các chế tài nên công tác này còn bị coi nhẹ và

chưa thực sự đáp ứng các yêu cầu đặt ra.

3.3.2.4. Thực trạng quản lý và khai thác các công trình dự án đầu tư

Sau khi dự án ODA hoàn tất, thông thường phải có một quá trình (i) bàn

giao dự án cho tổ chức vận hành; (ii) vận hành công trình đầu tư; (iii) bảo trì,

bảo dưỡng tài sản công trình hình thành từ dự án; (iv) hạch toán chính xác và kịp

thời những thay đổi về giá trị tài sản; (v) và đánh giá mức độ hữu dụng của dự án

căn cứ vào chất lượng và số lượng dịch vụ nó mang lại.

Trong những năm qua, các công trình được đầu tư bởi nguồn vốn ODA đã

được bàn giao đúng cho đối tượng sử dụng. Nhờ vậy, các công trình đầu tư được

đưa vào khai thác, sử dụng sớm và bước đầu đã phát huy được hiệu quả. Tuy

nhiên, nhìn chung công tác duy tu, bảo trì các công trình hạ tầng đã đầu tư còn

chưa tốt. Trong quy trình lập kế hoạch đầu tư tại Việt Nam nói chung và ở vùng

DHMT nói riêng trong những năm qua chưa chú trọng nhiều đến vấn đề này, thể

hiện qua việc quan tâm rất ít đến duy tu bảo dưỡng công trình sau khi dự án kết

thúc. Đây là vấn đề mà Việt Nam đang đối mặt ở cấp Quốc gia chứ không riêng

các dự án trong Vùng. Chi phí cho vận hành và duy tu bảo dưỡng thường chiếm

105

khoảng 1-1,5% tổng mức đầu tư của một dự án xây lắp. Sửa chữa ước tính

khoảng 5% tổng mức đầu tư cho mỗi 5 năm, sửa chữa cho 10 năm ước tính

khoảng 20%. Trong khi đó, các địa phương trong Vùng phần lớn là các tỉnh khó

khăn, ngân sách thu chưa bù được chi, nên không thể dành ra khoản kinh phí

theo tỷ lệ này, dẫn đến các công trình mau chóng hỏng hóc và không khai thác

được hết thành quả của dự án.

Gần đây, trong một số dự án vốn vay, để đảm bảo tinh bền vững của dự

án, ngay khi thiết kế dự án, các phương án/ các mô hình quản lý vận hành bền

vững công trình đầu tư đã được nghiên cứu, đề xuất và được hỗ trợ hình thành

trong suốt quá trình thực hiện dự án đầu tư xây dựng cơ bản. Chẳng hạn như với

các dự án thủy lợi trong Vùng, việc hỗ trợ tăng cường năng lực cho các công ty

khai thác công trình thủy nông, thành lập các tổ, hội dùng nước… đã được thực

hiện đồng thời với xây dựng công trình hồ, đập, kênh tưới. Nhờ vậy, sau khi bàn

giao, các công trình đã được vận hành tốt, phục vụ hiệu quả dịch vụ tưới, tiêu

nước cho người dân, do vậy được đánh giá cao.

Tuy nhiên, cũng còn không ít công trình được đầu tư bằng nguồn vốn

ODA (đặc biệt là nguồn vốn tài trợ cho không) đã không được khai thác, vận

hành hiệu quả sau khi bàn giao. Chẳng hạn như một số công trình cấp nước sạch

(do UNICEP tài trợ cho không) đã bị bỏ phí sau thời gian sử dụng rất ngắn (chỉ 2

hoặc 3 năm). Nguyên nhân chính là do việc xây dựng công trình không thực sự

xuất phát từ nhu cầu của người dân; cơ chế tài chính xác định trách nhiệm người

sử dụng nước phải tự chi trả các chi phí vận hành, bảo dưỡng công trình…

không được làm rõ ngay từ khi thiết kế dự án; năng lực vận hành và quản lý

công trình chưa được chú trọng xây dựng đúng mức trong quá trình đầu tư công

trình…. Đây là một trong những thực trạng chung của các dự án ODA tại vùng

DHMT nói riêng và cả nước nói chung. Do vậy, việc cam kết, chỉ đạo và có sự

tham gia của người hưởng lợi sẽ đảm bảo được hiệu quả và tính bền vững của dự

án khi kết thúc.

106

3.3.2.5. Kết quả thực hiện một số dự án phát triển nông nghiệp và nông thôn

tại vùng Duyên hải Miền Trung sử dụng vốn ODA

a. Dự án Khoa học công nghệ Nông nghiệp

Dự án Khoa học công nghệ Nông nghiệp được thực hiện với sự tài trợ của

ADB thông qua Khoản vay số 2283 VIE (SF) với trị giá khoản vay là 40 triệu USD.

Mục tiêu chung của dự án là góp phần thực hiện mục tiêu chung của ngành là đảm

bảo sự đóng góp bền vững của nông nghiệp vào sự phát triển kinh tế của đất nước

và giảm mức độ nghèo đói tại nông thôn. Kết quả thực hiện dự án Khoa học công

nghệ Nông nghiệp thể hiện trên các mặt sau:

- Về giải ngân: Dự án đã giải ngân được 40.381.693 USD, vượt trên 100% so

với số vốn được thiết kế ban đầu, do bổ sung thêm chi phí kết dư trong quá trình

thực hiện dự án.

- Về hiệu quả: Dự án được đánh giá là khả thi về mặt kinh tế với IRR là 20%,

giá trị NPV là khoảng 266 tỷ đồng. Các sản phẩm dự án đã hoàn thành bao gồm (i)

125 đề tài cấp nhà nước được dự án tài trợ đã tạo ra 197 giống cây trồng mới, 245

quy trình kỹ thuật; (ii) 54 cán bộ trong ngành nông nghiệp đã được đào tạo sau đại

học tại nước ngoài và trên 50 lớp tập huấn ngắn hạn tăng cường năng lực đã được tổ

chức; (iii) 150 tỷ đồng cho thiết bị tăng cường năng lực nghiên cứu và giảng dạy

cho ngành; (iv) tăng cường năng lực khuyến nông các tỉnh thông qua tổ chức 1193

lớp khuyến nông, 615 mô hình khuyến nông đã được triển khai tại 5 tỉnh tham gia

dự án, trong đó có 4 tỉnh thuộc vùng DHMT.

- Hạn chế của Dự án là không thực hiện theo đúng tiến độ đề ra; đồng thời một

số kết quả về sự tham gia của phụ nữ, về năng lực sử dụng thiết bị, về triển khai

nhân rộng kết quả nghiên cứu khoa học, mô hình khuyến nông,... chưa đạt được như

dự kiến. Nguyên nhân chính của những hạn chế trên là (i) chậm tuyển tư vấn của dự

án; (ii) Ban QLDA tỉnh, viện và trường chưa quen với thủ tục giải ngân của ADB;

(iii) các gói thầu cung cấp dịch vụ khuyến nông mang tính thời vụ trong khi vốn đối

ứng được phân bổ thiếu hoặc chậm.[7]

107

b. Dự án cơ sở hạ tầng nông thôn

Dự án (ngành) cơ sở hạ tầng nông thôn (Rural infrastructure sector project),

được tài trợ bởi ADB qua khoản vay số 1564-VIE (SF) với tổng trị giá 105 triệu

USD. Dự án được thiết kế với những mục tiêu chính là: (i) Thúc đẩy tăng trưởng

kinh tế và xoá đói giảm nghèo khu vực nông thôn thông qua việc đầu tư xây dựng,

nâng cấp các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu; (ii) Cải thiện điều kiện tiếp cận giữa

khu vực nông thôn với khu vực dịch vụ và ngược lại, chuyển dịch sản xuất nông

nghiệp tự cung tự cấp sang sản xuất nông nghiệp hàng hoá; (iii) Tăng sản lượng

nông nghiệp, đa dạng hoá sản phẩm nông nghiệp phù hợp với chuyển dịch cơ cấu

kinh tế nông nghiệp nông thôn và thị trường; (iv) Giảm tỷ lệ bệnh tật, cải thiện điều

kiện vệ sinh, giảm lao động không sinh lợi ở hộ gia đình, góp phần giải quyết việc

làm một cách hữu ích cho khu vực dự án; (v) Thực hiện phân cấp, phân quyền ra

quyết định và trách nhiệm quản lý dự án cho các tỉnh, từ đó góp phần tăng cường

năng lực đội ngũ cán bộ thực hiện dự án ở tất cả các cấp; (vi) Khuyến khích sự tham

gia của người dân vùng hưởng lợi vào quá trình ra quyết định, từ xây dựng kế

hoạch, thực hiện dự án, cho tới quản lý vận hành và duy tu bảo dưỡng các công

trình hoàn thành.

Dự án được thực hiện trên địa bàn 23 tỉnh nghèo chủ yếu ở vùng DHMT,

Tây Nguyên và Miền núi phía Bắc, Dự án thực hiện trong 6 năm, từ 1998 đến 2004.

Kết quả chính việc thực hiện dự án là: (i) Dự án đã giải ngân được 96,68 triệu USD,

đạt 92,97%. (ii) Dự án hoàn thành 180 tiểu dự án góp phần cải thiện hệ thống giao

thông với tổng chiều dài 1.887 km trên địa bàn của 23 tỉnh nghèo trong cả nước;

phát triển 63 tiểu dự án thuỷ lợi đảm bảo nước tưới cho 60.314 ha; xây dựng 31 tiểu

dự án cấp nước sạch phục vụ cho 1,5 triệu người; xây dựng 15 chợ nông thôn.

[nguồn: Báo cáo kết thúc dự án Cơ sở hạ tầng Nông thôn, 2010].

c. Dự án trồng rừng trên đất cát ven biển Nam Trung bộ Việt Nam (PACSA)

Dự án PACSA do Chính phủ Nhật Bản thông qua JICA tài trợ không hoàn

lại cho Việt Nam, với tổng vốn là 11,2 triệu USD. Kết quả dự án đã sản xuất 10

108

triệu cây giống đủ tiêu chuẩn và chất lượng, trồng 3.167 ha rừng trên đất cát ven

biển hai tỉnh Quảng Nam và Phú Yên, đào tạo 3 cán bộ tại Nhật bản, sử dụng

khoảng 300.000 lao động tham gia trồng và chăm sóc rừng. Theo đánh giá của Tư

vấn JICA, PACSA đã rất hiệu quả trong việc phòng chống cát bay di động, cải thiện

các vùng đất nội đồng ven biển, tăng khả năng sản xuất của đất ven vùng dự án, bảo

vệ các công trình quốc gia (đường Quốc lộ 1A, đường sắt Bắc - Nam), các công

trình dân dụng ở địa phương, các nhà xưởng và khu công nghiệp. Dự án đã khẳng

định “Việc trồng rừng trên đất cát là có thể thực hiện được” [nguồn: Báo cáo kết

thúc dự án PACSA, 2013].

d. Dự án Đa dạng hoá nông nghiệp

Dự án Đa dạng hoá nông nghiệp (IDA-30990), được tài trợ bởi vốn vay từ

Ngân hàng Thế giới và Cơ quan phát triển Pháp với tổng vốn là 49,6 triệu SDR,

tương đương 66,8 triệu USD, có mục tiêu nhằm đa dạng hoá và thâm canh hoạt

động sản xuất nông nghiệp, thông qua đó tăng cường ổn định thu nhập cho nông

dân cũng như cơ hội việc làm tại khu vực nông thôn, chủ yếu thông qua thiết lập

khối cao su tiểu điền và thúc đẩy chăn nuôi cũng như trồng trọt ở các khu vực

nghèo thuộc vùng DHMT và Tây Nguyên.

Theo Báo cáo hoàn thành dự án của Ngân hàng Thế giới, dự án đã đạt được các

kết quả sau: (1) Trồng mới được 30.935 ha cao su tiểu điền; Phục hồi được 10.000 ha

trong tổng số 17.000 ha cao su tiểu điền cần phục hồi; đào tạo cho 35.962 nông dân

biết áp dụng kỹ thuật mới về vỗ béo bò và 41.828 nông dân biết áp dụng về kỹ thuật

nuôi lợn thâm canh. Nhờ vậy, đã góp phần giảm số người dân tộc bị thiếu đói một vài

tháng trong năm từ chiếm 50% (trước khi có dự án) xuống chỉ còn chiếm 27% (sau khi

có dự án). [nguồn: Báo cáo kết thúc dự án Đa dạng hóa Nông nghiệp, 2010]

e. Dự án “Khôi phục rừng và quản lý rừng bền vững ở các tỉnh Quảng Nam,

Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên (Dự án KfW6)

Dự án KfW6 do Ngân hàng Tái thiết Đức (KfW) tài trợ, Thời gian thực hiện

dự án: 10 năm, từ năm 2005 đến năm 2014 (bao gồm 7 năm thiết lập rừng và 3 năm

109

hậu dự án), tổng kinh phí dự án: 13,8 triệu EURO, trong đó: vốn viện trợ không

hoàn lại của Chính phủ Đức là 9,715 triệu EURO; vốn đối ứng của phía Việt Nam

là 4,1 triệu EURO.

Mục tiêu dự án là nâng cao mức sống của người dân chủ yếu dựa vào rừng

thông qua tạo việc làm, tăng thu nhập nhằm bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên,

điều hoà nguồn nước tại các vùng được phục hồi rừng và các khu vực lân cận, điều

hoà tiểu khí hậu vùng và tăng tính đa dạng sinh học và khôi phục và quản lý bền

vững khoảng 21.400 ha diện tích rừng ở những nơi bị đe doạ về sinh thái và quản lý

bền vững khoảng 3.500 ha rừng thứ sinh góp phần bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.

Tạo việc làm cho khoảng 15.000 hộ nông dân, đảm bảo thu nhập thường xuyên ổn

định cho người dân thông qua việc tạo ra sự đa dạng về sản phẩm rừng.

Địa điểm thực hiện trên địa bàn 45 xã của 12 huyện (thị) trên 4 tỉnh, gồm

huyện Hiệp Đức, Nông Sơn và Đại Lộc tỉnh Quảng Nam; huyện Tư Nghĩa, Nghĩa

Hành và Đức Phổ tỉnh Quảng Ngãi; huyện Tây Sơn, Hoài Ân và Hoài Nhơn tỉnh

Bình Định; huyện Tuy An, Đồng Xuân và thị xã Sông Cầu tỉnh Phú Yên.

Tình hình thực hiện: về giải ngân, kết quả ngân từ đầu dự án đến ngày

30/06/2013: 281.000 triệu đồng, trong đó cụ thể từng nguồn vốn như sau: Vốn viện

trợ: 208.000 triệu đồng, chiếm 98%; Vốn trong nước: 73.000 triệu đồng, chiếm

81%. Về tiến độ thực hiện: Dự án đã hoàn thành việc trồng rừng theo đúng tiến độ

vào năm 2012. Giai đoạn 2 năm hậu dự án, Dự án tập trung vào công tác chăm sóc

rừng đã thiết lập và chuẩn bị cho quyết toán dự án hoàn thành bàn giao thành quả

lại cho địa phương.

Về kết quả: Theo thiết kế dự án, diện tích thực hiện là 21.400 ha trên địa bàn

45 xã/12 huyện (thị) 4 tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên. Toàn dự

án đã quy hoạch sử dụng đất được 34.143,83 ha; điều tra lập địa được 27.992,16 ha;

trồng rừng được 22.855,32 ha; mở được 14.745 tài khoản tiền gửi cá nhân; đã cấp

được 12.374 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình tham gia thiết

lập rừng dự án; Đã lựa chọn đưa vào tham gia mô hình quản lý rừng cộng đồng

được 6 mô hình với tổng diện tích là 3.585,16 ha.

110

Đánh giá thực hiện: Dự án KFW6 đã đạt được những kết quả đáng khích lệ

trong 8 năm thực hiện dự án: (i), diện tích quy hoạch, diện tích trồng mới và khoanh

nuôi tái sinh lớn; (ii), người dân làm nghề rừng được tự chủ trong việc quyết định

phương thức kinh doanh rừng theo hướng kinh tế thị trường, đời sống hộ dân trong

vùng dự án ngày đang được nâng cao hơn, tỷ lệ hộ nghèo các thôn tham gia dự án

giảm; (iii), nhận thức của người dân đối với việc trồng, chăm sóc, quản lý và bảo vệ

rừng ngày càng tốt hơn; (iv), vấn đề bình đẳng giới đã được quan tâm và phát triển

tích cực hơn tại địa phương; (v), hiện tượng lũ lụt và xói mòn đất giảm mạnh.

Bên cạnh đó vẫn còn một số hạn chế: (i), diện tích tham gia Dự án thực hiện

chủ yếu ở vùng sâu, vùng xa, người dân gặp khó khăn trong việc tiếp cận với nền

kinh tế thị trường do trình độ nhận thức còn kém, dẫn đến lợi ích về kinh tế và

chính sách hưởng lợi từ rừng chưa cao; (ii), cán bộ hiện trường các huyện bị cắt

giảm đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của dự án đặc biệt trong công tác

nghiệm thu chăm sóc theo đúng quy định của nhà tài trợ; (iii), nguồn kinh phí của

Dự án chỉ mang tính chất hỗ trợ một phần kinh phí cho người dân, trong khi kinh

phí đối ứng của tỉnh bố trí chưa đầy đủ và kịp thời gây khó khăn trong công tác thực

hiện các hoạt động của dự án; (iv), chính sách giao đất, khoán rừng từ những năm

trước đây còn nhiều bất cập, không dựa trên quy hoạch tổng thể, giao tràn lan trong

điều kiện dân không có vốn đầu tư trồng rừng, khi thực hiện dự án còn gặp nhiều

khó khăn vì không còn quỹ đất để giao cho các hộ dân tham gia Dự án [nguồn: Báo

cáo tổng kết năm 2013 dự án KFW6, 2014]

3.3.3. Đánh giá chung thực trạng thu hút và sử dụng ODA vào Phát triển

nông nghiệp, nông thôn vùng Duyên hải Miền Trung

3.3.3.1. Những kết quả đạt được và các tác động tích cực

a. Những kết quả đạt được

Trong suốt thời kỳ 1993-2012, vùng DHMT đã thu hút được 884.122.506

USD vốn ODA ký kết (chiếm 15% tổng vốn ODA ký kết huy động được qua Bộ

Nông nghiệp và PTNT) và đã giải ngân được 486.267.379 USD (chiếm 55% vốn

111

ODA ký kết). Nguồn vốn ODA này chiếm khoảng 25-30% tổng vốn đầu tư từ ngân

sách nhà nước của Vùng, là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho đầu tư phát triển

Vùng. Đặc biệt, nguồn vốn ODA đã góp phần khơi dậy nguồn vốn trong nước và

thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Vùng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải

thiện đời sống nhân dân các tỉnh vùng DHMT.

Việc thu hút, vận động nguồn vốn ODA của các tỉnh trong Vùng đã góp

phần vào thực hiện chính sách đối ngoại của Việt Nam nói chung và của Vùng

DHMT nói riêng. Thông qua các hoạt động thu hút và tuân thủ các quy trình và thủ

tục ODA, Chính phủ và các nước tài trợ cũng như các tổ chức quốc tế hiểu và ủng

hộ chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam nói chung và của Vùng

DHMT nói riêng.

Nguồn vốn ODA đã hỗ trợ cho thực hiện thành công chiến lược xoá đói giảm

nghèo của Chính phủ tại vùng DHMT. Cùng với việc cải thiện cơ sở hạ tầng, nhiều

dự án ODA đã tạo điều kiện cho người dân trong Vùng có vốn và kiến thức để phát

triển sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập, đồng thời với việc khắc phục các hậu

quả thiên tai. Nhờ vậy, đã góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo trong Vùng, từ chiếm 47,2

% năm 1993, xuống còn 12,2% năm 2012 (xem bảng 3.9).

Bảng 3.9. Kết quả giảm nghèo thời kỳ 1993-2012 vùng Duyên hải Miền Trung

Đơn vị tính: %

Tỷ lệ hộ nghèo vùng DHMT Năm Tỷ lệ hộ nghèo cả nước

1993 58,1 47,2

1998 37,4 34,5

2002 28,9 25,2

2004 19,5 19

2006 16 12,6

2008 14,5 13,7

2012 9,6 12,2

Nguồn: [47], [48]

112

Nguồn vốn ODA đã góp phần quan trọng vào cải thiện hạ tầng cơ sở nông

thôn các tỉnh vùng DHMT, làm thay đổi diện mạo của vùng với các hệ thống thuỷ

lợi, giao thông nông thôn, hệ thống lưới điện nông thôn, trường học, trạm y tế được

cải thiện và nâng cấp (xem bảng 3.10).

Bảng 3.10. Kết quả phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn

vùng Duyên hải Miền Trung đến năm 2011

Đơn vị: %

Tỷ lệ xã có điện Tỷ lệ xã đạt chuẩn quốc gia về y tế xã Tỷ lệ thôn có điện Tỷ lệ xã có trường Trung học cơ sở Tỷ lệ xã có đường ô tô đến quanh năm

Tỷ lệ xã có đường ô tô đến trụ sở UBND 98,6 97,1 99,8 95,5 93,2 77,8 Cả nước

Vùng DHMT 99,2 98,1 99,6 98,1 89,4 74,0

Đà Nẵng 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0

90,6 98,1 96,6 95,3 84,5 55,4 Quảng Nam

99,4 100,0 96,5 99,4 94,6 40,4 Quảng Ngãi

99,2 100,0 99,8 99,2 90,7 89,2 Bình Định

100,0 100,0 100,0 100,0 90,1 55,0 Phú Yên

96,0 100,0 99,8 97,0 64,7 98,0 Khánh Hòa

100,0 100,0 100,0 100,0 93,6 44,7 Ninh Thuận

100,0 100,0 98,7 100,0 92,7 94,8 Bình Thuận

Nguồn: [43]

Nguồn vốn ODA đã góp phần đắc lực trong phòng chống thiên tai, dịch bệnh,

bảo vệ môi trường và phát triển bền vững nông nghiệp, nông thôn vùng DHMT. Đây là

vùng chịu ảnh hưởng về thiên tai, bão lũ nhiều nhất trong cả nước, do vậy các nhà tài

trợ như ADB, WB, JICA,... đã tài trợ nhiều dự án cho Vùng, chẳng hạn như dự án

Khắc phục khẩn cấp hậu quả thiên tai (vay vốn ADB, tổng vốn 110 triệu USD), Dự án

khắc phục khẩn cấp dịch cúm gia cầm ( do WB tài trợ), Dự án ”Phục hồi và quản lý

bền vững rừng phòng hộ” (vay vốn JICA, tổng vốn 140 triệu USD).

113

b. Các tác động/ hiệu quả của sử dụng nguồn vốn ODA

- Tác động/ hiệu quả xã hội: Thông qua cải thiện cơ sở hạ tầng nông thôn,

chuyển giao các công nghệ sản xuất, chế biến, bảo quản nông sản, giới thiệu các mô

hình sản xuất tiên tiến..., các dự án ODA đã tác động tích cực đến dân cư nông thôn

trong Vùng, giúp người dân tiếp cận tốt hơn với thị trường và tăng sản lượng cây

trồng, vật nuôi, tăng thu thập, cải thiện đời sống và chống lại tình trạng nghèo đói.

Các dự án ODA triển khai trong Vùng, thường thực hiện các ưu tiên về giới,

chú trọng ưu tiên sự tham gia và hưởng lợi của các nhóm thiệt thòi như người

nghèo, người dân tộc thiểu số, phụ nữ thể hiện ở tỷ lệ tham gia và hưởng lợi của các

đối tượng này. Theo đánh giá kết thúc tại một số dự án vốn vay, sự tham gia của các

nhóm đối tượng nêu trên đều cao hơn mục tiêu đã đề ra.

Thông qua việc khuyến khích sự tham gia của nhiều thành phần bằng việc

đấu thầu rộng rãi các hợp đồng khuyến nông, mô hình sản xuất nông nghiệp, mô

hình liên kết giữa Nhà nước, doanh nghiệp, người sản xuất..., các dự án ODA đã

góp phần nâng cao năng lực quản lý của một số tổ chức quần chúng như: Hội phụ

nữ, Hội Nông dân, Đoàn thanh niên ở nhiều địa phương vùng dự án.

Các Dự án về nông nghiệp và phát triển nông thôn đã triển khai hoạt động

nghiên cứu về kiến thức bản địa và chuỗi giá trị đối với các nông sản địa phương,

bước đầu giúp chính quyền và người dân tại các địa phương này có định hướng thị

trường trong sản xuất nông nghiệp, góp phần nâng cao giá trị nông sản, đa dạng hóa

nguồn thu cho người sản xuất.

Tuy nhiên, một số dự án về cơ sở hạ tầng nông thôn cũng có những ảnh

hưởng tiêu cực đến người dân và các địa phương. Chẳng hạn như việc thu hồi đất,

bao gồm cả đất của các hộ gia đình và đất của xã, được thực hiện ở một số địa

phương không theo đúng quy trình, một số trường hợp thiếu sự kết hợp giữa các cấp

có liên quan, nên đã xẩy ra khiếu kiện, bên cạnh đó, một số địa phương cũng chưa

thực hiện tốt công tác tái định cư cho người dân.

114

- Tác động/hiệu quả môi trường: Hầu hết các dự án trong lĩnh vực nông

nghiệp và phát triển nông thôn thực hiện các hoạt động tại Vùng Duyên hải Miền

Trung đều chấp hành tốt các tiêu chuẩn, thông số kỹ thuật, và các quy định về bảo

vệ môi trường. Theo Báo cáo hoàn thành Dự án khắc phục khẩn cấp hậu quả thiên

tai Việt Nam, tháng 11/2011 thì: “Tất cả các nghiên cứu đánh giá tác động của môi

trường của từng tiểu dự án cho thấy chỉ có những tác động tiêu cực nhỏ, tạm thời về

môi trường trong quá trình thực hiện như bụi, tiếng ồn và xói lở đất. Tuy nhiên thực

hiện theo thiết kế đề xuất, dự án dự kiến sẽ không để lại bất kỳ tác động đáng kể

nào gây ô nhiễm môi trường, mà còn cải thiện điều kiện sống của con người và môi

trường trong khu vực tiểu dự án”.

Tại Dự án Khoa học Công nghệ nông nghiệp, một số đề tài nghiên cứu về

đất, phân bón đã xác định được 7 loại cây và 14 chủng vi sinh vật có khả năng cả

tạo đất tốt và quy trình sản xuất phân vi sinh góp phần giúp người dân vùng dự án

có thêm lựa chọn phương thức canh tác để giảm thiểu được một phần hiện tượng

xói mòn, ô nhiễm môi trường đất cũng như nâng cao đồ phì đất. “Các thiết bị được

dự án đầu tư cho các Viện nghiên cứu và trường nghề đã góp phần giảm ô nhiễm

môi trường tới 42%. 65% các đề tài nghiên cứu và 50% các mô hình khuyến nông

trong dự án đã làm giảm ít nhất 10% lượng phân hóa học và thuốc bảo vệ thực vật

được sử dụng” [7].

Các dự án ODA, ngoài việc tuân thủ các quy định của Chính phủ Việt Nam

về môi trường còn phải tuân thủ các Chính sách Môi trường của Nhà tài trợ, do vậy

các tác động môi trường đến Vùng, được đánh giá là tích cực.

c. Tính bền vững của các dự án ODA trong Vùng

Tính bền vững liên quan trực tiếp đến các điều kiện thực tế, tài chính và quản

lý theo yêu cầu nhằm đảm bảo rằng dự án sẽ đem lại các lợi ích như dự kiến ban

đầu trong suốt chu kỳ của dự án theo như thiết kế.

Các dự án ODA trong Vùng đã có tác động lớn về mặt xã hội, thể hiện ở việc

có một số lượng lớn và đa dạng người được hưởng lợi trực tiếp và gián tiếp từ các

115

dự án này, bao gồm: các cán bộ nghiên cứu, giảng dạy, cán bộ quản lý, cán bộ

khuyến nông, nông dân, một số chủ doanh nghiệp nông nghiệp...Thông qua các hoạt

động dự án mối liên kết giữa các đối tượng này bước đầu đã hình thành, góp phần

thúc đẩy việc chuyển giao hiệu quả tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, từng bước nâng

cao thu thập cho người sản xuất, phát triển thị trường nông sản. Theo đó, kiến thức

sản xuất, thị trường và kỹ năng của người dân dần được cải thiện, họ đã trở nên tự

tin hơn trong việc đề xuất vay vốn để nhân rộng các mô hình sản xuất, góp phần

tăng tính bền vững cho các hoạt động dự án.

Nhiều nội dung nghiên cứu/mô hình trình diễn và thực nghiệm trên đồng

ruộng được xây dựng theo “Phương pháp có sự tham gia”, phù hợp với điều kiện tự

nhiên, kinh tế - xã hội của địa phương, được triển khai có sự tham gia trực tiếp của

người dân nên khả năng nhân rộng khá cao (cụ thể các ở các dự án Đa dạng hóa

nông nghiệp, dự án Khoa học công nghệ nông nghiệp...).

Tại vùng DHMT, các dự án ODA về nông nghiệp cùng với việc nâng cao kỹ

năng cho cán bộ khuyến nông, đã hỗ trợ trang thiết bị cho một số trạm khuyến nông

huyện, góp phần đảm bảo phát huy hiệu quả hoạt động của các cán bộ khuyến nông cũng

như tính bền vững của hoạt động nâng cao năng lực cho cán bộ khuyến nông các cấp.

Nội dung của các mô hình khuyến nông được xây dựng trong các kế hoạch

khuyến nông cấp tỉnh/huyện và xã theo phương thức có sự tham gia, dựa trên nhu

cầu của người dân nên tỏ ra khá phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội cụ

thể, bước đầu gắn với nhu cầu thị trường nông sản địa phương, có khả năng tăng thu

nhập khá cho người sản xuất vì vậy có thể tiếp tục được người dân nhân rộng sau

khi dự án kết thúc.

Các cán bộ quản lý dự án tại các tỉnh trong Vùng đã được tham gia các lớp tập

huấn cũng như được nâng cao kỹ năng quản lý thông qua việc chia sẻ kinh nghiệm với

Nhà tài trợ, với các tư vấn hỗ trợ thực hiện dự án. Đây là điều kiện để các cán bộ Ban

quản lý tự án cấp tỉnh/huyện/xã nâng cao trình độ của mình và hoàn thành tốt nhiệm vụ

được giao và tạo năng lực để quản lý các hoạt động dự án tương tự khác.

116

Tuy nhiên, tính bền vững của các dự án ODA trong Vùng hiện chưa được

các nhà tài trợ đánh giá cao, đặc biệt là ở các dự án hạ tầng. Trong quy trình lập kế

hoạch đầu tư tại Việt Nam nói chung và ở vùng DHMT nói riêng đã quan tâm rất ít

đến duy tu bảo dưỡng công trình sau khi dự án kết thúc. Do vậy, các công trình mau

chóng bị hỏng hóc và không khai thác được hết thành quả của nguồn vốn ODA.

Vùng Duyên hải Miền Trung

3.3.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân trong thu hút và sử dụng ODA tại

Mặc dù đã đạt được nhiều kết quả quan trọng và có tác động tích cực đến sự

phát triển kinh tế, xã hội và môi trường nhưng công tác thu hút và sử dụng ODA

vào phát triển nông nghiệp và nông thôn vùng DHMT cũng còn một số tồn tại, hạn

chế sau:

Thứ nhất, công tác xây dựng dự án để thu hút nguồn vốn ODA còn nhiều hạn

chế. Việc xác định các ý tưởng thiết kế dự án ODA vẫn chưa bám sát vào nhu cầu

thực tiễn của địa phương và các chủ trương vận động ODA của Chính phủ, còn dàn

trải, thiếu một định hướng tổng thể, dài hạn và liên kết giữa các ngành, các địa

phương trong Vùng.

Một trong những nguyên nhân của tồn tại trên, trước hết là do chưa nhận

thức đúng đắn và đầy đủ về bản chất của ODA. Tại các địa phương trong Vùng,

chính quyền các cấp và đặc biệt là người dân chưa nhận thức đầy đủ về vốn ODA,

coi đó là “món quà tặng” nên dẫn đến chủ quan, dễ dãi trong lựa chọn, quyết định

dự án đầu tư và sử dụng nguồn tài trợ. Một phần lý do của hiện tượng này là do đa

số các dự án thực hiện trong Vùng được tài trợ từ nguồn viện trợ không hoàn lại

hoặc từ nguồn vốn vay ưu đãi mà Chính phủ Trung ương đứng ra vay và trả, có thời

gian vay dài, thời gian ân hạn dài, lãi suất thấp và các tỉnh trong Vùng không phải

chịu áp lực trả nợ vốn vay sau khi đến hạn... Kết quả khảo sát người hưởng lợi tại

vùng DHMT về nhận định “Nguồn vốn ODA là nguồn vốn cho không của Nhà tài

trợ?” cho thấy trong 21 người trả lời thì có 13 người (chiếm 62%) hoàn toàn đồng ý

với nhận định trên và chỉ có 6/21 người là không đồng ý (xem Biểu đồ 3.16).

117

14

12

10

13

8

6

4

4

2

2

2

0

0

Không đồng ý

Đồng ý

Tạm chấp nhận

Hoàn toàn không đồng ý

Hoàn toàn đồng ý

Đơn vị tính: người

Biểu đồ 3.16. Nhận thức của người hưởng lợi về ODA tại vùng DHMT

Nguồn: Khảo sát của tác giả năm 2013.

Nguyên nhân quan trọng khác nữa là do thiếu định hướng cụ thể về thu hút

và sử dụng ODA. Trong suốt giai đoạn 1993-2005, Vùng chưa có đề án thu hút, vận

động nguồn vốn ODA, do vậy mà nguồn vốn ODA vào Vùng chưa đáp ứng nhu cầu

vốn cho đầu tư phát triển và còn phụ thuộc nhiều vào định hướng của các nhà tài

trợ. Các dự án ODA có xu hướng dàn trải, còn coi trọng mặt số lượng, địa bản rộng

nên chưa phù hợp với năng lực quản lý. Gần đây, với đề án thu hút ODA cho giai

đoạn 2006-2015, vốn ODA đã được thu hút vào Vùng một cách chủ động hơn, song

do bối cảnh kinh tế thay đổi, Vùng cần có sự thay đổi, điều chỉnh chiến lược thu hút

và sử dụng ODA cho phủ hợp với Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của Vùng

đến năm 2020 đã được phê duyệt năm 2012.

Thứ hai, Tổ chức quản lý thực hiện dự án còn thiếu chuyên nghiệp: Điều

này thể hiện trước hết ở cơ cấu tổ chức và phân cấp quản lý và sử dụng vốn ODA

chưa đáp ứng được những yêu cầu của quá trình đổi mới quản lý nguồn lực công, và

hợp tác kinh tế quốc tế. Phân cấp chưa gắn liền với theo dõi, giám sát và hỗ trợ từ

cấp trên và chưa gắn với tăng cường năng lực cho cấp dưới nên dẫn đến nhiều dự án

chậm được triển khai hoặc chất lượng công trình đầu tư thấp. Ngoài ra, trong quá

trình thực hiện dự án, các dự án đã không có kế hoạch triển khai thực hiện dự án

118

một cách hợp lý. Nhiều dự án đã tập trung vào công tác đền bù giải toả ở giai đoạn

đầu của dự án khiến cho nhu cầu vốn đối ứng cho đền bù giải phóng mặc bằng tăng

cao khó đáp ứng, mặc dù công tác này có thể tiến hành trong suốt quá trình thực

hiện dự án, phù hợp với tiến độ triển khai công tác xây dựng cơ bản.

Nguyên nhân của tình trạng trên, ngoài do khâu tổ chức quản lý và phân cấp

trách nhiệm chưa rõ còn do năng lực quản lý dự án đặc biệt là tại các địa phương

trong Vùng còn yếu và thiếu tính chuyên nghiệp. Cán bộ dự án ít được đào tạo nâng

cao năng lực; một bộ phận cán bộ dự án lại chỉ làm kiêm nhiệm; chưa xây dựng

được đội ngũ cán bộ dự án trong Vùng chuyên nghiệp và chưa có cơ chế khuyến

khích các cán bộ có năng lực tham gia xây dựng và thực hiện dự án.

Ở một số tỉnh trong Vùng thường thành lập một Ban quản lý dự án mới sau khi

dự án được phê duyệt, đã tuyển dụng các nhân sự mới, không kế thừa và tiếp nối các

dự án đi trước nên dẫn đến cán bộ không đáp ứng yêu cầu, trình độ ngoại ngữ kém,

kinh nghiệm quản lý dự án còn ít nên khả năng đàm phán, ký kết hợp đồng, kỹ năng

nhận thức, phối hợp làm việc với đối tác nước ngoài và các cơ quan liên quan chưa đạt

hiệu quả cao. Nhiều trường hợp cử vào Ban quản lý dự án tỉnh những cán bộ dôi dư

trong biên chế, những người sắp về hưu, hoặc những người được hưởng ưu đãi trong

các cơ quan nhà nước mà đa số không thích hợp với công việc dự án.

Thứ ba, giải ngân vốn ODA nhìn chung chậm, làm giảm hiệu quả sử dụng

nguồn vốn ODA. Thực tế triển khai các dự án ODA tại Vùng cho thấy một trong những

nguyên nhân chính dẫn đến một việc giải ngân chậm, kéo dài thời gian thực hiện dự án

là do thiếu vốn đối ứng. Với mỗi dự án ODA, nhà tài trợ đều yêu cầu Chính phủ Việt

Nam phải cung cấp một khoản vốn đảm bảo theo một tỷ lệ nào đó nhằm tăng cường

trách nhiệm của Chính phủ trong việc lựa chọn dự án ưu tiên. Việc cấp vốn đối ứng

gặp vướng mắc do các địa phương trong vùng lấy vốn đối ứng từ nguồn ngân sách nhà

nước địa phương, chủ yếu từ danh mục chi cho đầu tư phát triển. Khoản chi này lại phụ

thuộc nhiều vào khoản thu ngân sách nhà nước trong năm. Vì vậy, khi có sự cố hay bất

trắc trong nguồn thu thì vốn đối ứng không đủ cung cấp theo kế hoạch đặt ra. Về

nguyên tắc, vốn đối ứng của chương trình, dự án thuộc cấp nào thì cấp đó xử lý trong

119

ngân sách của mình. Trường hợp một số địa phương vốn đối ứng phát sinh quá lớn,

vượt quá khả năng cân đối thì phải trình thủ tướng Chính phủ để xin hỗ trợ một phần.

Vấn đề tồn tại hiện nay trong việc bố trí vốn đối ứng là một mặt Chính phủ

cam kết với các nhà tài trợ cân đối đầy đủ vốn đối ứng cho các dự án ODA, mặt

khác nguồn ngân sách nhà nước dành cho các dự án ODA còn hạn chế, trong rất

nhiều trường hợp, vốn đối ứng không được sử dụng đúng như kế hoạch đề ra, được

xây dựng dựa trên sự đăng ký của các Bộ, địa phương. Nói cách khác, kế hoạch vốn

đối ứng không được xây dựng sát với thực tế. Hơn nữa, nhu cầu vốn đối ứng thường

sẽ rất cao ở giai đoạn đầu của dự án do phải đền bù giải phóng mặt bằng. Đặc biệt

trong các dự án có nguồn vốn từ Nhật Bản, WB, ADB, các nhà tài trợ yêu cầu chủ dự

án phải hoàn thành công tác đền bù giải phóng mặt bằng trước khi cho phép rút vốn

cho công tác xây dựng cơ bản, điều này làm cho việc chủ động bố trí đủ vốn đối ứng

càng trở nên quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA.

Theo ý kiến đánh giá của 6 Ngân hàng lớn (WB, ADB, KFW, JICA, ...) các

nguyên nhân chính cho việc sử dụng vốn ODA chưa được tối ưu là: thiếu vốn đối

ứng, thiếu sự rõ ràng về cơ chế tài chính, chậm trễ do kiểm soát chi (xem Hình 3.3).

1. Thiết kế dự án chưa phù hợp với thực tế triển khai

2. Thiếu vốn đối ứng

Chậm giải ngân trong thực hiện dự án

3. Chậm trễ trong sửa đổi Hiệp định tài trợ

Sử dụng vốn vay ODA/vay ưu đãi chưa hiệu qủa

4. Chậm trễ do kiểm

Kéo dài thời gian thực hiện dự án

soát chi

5. Khác: …

Hình 3.3. Đánh giá nguyên nhân sử dụng vốn ODA chưa hiệu quả của Nhà tài trợ

120

Kết quả khảo sát của tác giả về nguyên nhân châm giải ngân cho thấy có bốn

nguyên nhân chính dẫn đến giải ngân chậm là: văn kiện dự án không rõ ràng và

thiếu cơ sở thực tiễn; Năng lực tiếp nhận và thực hiện dự án của các cơ quan quản

lý nhà nước các cấp và đối tượng hưởng thụ còn hạn chế; Bố trí vốn đối ứng chậm;

và Quy hoạch phát triển các ngành, quy hoạch đất,.. chậm được phê duyệt (xem

bảng 3.11).

Bảng 3.11. Kết quả khảo sát nguyên nhân chậm giải ngân

của các dự án phát triển nông nghiệp và nông thôn tại vùng DHMT

Đơn vị tính: %

TT Các nội dung khảo sát Không đồng ý Tạm chấp nhận được Đồng ý Hoàn toàn đồng ý

Hoàn toàn không đồng ý 0 18 37 45 0 1. Nội dung văn kiện

không rõ ràng và thiếu

cơ sở thực tế

10 23 43 16 8 2. Năng lực tiếp nhận và

thực hiện dự án của các

cơ quan quản lý nhà

nước các cấp và đối

tượng hưởng thụ còn

hạn chế

0 3. Bố trí vốn đối ứng chậm 0 9 48 43

0 0 14 76 10 4. Quy hoạch phát triển

các ngành, quy hoạch

đất,.. chậm được phê

duyệt

Nguồn: Khảo sát của Tác giả, 2013.

121

3.4. Các vấn đề cần giải quyết trong thu hút và sử dụng ODA phát triển

nông nghiệp và nông thôn Việt Nam và vùng Duyên hải Miền

Trung đến năm 2020

Trên cơ sở các thành quả và hạn chế trong quản lý, thu hút và sử dụng ODA

cho phát triển nông nghiệp và nông thôn nói chung và vùng Duyên hải Miền Trung

trong 20 năm qua, trong thời gian tới cần phải giải quyết các vấn đề sau:

Thứ nhất, công tác quy hoạch thu hút và sử dụng ODA vào nông nghiệp và

PTNT cả nước và vùng DHMT chưa phát huy được vai trò định hướng các nhà tài

trợ và các cơ quan thụ hưởng của nước ta vào các lĩnh vực và địa phương đích thực

ưu tiên sử dụng nguồn lực.

Các chương trình, dự án trong những năm tới cần định hướng rõ hơn để có

thể hấp dẫn tài trợ ngoài chủ đề xóa đói giảm nghèo (vì nội dung này sẽ không còn

nhận được nhiều sự quan tâm như trước đây). Biến đổi khí hậu và các giải pháp

giảm thiểu, thích ứng của cả nền kinh tế và trong ngành nông nghiệp đang là vấn đề

được quan tâm và thu hút nhiều sự chú ý. Ngoài ra các vấn đề khác cần được nhắc

đến như quản lý thiên tai dịch bệnh, vấn đề an toàn lương thực, thực phẩm biến đổi

gen và gần đây là tập trung vào nông thôn mới. Vấn đề đặt ra là, khi phải vay với

nguồn vốn kém ưu đãi, thì nguồn vốn vay nên đầu tư vào lĩnh vực nào của ngành

nông nghiệp? Mức độ, phương thức huy động nên như thế nào để có thể huy động

tối đa về lượng và sử dụng hiệu quả nguồn vốn này.

Thứ hai, ngành Nông nghiệp gồm các tiểu ngành (Nông nghiệp, Lâm nghiệp,

Thuỷ lợi, Phát triển nông thôn, Thuỷ sản), trong những năm vừa qua các tiểu ngành

vừa có sự khác nhau về tỷ lệ nguồn vốn đầu tư (ngân sách, ODA, xây dựng cơ bản,

sự nghiệp kinh tế, vốn vay và không hoàn lại), có sự khác nhau về hiệu quả đầu tư.

Chẳng hạn, theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới cho thấy: đầu tư vào nghiên

cứu nông nghiệp cho hiệu quả cao nhất, cứ chi 1 đồng thì có thể sản xuất ra 12,22

đồng trong tổng giá trị nông nghiệp, đường xá đứng thứ hai: 3,01 đồng, giáo dục:

2,06 đồng, trong khi đó thuỷ lợi chỉ đạt 1 đồng. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của

122

Baker et.al (2002) cho thấy “ đầu tư vào thuỷ lợi là nguồn quan trọng nhất của tăng

trưởng nông nghiệp (chiếm 28% của tăng trưởng), nghiên cứu nông nghiệp: 27% ,

đường xá 11%, giáo dục 8%” [75]. Vấn đề đặt ra là cần phân bổ nguồn vốn ODA

cho từng tiểu ngành sao cho hợp lý, trong đó cần cân đối, hài hòa với nguồn đầu tư

trong nước của Trung ương và địa phương.

Thứ ba, ngoại trừ một số dự án của tiểu ngành thuỷ lợi là đầu tư tập trung

vào xây dựng công trình, còn hầu hết các chương trình, dự án được trải rộng trên

địa bàn của nhiều tỉnh, trung bình 10 tỉnh, có dự án 23 tỉnh (ngành cơ sở hạ tầng

nông thôn); có dự án hoạt động trên địa bàn của 40 tỉnh (hợp phần khuyến nông

trong chương trình phát triển ngành nông nghiệp), dẫn đến tình trạng đầu tư không

tập trung, không tạo được vùng hàng hoá hoặc không tạo được tác động mang tính

đột phá cho sự phát triển của nguồn đầu tư. Mặt khác, sự kết nối các chương trình,

dự án giữa các tiểu ngành cũng như sự kết nối giữa các nhà tài trợ với nhau chưa

chặt chẽ thậm chí đôi khi có sự trùng lăp, chồng chéo. Vấn đề đặt ra là lựa chọn địa

bàn thực hiện dự án sao cho phù hợp với năng lực quản lý, chủ trương phân cấp và

đảm bảo đầu tư tập trung và có sự gắn kết, tác động hiệp lực giữa các tiểu ngành,

tạo động lực thúc đẩy sự phát triển toàn khu vực và lan tỏa sang vùng khác.

Thứ tư, các văn bản quy phạm pháp luật và các quy định về quản lý và sử

dụng ODA của Việt Nam còn chưa đồng bộ, còn có sự khác biệt với các nhà tài trợ

nước ngoài. Hơn nữa, một khi phải huy động, sử dụng nguồn vốn vay kém ưu đãi

hơn thì các quy định, nhất là tiêu chí chọn lựa đầu tư cũng phải thay đổi theo cho

phù hợp. Vấn đề đặt ra là việc hoàn thiện các thể chế và tổ chức bộ máy quản lý để

sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA vay ưu đãi cũng như kém ưu đãi hơn.

Thứ năm, trong thời gian tới, để vay nguồn vốn kém ưu đãi hơn, Chính phủ

sẽ phải đề ra các tiêu chí đánh giá, bình chọn và phê duyệt danh mục đầu tư ngặt

nghèo hơn. Các chương trình, dự án của ngành nông nghiệp có tỷ lệ sinh lời thấp

hơn các ngành khác và thường nhiều rủi ro. Vấn đề đặt ra là những lĩnh vực nào,

vùng nào và đối tượng doanh nghiệp nào trong Ngành sẽ hội đủ điều kiện để tiếp

123

nhận dự án? Mối quan hệ giữa các cơ quan quản lý Nhà nước và các doanh nghiệp

trong Ngành ra sao để các doanh nghiệp có thể tiếp cận nguồn vốn?

Thứ sáu, một số vấn đề khác như những vướng mắc về hài hòa hóa thủ tục

và các quy trình và thủ tục thực hiện còn phức tạp, rườm ra, cụ thể: (i) quá trình

hình thành, thẩm định, phê duyệt dự án, (ii) đấu thầu mua sắm; (iii) đền bù giải

phóng mặt bằng, vốn đối ứng; (iv) quá trình giải ngân chậm, nhất là trong 1-2 năm

đầu; (v) kiểm tra, giám sát; (vi) thanh quyết toán các dự án hoàn thành; (vii) năng

lực cán bộ quản lý và thực hiện dự án... Các vấn đề luôn nẩy sinh và cần có cơ chế,

giải pháp như thế nào để theo dõi, đánh giá, phát hiện kịp thời các bất cập và giải

quyết nhanh những vướng mắc phát sinh trong quá trình triển khai thực hiện dự án?

Thứ bảy, khó khăn về vốn đối ứng, dù đã có quy định ưu tiên tuyệt đối về

vốn đối ứng cho các chương trình, dự án ODA và đã có lệnh nghiêm cấm sử dụng

vốn đối ứng cho các mục đích khác nhưng trên thực tế, vốn đối ứng vẫn là một

trong những trở ngại đối với nhiều Ban quản lý dự án, đặc biệt là ở các ban quản lý

dự án tỉnh.

Tóm lại, ODA là nguồn vốn phù hợp và quan trọng để công nghiệp hóa, hiện

đại hóa nông nghiệp và nông thôn Việt Nam nói chung và Vùng DHMT nói riêng.

Kêt quả thu hút, giải ngân ODA theo lĩnh vực, nhà tài trợ, theo vùng... trong giai

đoạn 1993-2012 cho ngành nông nghiệp, nông thôn Việt Nam và vùng Duyên hải

Miền Trung, cùng với các tồn tại và nguyên nhân của thu hút và sử dụng nguồn vốn

này, sẽ là cơ sở quan trọng cho việc nghiên cứu đề xuất các giải pháp thu hút và sử

dụng hiệu quả nguồn vốn này.

124

CHƯƠNG 4 ĐỊNH HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU THU HÚT VÀ SỬ DỤNG ODA VÀO PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP VÀ NÔNG THÔN VIỆT NAM VÀ VÙNG DUYÊNHẢI MIỀN TRUNG ĐẾN NĂM 2020

4.1. Định hướng phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam nói chung

và vùng Duyên hải Miền Trung nói riêng đến năm 2020 và nhu cầu

nguồn vốn ODA

4.1.1. Khái quát bối cảnh phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam đến

năm 2020

4.1.1.1. Bối cảnh quốc tế

Khủng khoảng kinh tế khu vực và thế giới tác động mạnh mẽ vào nông

nghiệp, nông thôn: Trong giai đoạn đổi mới đến nayViệt Nam đã chịu ảnh hưởng

của 3 cuộc khủng hoảng và suy thoái kinh tế khu vực và thế giới. Cuộc khủng

hoảng hiện nay chưa được phục hồi hoàn toàn. Trong những năm tới có thể lại có

những cuộc khủng hoảng xảy ra. Tác động của khủng hoảng có thể làm giảm cầu

nông sản trên thế giới, gia tăng chính sách bảo hộ của các nước, tăng hàng rào kỹ

thuật đối với nhập khẩu nông sản, tăng giá vật tư đầu vào cho sản xuất nông nghiệp,

cũng có thể gây đột biến về giá lương thực,... Các các lần khủng hoảng kinh tế trước

đây nông nghiêp Việt Nam đã phải gánh vác vai trò quan trọng để hỗ trợ cho nền

kinh tế vượt qua khó khăn. Nhưng lần khủng hoảng gần đây nhất nông nghiệp và

nông thôn đang phải chịu nhiều tác động tiêu cực. Chính vì vậy cần phải xây dựng

một hệ thống giải pháp thiết thực để khắc phục những tác động tiêu cực của khủng

hoảng. Đặc biệt là phải có các biện pháp chủ động đối phó với những đến nông

nghiệp và kinh tế nông thôn. .

Chịu sự cạnh tranh gay gắt hơn về thu hút nguồn vốn ODA vào nông nghiệp

và nông thôn: Khủng hoảng kinh tế làm cho nhiều nước phát triển cũng không tránh

125

khỏi khó khăn về cân đối tài chính, do đó mà đã thực hiện cắt giảm chi tiêu công,

cắt giảm hỗ trợ quốc tế. Trong khi đó, ở các nước đang phát triển và kém phát triển

ở Châu Á, đặc biệt Châu Phi, nhiệm vụ phát triển kinh tế, nâng cao mức sống nhân

dân chuyển đổi cơ cấu bữa ăn và cơ cấu tiêu dùng thay đổi theo hướng tăng sản

phẩm chăn nuôi, thủy sản, rau quả,… Nhu cầu về nông sản làm nguyên liệu công

nghiệp chế biến cũng tăng nhanh. Các xu hướng sử dụng sản phẩm thân thiện với

môi trường, an toàn và có lợi cho sức khỏe con người đang càng phát triển. Nhu cầu

thay đổi dẫn đến kết cấu sản xuất phải thay đổi, theo đó toàn bộ chuỗi giá trị cũng

phải thay đổi để đáp ứng theo hướng đa dạng, chất lượng, vệ sinh an toàn và bền

vững. Đây là sức ép đẩy nhanh quá trình biến chuyển từ sản xuất tiểu nông sang sản

xuất nông nghiệp hàng hóa lớn, kết nối với thị trường quốc tế. Nhiều nước đang và

kém phát triển, trong đó có Việt Nam đang trong quá trình vận động thay đổi này.

Để làm được việc đó, đòi hỏi vốn hỗ trợ đầu tư cho phát triển là rất lớn. Trong bối

cảnh như vậy, thì từ năm 2010 nước ta đã trở thành một nước có mức thu nhập

trung bình, nên mức độ ưu tiên và tính chất ưu đãi của vốn ODA sẽ được cân nhắc

kỹ càng hơn. Nếu chúng ta không cải thiện thực trạng quản lý, nâng cao hiệu quả sử

dụng ODA thì chúng ta sẽ phải cạnh tranh gay gắt hơn với các nước trong cuộc

chạy đua để được cung cấp ODA.

Hội nhập quốc tế mạnh tạo điều kiện giao thương nông sản nhưng cũng làm

tăng bất ổn của thị trường: Cùng với việc gia nhập WTO và các hiệp định thương

mại khác, Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng, trở thành nhà xuất khẩu

nông sản lớn trên thế giới. Tuy nhiên trong điều kiện hội nhập sâu, biến động và

cạnh tranh không công bằng trên thị trường thế giới, dịch bệnh diễn biến phức tạp,

công với những diễn biến khí hậu và thờ tiết bất lợi, có thể gây bất ổn tới sản xuất

trong nước. Trong hoàn cảnh tài nguyên cạn kiệt và giá lao động tăng, nếu không kịp

thời tái cơ cấu nông nghiệp thì nông nghiệp Việt Nam sẽ giảm khả năng cạnh tranh,

giảm tăng trưởng, hiệu quả đầu tư vào nông nghiệp nông thôn sẽ giảm sút, nhiều hộ

nông dân có thể tái nghèo trở lại. Những tác động tiêu cực này sẽ làm giảm sức hấp

dẫn của các nhà đầu tư nói chung cũng như các nhà tài trợ ODA nói riêng.

126

Nhu cầu tái cơ cấu kinh tế ở các nước, kể cả trong nông nghiệp: Trên thế

giới, nhu cầu tái cơ cấu kinh tế trở nên cấp bách do quá trình công nghiệp hóa, tăng

trưởng và già hóa dân số. Mô hình phát triển hiện nay không chỉ tập trung công

nghiệp hóa, đô thị hóa, tăng trưởng nông nghiệp không chỉ dựa trên bóc lột tài

nguyên và lao động rẻ mà còn phải đảm bảo các mục tiêu mới như giảm đói nghèo,

công bằng và bền vững. Thế giới xuất hiện những thay đổi lớn về đầu tư và thương

mại như liên kết chuỗi giá trị toàn cầu, khu vực mậu dịch tự do, các quy định về bảo

vệ môi trường,…Trong khi đó, tài nguyên cho sản xuất nông nghiệp đang suy cạn,

nông nghiệp trở nên kém cạnh tranh và tình hình đói nghèo vẫn căng thẳng ở một số

vùng như Châu Phi, Nam Á. Đây là cơ hội và thách thức mới cho các nước có lợi

thế sản xuất nông nghiệp như Việt Nam.

Một số vấn đề khác như Gia tăng tranh chấp tài nguyên phát triển nông

nghiệp, yêu cầu giảm phát thải khí nhà kính, bảo vệ môi trường, … cũng đặt ra

những thách thức mới: Nhu cầu phát triển nông nghiệp và kinh tế trong điều kiện

tài nguyên hạn chế sẽ dẫn tới tình trạng các nước tìm cách tận dụng nguồn tài

nguyên chung. Tranh chấp tài nguyên cả lưu vực sông, đất đai và trên biển diễn ra

trên quy mô quốc tế làm tổn hại hệ sinh thái tự nhiên, suy giảm đa dạng, mất cân

bằng sinh học và gây mất ổn định quốc phòng, ảnh hưởng đến sinh kế của người

dân. Một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến biến đổi khí hậu đó là thế giới

đã phát thải khí nhà kính quá lớn vào bầu khí quyển. Vì vậy nhiệm vụ đặt ra cho các

nước trên thế giới là phải giảm lượng khí phát thải này. Việt Nam chưa phải là nước

phát thải khí nhà kính ở mức báo động và cũng chưa nằm trong danh sách các nước

bắt buộc cắt giảm khí nhà kính. Tuy nhiên phát thải khí nhà kính từ nông nghiệp

của Việt Nam lại chiếm tỷ trọng cao trong tổng lượng khí phát thải nhà kính của cả

nền kinh tế. Vì vậy, Chính phủ và ngành nông nghiệp Việt Nam đã tình nguyện

tham gia cắt giảm khí nhà kính từ hoạt động nông nghiệp. Để làm được việc đó,

chúng ta phải áp dụng KHCN tiến bộ, tìm ra các mô hình sản xuất nông nghiệp

thông minh vừa thích ứng với biến đổi khí hậu vừa giảm thiểu phát thải khí nhà

127

kính. Những vấn đề này đặt ra những thách thức trong nghiên cứu triển khai trong

nông nghiệp và cần sự hỗ trợ rất lớn cả về tài chính và công nghệ.

Khoa học công nghệ phát triển, trọng tâm là sinh học và thông tin: Trong thế

kỉ 21, công nghệ sinh học mà tiên phong là công nghệ gen góp phần quan trọng để

giải quyết những vấn đề mới đặt ra trong nông nghiệp. Công nghệ thông tin phát triển

mạnh làm giảm đáng kể chi phí giao dịch trong sản xuất và kinh doanh và nâng cao

hiệu quả sản xuất. Các công nghệ khác về vật liệu, năng lượng, quản lý… góp phần

nâng cao và thay đổi bộ mặt của tổ chức sản xuất nông nghiệp. Lợi thế so sánh có thể

được thay thế một cách căn bản bằng lợi thế cạnh tranh nhờ áp dụng khoa học công

4.1.1.2. Bối cảnh trong nước

nghệ. Đây là yếu tố hết sức cho một nước đông dân, đất đai hạn hẹp như Việt Nam.

Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa sẽ được đẩy nhanh, tạo thêm nhiều

việc làm và thu nhập cho nhân dân, nhưng cũng dẫn đến tranh chấp tài nguyên đất,

nước, vốn…với nông nghiệp, nông thôn. Tỷ trọng đóng góp của nông nghiệp trong

nền kinh tế sẽ giảm, cư dân nông thôn sẽ ít đi, lao động nông thôn sẽ chuyển nhanh

sang các hoạt động phi nông nghiệp. Kết cấu xã hội nông thôn sẽ có sự thay đổi

đáng kể, các giá trị văn hóa tinh thần cổ truyền đứng trước thách thức mai một,

nguy cơ ô nhiễm môi trường nông thôn tăng.

Quá trình hội nhập với nền kinh tế toàn cầu trong những năm tới sẽ toàn diện

hơn, sâu rộng hơn, tạo điều kiện mở rộng thị trường, hợp tác quốc tế, thu hút đầu tư

và công nghệ. Đồng thời mức độ cạnh tranh trên thị trường quốc tế và trong nước

cũng sẽ ngày càng sâu rộng hơn, trong bối cảnh tình trạng bất bình đẳng trong thương

thương mại quốc tế vẫn tồn tại dai dẳng và bất lợi cho các nước đang phát triển.

Biến đổi khí hậu toàn cầu dẫn đến sự gia tăng mức độ nghiêm trọng của các

biến động thiên tai, thời tiết trong những năm tới. Thậm chí đối với Việt Nam có thể

sẽ gây ra những tác động xấu trên quy mô lớn, trước hết đối với những vùng sản

xuất nông nghiệp và địa bàn nông thôn rộng lớn như Đồng bằng sông Cửu Long.

128

Tình trạng dịch bệnh của cây trồng và vật nuôi, của con người có xu hướng tiếp tục

diễn biến phức tạp hơn.

Chủ trương tái cơ cấu kinh tế quốc gia hỗ trợ phát triển nông nghiệp nông

thôn: Chiến lựợc phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 và Kế hoạch phát triển kinh

tế - xã hội 5 năm 2011-2015 hướng vào ưu tiên đầu tư và cải cách thể chế, chính

sách cho sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn. Đề án tổng thể tái cơ cấu

kinh tế giai đoạn 2013 - 2020 cũng nhấn mạnh ưu tiên cho phát triển nông nghiệp,

công nghiệp chế biến nông sản và các ngành phục vụ cho sản xuất nông nghiệp

trong cả nước và từng vùng. Các chủ trương và chính sách sách này sẽ thúc đẩy nền

nông nghiệp có năng suất, chất lượng, có sức cạnh tranh cao, kế thừa và phát huy

những thành tưu những năm qua, đồng thời khắc phục những bất lợi trong bối cảnh

mới đã nêu ở trên. Đồng thời, các chiến lược và đề án này sẽ là những căn cứ rõ

ràng để xây dựng chương trình đề án thu hút và sử dụng vốn ODA cho nông nghiệp,

nông thôn cả nước vùng DHMT.

4.1.2. Mục tiêu và định hướng phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam

đến năm 2020

4.1.2.1. Mục tiêu phát triển

Mục tiêu tổng quát phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam đến năm

2020 là: Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền

vững, sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh

tranh cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài.

Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế

và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh

công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc

văn hoá dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống

chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường. Không ngừng

nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, hài hoà giữa các vùng,

tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các vùng còn nhiều khó khăn; nông dân được đào

129

tạo có trình độ sản xuất ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản

lĩnh chính trị, đóng vai trò làm chủ nông thôn mới.

Các mục tiêu cụ thể phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam đến năm

2020 [34] là:

- Đảm bảo duy trì tốc độ tăng trưởng nông nghiệp ở mức bình quân 3,5-

4%/năm, hình thành một số ngành sản xuất kinh doanh mũi nhọn của Việt Nam trên

thị trường quốc tế.

- Cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn chuyển đổi theo nhu cầu

thị trường, phát triển chăn nuôi, thủy sản và lâm nghiệp.

- Công nghiệp, dịch vụ và kinh tế đô thị phối hợp hiệu quả với sản xuất và

kinh doanh nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn.

- Chuyển phần lớn lao động nông thôn ra khỏi nông nghiệp, lao động nông

nghiệp còn khoảng 30% lao động xã hội, hình thành đội nghũ nông dân chuyên

nghiệp, có kỹ năng sản xuất và quản lý, gắn kết trong các loại hình kinh tế hợp tác

và kết nối với thị trường.

- Phong trào xây dựng nông thôn mới phát triển mạnh với ít nhất 50% số

xã đạt tiêu chuẩn. Nâng cao thu nhập của cư dân nông thôn lên 2,5 lần so với

hiện nay, quy hoạch dân cư, quy hoạch lãnh thổ nông thôn gắn với phát triển đô

thị, công nghiệp.

- Phát triển lâm nghiệp tăng độ che phủ của rừng lên 43- 45%, bảo vệ đa

dạng sinh học, đảm bảo đánh bắt thủy sản nội địa và gần bờ trong khả năng tái tạo

và phát triển, khắc phục tình trạng ô nhiễm trong sản xuất nông nghiệp, khắc phục

và giảm thiểu thiệt hại thiên tai, dịch bệnh và các tác động xấu của biến đổi khí hậu.

4.1.2.2. Định hướng phát triển

Định hướng phát triển nông nghiệp và nông thôn Việt Nam đến năm 2020

được cụ thể trong Chiến lược phát triển Nông nghiệp, Nông thôn đến năm 2020

[34] là:

130

- Sản xuất kinh doanh nông nghiệp phát triển hiệu quả và bền vững theo

hướng phát huy lợi thế so sánh, tăng năng suất, tăng chất lượng, tăng giá trị gia

tăng, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường, đảm bảo an ninh

lương thực, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân.

- Tập trung phát triển các cây trồng nhiệt đới mà Việt Nam có lợi thế và thị

trường thế giới phát triển trong tương lai có nhu cầu (lúa, cà phê, cao su, điều, tiêu,

chè, rau hoa quả nhiệt đới,…), giảm thiểu những cây trồng kém lợi thế, chấp nhận

nhập khẩu với quy mô hợp lý phục vụ chế biến và nhu cầu tiêu dùng trong nước

(bông, thuốc lá, rau hoa quả ôn đới, đỗ tương…).

- Phát triển chăn nuôi theo lợi thế của từng vùng sinh thái nhằm đáp ứng nhu

cầu thị trường trong nước theo hướng sản xuất tập trung công nghiệp, đảm bảo vệ

sinh an toàn thực phẩm, phòng chống dịch bệnh và bảo vệ môi trường, tập trung

phát triển những ngành hàng có lợi thế ở từng địa phương, xác định rõ quy mô tự

túc tối ưu và mức độ nhập khẩu cần thiết những sản phẩm mà nước ngoài có lợi thế

hơn (sữa, bò, gà, sản phẩm chăn nuôi ôn đới…) để tập trung đầu tư và phát triển

công nghiệp chế biến.

- Tạo bước phát triển đột phá, tăng tỷ trọng của ngành thủy sản trong cơ cấu

ngành. Tập trung phát triển nuôi trồng, nhất là nuôi thủy sản nước lợ và sau đó là

nước ngọt, mở rộng nuôi trồng trên biển theo hướng đầu tư thâm canh tăng năng

suất, tăng hiệu quả, đảm bảo vệ sinh an toàn và duy trì cân bằng sinh thái môi

trường. Chuyển sang đánh bắt biển xa theo hướng khai thác bền vững, kết hợp kinh

tế - quốc phòng.

- Ổn định cơ cấu rừng sản xuất, phòng hộ và đặc dụng: quản lý, sử dụng bền

vững diện tích rừng tự nhiên là rừng sản xuất hiện có, thay thế các diện tích kém

hiệu quả bằng rừng trồng có năng suất cao, tạo vùng nguyên liệu tập trung chuyên

canh có quy mô vừa và lớn, đáp ứng tiêu chí vững bền, cung cấp phần quan trọng

nguyên liệu gỗ cho công nghiệp chế biến và nhu cầu của ngành tiểu thủ công

nghiệp, đưa lâm nghiệp thực sự trở thành ngành kinh tế có hiệu quả cao.

131

4.1.3. Định hướng phát triển nông nghiệp, nông thôn vùng Duyên hải

Miền Trung

Từ định hướng phát triển nông nghiệp, nông thôn cả nước, có thể xác định

hướng phát triển nông nghiệp, nông thôn vùng DHMT đến năm 2020 [36], như sau:

- Lĩnh vực Nông nghiệp: Phát triển lúa, ngô, lạc, mía, dưa hấu ở vùng đồng

bằng, trung du. Phát triển cao su, cà phê chè, điều, thanh long, nho ở vùng núi và

trung du, đất cát ven biển. Phát triển chăn nuôi bò, trâu theo phương thức trang trại,

quản lý chặt chẽ dịch bệnh; phát triển chăn nuôi lợn, gia cầm theo hình công

nghiệp, trang trại, gia trại. Tổ chức tốt phát triển chăn nuôi cừu, đà điểu, gia súc có

nguồn gốc hoang dã: lợn rừng, cá sấu, kỳ nhông. Tạo sản phẩm chăn nuôi đặc sản

của Vùng.

- Lĩnh vực Thủy sản: Đẩy mạnh nuôi trồng thủy sản trên vùng triều, vùng đất

cát ven biển, nuôi trồng hải sản trên biển, hải đảo, vũng, vịnh và cửa sông. Các sản

phẩm nuôi chủ lực là tôm sú, tôm chân trắng, cá biển phục vụ xuất khẩu và bào ngư,

trai ngọc, cá song, cá hồng, tôm hùm, ốc hương, tiêu dùng nội địa. Tập trung xây

dựng hệ thống lồng bè nuôi cá chẽm, cá hồng đen, chim trắng tại quần đảo Trường

Sa. Hình thành vùng sản xuất giống thủy sản chất lượng cao ở Quảng Nam, Quảng

Ngãi, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận. Xây dựng đội tàu và hệ

thống cơ sở hạ tầng, dịch vụ hậu cần phục vụ đánh bắt viễn dương tại khu vực biển

đảo thành phố Đà Nẵng phục vụ khai thác Hoàng Sa và tỉnh Khánh Hòa, Phú Yên

phục vụ khai thác Trường Sa. Đối tượng đánh bắt chính là cá ngừ, cá hố, mực nang,

mực ống, cá trác, cá kiếm, cá thu...

- Lĩnh vực Lâm nghiệp: Phát triển và bảo vệ rừng phòng hộ đầu nguồn,

phòng hộ ven biển chống cát bay, chống sóng và xói lở bờ biển; bảo vệ các khu

rừng đặc dụng hiện có và phát triển hệ thống rừng đặc dụng Bắc, Trung và Nam

Trường Sơn, Phát triển rừng sản xuất (cây họ Dầu, họ Đậu, họ tre nứa) gắn với công

nghiệp chế biến lâm sản đảm bảo nâng cao thu nhập cho người làm nghề rừng.

132

- Lĩnh vực Nghề muối: Phát triển nghề muối gắn với xây dựng vùng sản

xuất, chế biến muối công nghiệp hiện đại nhất của cả nước, xây dựng cơ sở hạ tầng

cho nghề làm muối.

- Lĩnh vực Phát triển nông thôn: Phấn đấu năm 2020 toàn Vùng có 50% số

xã đạt tiêu chí xã Nông thôn mới. Chú trọng các giải pháp phòng chống giảm nhẹ

thiên tai. Phát triển hai mô hình phát triển nông thôn chính của trong Vùng gồm: (1)

Mô hình nông thôn phân tán ven biển: Dân định cư phân tán theo cơ sở gia trại,

trang trại nuôi trồng thủy sản và sản xuất nông nghiệp. Các làng chài với ngư dân

làm việc trên các đội tàu đánh bắt gần bờ và xa bờ. Các thị tứ, thị trấn, ven biển. (2)

Mô hình khu du lịch cao cấp gắn với làng du lịch ở những vùng qui hoạch các khu

du lich, nghỉ dưỡng lớn. Tại những vùng này, gắn làng nông thôn với hoạt động sản

xuất hàng thủ công mỹ nghệ, nông lâm hải sản phục vụ du khách, du lịch bình dân,

du lịch văn hóa, dịch vụ cho khu du lịch cao cấp, sinh thái ven biển phối hợp với

các khu nghỉ cao cấp.

4.1.4. Nhu cầu vốn đầu tư phát triển nông nghiệp và nông thôn Việt Nam

và vùng Duyên hải Miền Trung

4.1.4.1. Nhu cầu vốn đầu tư (bao gồm ODA) cho phát triển nông nghiệp

nghiệp, nông thôn Việt Nam và vùng Duyên hải Miền Trung

Đề đạt được các mục tiêu tăng trưởng nêu trên thì tổng vốn đầu tư dự tính

cần cho toàn ngành nông nghiệp giai đoạn 2011-2015 là 496,86 nghìn tỷ đồng,

trong đó cho lĩnh vực nông nghiệp 297,33 nghìn tỷ, lâm nghiệp 5,08 nghìn tỷ, thủy

sản 192,44 nghìn tỷ. Giai đoạn 2016-2020 cần 569 nghìn tỷ đồng, trong đó nông

nghiệp 315 nghìn tỷ đồng, lâm nghiệp 5,7 nghìn tỷ đồng, thủy sản 247,7 nghìn tỷ

đồng. [34].

133

Bảng 4.1. Nhu cầu vốn đầu tư và vốn ODA cho phát triển nông nghiệp, nông thôn

Việt Nam và vùng Duyên hải Miền Trung đến năm 2020

Giai đoạn 2011-2015 Giai đoạn 2016-2020

Hạng mục

Tính bằng triệu USD Tính bằng triệu USD Tính bằng Tỷ đồng

I. Tổng nhu cầu vốn Tính bằng Tỷ đồng 494.862 22.494 569.007 25.864

Trong đó: - Nông nghiệp 297.338 13.515 315.594 14.345

- Lâm nghiệp 5.084 231 5.689 259

- Thủy sản 192.440 8.747 247.724 11.260

II. Tổng nhu cầu vốn 494.862 22.494 569.007 25.864

Trong đó: - Vốn trong nước 371.147 16.870 426.755 19.398

- Vốn nước ngoài 123.716 5.623 142.252 6.466

+ Vốn ODA 49.500 2.250 59.884 2.722

+ Vốn khác 74.216 3.373 82.368 3.744

III. Nhu cầu vốn ODA 49.500 2.250 59.884 2.722

Trong đó: - Vùng Duyên hải 8.910 405 11.378 517 Miền Trung

- Các vùng khác 40.590 1.845 48.506 2.205

Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, [34]

Nguồn vốn đầu tư phát triển luôn được coi là một trong những yếu tố quyết

định cho tăng trưởng kinh tế xã hội của vùng, đặc biệt với những địa phương còn

chưa cân đối được thu chi, tích lũy đầu tư còn hạn chế....Theo ước tính, nếu muốn

duy trì tốc độ tăng trưởng hàng năm ở mức 8% thì nguồn vốn đầu tư phải tăng

trưởng 20%/năm [63].

Nhu cầu nguồn vốn ODA cho ngành nông nghiệp giai đoạn 2011-2015 là

2,25 tỷ USD, giai đoạn 2016-2020 là 2,722 tỷ USD (tăng 21% so với giai đoạn

2008-2012 là 2,01 tỷ USD). Nguồn vốn ODA thu hút cho ngành nông nghiệp và

134

PTNT vùng DHMT dự kiến là 405 triệu USD giai đoạn 2011-2015 và khoảng 517

4.1.4.2. Xu hướng ODA cho lĩnh vực phát triển nông nghiệp và nông thôn

Việt Nam trong những năm tới

triệu USD vào giai đoạn 2016-2020 (Xem bảng 4.1).

Khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt đầu từ năm 2008 đã và đang làm ảnh

hưởng đến ngân sách dành cho ODA của một số nước DAC. Theo báo cáo của

OECD (tháng 4/2012), nguồn vốn ODA toàn cầu của các nước phát triển dành cho

các nước đang phát triển đã giảm gần 2,7% trong năm 2011. Từ năm 2013, khi tác

động tiêu cực của suy thoái kinh tế đến dòng vốn viện trợ hiện hữu đầy đủ, dòng

vốn ODA toàn cầu có thể sẽ bị thu hẹp nhiều hơn. Các nhà tài trợ cũng sẽ dành ưu

tiên vốn ODA cho Châu Phi là khu vực còn nhiều người nghèo đói.

Bên cạnh đó, cùng với việc được xếp vào nhóm nước có thu nhập trung bình

kể từ năm 2010, cơ cấu nguồn ODA dành cho Việt Nam đã và đang có sự thay đổi,

lượng viện trợ không hoàn lại và các khoản vay ưu đãi khác có xu hướng bị giảm

đi. Chi phí vốn vay ODA có xu hướng tăng, đồng thời với nhiều khoản vay có điều

kiện ràng buộc hơn sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả đầu tư và khả năng trả nợ

của Chính phủ. Vì vậy, Việt Nam cần phải trân trọng từng đồng vốn viện trợ và vốn

vay và tính toán cẩn trọng hiệu quả đầu tư của mỗi dự án sử dụng vốn ODA.

Nghị định số 38/2013/NĐ-CP ngày 23/4/2013 quy định về việc quản lý sử

dụng nguồn vốn ODA và nguồn vốn vay ưu đãi của các Nhà tải trợ đã xác định

nông nghiệp và phát triển nông thôn là một trong các lĩnh vực được ưu tiên sử dụng

ODA và vốn vay ưu đãi, trong đó, vốn ODA sẽ được tập trung cho chuyển dịch cơ

cấu và phát triển kinh tế nông nghiệp, hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn, xây dựng

nông thôn mới; tăng cường năng lực thế chế và cải cách hành chính, bảo vệ môi

trường và các nguồn tài nguyên thiên nhiên, phòng chống và giảm nhẹ rủi ro thiên

tai, ứng phó với biến đổi khí hậu, phát triển bền vững và tăng trưởng xanh [35].

Chính sách thu hút và sử dụng ODA vào nông nghiệp và phát triển nông

thôn của Chính phủ Việt Nam hướng tới hai mục tiêu cơ bản và xuyên suốt là: (1)

135

Thu hút nguồn vốn ODA để bổ sung cho nguồn vốn đầu tư đang bị thiếu hụt của

ngành; và (2) Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA trên cơ sở nâng cao chất

lượng quy hoạch, thẩm định tài chính dự án và đánh giá hiệu quả các dự án đầu tư

sử dụng vốn ODA. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới [8] thì “Việt Nam có lẽ

chưa tài trợ đủ vốn cho ngành nông nghiệp để đạt được mục tiêu chính sách nhằm

hỗ trợ mức tăng trưởng hợp lý và giảm nghèo”. Nguồn vốn ODA sau khi thu hút sẽ

được sử dụng vào để phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững theo đúng các

đề án tái cơ cấu ngành và các đề án phát triển kinh tế xã hội của các vùng trong đó

có vùng Duyên hải Miền Trung.

Cả hai mục tiêu trên đều nhằm thực hiện nhất quán nguyên tắc trước sau như

một mà Đại hội Đảng lần thứ VII và VIII đã đề ra, đó là: “... Huy động thêm nguồn

vốn bên ngoài cho nhu cầu đầu tư phát triển trên nguyên tắc trước sau như một” và

“ .... Huy động thêm nguồn vốn bên ngoài cho nhu cầu đầu tư phát triển trên nguyên

tắc đảm bảo hiệu quả kinh tế và trả được nợ”. [1]

Vì vậy, để đảm bảo thu hút được khoảng 10 tỷ USD nguồn vốn ODA cho

giai đoạn 2011-2020 của toàn ngành nông nghiệp & PTNT (trong đó cho vùng

DHMT khoảng 920 triệu USD), đòi hỏi phải xem xét, thực hiện đồng bộ các giải

pháp vĩ mô và vi mô, từ thay đổi nhận thức đến hoàn thiện cơ chế chính sách, tổ

chức bộ máy điều hành, hài hòa thủ tục với nhà tài trợ... sẽ được trình bày trong

mục 4.2 dưới đây.

4.2. Các giải pháp nhằm thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA cho phát

triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam và vùng Duyên hải Miền

Trung đến năm 2020

4.2.1. Nhóm giải pháp vĩ mô

Đây là nhóm giải pháp mang tính quyết định, là tiền đề cho việc thu hút

nguồn vốn ODA cho nông nghiệp và phát triển nông thôn ở Việt Nam và vùng

Duyên hải Miền Trung, nhóm giải pháp này gồm các giải pháp sau:

136

4.2.1.1. Xây dựng đề án thu hút và sử dụng ODA vào phát triển nông nghiệp

và nông thôn Việt Nam nói chung và vùng Duyên hải Miền Trung nói

riêng

a. Xây dựng đề án thu hút và sử dụng ODA vào phát triển nông nghiệp, nông

thôn Việt Nam đến năm 2020

Theo Nghị định số 38/2013/NĐ-CP của Chính phủ và xuất phát từ thực tế

cần thiết phải xây dựng đề án thu hút và sử dụng ODA cho phát triển nông nghiệp,

nông thôn Việt Nam tới năm 2020 để làm đinh hướng cho vận động, thu hút cũng

như quản lý ODA một cách có quy hoạch và kế hoạch.

Đề án được xây dựng dựa trên căn cứ pháp lý gồm: (i) Nghị định số

38/2013/NĐ-CP của Chính phủ (thay thế Nghị định số 131/2006/NĐ-CP ngày

09/11/2006 của Chính phủ) về quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính

thức (ODA) và nguồn vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ; (ii) Quyết định số

899/QĐ-TTg ngày 10/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án tái cơ cấu

ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững.

Mục tiêu của đề án là tăng cường quan hệ đối tác và tạo niềm tin cho Nhà tài

trợ, với mục tiêu thu hút nguồn vốn ODA cam kết cho ngành nông nghiệp thời kỳ

2011-2015 là 2,25 tỷ USD, thời kỳ 2016-2020 là 2,722 tỷ USD, bên cạnh đó việc

thu hút nguồn vốn ODA sẽ là đòn bẩy để thu hút nguồn vốn khác (FDI, vốn tư

nhân,...) vào phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân nhằm duy trì tăng

trưởng, nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh thông qua tăng năng suất, chất

lượng và giá trị gia tăng; đáp ứng tốt hơn nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng

trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng GDP toàn

ngành bình quân từ 2,6% - 3,0%/năm trong giai đoạn 2011-2015, từ 3,5 - 4,0%/năm

trong giai đoạn 2016 - 2020.

b. Xây dựng đề án thu hút và sử dụng ODA cho phát triển nông nghiệp, nông

thôn vùng Duyên hải Miền Trung đến năm 2020

137

Dựa trên đề án thu hút và sử dụng ODA cho phát triển nông nghiệp, nông

thôn Việt Nam tới năm 2020, sẽ xây dựng đề án thu hút và sử dụng ODA cho phát

triển nông nghiệp, nông thôn vùng DHMT đến năm 2020, đề án này có những đặc

điểm, nội dung, yêu cầu phù hợp với định hướng phát triển kinh tế, xã hội nói

chung và định hướng phát triển nông nghiệp, nông thôn nói riêng của Vùng. Đề án

được xây dựng dựa trên các quan điểm chiến lược sau:

Quan điểm thứ nhất, Chính phủ cũng như Chính quyền địa phương tại Vùng

DHMT phải hoạch định chiến lược vận động và sử dụng vốn ODA, phù hợp với

chiến lược phát triển kinh tế xã hội và chiến lược phát triển nông nghiệp, nông

thôn. Do phụ thuộc vào khá nhiều yếu tố bất định nên khó có thể dự kiến chuẩn xác

trong dài hạn vốn ODA vận động được. Vì vậy, dự án dự định sẽ đầu tư bằng nguồn

vốn ODA phải sắp xếp theo thứ tự ưu tiên cao cần bố trí nguồn vốn thay thế, nếu

không vận động được vốn ODA. Mặt khác, kinh nghiệm của Malaysia nên áp dụng

cho Việt Nam: họ lựa chọn rất kỹ các dự án ODA, chỉ tập trung vào các dự án qui

mô lớn và tận dụng tối đa sự hỗ trợ của Nhà tài trợ.

Quan điểm thứ hai, sử dụng vốn ODA cần phối hợp với các nguồn vốn khác.

Mỗi nguồn vốn đều có những đặc điểm và thế mạnh riêng, không thể thay thế cho

nhau. Vốn ODA cũng như vốn nước ngoài là quan trọng nhưng không thể thay

được tính chất quyết định của nguồn vốn trong nước. Vốn ODA chỉ là chất xúc tác

giúp chúng ta khai thác các tiềm năng sẵn có để phát triển, tức là chỉ gián tiếp tác

động đến phát triển sức mạnh kinh tế của quốc gia. Thế mạnh của mỗi nguồn vốn

chỉ phát huy được khi có sự phối hợp với các nguồn vốn khác, nhằm tạo nên một

sức mạnh tổng hợp thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, cần phối hợp sử

dụng vốn ODA với vốn FDI, vốn đầu tư tư nhân và hộ gia đình, vốn của các doanh

nghiệp nhà nước và các nguồn vốn ngân sách khác. Vốn ODA cũng được dùng để

cho các doanh nghiệp, các hộ gia đình, tư nhân vay lại để kết hợp với các nguồn

vốn khác phát huy tác dụng. Chẳng hạn chư các dự án thuộc các ngành công nghiệp

mũi nhọn, thuộc các ngành được ưu đãi đầu tư như trồng cây lâu năm trên đất chưa

sử dụng, đồi núi trọc, nghiên cứu khoa học công nghệ.

138

Quan điểm 3, sử dụng vốn ODA để phát triển hạ tầng kinh tế xã hội có trọng

tâm, trọng điểm. Một mục tiêu chung nhất của các nhà tài trợ là sử dụng ODA để

tạo môi trường, tạo điều kiện ban đầu cho nước nhận tài trợ khai thác các nguồn lực

khác nhau trong nước. Đại bộ phận ODA được sử dụng để đầu tư phát triển hạ tầng

kinh tế - xã hội, phát triển nguồn nhân lực và tăng cường thể chế. Phát triển theo

trung tâm và lan tỏa dần là vấn đề có tính quy luật trong phát triển kinh tế theo

không gian. Chính vì vậy, tập trung vốn ODA xây dựng một tổ hợp hạ tầng kinh tế -

xã hội ở các vùng trọng điểm trong một thời gian ngắn, tạo ra một vùng kinh tế phát

triển là phương án tối ưu. Một tổ hợp cơ sở hạ tầng ở đây có nghĩa là phải đảm bảo

cho một vùng kinh tế trọng điểm có cảng, sân bay hiện đại, liên lạc viễn thông tốt,

đường xá và cầu cống thuận tiện, kho tàng và bốc dỡ tốt, việc cung cấp điện nước

được đảm bảo, việc chăm sóc sức khoẻ cho những người làm việc trong vùng phải

được lo liệu chu đáo... Tóm lại, không nên phân rải vốn ODA phân tán, mỗi nơi một

ít, nơi này có cái cầu, nơi kia có con đường, nơi khác có cái cảng... mà nên tập trung

chúng vào một vùng trọng điểm trong một thời gian, sau đó lại tập trung xây dựng

các tổ hợp cơ sở hạ tầng ở những nơi khác.

Mục tiêu của đề án là tăng cường quan hệ đối tác và tạo niềm tin cho Nhà tài

trợ, với mục tiêu thu hút nguồn vốn ODA cam kết cho ngành nông nghiệp và PTNT

vùng DHMT dự kiến đạt 405 triệu, thời kỳ 2011-2015 và đạt khoảng 517 triệu USD

vào thời kỳ 2016-2020, trong đó nguồn vốn này nên tập trung vào các lĩnh vực như:

(i) chế biến, bảo quản sau thu hoạch nông lâm thủy sản; (ii), Thị trường tiêu thụ

nông sản; (iii), Khoa học công nghệ về giống và kỹ thuật canh tác mới; (iv), Hạ tầng

cơ sở nông thôn: đường, công trình thủy lợi,... và hoàn thiện cơ chế chính sách về

nông nghiệp, nông thôn trong đó ưu tiên các chính sách về an sinh xã hội.

Những điểm cần lưu ý trong Để án thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA của

Vùng, theo kết quả khảo sát 36 cán bộ quản lý ODA cấp bộ, ngành và các ban quản

lý dự án các cấp tại vùng DHMT cho thấy, phương án tối ưu là các địa phương

trong Vùng phải liên kết để xây dựng đề án thu hút nguồn vốn ODA trên cơ sở phù

hợp với kế hoạch của Nhà tài trợ. Đồng thời trong nội dung của Đề án phải cụ thể

139

và đồng bộ hóa các biện pháp như: Cải tiến một số các thể chế chính sách về quản

lý và sử dụng nguồn vốn ODA, bố trí đủ vốn đối ứng bằng tiền mặt và hiện vật,

tăng cường năng lực quản lý và thực hiện dự án... . Theo khảo sát của tác giả với 21

người hưởng lợi từ các dự án ODA trong Vùng thì 100% ý kiến hoàn toàn đồng ý

với các đề xuất trên (xem Bảng 4.2).

Bảng 4.2. Tổng hợp ý kiến đánh giá về các đề xuất giải pháp thu hút

và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA

Thứ tự ưu Tỷ lệ phần trăm Đề xuất giải pháp STT tiên đề xuất (%)

1 Đẩy nhanh tiền trình thẩm định và phê duyệt 4 14

dự án

2 Tăng cường năng lực quản lý và thực hiện dự án 3 17

3 Cải tiến một số thể chế và chính sách về quản 2 24

lý nguồn vốn ODA để phù hợp với Nhà tài trợ

4 Bố trí đủ vốn đối ứng bằng tiền và hiện vật 7 3

5 Xây dựng đề án thu hút nguồn vốn ODA phù 1 25

hợp với kế hoạch của Nhà tài trợ

9 5 6 Xây dựng hệ thống theo dõi, đánh giá dự án

có hiệu quả và tăng cường công tác giám sát,

kiểm tra nội bộ

7 Tăng cường sự phối hợp đồng bộ, thông suốt 5 10

giữa Nhà tài trợ, Trung ương và địa phương

8 Chính sách an sinh xã hội (đền bù, giải phóng 6 5

mặt bằng và tái định cư,...) của Việt Nam

8 2 9 Công khai và minh bạch hóa thông tin về dự

án ODA cũng như quy trình và thủ tục để

người dân tham gia tiếp cận nguồn vốn này.

Nguồn: Khảo sát của tác giả năm 2013.

140

4.2.1.2. Áp dụng mô hình quản lý dự án ODA phù hợp có tính chuyên nghiệp cao

Để thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA, cần sớm đánh giá các

mô hình quản lý dự án ODA và lựa chọn mô hình phù hợp nhất với lĩnh vực nông

nghiệp, nông thôn để áp dụng. Mô hình quản lý ODA được lựa chọn phải đáp ứng

các yêu cầu cơ bản của quản lý nhà nước về vốn ODA, đó là phải (1) Phát huy cao

độ tính chủ động và trách nhiệm của cơ quan chủ quản và cơ quan, đơn vị thực hiện

dự án; (2) Bảo đảm tính tổng hợp, thống nhất và đồng bộ trong công tác quản lý vốn

ODA; (3) Bảo đảm sự tham gia rộng rãi của các bên có liên quan, trong đó có các

đối tượng thụ hưởng; (4) Bảo đảm tính rõ ràng, minh bạch về quyền hạn và trách

nhiệm của các bên có liên quan; và (5) Bảo đảm hài hoà thủ tục giữa Việt Nam và

Nhà tài trợ. Để thỏa mãn được năm yêu cầu này, cần tiếp tục thực hiện sự thống

nhất quản lý nhà nước về ODA trên cơ sở phân cấp, tăng cường trách nhiệm và bảo

đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các cơ quan quản lý ngành và địa phương.

Như đã phân tích trong chương 3, để thu hút và giải ngân sử dụng nguồn vốn

ODA đảm bảo tiến độ và hiệu quả, vai trò của các Ban quản lý dự án ODA tại các

cấp, đặc biệt cấp địa phương là hết sức quan trọng. Những tồn tại trong các mô hình

tổ chức các Ban quản lý dự án hiện nay cũng đã được ghi nhận bởi Bộ Kế hoạch và

Đầu tư - đơn vị được giao trách nhiệm là cơ quan chủ trì trong xây dựng và thu hút

nguồn vốn ODA và xây dựng các văn bản pháp luật liên quan đến mô hình hoạt

động của các Ban quản lý dự án. "Thành lập BQLDA chuẩn và phù hợp sẽ giúp cho

quá trình giải ngân nhanh các dự án ODA hơn. Các BQLDA chuyên nghiệp thường

biết khai thác và tận dụng được những kiến thức đã học hỏi trong nhiều năm. Nếu

không thành lập được ban đó thì cũng sẽ gây khó khăn cho địa phương" [50].

Trong mô hình quản lý dự án ODA thuộc lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn,

việc xác định rõ địa vị pháp lý của các Ban quản lý dự án theo hướng đảm bảo tính

chuyên nghiệp, tăng cường tính minh bạch, chống khép kín và tự chịu trách nhiệm

là hết sức quan trọng.

141

Việc tổ chức các Ban quản lý dự án chuyên nghiệp có ý nghĩa cụ thể sau: (i)

tiết kiệm chi phí quản lý dự án như thuê văn phòng, lương và các chi phí hành

chính; (ii) phát huy được những kinh nghiệm thực hiện dự án của các cán bộ dự án

do cán bộ thực hiện dự án sẽ đồng thời thực hiện các dự án khác nhau và tiếp nối

khi dự án kết thúc; (iii) giảm thời gian thực hiện dự án do tiết kiệm được thời gian

thành lập Ban quản lý dự án; (iv) thu hút được cán bộ giỏi, các cán bộ dự án yên

tâm công tác, không phải đi tìm việc khi dự án kết thúc và tiết kiệm được chi phí

đào tạo; (v) tăng hiệu quả thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA do cán bộ quản lý dự

án có kinh nghiệm làm việc với các nhà tài trợ.

Các dự án ODA thuộc lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn thường là các dự án

phát triển mang tính liên ngành và tổng hợp nhiều lĩnh vực, do vậy nên thành lập

Ban quản lý dự án ODA trực thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trên cơ sở xem

xét rút kinh nghiệm từ mô hình quản lý dự án ODA theo hướng chuyên nghiệp điển

hình của tỉnh Hà Tĩnh. Với mô hình Ban quản lý dự án chuyên nghiệp, tỉnh Hà Tĩnh

đang nổi lên là địa phương có tốc độ giải ngân và thực hiện dự án ODA hiệu quả

trong những năm gần đây, được các nhà tài trợ đánh giá cao với 8/13 dự án đầu tư

được xếp loại tốt, 4/13 dự án xếp loại khá, 1/13 dự án xếp loại trung bình và không

có dự án xếp loại kém [20].

Theo mô hình này, các tỉnh trong Vùng sẽ thành lập Ban quản lý dự án tỉnh

làm chủ đầu tư, phía dưới là hệ thống các nhóm hỗ trợ kỹ thuật cấp huyện và các

ban quản lý dự án/công trình cấp xã (xem hình 4.1).

142

CHÍNH PHỦ

Nhà tài trợ

Bộ KH và ĐT

Bộ Tài chính

Ngân hàng NNVN

Văn phòng CP

Các Bộ, Ban, Ngành

UBND Tỉnh, thành phố trực thuộc TW

Nhà tài trợ

Ban quản lý dự án

Nhà tài trợ

Dự án triển khai cấp Bộ

Ban quản lý dự án tỉnh, thành phố

Ban quản lý dự án cấp huyện, xã

Hình 4.1. Mô hình tổ chức Ban quản lý dự án chuyên nghiệp

đề xuất cho Vùng Duyên Hải Miền Trung

143

4.2.1.3. Thành lập quỹ vốn đối ứng để thực hiện các dự án ODA

Việc thành lập Quỹ vốn đối ứng sẽ được sự ủng hộ mãnh mẽ của Cộng đồng

các nhà tài trợ, thể hiện sự cam kết mạnh mẽ của Chính phủ Việt Nam trong thu hút

nguồn vốn ODA, Chính vì vậy, trong nhiều diễn dàn và các nhà tài trợ đã có những

ý kiến đề xuất về vấn đề này. Theo ý kiến của ông In Kim, Trưởng đại diện Cơ

quan Hợp tác Quốc tế Hàn Quốc (Koica) tại Hội thảo quốc tế về hợp tác phát triển

Việt Nam - Hàn Quốc diễn ra tại Hà Nội ngày 12/9/2013 thì “Để đón dòng ODA

mới trong thời gian tới, Việt Nam cần phải lập Quỹ vốn đối ứng để đẩy nhanh tiến

độ triển khai các dự án ODA cũ, mới”.

Cơ sở pháp lý để hình thành quỹ bao gồm các văn bản pháp luật và dưới luật

sau đây làm cơ sở cho việc thành lập và vận hành Quỹ vốn đối ứng bao gồm: Luật

Ngân sách nhà nước số 01/2002/QH11 ngày 16/12/2002 và Nghị định số

60/2003/NĐ-CP ngày 06/6/2003 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi

hành Luật Ngân sách nhà nước; Luật Quản lý nợ công (năm 2009) và các nghị định

hướng dẫn Luật Quản lý nợ công thay thế cho Nghị định 134/2005/NĐ-CP ngày

01/11/2005 về quản lý vay và trả nợ nước ngoài của Chính Phủ, Nghị định

38/2013/NĐ-CP ngày 23/4/2013 thay thế cho Nghị định 131/2006/NĐ-CP ngày

9/11/2006 về Quản lý và sử dụng nguồn ODA; Thông tư 108/2007/TT-BTC ngày

7/9/2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn cơ chế quản lý tài chính đối với các chương

trình, dự án hỗ trợ phát triển chính thức (ODA).

Các nguyên tắc vận hành Quỹ vốn đối ứng:

Thứ nhất, Quỹ vốn đối ứng được Bộ Tài chính trực tiếp quản lý và giao dự

toán thu chi ngân sách hàng năm, căn cứ trên nhu cầu thu và chi ngân sách tại các

Bộ ngành và các địa phương trực tiếp quản lý dự án và quy định bố trí vốn đối ứng

tại các văn kiện dự án đã được Chính phủ Việt Nam ký kết với các Nhà tài trợ.

Quỹ vốn đối ứng do Bộ Tài chính quản lý, phù hợp với Chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn của Bộ Tài chính quy định tại Nghị định số 77/2003/NĐ-CP ngày 1/7/2003

của Chính phủ; và đã được nêu ra trong Mục 2, II, Phần 1 của Thông tư số

144

108/2007/TT-BTC ngày 7/9/2007 Hướng dẫn cơ chế quản lý tài chính đối với các

chương trình, dự án hỗ trợ phát triển chính thức (ODA): “Bộ Tài chính thực hiện chức

năng quản lý nhà nước về tài chính đối với các dự án ODA theo quy định hiện hành”.

Quỹ vốn đối ứng được thành lập phù hợp với Luật Ngân sách nhà nước, cụ

thể như sau:

- Ngân sách nhà nước bao gồm ngân sách trung ương và địa phương (quy

định tại Điều 5, Luật Ngân sách nhà nước), do vậy việc điều chuyển ngân sách địa

phương về ngân sách trung ương để bố trí vốn đối ứng cho các dự án không thay

đổi về bản chất nguồn vốn cấp, mà chỉ thay đổi hình thức quản lý. Quỹ vốn đối ứng

vận hành thu và chi còn căn cứ vào các Văn kiện dự án do Chính phủ Việt Nam ký

kết với Nhà tài trợ, đây là văn bản có tính pháp lý cao.

- Quy tắc vận hành của Quỹ đáp ứng Mục 2, Điều 5 của Luật NSNN là

“Thực hiện phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%) đối với các khoản thu phân chia giữa

ngân sách các cấp và bổ sung cân đối từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới

để bảo đảm công bằng và phát triển cân đối giữa các vùng, các địa phương. Số bổ

sung từ ngân sách cấp trên là khoản thu của ngân sách cấp dưới”.

- Việc thành lập Quỹ phù hợp với tích chất của nguồn vốn ODA là nguồn

vốn cho phát triển kinh tế xã hội tại các địa bàn khó khăn, các địa phương thực thi

dự án rất khó bố trí vốn đối ứng đầy đủ và kịp thời, do vậy việc thu về một mối để

đảm bảo việc hài hòa ngân sách địa phương và trung ương là cần thiết, giúp cho

việc chủ động bố trí vốn đối ứng theo đúng cam kết tại Văn kiện tài trợ.

Thứ hai, nguồn vốn luân chuyển của Quỹ bao gồm:

Nguồn thu ngân sách nhà nước, bao gồm ngân sách trung ương do Trung

ương bố trí, ngân sách địa phương do địa phương bố trí.

Ngân sách trung ương chịu trách nhiệm bố trí vốn đối ứng cho các dự án

hoặc hợp phần dự án thuộc nhiệm vụ chi của Ngân sách trung ương (theo Điều 31

của Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002), do cơ quan Trung ương là chủ dự án/hợp

phần dự án trực tiếp quản lý và thực hiện. Ngân sách địa phương chịu trách nhiệm

145

bố trí vốn đối ứng cho các dự án hoặc hợp phần dự án thuộc nhiệm vụ chi của Ngân

sách địa phương (theo Điều 33, Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002), do các cơ

quan địa phương là chủ dự án/hợp phần dự án trực tiếp quản lý và thực hiện.

Bên cạnh các nguồn thu thành lập quỹ chủ yếu nêu trên, các nguồn thu mới

cho Quỹ (sau khi thành lập) có thể bao gồm chi phí kết dư của các dự án ODA sau

khi kết thúc, lãi thu được từ các dự án cho vay lại... Các nguồn thu mới nêu trên đều

thuộc nguồn thu của Ngân sách nhà nước (theo Điều 2, Luật Ngân sách Nhà nước

năm 2002) và đây là nguồn thu phát sinh từ các dự án ODA. Nếu điều chuyển các

nguồn vốn phát sinh này về Quỹ đối ứng thì đây là nguồn bổ sung quý báu cho các

dự án mà ngân sách địa phương không bố trí được vốn đối ứng và giúp đánh giá

được hiệu quả việc sử dụng vốn ODA một cách chính xác.

Việc phân bổ chi vốn đối ứng hàng năm được thực hiện thông qua việc giao

dự toán chi ngân sách vốn đối ứng hàng năm cho các Bộ, Ngành thực hiện theo

Luật Ngân sách nhà nước.

Đồng thời, với việc thành lập Quỹ vốn đối ứng, ngành tài chính các cấp liên

quan đến quá trình quản lý và thực hiện dự án ODA cần kiện toàn hệ thống quản lý

tài chính, đặc biệt là khâu kiểm soát và quyết toán công trình sử dụng vốn ODA;

Kho bạc nhà nước cần tăng cường công tác đối chiếu, kiểm soát chi hợp pháp, hợp

lệ và đúng hạn của các tài liệu, hồ sơ thanh toán của các dự án ODA.

sử dụng nguồn vốn ODA

4.2.1.4. Hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến thu hút và

Những năm qua, việc quản lý và sử dụng vốn ODA được thực hiện theo quy

định của các Luật và một số văn bản dưới Luật. Quốc hội đã ban hành khá nhiều

Luật có liên quan đến ODA như Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Xây dựng, Luật

Ngân sách nhà nước. Tuy nhiên hiện nay các quy định pháp lý về ODA chưa đồng

bộ, tản mạn, tính pháp lý chưa cao, Chính vì vậy Chính phủ cần: (i) khẩn trương

sửa đổi khung pháp lý về quản lý và sử dụng vốn ODA cho phù hợp với quy định

của Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Xây dựng, Luật Ký kết và thực hiện các Điều

146

ước quốc tế đã được Quốc hội thông qua; (ii) sớm đặt vấn đề nghiên cứu, trình

Quốc hội ban hành Luật quản lý và sử dụng vốn ODA để thay thế cho các Nghị

định và văn bản còn phân tán trước đây. Các nội dung chính của Luật quản lý và sử

dụng vốn ODA bao gồm: (a) quan điểm và chế tài cần phải được thể hiện trong

Luật là, nguồn vốn ODA là nguồn vốn của nhà nước, là khoản nợ quốc gia, cần phải

quản lý như quản lý ngân quỹ nhà nước, ngân sách nhà nước; (b) Quốc hội có

quyền và trách nhiệm xem xét và quyết định phân bổ vốn ODA cho các dự án ngay

trong quá trình quyết định dự toán và phương án phân bổ Ngân sách nhà nước; (c)

Luật cần phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan nhà nước, các tổ

chức trong việc ra quyết định, quản lý, sử dụng nguồn vốn ODA; quy định về trách

nhiệm tổ chức tổng hợp, phân tích thông tin, đánh giá tình hình, xem xét tình hình

và kết quả thực hiện dự án trong mối quan hệ không tách rời với các chỉ tiêu kinh tế

vĩ mô, như dư nợ quốc gia, dư nợ chính phủ, tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước

(GDP), kim ngạch xuất nhập khẩu, cán cân thanh toán, bội chi ngân sách nhà

nước... (d) Chế tài của Luật phải đủ mạnh để nâng cao trách nhịêm và xác định

trách nhiệm của người quyết định đầu tư. Chủ đầu tư phải chịu trách nhiệm toàn

diện về hiệu quả, chất lượng của dự án, sắp xếp và tổ chức lại các Ban Quản lý dự

án theo đúng các tiêu chí và tiêu chuẩn phù hợp; Chủ đầu tư có trách nhiệm kiểm

tra, giám sát thường xuyên các Ban Quản lý dự án, phát hiện kịp thời những vấn đề

phát sinh và đề xuất các bịên pháp xử lý. Thực hiện thanh toán trả nợ nước ngoài

một cách đầy đủ và đúng hạn, tránh để nợ quá hạn phát sinh, ảnh hưởng đến sự phát

triển của các quan hệ quốc tế; đồng thời, có các biện pháp để chuyển đổi nợ thành

đầu tư trong nước, xin xoá nợ, giãn nợ, tăng khả năng thanh toán trả nợ bằng hàng

năm ... nhằm giảm sức ép trả nợ hoặc giảm nghĩa vụ trả nợ trong tương lai.

Trong khi chờ ban hành Luât Quản lý và sử dụng vốn ODA, trước mắt cần

bổ sung, sửa đổi một số nội dung văn bản qui phạm pháp luật có liên quan đến quá

trình thực hiện các chương trình, dự án ODA, cụ thể là:

Thứ nhất, bổ sung, sửa đổi một số quy định cụ thể về cơ chế, chính sách liên

quan đến quá trình thực hiện dự án, gồm:

147

- Về Đấu thầu, cần sửa đổi Luật Đấu thầu để phù hợp với các quy định của

Nhà tài trợ, đặc biệt là các Nhà tài trợ lớn như WB và ADB, cụ thể là: “Theo quy

định tại khoản 2, điều 31 Luật Đấu thầu thời gian thông báo mời thầu tổi thiểu là 10

ngày trước khi phát hành hồ sơ mời thầu”. Tuy nhiên, Nhà tài trợ WB và ADB cho

phép phát hành ngay hồ sơ mời thầu kể từ ngày đăng tải đầu tiên thông báo mời

thầu trên báo.

- Về giải ngân vốn ODA, cần hướng dẫn quy trình, thủ tục và quản lý việc

rút vốn trên tinh thần cải tiến thủ tục quản lý, cấp phát vốn theo quy định của Luật

NSNN. Tăng cường kiểm soát trước, kiểm tra sau đối với các khoản chi từ nguồn

vốn nước ngoài (từ tài khoản đặc biệt /tạm ứng của dự án mở tại các ngân hàng

thương mại), kiểm soát việc rút vốn của các cơ quan liên quan, xác định thời gian

xử lý hồ sơ rút vốn, ngay cả với các Ngân hàng thương mại phục vụ.

- Về chính sách thuế đối với các dự án ODA, cần chỉnh sửa các văn bản luật

liên quan để tạo điều kiện cho các đơn vị chủ động trong việc xây dựng kế hoạch và

nộp thuế; đồng thời, tạo ra một mặt bằng về thuế đối với tất cả các dự án đầu tư từ

các nguồn vốn khác nhau. Hướng dẫn thuế GTGT áp dụng đối với các dự án sử

dụng ODA; hàng hoá, vật tư nhập khẩu để thực hiện các dự án sử dụng ODA không

hoàn lại thì không phải nộp thuế GTGT; máy móc, thiết bị...do nhà thầu nước ngoài

mang vào Việt Nam phục vụ thi công dự án ODA thì được miễn thuế nhập khẩu,

thuế GTGT và phải tái xuất khẩu khi hoàn thành công trình. Tăng cường trách

nhiệm của các đơn vị, tổ chức được giao vốn ODA thông qua việc thu đủ thuế

GTGT nhằm đảm bảo phản ánh đúng giá trị công trình, và không tạo ra lợi thế cạnh

tranh bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp nước ngoài

khi thực hiện các dự án ODA. Miễn thuế, lệ phí cho các chuyên gia nước ngoài thực

hiện các chương trình /dự án sử dụng ODA. Không thu thuế nhập khẩu, thuế tiêu

thụ đặc biệt, thuế GTGT với hàng hoá nhập khẩu là hành lý cá nhân của chuyên gia

nước ngoài...

- Về vốn đối ứng, Luật Ngân sách bổ sung điều khoản quy định việc đảm

bảo đủ vốn đối ứng cho các chương trình /dự án ODA; đồng thời, nâng cao tính chủ

148

động cho các đơn vị trong việc xây dựng kế hoạch vốn đối ứng cho các dự án. Làm

tốt công tác kế hoạch hoá vốn đối ứng (kể cả vốn cấp phát và vốn tín dụng), bảo

đảm đầy đủ và kịp thời để đưa vào dự toán NSNN hàng năm trình Quốc hội quyết

định, tránh tình trạng phải điều chỉnh bổ sung, gây bị động cho NSNN.

- Về cơ chế bảo lãnh của Chính phủ, cần sớm sửa đổi Quy chế bảo lãnh của

Chính phủ đối với các khoản vay nước ngoài của DN và các tổ chức tín dụng. Chỉ

thực hiện quy chế bảo lãnh cho các dự án quan trọng khi trị giá vay cần được bảo

lãnh nằm ngoài khả năng bảo lãnh của các Ngân hàng thương mại (hoặc khi người

cho vay yêu cầu nhất thiết phải có bảo lãnh của Chính phủ). Khắc phục tình trạng

phối hợp chưa đầy đủ và chưa kịp thời giữa các cơ quan quản lý với cơ quan bảo

lãnh để xác định hiệu quả của dự án và khả năng trả nợ của người vay, nâng cao

nhận thức của người đi vay về nghĩa vụ và trách nhiệm của mình đối với các khoản

nợ vay nước ngoài.

- Cần điều chỉnh và cụ thể hơn cơ chế tài chính trong nước. Theo điều 10 của

Nghị định 38/2013/NĐ-CP thì vốn ODA sẽ có 2 bộ phận: (1) Ngân sách nhà nước

cấp phát; (2) Cho vay lại, nhưng Nghị định chưa nói rõ phần vay lại lãi suất bao

nhiêu, thời gian vay bao lâu, ai có tránh nhiệm trả nợ, nên có Thông tư hướng dẫn

cụ thể và lãi suất của phần vay lại cần thể hiện tính ưu đãi và phù hợp với sản xuất –

kinh doanh nông nghiệp, nông thôn. Về cơ chế cho vay lại, cần sửa đổi Quy chế cho

vay lại nguồn vốn vay /viện trợ nước ngoài của Chính phủ theo hướng tạo ra khung

pháp lý chung về các điều kiện cho vay lại cho các chủ đầu tư tính toán hiệu quả dự

án trong quá trình xây dựng báo cáo khả thi trình các cơ quan nhà nưóc có thẩm

quyền và các nhà tài trợ xin phê duyệt, Bộ Tài chính là đại diện người vay của

Chính phủ đối với nước ngoài, thực hiện hoặc uỷ quyền cho vay lại trong nước đối

với các nguồn vốn ODA.

- Về Quỹ tích luỹ trả nợ nước ngoài, cần ban hành quy chế lập, sử dụng và

quản lý Quỹ tích luỹ trả nợ nước ngoài để quản lý các khoản vốn thu hồi từ các dự

án được sử dụng ODA dưới hình thức cho vay lại của Chính phủ. Chỉ đưa vào

NSNN phần trả nợ cho các dự án cho vay lại theo nghĩa vụ trả của năm đó, số

149

chênh lệch giữa lãi suất cho vay lại và lãi suất vay của nước ngoài và những khoản

nợ gốc được thu hồi trước thời hạn trả nợ nước ngoài được tích luỹ lại trong Quỹ để

đảm bảo khả năng trả nợ trong tương lai và bù đắp các rủi ro trong quá trình cho

vay lại. Tăng cường dự phòng để trả cho các khoản bảo lãnh của Chính phủ trong

trường hợp xảy ra rủi ro.

Thứ 2, hoàn thiện các văn bản pháp quy liên quan tới tất cả các khâu từ quy

hoạch, kế hoạch, xây dựng chiến lược đầu tư, thu hút vốn, tiếp nhận vốn, tổ chức

thực hiện dự án, nghiệm thu, bàn giao, quyết toán dự án, công trình hoàn

thành.gồm

- Trong khâu thu hút vốn ODA: phải tăng cường đàm phán, đàm phán khéo

léo, có trách nhiệm để đạt yêu cầu về lãi suất, thời hạn vay, về các điều kiện giải

ngân, thực hiện dự án, về định mức chi tiêu, phí tư vấn, chính sách đối với chuyên

gia trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi.

- Trong tổ chức thực hiện: cần quy định về nguyên tắc tổ chức mô hình quản

lý dự án phù hợp, trong đó xác định rõ tính pháp lý của các Ban Quản lý dự án,

hoàn thiện quy chế và bộ máy quản lý tài chính, đặc biệt là khâu kiểm soát và thanh

quyết toán công trình. Thực hiện tốt các khâu của quy trình dự án đầu tư, đặc biệt là

khâu lựa chọn dự án, đấu thầu. Các quy định phải tạo điều kiện để công khai hoá

các quy trình, thủ tục, thời hạn, trách nhiệm trong từng khâu của quá trình triển khai

dự án, nâng cao năng lực và hiệu lực quản lý nhà nước, thẩm quyền, trách nhiệm và

sự phối kết hợp giữa các cơ quan tổng hợp (như Bộ KH &ĐT, Bộ Tài chính, Bộ Tư

pháp, Ngân hàng Nhà nước), các Bộ chủ quản trong việc quản lý và sử dụng ODA;

kịp thời xử lý các vấn đề phát sinh, thực hiện tốt chức năng giám sát kiểm tra và

đánh giá hiệu quả sử dụng vốn, chức năng kế toán, thống kê, kiểm toán báo cáo tài

chính các dự án ODA.

- Đề nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư sửa đổi và bổ sung một số điểm tại Thông

tư số 01/2014/TT-BKHĐT ngày 09/01/2014 tuy mới được ban hành, theo hướng

quy định chế tài đủ mạnh để nâng cao trách nhiệm của người quyết định đầu tư, quy

150

định đầu tư sai gây lãnh phí, thất thoát phải chịu xử lý hành chính, xử lý kỹ luật

hoặc trách nhiệm hình sự, Chủ đầu tư phải chịu trách nhiệm toàn diện về hiệu quả,

chất lượng của dự án; chấm dứt tình trạng giao cho người không đủ điều kiện, năng

lực về chuyển môn nghiệp vụ thực hiện quản lý dự án. Đồng thời, cần quy định việc

sắp xếp lại các ban quản lý dự án theo các tiêu chí và tiêu chuẩn phù hợp, chủ đầu

tư phải có trách nhiệm kiểm tra, giám sát thường xuyên các Ban quản lý dự án, phát

hiện kịp thời những vấn đề phát sinh và đề xuất biện pháp xử lý.

Thứ 3, xác lập cơ chế phối hợp giữa cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp

trong việc quản lý, sử dụng, giám sát vốn ODA và pháp lý hóa cơ chế phối hợp

bằng cách quy định cụ thể trong các văn bản Luật và dưới Luật liên quan.

Cần xây dựng rõ và chi tiết cơ chế phối hợp giữa cơ quan lập pháp và cơ

quan hành pháp, tư pháp để nâng cao hiệu lực quản lý, sử dụng và giám sát sử dụng

vốn ODA như Quy định về chế độ báo cáo, về chế độ trách nhiệm và các chế tài cần

thiết trong trường hợp các cơ quan nhà nước không xem xét giải quyết, hoặc giải

quyết không thoả đáng những kiến nghị của các cơ quan giám sát, quản lý và nhà

nước. Cần xác định rõ cơ chế phối hợp giữa Uỷ ban Kinh tế; Ủy ban Tài chính -

Ngân sách của Quốc hội với các Uỷ ban khác của Quốc hội trong việc giám sát sử

dụng vốn ODA; tăng cường phối hợp với các cơ quan của Chính phủ, Uỷ ban nhân

dân các cấp để theo dõi, giám sát sử dụng vốn ODA cấp độ Quốc gia và cấp độ địa

phương, sau giám sát, cần có kiến nghị xác đáng để tăng cường quản lý sử dụng vốn

ODA đúng mục đích, có hiệu quả. Kiểm toán Nhà nước là cơ quan đóng vai trò đắc

lực trong việc thực hiện kiểm toán các chương trình/dự án ODA, có trách nhiệm

báo cáo kết quả kiểm toán với Quốc hội, các cơ quan Thanh tra Chính phủ, Thanh

tra Tài chính, Viện Kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân tối cao sẽ giúp dự án về các

họat động giám sát.

4.2.1.5. Thực hiện có hiệu quả các biện pháp chống tham nhũng

Trong những năm gần đây, Chính phủ Việt Nam đã có những nỗ lực đáng kể

trong đấu tranh phòng chống nạn tham nhũng, bên cạnh việc tuân thủ các văn kiện

151

liên quan của các tổ chức quốc tế (chẳng hạn như Công ước của Liên hợp quốc về

chống tham nhũng năm 2003; Sáng kiến chống tham nhũng tại Châu Á - Thái Bình

Dương của ADB/OECD tháng 7/2004), Việt Nam đã cụ thể hóa quyết tâm phòng

chống tham nhũng thông qua ban hành và sửa đổi một số văn bản pháp luật quan

trọng như:

- Luật Khiếu nại số 02/2011/QH13.

- Luật Thanh tra số 56/2010/QH12.

- Luật Phòng, chống rửa tiền số 07/2012/QH13.

- Luật Phòng, chống tham nhũng số 55/2005/QH11 ban hành năm 2005; Luật

Phòng, chống tham nhũng số 01/2007/QH 12 sửa đổi bổ sung năm 2007 và

Luật Phòng, chống tham nhũng số 27/2012/QH 13 sửa đổi bổ sung năm 2012.

- Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13.

- Luật Kiểm toán nhà nước số 37/2005/QH11...

Để góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA trong thời gian tới,

Chính phủ cần sớm cụ thể hoá các điều luật chống tham nhũng áp dụng đối với quá

trình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh cuộc đấu

tranh chống tham nhũng một cách thiết thực và có hiệu quả. Thực hiện tiết kiệm,

chống lãng phí thông qua việc kết hợp các giải pháp đồng bộ. Đưa chế độ công khai

hóa tài chính vào công tác kiểm tra, thanh tra; đưa công tác kế toán, kiểm toán vào

nề nếp, tạo điều kiện thực hiện quyền giám sát đối với cơ quan, công chức nhà

nước. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan kiểm soát, tòa án trong việc phát

hiện, điều tra, truy tố và xét xử tội phạm tham nhũng.

Đồng thời, cần tăng cường hơn nữa công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán

các dự án ODA. Tăng cường hoạt động giám sát của các cơ quan dân cử đối với

hoạt động đầu tư bằng nguồn vốn ODA. Kiểm toán Nhà nước và các cơ quan thanh

tra, kiểm tra tài chính cần tăng cường họat động chuyên môn để thẩm định, đánh

giá, phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật; kiên quyết xuất

toán các khoản chi sai mục đích, không đúng khối lượng, đơn giá, không đúng tiêu

152

chuẩn định mức, dự toán. Tăng cường quản lý tài sản của các Ban quản lý dự án

theo Quy chế về quản lý tài sản nhà nước. Thực hiện chế độ trách nhiệm vật chất,

trách nhịêm pháp lý đối với nhà thầu, tư vấn giám sát trong việc xác nhận khối

lượng thanh toán.

4.2.1.6. Nâng cao nhận thức đúng đắn về bản chất nguồn vốn ODA

Cần phải nhận thức rằng: ”Nguồn vốn ODA là một bộ phận của Ngân sách

nhà nước, là một phần nguồn lực tài chính quốc gia và có thể trở thành gánh nặng

nợ nần cho người dân, không chỉ hôm nay và cả mai sau. Quản lý lãng phí và không

hiệu quả nguồn vốn này là có tội đối với đất nước và các thế hệ mai sau”

Thật vậy, về mặt lý luận thì nguồn vốn ODA là nguồn thu của Ngân sách nhà

nước, nhưng cũng là khoản nợ của NSNN, tại Điều 2, Luật Ngân sách nhà nước qui

định: ”Nguồn thu ngân sách nhà nước từ thuế, phí, lệ phí...” đây là nguồn thu cơ

bản, ổn định và lâu dài của ngân sách nhà nước, còn các nguồn thu khác kể cả vay

nợ viện trợ nước ngoài chỉ mang tính hỗ trợ tạm thời. Do vậy, để bù đắp vào lỗ

hổng về thất thoát, lãng phí, trả nợ thay các dự án không có khả năng trả nợ do sử

dụng vốn kém hiệu quả, ... Chính phủ nước tiếp nhận viện trợ phải sử dụng một

phần ngân sách từ nguồn thu thuế, phí, lệ phí, ... để bù đắp vào lỗ hổng đó, vì vậy

mà tại điều 2, Luật NSNN quy định: ”chi ngân sách nhà nước ... bao gồm cả chi trả

nợ Chính phủ”. Thuế, phí, lệ phí là do người dân đóng góp. Đối với các nước viện

trợ thì thuê, phí, lệ phí... cũng trở thành nguồn thu chính của Ngân sách nhà nước

của các nước viện trợ (các nước cung cấp ODA). Hàng năm các nước này cũng

trích từ một phần từ nguồn thuế, phí, lệ phí (Theo yêu cầu của Liên hợp quốc là 1%

GDP) để hỗ trợ các nước nghèo phát triển kinh tế - xã hội thông qua con đường

ODA. Chính vì vậy, Chính phủ các nước viện trợ cũng phải có trách nhiệm đối với

nhân dân nước họ trong việc giám sát, bảo toàn và thu hồi vốn đầy đủ khi đến hạn.

Từ những lý do đó, mà tại các Diễn đàn quốc tế, đặc biệt là Hội nghị CG (Hội nghị

nhóm tư vấn các nhà tài trợ dành cho Việt Nam) tổ chức hàng năm, các nhà tài trợ

luôn luôn khuyến cáo Việt Nam phải sử dụng vốn ODA một cách hiệu quả nhất, nếu

153

không thế hệ hôm nay sẽ trút gánh nặng nợ nần lên vai thế hệ các con cháu mai sau.

Sự cần thiết phải nâng cao nhận thức và nhận thức đúng nguồn vốn ODA, cụ thể:

Thứ nhất, về mặt nhận thức: Đã đến lúc chúng ta phải coi nguồn vốn ODA là

một trong những nguồn huy động của quốc gia dựa trên nguyên tắc thương mại,

nghĩa là phần vay ưu đãi mà các nhà tài trợ dành cho Việt Nam (như lãi suất và thời

gian ân hạn) phải được triệt để tận thu cho Ngân sách nhà nước, không để thất thoát

dưới dạng ưu đãi lại (cấp phát ngân sách), đặc biệt là những doanh nghiệp nhà nước

có khả năng tạo vốn, sinh lời.

Thứ hai, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, thông qua các phương

tiện truyền thông như báo trí, truyền hình, ... hoặc các cuộc họp để các cán bộ trực

tiếp tham gia dự án và người hưởng lợi hiểu đúng được bản chất, yêu cầu quản lý và

sử dụng nguồn vốn ODA, để thu hút và sử dụng nguồn vốn đạt được hiệu quả cao.

Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng cần phải có những định hướng cho các Viện nghiên

cứu, các trường Đại học, Cao Đẳng, Trung học chuyên nghiệp .. từng bước biên

soạn và đưa nội dung ODA vào các giáo trình giảng dạy thuộc các chuyên mục kinh

tế quốc tế, hay tài chính quốc tế, hoặc các hoạt động vay nợ - viện trợ của quốc gia

để giúp nâng cao nhận thức về mặt lý luận cho hàng ngũ sinh viên là những thế hệ sẽ

tiếp tục kế nhiệm trách nhiệm của mình trong quá trình sử dụng, quản lý và hoàn trả

vốn vay cho các chủ nợ (cộng đồng các nhà tài trợ ODA) khi các khoản vay đến hạn.

Thứ ba, Bộ Tài chính là người nắm giữ đầu vào của nguồn vốn này, phải chủ

động xây dựng lại ”Quy chế cho vay lại nguồn vốn ODA”, dựa trên nguyên tắc tín

dụng thương mại hiện hành nhằm gắn chặt trách nhiệm sử dụng vốn với nghĩa vụ

trả lãi và nợ gốc khi đến hạn cho ngân sách nhà nước, chỉ có như vậy chúng ta mới

nâng cao được năng lực trả nợ quốc gia trong thời gian tới.

Thứ tư, không vay ODA bằng mọi giá và tăng cường giám sát sử dụng vốn

ODA. Do ODA có tính hai mặt như đã phân tích ở Chương 2, đồng quan điểm

không ”Vay ODA bằng mọi giá” của các nước thành công trong việc sử dụng

nguồn vốn này, theo đó, các biện pháp thực hiện chủ yếu là phân cấp rõ trách nhiệm

154

và cụ thể cá nhân, đơn vị liên quan trong quản lý ODA. Việc vay vốn ODA sẽ được

thắt chặt theo hướng kiên quyết từ chối các khoản vay nếu thấy không hiệu quả,

hoặc hiệu quả thấp. Không vay thương mại ngắn hạn cho mục tiêu dài hạn. Đồng

thời cần chủ động hơn trong việc vay vốn để tránh bị chi phối bởi các yếu tố ràng

buộc, sự can thiệp quá sâu của các đối tác nước ngoài. Bản thân các Bộ, ngành cũng

phải chịu trách nhiệm trước Chính phủ về chất lượng, tiến độ thực hiện các chương

trình, dự án ODA và chịu trách nhiệm khi phê duyệt chương trình, dự án đó. Đối

với việc cho vay lại, Chính phủ mở rộng đối tượng cho vay, nhưng cơ quan cho vay

lại phải chịu trách nhiệm thẩm định phương án tài chính, năng lực tài chính của nơi

vay lại và báo cáo thẩm định với Bộ Tài chính trước khi ký thoả thuận cho vay.

4.2.2. Nhóm giải pháp về tổ chức, thực hiện

Đây là nhóm giải pháp mang tính quan trọng để thực hiện và quản lý các

chương trình dự án ODA về phát triển nông nghiệp nông thôn Việt Nam và vùng

DHMT, nhóm giải pháp này gồm các giải pháp chính sau:

tài trợ

4.2.2.1. Tăng cường hài hòa hóa quy trình và thủ tục giữa Chính phủ và Nhà

Hài hòa hóa quy trình và thủ tục chính là việc đi tìm sự phù hợp, sự thống

nhất cao của các bên (Chính phủ, nhà tài trợ và đơn vị thực hiện) khi tham gia vào

quá trình triển khai và thực hiện các dự án, chương trình ODA. Hiện nay, Việt Nam

có khoảng 50 nhà tài trợ song phương và đa phương và hơn 600 tổ chức phi chính

phủ đang hoạt động. Nhìn chung, mỗi nhà tài trợ đều có chính sách và quy định tài

trợ khác nhau. Nếu Chính phủ không tiến hành hài hòa hóa các quy trình và thủ tục

thì việc triển khai và thực hiện dự án sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Hài hòa hóa quy

trình và thủ tục làm thay đổi một số quy định pháp lý giữa Chính phủ và nhà tài trợ,

do đó cần phải được tiến hành từng bước với phạm vi và nội dung phù hợp. Việc

hài hòa hóa quy trình và thủ tục cần được tiến hành thí điểm với một số dự án,

chương trình để kiểm nghiệm tính hiệu quả trước khi phổ biến rộng rãi. Trong thực

hiện hài hòa hóa quy trình và thủ tục, nên lựa chọn những khâu công việc có tính

155

khả thi cao, như hài hòa về kết cấu nội dung và hình thức văn kiện dự án (chẳng

hạn, báo cáo nghiên cứu khả thi, báo cáo đầu tư); các khâu giải phóng mặt bằng; các

quy trình và thủ tục đấu thầu, hệ thống mẫu biểu báo cáo định kỳ về tiến độ thực

hiện dự án. Thủ tục của các Nhà tài trợ và Việt Nam đều khá phức tạp, qua nhiều

bước khác nhau và có những đặc thù riêng. Không thể hài hòa hoàn toàn các thủ tục

bởi vì các Nhà tải trợ thường áp dụng chung cùng một loại thủ tục cho tất cả các

nước thành viên, còn Việt Nam cũng áp dụng thủ tục của mình đối với các nguồn

tài trợ khác nhau từ bên ngoài. Vì vậy, sự hài hòa chỉ có thể thực hiện trên một số

phương diện nhất định. Theo ý kiến của ADB, để họ có thể điều chỉnh một số thủ

tục gần với Việt Nam, trước hết Chính phủ cần áp dụng các thủ tục đáp ứng tiêu

chuẩn và thông lệ quốc tế.

Hiện nay, quá trình hài hòa hóa thủ tục giữa Việt Nam và các nhà tài trợ,

trong đó có ADB, đang được tiếp tục đẩy mạnh. Hài hòa hóa các quy trình và thủ

tục ODA phải được dựa trên các quy định pháp lý của Chính phủ và các nhà tài trợ

để phát huy thế mạnh của mỗi bên. Để công tác hài hòa hóa quy trình và thủ tục

diễn ra trên thực tế và có tính khả thi thì những nguyên tắc sau cần phải được thực

hiện: (i) Chính phủ cần phải có “các khung” làm cơ sở để hài hòa các thủ tục trong

các hoạt động thực tiễn; (ii) Chính phủ và các nhà tài trợ đều cần có các quy định,

quy trình rõ ràng và công khai về việc thực hiện các dự án, chương trình ODA; (iii)

Các quan niệm về hài hòa thủ tục và công cụ thực hiện ODA cần được chia sẻ và

đạt được nhận thức chung giữa Chính phủ và các nhà tài trợ; (iv) Hài hòa hóa quy

trình và thủ tục có thể được tiến hành giữa Chính phủ và nhà tài trợ trên cơ sở song

phương hoặc giữa Chính phủ với một nhóm các nhà tài trợ.

Hài hòa hóa quy trình và thủ tục là một quá trình, do vậy cần có các bước đi,

hành động cụ thể và có những lựa chọn phù hợp dựa vào những đánh giá về khả

năng thực tế của Chính phủ và các nhà tài trợ. Trong thời gian tới, các bước đi và

hành động cụ thể nên như sau: Thứ nhất, Triển khai sáng kiến của các nhóm các

nhà tài trợ gồm Nhóm 5 ngân hàng phát triển (WB, ADB, JBIC, AFD, KFW);

Nhóm các nhà tài trợ đồng chính kiến (LMDG) và Nhóm các tổ chức Liên hợp quốc

156

về các hoạt động hài hoà quy trình và thủ tục ODA trong nội nhóm; Thứ hai, Thực

hiện kế hoạch hành động thường niên về hài hoà quy trình và thủ tục ODA phù hợp

với Tuyên bố cấp cao Pa-ri và Cam kết Hà Nội về hài hoà quy trình và thủ tục

ODA, tuân thủ quốc gia và nâng cao hiệu quả viện trợ, trước mắt là các vấn đề kỹ

thuật như hệ thống báo cáo tình hình thực hiện các chương trình, dự án ODA; thực

hiện các nghiên cứu chung. Với những nỗ lực hài hòa hóa thủ tục từ cả hai phía,

Chính phủ Việt Nam và Các nhà tài trợ sẽ đạt được sự nhất trí cao nhất về quy trình

và thủ tục, giảm dần tiến tới xóa bỏ việc thẩm định và phê duyệt song hành 2 hệ

thống “Chính phủ” và “Nhà tài trợ” như hiện nay.

ODA trong nông nghiệp, nông thôn

4.2.2.2. Đẩy nhanh quá trình thẩm định, phê duyệt các chương trình, dự án

Trong thời gian qua, việc phê duyệt Báo cáo đầu tư, Thiết kế kỹ thuật thi

công và Tổng dự toán của một số chương trình, dự án ODA trong phát triển nông

nghiệp, nông thôn còn bị kéo dài, dẫn đến tình trạng triển khai thực hiện chậm (từ 1

đến 1,5 năm) do phải điều chỉnh lại thiết kế của chương trình, dự án cho phù hợp

với tình hình thực tế. Do đó, việc thẩm định và phê duyệt của Chính phủ và các Bộ,

ngành liên quan cần phải được thực hiện nhanh chóng để không làm chậm đến các

chu trình tiếp theo của dự án (như đàm phán, ký kết Hiệp định vốn vay) nhằm tránh

ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện và giải ngân của dự án. Muốn vậy, cần phải giảm

bớt những thủ tục hành chính phiền hà, tốn nhiều thời gian giữa các chủ dự án với

các cấp thẩm định và phê duyệt, cụ thể là Chính phủ hoặc Bộ, ngành. Bên cạnh đó,

Chính phủ nên nghiên cứu để cho ra đời mô hình Công ty tư vấn cấp quốc gia về

thẩm định, đánh giá các chương trình, dự án ODA, với hình thức hoạt động theo

Luật Doanh nghiệp và các quy định hiện hành, trực thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư,

nhằm tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về ODA bằng các biện pháp kinh tế

thay cho thủ tục hành chính phức tạp và rườm rà như hiện nay. Công ty này sẽ hỗ

trợ các cấp phê duyệt (Chính phủ, Bộ, ngành có liên quan) trong việc thẩm định,

đánh giá các chương trình, dự án ODA; thực hiện chức năng chuyên môn về thẩm

157

định, đánh giá các tiêu chuẩn kỹ thuật và kết quả của dự án do các chủ đầu tư đề

xuất, nhằm đảm bảo tính khách quan trong quá trình ra quyết định đầu tư. Như vậy,

chất lượng thẩm định sẽ được đảm bảo và đáng tin cậy hơn rất nhiều nhờ sự chuyên

nghiệp trong thẩm định của Công ty tư vấn cấp quốc gia này. Ngoài ra, cần tăng

cường năng lực và trách nhiệm của cơ quan thẩm định và phê duyệt các chương

trình, dự án ODA. Muốn lựa chọn được chương trình, dự án tốt thì phải sử dụng

những chuyên gia tư vấn hàng đầu có đủ kiến thức, kinh nghiệm và chuyên môn sâu

về những chi tiết mang tính kỹ thuật trong việc đánh giá, lựa chọn công nghệ, thiết

bị kỹ thuật, hiệu quả kinh tế, tài chính, tác động môi trường, v.v... để thẩm định các

chương trình, dự án.

4.2.2.3. Tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ quản lý dự án

Con người luôn được coi là yếu tố quyết định đến thành công hay thất bại

của mọi hoạt động kinh tế xã hội. Trong các dự án ODA, đội ngũ cán bộ ở các Ban

quản lý dự án đóng vai trò đặc biệt quan trọng từ khâu lập dự án khả thi đến khi kết

thúc dự án.

Đội ngũ cán bộ ở các Ban quản lý dự án phải được đào tạo, am hiểu các thủ

tục từ khâu lập dự án khả thi cho đến kết thúc dự án theo quy định của Chính phủ,

ngoài ra phải nắm vững các quy định và thủ tục của Nhà tải trợ nhằm đảm bảo sự

thống nhất, đáp ứng yêu cầu của cả hai phía. Hiện nay, hầu hết các cán bộ dự án của

Việt Nam đều do chủ dự án quyết định tuyển chọn, chủ yếu đến từ các ngành liên

quan trực tiếp đến dự án, tham gia dự án lần đầu tiên nên không có kinh nghiệm

trong thực hiện dự án. Cán bộ quản lý dự án thường làm việc bán chuyên trách. Do

vậy, năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đáp ứng được yêu cần do thiếu về số lượng,

yếu về năng lực, chủ yếu là kiêm nhiệm nên thiếu tính chuyên nghiệp. Quản lý dự

án ở Việt Nam nói chung và trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn nói

riêng hiện chưa có nhiều cán bộ tinh thông công việc. Chính sự hạn chế này là

nguyên nhân gây ra những thua thiệt cho phía Việt Nam trong việc thực hiện các dự

án, chương trình hỗ trợ phát triển nông nghiệp, nông thôn. Để khắc phục được yếu

158

kém trong đội ngũ cán bộ dự án, các Ban quản lý dự án cần gấp rút đào tạo, bồi

dưỡng đội ngũ cán bộ dự án, nhất là ở cấp địa phương để họ có đủ năng lực và

phẩm chất đạo đức đáp ứng yêu cầu công việc. Bên cạnh đó cũng cần chủ động đào

tạo một đội ngũ cán bộ lành nghề để đáp ứng nhu cầu nhân lực của các chương

trình, dự án trong lĩnh vực phát triển nông thôn. Trước mắt cần tăng cường mở các

khoá đào tạo và bồi dưỡng cho các cán bộ Ban quản lý dự án Trung ương và Ban

quản lý dự án tỉnh liên quan đến thực hiện các chương trình, dự án ODA trong lĩnh

vực nông nghiệp, nông thôn để những cán bộ này có trình độ chuyên môn sâu, am

hiểu tốt các thủ tục của các nhà tài trợ Quốc tế. Nhờ đó, quá trình chuẩn bị và thực

hiện các dự án, chương trình được nhanh chóng và đúng tiến độ đề ra. Các khóa tập

huấn cho đối tượng này cần tập trung vào các nội dung về chính sách, quy trình, thủ

tục ODA của Chính phủ và nhà tài trợ, tìm ra những quy định còn chưa hài hòa và

đề xuất những biện pháp khắc phục nhằm đảm bảo tiến độ thực hiện. Bên cạnh đó,

để tuyển chọn được cán bộ tốt và có kinh nghiệm quản lý thực hiện dự án, cần công

khai minh bạch công tác tuyển dụng cán bộ dự án.

4.2.2.4. Hoàn thiện công tác đấu thầu và tuyển chọn nhà thầu

Trong thời gian qua, công tác đấu thầu và tuyển chọn nhà thầu còn có nhiều

bất cập. Cụ thể, có hiện tượng Bộ, Ngành hoặc địa phương quản lý dự án thường

chọn các nhà thầu là các Công ty, doanh nghiệp trực thuộc đảm nhận thiết kế, cung

cấp thiết bị xây lắp và giám sát thi công. Cách làm này dẫn tới độc quyền, thiếu tính

cạnh tranh và minh bạch. Chẳng hạn, có nhà thầu tư vấn được giao nhiệm vụ giám

sát thi công đã thông đồng với các nhà thầu thi công để “rút ruột” công trình hoặc

thay đổi chất lượng vật tư sử dụng. Đã có không ít trường hợp các nhà thầu trúng

thầu nhượng lại gói thầu cho các nhà thầu khác để hưởng chênh lệch dưới dạng bán

thầu. Vì vậy, trong thời gian tới cần hoàn thiện hơn nữa công tác đấu thầu và tuyển

chọn nhà thầu. Cụ thể:

Một là, trong công tác đấu thầu, cần đánh giá thật chính xác năng lực kỹ thuật

và năng lực tài chính của nhà thầu. Đặc biệt, không nên lựa chọn nhà thầu bỏ giá quá

159

thấp trúng thầu. Các Ban quản lý dự án cần phối hợp chặt chẽ với bộ phận tư vấn

giám sát công trình kiểm tra, đôn đốc các nhà thầu thực hiện dự án đúng tiến độ.

Hai là, cần quy định chặt chẽ các điều kiện đấu thầu hạn chế và chỉ định

thầu, đồng thời quy định các chế tài nghiêm khắc xử lý những trường hợp cố tình

thực hiện khi không có đủ điều kiện áp dụng. Các quy định này phải gắn chặt với

trách nhiệm cụ thể của chủ đầu tư, bên mời thầu và các cấp có thẩm quyền phê

duyệt kế hoạch đấu thầu.

Ba là, áp dụng hình thức đấu thầu công khai để tránh tình trạng khép kín

trong tuyển chọn nhà thầu. Các thông tin của bên mời thầu phải được đăng tải đầy

đủ và công khai trên báo hoặc trên mạng để các nhà thầu tiềm năng có cơ hội ngang

nhau trong tiếp cận thông tin.

Bốn là, đẩy mạnh việc hài hòa thủ tục về đấu thầu với Nhà tài trợ.

trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn nói riêng

4.2.2.5. Cải tiến quy trình giải ngân đối với các dự án ODA nói chung và

Hiện tại, quản lý tài chính ODA từ các chương trình, dự án ODA được thực

hiện theo Thông tư số 218/2013/TT/BTC ngày 13/12/2013 của Bộ Tài chính về việc

hướng dẫn cơ chế quản lý tài chính đối với các chương trình, dự án hỗ trợ phát triển

chính thức. Về cơ bản, Thông tư này đã quy định khá chi tiết trình tự và thủ tục rút

vốn để thực hiện từng loại chương trình, dự án cụ thể. Tuy nhiên, qua thực tế áp

dụng đã bộc lộ những nhược điểm sau:

- Sự tập trung quá mức công tác thanh toán vốn ngoài nước tại Ban quản lý

dự án Trung ương, trong khi không phát huy hết trách nhiệm của các Ban quản lý

dự án tỉnh, Kho bạc tỉnh, Ngân hàng thương mại tỉnh. Trong khi Ban quản lý dự án

trung ương phải quản lý rất nhiều dự án, mỗi dự án bao gồm nhiều tiểu dự án ở

khắp đất nước nên cơ chế này đã biến Ban quản lý dự án trung ương thành “trung

tâm thanh toán” nên không còn đủ thời gian, đủ nhân lực để đảm trách tốt các

nhiệm vụ quản lý dự án.

160

- Hồ sơ xin rút vốn còn bao gồm nhiều loại giấy tờ, phải qua nhiều khâu

kiểm tra, kiểm soát tốn thời gian mà lại không xác định đầy đủ trách nhiệm của các

đơn vị tham gia. Do vậy, để đẩy nhanh tiến độ giải ngân các chương trình, dự án

ODA trong nông nghiệp trong thời gian tới, cần cải tiến một số công tác sau:

Đối với các dự án ODA mà mô hình tổ chức có Ban quản lý dự án trung

ương (CPMU) và các Ban quản lý dự án tỉnh (PPMU) thì về mặt tài chính, Ban

quản lý dự án trung ương chỉ làm nhiệm vụ rút vốn từ cơ quan tài trợ trên cơ sở hồ sơ

thanh toán do Ban quản lý dự án tỉnh cung cấp được Kho bạc tỉnh xác nhận, không

làm nhiệm vụ trực tiếp thanh toán vốn nước ngoài cho các nhà thầu như hiện nay; các

Ban quản lý dự án tỉnh, Kho bạc tỉnh, Ngân hàng tỉnh là cơ quan trực tiếp tham gia

kiểm soát chi và thực hiện việc thanh toán cả vốn trong nước và vốn ngoài nước.

Kho bạc tỉnh là cơ quan thay mặt Bộ Tài chính, Kho bạc trung ương làm

nhiệm vụ kiểm soát chi và cấp phát cả vốn trong nước và vốn nước ngoài; xác nhận

hồ sơ thanh toán của Ban quản lý dự án tỉnh để gửi lên Ban quản lý dự án trung

ương rút vốn. Kho bạc trung ương, Cục Quản lý nợ (thuộc Bộ Tài chính) không cần

thiết phải kiểm soát và xác nhận từng đơn xin rút vốn của Ban quản lý dự án trung

ương như hiện nay. Bộ Tài chính nên thực hiện kiểm tra, kiểm soát sau theo chức

năng quản lý nhà nước của mình đối với cả Ban quản lý dự án, Kho bạc và Ngân

hàng thương mại liên quan đến vốn nước ngoài. Thực hiện cải tiến quy trình giải

ngân như trên không những sẽ phát huy hết khả năng về chuyên môn nghiệp vụ, bộ

máy sẵn có của các đơn vị cơ sở mà còn xác định rõ trách nhiệm của từng cơ quan

có liên quan tham gia dự án về mặt tài chính, giảm được thời gian kiểm tra, kiểm

soát hồ sơ giải ngân, do đó giúp đẩy nhanh tiến độ giải ngân.

4.2.2.6. Phát triển hệ thống giám sát và đánh giá chương trình, dự án ODA

Theo dõi và đánh giá chương trình, dự án là hoạt động thường xuyên và

định kỳ cập nhật toàn bộ các thông tin liên quan đến tình hình thực hiện các chương

trình, dự án; phân loại và phân tích thông tin; kịp thời đề xuất các phương án phục

vụ việc ra quyết định của các cấp quản lý nhằm đảm bảo chương trình, dự án được

161

thực hiện đúng mục tiêu, đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng và trong khuôn khổ các

nguồn lực đã được xác định. Công tác theo dõi và đánh giá các chương trình, dự án

ODA nếu được thực hiện tốt sẽ đóng góp tích cực vào việc thực hiện các chương

trình, dự án ODA trong phát triển nông nghiệp, nông thôn đã ký kết cũng như góp

phần đẩy nhanh và thực hiện tốt công tác chuẩn bị, thẩm định và phê duyệt các

chương trình, dự án mới. Đặc biệt, nếu việc đánh giá các dự án ODA được tiến

hành thường xuyên sẽ rút ra được những bài học kinh nghiệm quý báu, đưa ra

những kiến nghị có giá trị trong công tác thu hút ODA vào lĩnh vực nông nghiệp và

phát triển nông thôn Việt Nam.

Do vậy, việc hình thành hệ thống theo dõi và đánh giá chương trình, dự án từ

Trung ương tới các Ban quản lý dự án tỉnh/ huyện/ xã trong Vùng là rất cần thiết để

Nhà nước có thể quản lý thống nhất về ODA. Thực tế quá trình thực hiện các

chương trình, dự án ODA trong nông nghiệp thời gian qua đã cho thấy sự yếu kém

của các Bộ, ngành, các Ban quản lý dự án trung ương và Ban quản lý dự án tỉnh

trong công tác theo dõi và đánh giá thực thi các chương trình, dự án. Đặc biệt, sự

yếu kém này liên quan đến việc thiếu kinh nghiệm tổng hợp và phân tích vấn đề.

Những hạn chế và các vấn đề vướng mắc nẩy sinh đã không được xác định kịp thời

và tìm ra đúng nguyên nhân. Hậu quả là các biện pháp nhằm xử lý nhanh các vấn đề

vướng mắc không được đưa ra kịp thời. Do đó, chất lượng thi công các công trình

xây dựng kém, gây thất thoát nguồn lực và tài sản của Nhà nước.

Nhằm nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng ODA trong phát triển nông

nghiệp, nông thôn Việt Nam nhất thiết phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống theo

dõi và đánh giá dự án. Hệ thống này cần bao quát các tổ chức, cơ quan ở tất cả các

cấp từ cấp huyện, tỉnh thành tới các Ban quản lý dự án trung ương và các Bộ, ngành

có liên quan. Để đạt được điều này, cần thiết phải:

Trước hết, xây dựng một kế hoạch chiến lược về theo dõi và đánh giá nhằm

xem xét chương trình phát triển dài hạn cho việc phổ cập hệ thống theo dõi và đánh

giá trong toàn ngành nông nghiệp.

162

Tiếp theo, xây dựng và hoàn thiện căn cứ pháp lý để thiết lập hệ thống tổ

chức theo dõi và đánh giá thực hiện chương trình, dự án từ trung ương tới địa

phương cho phù hợp với tình hình thực tế để kịp thời phát hiện những vấn đề vướng

mắc nảy sinh gây chậm trễ trong quá trình thực hiện dự án và đề xuất xử lý nhằm

thúc đẩy việc giải ngân và tăng cường hiệu quả của các chương trình, dự án ODA.

Đồng thời, cần thiết lập hệ thống chỉ tiêu báo cáo ở các cấp tùy theo mức độ

tổng hợp khác nhau từ các Ban quản lý dự án tỉnh lên đến Trung ương và Chính

phủ, thuận tiện cho người thực hiện nhưng vẫn đảm bảo yêu cầu của báo cáo.

Bên cạnh đó, cần xây dựng Sổ tay hướng dẫn thực hiện theo dõi và đánh giá

chương trình, dự án ODA trong phát triển nông nghiệp và nông thôn để cán bộ quản

lý dự án, cán bộ giám sát và đánh giá dự án các cấp dựa vào đó mà thực hiện cho

thống nhất.

Hơn nữa, cần tăng cường tin học hóa hệ thống theo dõi và đánh giá thực hiện

các dự án ODA trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt cà tại các cấp địa

phương (tỉnh, huyện, xã) nhằm đảm bảo cơ sở dữ liệu được tập hợp và lưu trữ đồng

bộ và có hệ thống, đáp ứng yêu cầu giám sát chặt chẽ và đánh giá sát thực hiện

chương trình, dự án ODA trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.

Ngoài ra, để triển khai tốt hệ thống theo dõi và đánh giá này, cần chú trọng

đào tạo tăng cường năng lực cho các cán bộ Ban quản lý dự án Trung ương và Ban

quản lý dự án tỉnh về kỹ năng thực hiện theo dõi và đánh giá dự án. Việc theo dõi

và đánh giá dự án phải được xem là công việc thường xuyên, được thể hiện trong kế

hoạch hoạt động hàng năm của các Ban quản lý dự án các cấp.

Như vậy, phát triển và thực thi hệ thống theo dõi và đánh giá chương trình,

dự án ODA đồng bộ như trên sẽ giúp khắc phục được những yếu kém trong quá

trình thực hiện các chương trình, dự án ODA trong phát triển nông nghiệp và nông

thôn nói chung và tại vùng Duyên hải Miền Trung nói riêng, nhờ đó góp phần quản

lý vốn ODA một cách có hiệu quả, đạt được những mục tiêu ưu tiên đã đặt ra.

163

4.2.2.7. Quan tâm đẩy đủ hơn việc bàn giao, vận hành và duy tu bảo dưỡng

sau khi dự án ODA kết thúc

Thực tiễn quản lý các dự án ODA trên cả nước nói chung và trên vùng

DHMT nói riêng chưa quan tâm đầy đủ đến việc bàn giao công trình đưa vào vận

hành sử dụng, đặc biệt là xây dựng cơ chế trách nhiệm vận hành, duy tu, bão dưỡng

công trình. Do đó, hiệu quả sử dụng và tính bền vững của công trình bị hạn chế. Vì

vậy, trong thời gian tới chú trọng đầy đủ hơn công tác bàn giao, vận hành và duy tu

bảo dưỡng, các công trình sử dụng vốn các chương trình, dự án ODA, các cơ quan

quản lý và người hưởng lợi dự án cần thực hiện các hành động sau đây:

Thứ nhất, chú trọng nâng cao nhận thức của cộng đồng về vai trò của nguồn

vốn ODA và vai trò của cộng đồng trong sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này thông

qua việc sử dụng và duy tu, bảo dưỡng đúng cách các công trình được đầu tư bằng

nguồn vốn ODA.

Thứ hai, thực hiện bàn giao các sản phẩm của dự án ODA cho đúng đối

tượng để khai thác, sử dụng có hiệu quả nhất công trình đã đầu tư nhằm đem lại

thành quả cao nhất cho phát triển kinh tế - xã hội địa phương và vùng DHMT.

Thứ ba, thực hiện lồng ghép các kết quả, sản phẩm của các dự án ODA đã

kết thúc với các chương trình, dự án được đầu tư bằng các nguồn vốn khác và nhân

rộng các kết quả này sang các địa phương ngoài vùng dự án.

Thứ tư, xây dựng cơ chế tài chính bền vững, đảm bảo đủ nguồn chi cho việc

vận hành, bảo dưỡng, nâng cấp, thay thế và quản lý công trình đã được đầu tư

(thông qua huy động đóng góp của người sử dụng, hoặc các cơ chế tài chính bền

vững khác).

4.3. Một số kiến nghị với Nhà nước và cộng đồng các Nhà tài trợ

4.3.1. Kiến nghị với Nhà nước

Để thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA vào phát triển nông

nghiệp, nông thôn Việt Nam nói chung và vùng Duyên hải Miền Trung nói riêng,

trong thời gian tới, xin kiến nghị Nhà nước một số điểm sau:

164

Thứ nhất, Nhà nước cần tăng cường vai trò và đẩy mạnh hoạt động của Ban

chỉ đạo Quốc gia về ODA theo như đã được phê duyệt tại Quyết định số 216/QĐ-

TTg ngày 23/1/2013 về việc thành lập Ban chỉ đạo Quốc gia về ODA và vốn vay ưu

đãi; xác định rõ cơ chế phối hợp giữa Ban chỉ đạo Quốc gia về ODA với Nhà tài

trợ, với các Bộ, ngành, địa phương tại vùng Duyên hải Miền Trung trong việc xử lý

các vướng mắc trong quá trình thực hiện các dự án ODA.

Thứ hai, cần phát huy hơn nữa hiệu quả và tác động của các Hội nghị Nhóm

tư vấn và các Nhà tài trợ, vì đây là cơ hội hàng đầu để vận động thu hút ODA vào

Việt Nam. Trong thời gian tới, Chính phủ cần phối hợp với Nhà tài trợ cải thiện hơn

nữa chất lượng của các Hội nghị này theo hướng giảm bớt các báo cáo tại Hội nghị

và tăng cường trao đổi ý kiến về các vấn đề các bên cùng quan tâm; chuẩn bị kỹ nội

dung cho các phiên họp kỹ thuật; phát hành Kỷ yếu của Hội nghị và phổ biến rộng

rãi kết quả của Hội nghị tới các cơ quan liên quan của Việt Nam và các Nhà tài trợ.

Thứ ba, cần thúc đẩy xây dựng và phê duyệt sớm Đề án thu hút ODA và vốn

vay ưu đãi của Bộ NN&PTNT và Đề án thu hút ODA và vốn vay ưu đãi của vùng

Duyên hải Miền Trung giai đoạn 2013-2020, để Bộ và Vùng có khung, có cơ sở cho

việc thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này.

4.3.2. Kiến nghị với Nhà tài trợ

Như đã trình bày ở trên, hiện tại Việt Nam có mối quan hệ hợp tác phát triển

với khoảng 50 nhà tài trợ song phương và đa phương, và hàng trăm nhà tài trợ phi

Chính phủ. Mỗi nhà tài trợ lại có một cơ chế quản lý và chuyển giao nguồn vốn

ODA khác nhau, đặc biệt là cơ chế chuyển giao vốn thông qua dự án đang được các

nhà tài trợ áp dụng rộng rãi. Chính cơ chế này đang gây trở ngại lớn cho quá trình

quản lý của phía Việt Nam đối với toàn bộ nguồn vốn ODA do số lượng dự án ngày

một tăng cao và diễn ra dưới nhiều quy mô, hình thức, lĩnh vực. Vì vậy, để giảm

thiểu chi phí chuyển giao vốn, tăng tốc độ giải ngân, đặc biệt là góp phần giúp

Chính phủ Việt Nam không ngừng nâng cao hiệu quả quản lý đối với nguồn vốn

165

ODA trong thời gian tới, tác giả kiến nghị Cộng đồng các nhà tài trợ đa phương,

song phương, NGOs nên xem xét, hoàn thiện một số điểm sau:

Thứ nhất, xây dựng mối quan hệ đối tác tin cậy và cùng sẻ chia trách nhiệm

giữa phía Việt Nam và Nhà tài trợ.

Thứ hai, cùng với quá trình thay đổi phương thức chuyển giao vốn, cộng

đồng các nhà tài trợ cũng cần xem xét giao thêm quyền hạn cho phía Việt Nam

trong việc tự lựa chọn các phương thức mua sắm hàng hóa và dịch vụ phù hợp với

điều kiện và hoàn cảnh thực tiễn tại Việt Nam trong khuôn khổ các chương trình

vay vốn ODA.

Thứ ba, các Nhà tài trợ cũng cần xem xét nâng tỷ trọng viện trợ không hoàn

lại trong tổng vốn hỗ trợ phát triển chính thức hàng năm để giúp Việt Nam khắc

phục hậu quả thiên tai, xóa đói giảm nghèo tại các vùng sâu, vùng xa, vùng khó

khăn, tiếp cận với các nguồn vốn chính thức khó khăn; tăng các khoản hỗ trợ kỹ

thuật để chuyển giao các kỹ thuật sản xuất nông nghiệp tiên tiến, nâng cao năng lực

đội ngũ quản lý nhà nước các cấp. Trong hỗ trợ kỹ thuật, nên giảm tỷ lệ tư vấn quốc

tế và trong nước, đồng thời có cơ chế khuyến khích cán bộ địa phương tham gia để

tăng cường quyền làm chủ và tính bền vững của dự án.

Thứ tư, đối với phát triển nông nghiệp và nông thôn các tỉnh Duyên hải Miền

Trung, các Nhà tài trợ cần xem xét ưu tiên hơn nguồn vốn ODA cho phát triển cơ

sở hạ tầng nông thôn để đối phó với thiên tai và biến đổi khí hậu vì đây là vùng chịu

ảnh hưởng nhiều nhất cả nước về thiên tai, lũ lụt, trong khi phần lớn các tỉnh trong

vùng là các tỉnh nghèo không đủ vốn để đầu tư vào cơ sở hạ tầng nông thôn.

Thứ năm, các Nhà tài trợ nên xây dựng các tài liệu hướng dẫn thực hiện dự

án đơn giản hơn và hài hòa một số thủ tục chính của Nhà tài trợ với một số thủ tục

của Việt Nam, đặc biệt cho các hoạt động (xác định danh mục, chuẩn bị dự án, thẩm

định dự án, phê duyệt dự án, đàm phán, ký kết, đấu thầu, thi công, giám định, đánh

giá, kiểm toán dự án...).

166

KẾT LUẬN

ODA là hình thức hỗ trợ phát triển chính thức của Chính phủ các nước, các

tổ chức quốc tế cho nước đang phát triển để phát triển kinh tế - xã hội. Ở Việt Nam,

nông nghiệp và phát triển nông thôn, bao gồm trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, lâm

nghiệp, thủy lợi, phát triển nông thôn và xóa đói giảm nghèo là lĩnh vực được ưu

tiên tài trợ ODA.

Trong 20 năm 1993-2012, Việt Nam đã thu hút được 8,85 tỷ USD vốn ODA

ký kết cho lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn kết hợp xóa đói giảm

nghèo, chiếm 15,17% tổng nguồn vốn ODA vào Việt Nam. Trong đó Bộ Nông

nghiệp và PTNT trực tiếp thu hút và quản lý 5,58 tỷ USD. Các nhà tài trợ ODA

chính cho lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn là WB (chiếm 28,1%),

ADB (27%), JIBIC & JICA (10,4%), Ausaid (5,5%), DANIDA (3,2%).

Cũng trong thời kỳ này, Vùng DHMT đã thu hút được 884.122.506 USD vốn

ODA ký kết (chiếm 15% tổng vốn ODA ký kết huy động được qua Bộ Nông nghiệp

và PTNT) và đã giải ngân được 486.267.379 USD (chiếm 55% vốn ODA ký kết).

Nguồn vốn ODA này chiếm khoảng 25-30% tổng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước

của Vùng, là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho đầu tư phát triển Vùng. Đặc biệt,

nguồn vốn ODA đã góp phần khơi dậy nguồn vốn trong nước và thu hút đầu tư trực

tiếp nước ngoài vào Vùng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo, cải

thiện đời sống nhân dân các tỉnh trong Vùng.

ODA đầu tư vào nông nghiệp nông thôn Việt Nam nói chung và vùng

DHMT nói riêng đã góp phần xây dựng CSHT, CSVC kỹ thuật thực hiện công

nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn; góp phần đổi mới tư duy, nâng

cao kiến thức trong việc chuyển đổi phương thức sản xuất, chế biến, kinh doanh

nông sản theo hướng thị trường; hỗ trợ KHCN thúc đẩy đa dạng hóa nông nghiệp,

nânng cao năng suất và giá trị nông sản; góp phần xóa đói giảm nghèo; phòng

chống và giảm thiểu thiệt hại thiên tai; nâng cao năng lực quản lý và chuyên môn

trong nôn gnghiệp và nông thôn của cả nước cũng như vùng DHMT.

167

Tuy nhiên, thu hút và sử dụng vốn ODA vào phát triển nông nghiệp nông

thôn Việt Nam nói chung và Vùng DHMT nói riêng vẫn còn một số hạn chế trong

xây dựng dự án ODA, trong tổ chức quản lý thực hiện dự án, trong giải ngân và bố

trí vốn đối ứng...

Trong bối cảnh mới của quốc tế, của phát triển kinh tế xã hội của đất nước,

của ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn và Vùng Duyên hải Miền Trung

trong những năm tới, để thu hút nguồn vốn ODA theo như dự kiến, cần thực hiện

đồng bộ một số giải pháp tổng thể như: Xây dựng đề án thu hút vốn ODA; Áp dụng

mô hình quản lý dự án chuyên nghiệp; Thành lập quỹ vốn đối ứng; Hoàn thiện cơ

chế, chính sách liên quan đến thu hút và sử dụng ODA; Tăng năng lực đội ngũ cán

bộ hoạt động ODA; Nâng cao nhận thức đúng đắn về bản chất nguồn vốn ODA.

Bên cạnh đó. cần chú trọng thực hiện các giải pháp cụ thể như: Tăng cường

hài hòa hóa quy trình và thủ tục giữa Chính phủ và Nhà tài trợ; Đẩy nhanh quá trình

thẩm định, phê duyệt các chương trình, dự án ODA trong nông nghiệp, nông thôn;

Hoàn hiện công tác đấu thầu và tuyển chọn nhà thầu; Cải tiến quy trình giải ngân

đối với các dự án ODA nói chung và trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn nói

riêng; Phát triển hệ thống giám sát và đánh giá chương trình, dự án ODA; Quan tâm

đầy đủ công tác bàn giao và xây dựng cơ chế vận hành, duy tu bảo dưỡng các công

trình xây dựng từ các dự án ODA trong phát triển nông nghiệp, nông thôn tại Việt

Nam và vùng Duyên hải Miền Trung.

Để thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA vào phát triển nông

nghiệp, nông thôn Việt Nam nói chung và vùng DHMT nói riêng, trong thời gian

tới, Nhà nước cần tăng cường vai trò và đẩy mạnh hoạt động của Ban chỉ đạo Quốc

gia về ODA theo như đã được phê duyệt tại Quyết định số 216/QĐ-TTg ngày

23/1/2013 về việc thành lập Ban chỉ đạo Quốc gia về ODA và vốn vay ưu đãi; phát

huy hơn nữa hiệu quả và tác động của các Hội nghị Nhóm tư vấn và các Nhà tài trợ;

thúc đẩy xây dựng và phê duyệt sớm Đề án thu hút ODA và vốn vay ưu đãi của Bộ

NN&PTNT và Đề án thu hút ODA và vốn vay ưu đãi của vùng DHMT giai đoạn

2013 - 2020, để Bộ và Vùng có khung, có cơ sở cho việc thu hút và sử dụng có hiệu

quả nguồn vốn này./.

168

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ 1. Hà Thị Thu (2012), Vai trò của nguồn vốn ODA đối với phát triển nông

nghiệp, nông thôn tại Việt Nam, kỷ yếu hội thảo "Hỗ trợ doanh nghiệp lâm

nghiệp tại 5 tỉnh Tây Nguyên và Phú Yên giải quyết về vốn cho đầu tư và phát

triển kinh doanh".dự án FLITCH, tổ chức tại thành phố Buôn Ma Thuật, tháng

11/2012, pp. 36-57.

2. Hà Thị Thu (2013), Thực trạng quản lý, sử dụng nguồn vốn ODA đối với

ngành Lâm nghiệp và một số đề xuất cho giai đoạn 2013-2020, Tạp trí Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn, số 14/2013, pp 3-8.

3. Vũ Thị Minh, Hà Thị Thu (2013), Thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA vào

phát triển nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam, Tạp trí Nông nghiệp và Phát

triển nông thôn, số 16/2013, pp 3-10.

169

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tham khảo tiếng Việt

1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1991,2001), Văn kiện Đại hội Đảng lần

thứ VII và VIII.

2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2007): Thông tư số 04/2007/TT-BKH ngày 30/7/2007

của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn thực hiện quy chế quản lý và sử dụng

nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức.

3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2010), Được mùa những lựa chọn chiến lược để phát

triển nông nghiệp và nông thôn Việt Nam, Công ty Cổ phần in La Bàn.

4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2013), Hai mươi năm (20 năm) hợp tác phát triển,

NXB Công ty TNHH một thành viên in Tiến Bộ.

5. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bản tin ODA từ số 01-35,

(http://oda.mpi.gov.vn/odavn/).

6. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2002): Kỷ yếu khoa học nghiên cứu

kinh tế nông nghiêp và PTNT 1996-2002, NXB Nông nghiệp.

7. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2013), Báo cáo hoàn thành dự án Khoa

học công nghệ Nông nghiệp (khoản vay 2283 VIE-SF), NXB Nông nghiệp.

8. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2013): Quyết định số 2679/BNN-

HTQT ngày 12/8/2013 của Bộ Nông nghiệp và PTNT về việc báo cáo 20 năm

hợp tác phát triển giữa Việt Nam và các Nhà tài trợ.

9. Chương trình phát triển Liên hợp quốc (2002), Tổng quan viện trợ phát triển

chính thức tại Việt Nam năm 2002, Văn phòng thường trú UNDP tại Việt Nam

phát hành, Hà Nội.

10. Công Thông tin Điện tử của Chính phủ Việt Nam: Báo cáo chính trị của Ban

Chấp hành Trung ương Đảng khoá X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI

của Đảng,

http://chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/NuocCHXHCNVietNam/Thon

gTinTongHop/noidungvankiendaihoidang?categoryId=10000716&articleId=1

0038382 [Truy cập: 05/02/2014].

170

11. Đại học Michigan (2002), Hoạt động ODA của JBIC tại Việt Nam, NXB Ngân

hàng hợp tác Quốc tế Nhật Bản.

12. Đặng Kim Sơn và Hoàng Thu Hòa (2002), Một số vấn đề phát triển nông

nghiệp và nông thôn, NXB Thống kê.

13. Danh Đức, 2013, Những điều ít biết về ODA. Tuổi trẻ cuối tuần, Địa chỉ:

http://tuoitre.vn/tuoi-tre-cuoi-tuan/386518/nhung-dieu-it-biet-ve-oda.html

[Truy cập: 2/11/2013].

14. Dương Đức Ưng (2006), Hiệu quả viện trợ có thể đạt được bằng cách thay

đổi hành vi, Hội thảo cam kết Hà Nội về hiệu quả viện trợ và các mô hình viện

trợ mới, Hà Nội.

15. Hà Thị Thu (2012), Vai trò của nguồn vốn ODA đối với phát triển nông

nghiệp, nông thôn tại Việt Nam, kỷ yếu hội thảo "Hỗ trợ doanh nghiệp lâm

nghiệp tại 5 tỉnh Tây Nguyên và Phú Yên giải quyết về vốn cho đầu tư và phát

triển kinh doanh".dự án FLITCH, tổ chức tại thành phố Buôn Ma Thuật, tháng

11/2012, pp. 36-57.

16. Hà Thị Thu (2013), Thực trạng quản lý, sử dụng nguồn vốn ODA đối với

ngành Lâm nghiệp và một số đề xuất cho giai đoạn 2013-2020, Tạp trí Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn, (14/2013), pp 3-8.

17. Hồ Hữu Tiến (2009), “Bàn về vấn đề quản lý vốn ODA ở Việt Nam”, Tạp trí

khoa học và công nghệ, Đại học Đà Nẵng, số 2(31)/2009.

18. Lê Hữu Nghĩa và Lê Ngọc Tòng (2004), Toàn cầu hóa: những vấn đề lý luận

và thực tiễn, NXB Chính trị Quốc gia.

19. Lê Thị Vân Anh (2011), vay nợ nước ngoài của Việt Nam để lượng tăng, chất

tăng, Tạp chí Tài chính, (8/2011), pp 11-13.

20. Linh Chi (Việt Nam +) (2013), Ban quản lý các dự án ODA: Nhiều nhưng vẫn

yếu!: Địa chỉ: http://www.vietnamplus.vn/Home/Ban-quan-ly-cac-du-an-

ODA-Nhieu-nhung-van-yeu/20138/212586.vnplus. [Truy cập: 21/5/2013].

171

21. Minh Thúy .2013. Vietnam+. Địa chỉ:

http://www.vietnamplus.vn/Home/Viet-Nam-su-dung-co-hieu-qua-nguon-

von-vay-ODA/20136/200484.vnplus [Truy cập: 15/11/2013].

22. Nguyễn Hữu Dũng (2010), Thu hút và sử dụng ODA của Ngân hàng Thế Giới

tại Việt Nam, NXB Văn hóa Thông tin.

23. Nguyễn Thắng và Cộng sự (2011), Giảm nghèo Việt Nam, thành tựu và thách

thức, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, NXB Thế giới, Hà Nội.

24. Nguyễn Thanh Hà (2008), “Quản lý ODA : Bài học kinh nghiệm từ các

nước”, Tạp trí Tài chính, (9/2008), pp 54-57.

25. Nguyễn Văn Sĩ (2010), Giải pháp tiếp nhận và sử dụng hiệu quả nguồn vốn

ODA tại Việt Nam giai đoạn 2010-2020, Tạp chí Ngân hàng, (5/2010), pp 5-6.

26. Phạm Hảo và Võ Tiến Xuân (2004), Toàn cầu hóa kinh tế: những cơ hội và

thách thức đối với Miền Trung, NXB Chính trị Quốc gia.

27. Phạm Thị Túy (2009), Thu hút và sử dụng ODA vào phát triển kết cấu hạ tầng

kinh tế ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia.

28. Phan Trung Chính (2008), “Đặc điểm nguồn vốn ODA và thực trạng quản lý

nguồn vốn này ở nước ta” Tạp trí Ngân hàng, (4/2008), pp18-25.

29. Quốc hội Việt Nam (2002), Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002

30. Quốc hội Việt Nam (2005), Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc

tế năm 2005

31. Quốc hội Việt Nam (2009), Luật Quản lý nợ công năm 2009

32. Thủ tướng Chính phủ (2009): Nghị định số 93/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009

của Chính Phủ ban hành quy chế quản lý và sử dụng viện trợ phi chính phủ

nước ngoài.

33. Thủ tướng Chính phủ (2012): Quyết định số 106/QĐ-TTg ngày 19/01/2012

của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án ”Định hướng thu hút, quản lý và sử

172

dụng nguồn vốn ODA và các khoản vay ưu đãi khác của các Nhà tài trợ thời

kỳ 2011-2015”.

34. Thủ tướng Chính phủ (2012): Quyết định số 124/QĐ-TTG ngày 2/2/2012 phê

duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển ngành nông nghiệp cả nước đến năm

2020 và tầm nhìn đến 2030.

35. Thủ tướng Chính phủ (2013): Nghị định số 38/2013/NĐ-CP ngày 23/4/2013

của Chính phủ về quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức

(ODA) và nguồn vốn vay ưu đãi của Nhà tài trợ.

36. Thủ tướng Chính phủ (2013): Quyết định số 1114/QĐ-TTg ngày 9/7/2013 của

Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội

Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên Hải Miền Trung đến năm 2020.

37. Thủ tướng Chính phủ (2013): Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 10/6/2013 của

Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo

hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững.

38. Tô Văn Trường (2013), Nguồn vốn ODA không phải là chùm khế ngọt . Hội

đập lớn: Địa chỉ: http://www.vncold.vn/Web/Content.aspx?distid=1844 [Truy

cập: 1/9/2013].

39. Tôn Thành Tâm (2005), Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nguồn vốn hỗ

trợ phát triển chính thức (ODA) tai Việt Nam, luận án tiến sỹ, Trường Đại học

Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

40. Tổng cục Thống kê (2011), Kết quả khảo sát mức sống dân cư năm 2010,

NXB thống kê.

41. Tổng cục Thống kê (2011), Tình hình kinh tế xã hội 10 năm 2001-2010, NXB

Thống kê.

42. Tổng cục Thống Kê (2011), Tổng điều tra nông nghiệp nông thôn 2011, NXB

thống kê.

43. Tổng cục Thống Kê (2012), Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản

giai đoạn 2001- 2011, NXB thống kê.

173

44. Trần Bắc Hà (2013), Định chế tài chính cung ứng vốn và dịch vụ phục vụ các

chương trình phát triển bền vững, Hội thảo khoa học Liên kết phát triển 7 tỉnh

Duyên hải Miền Trung.

45. Trần Thị Phương Thảo (2005), Các giải pháp thu hút và nâng cao hiệu quả sử

dụng nguồn vốn hỗ trợ Phát triển chính thức (ODA) tại Bộ Nông nghiệp và

PTNT trong giai đoạn hiện nay, luận văn thạc sỹ, Học viện Tài chính.

46. Trần Trọng Toàn, Nguyễn Đình Khiêm (1999), Toàn cầu hóa và hội nhập

kinh tế của Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia.

47. Trương Thị Tiến (1999), Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp ở Viêt

Nam, NXB Chính trị Quốc gia, pp205.

48. Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2011), Giảm nghèo Việt Nam, thành tựu và

thách thức,.NXB Thế Giới.

49. Viện Nghiên cứu quản lý Kinh tế Trung ương (2013), Đặc điểm Kinh tế nông

thôn Việt Nam - kết quả điều tra hộ gia đình nông thôn năm 2012 tại 12 tỉnh,

NXB Lao động Xã hội.

50. Việt Nguyễn, 2013. Sử dụng hết chức năng của các Ban quản lý dự án:

Chuyên nghiệp hay “nghiệp dư”, [Trực tuyến] Địa chỉ:

http://thongtinthuongmai.vn/dien-dan-kinh-te/su-dung-het-chuc-nang-cua-cac-

ban-quan-ly-du-an-chuyen-nghiep-hay-nghiep-du-7784.html [truy cập:

2/7/2013].

51. Vũ Thị Kim Oanh (2002), Những giải pháp chủ yếu nhằm sử dụng có hiệu

quả nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) tai Việt Nam, luận án tiến

sỹ, Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội.

52. Vũ Thị Minh, Hà Thị Thu (2013), Thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA vào

phát triển nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam, Tạp trí Nông nghiệp và Phát

triển nông thôn, (16/2013), pp 3-10.

53. World Bank (1999), “Đánh giá viện trợ: khi nào có tác dụng, khi nào không

và tại sao”, Báo cáo nghiên cứu chính sách, NXB Chính trị Quốc gia, HN.

174

54. a. Yoon En-Kye (2013), Kinh nghiệm sử dụng ODA của Hàn Quốc, Viện Đào

tạo Công chức Trung Quốc tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.

54b. Nguyễn Thị Việt Anh, Các chỉ số phân tích tài chính IRR, NPV và ý nghĩa

trong việc đánh giá dự án, [Trực tuyến], địa chỉ:

http://www.kienthucluat.vn/kien-thuc-luat/lcmvt,1,9,0/14/Cac-chi-so-phan-

tich-tai-chinh-IRR,-NPV-va-y-nghia-trong-viec-danh-gia-du-an/1813/ [truy

cập: 2/7/2013].

Tài liệu tham khảo tiếng Anh,

55. Ali Brownlie Bojang (2009), Aid and Development, Black Rabbit Books.

56. Antonio Tujan Jr (2009), “Japan’s ODA to the Philippines,”, The reality of

Aid, Asia Pacific 2005.

57. Asian Development Bank (1999), “Technical Assitance to Thailand for

development of Agriculture and coooperatives”, Manila, phippines,

unpubbished.

58. Bauer, Peter (1972), “Dissent of Development”, Cambridge, MA: NXB Đại

học Harvard.

59. Boone, P., 1996. Politics and the effectiveness of foreign aid. European

Economic Review 40, 289- 329

60. Chenery, H.B. and Strout, A.M. 1966. “Foreign Assistance and Economic

Development”, American Economic Review, vol.56, pp.679-733.

61. F. Sagasti, October (2005), Oficial Development Assistance [Trực tuyến], Địa

chỉ: http://www.l20.org/publications/Phase%20III/ODA/ODA%20Sagasti.pdf

[Truy cập: 15/7/2013].

62. Helmut FUHRER (1996), A history of the development assistance committee

and the development co-operation directorate in dates, names and figures,

Organisation for economic co-operation and development, pp 75.

175

63. Hoi QuocLe (2012), “The roadmap for using ODA”, Vietnam Development

Forum (VDF).

64. Jamie Morrision, Dirk Bezemer and Catherine Arnold (2004), Official

development assistance to agriculture, DFID.

65. Jesse Helms (2001), “Towards a Compassiaonate Conversative Foreigh

Policy”, Nhật xét trình bày ở Viện Doanh nghiệp Mỹ, [Trực tuyến]. Địa chỉ:

http://www.aei.org/newsID.17927/newes_detail.asp. [Truy cập: 3/3/2012].

66. Lensink, R., Morrissey, O., 2000. Aid instability as a measure of uncertainty

and the positive impact of aid on growth. Journal of Development Studies 36,

pp30-48

67. Nam BinhTran and Chi DoPham (2001), The Vietnamese Economy

Awakening the dormant dragon, Taylor & Francis Group, pp305.

68. OECD (2012): OECD Development Assistance Peer Review, OECD

Development Assistance Peer.

69. OECD (2013): Development Co-eperation Report 2013 ending poverty.

70. Peter Sheller and Sanjeev Gupta (IMF-2002): Challenges in Expanding

Development Assistance

71. Richard Forrest, Yuta Harago (1990), Japan's Official Development

Assistance (ODA) and tropical forest, WWF International unpubbished

72. SANGKIJIN, Korea Student Aid Foundation(KOSAF), South Korea

&CHEOLH.OH, Soongsil University, South Korea, ” revisiting effects and

stratregies of officia development assistance (ODA): apnet analysis”, ©

International Review of Public Administration 2012, Vol. 17, No. 3.

73. Teboul, R., and E Moustier (2001), “Foreign Aid and Economic Growth: the

case of the countries South of the Mediteranean”, Applied Economics Letters

8, pp 187-190.

74. Tun Lin Moe (2012), “An empirical investigation of relationships between

official development assistance (ODA) and human and educational

176

development”, Shool of Public affairs, Pennnsylvania State University,

Harrisburg, Pennsylvania, USA.

75. Barker, R., Ringler, C., Nguyen Minh Tien, and Rosegrant, M., 2002. VN-4:

Macro Policies and Investment Priorities for Irrigated Agriculture in Vietnam,

National Component Paper for the Project on “Irrigation Investment, Fiscal

Policy, and Water Resource Allocation in Indonesia and Vietnam”, IFPRI Project

No. 2635-000, Country Report, Vietnam, Vol.1, Asian Development Bank.

PHỤ LỤC

Phụ lục 01:

Phiếu số:

BẢNG CÂU HỎI DÀNH CHO NGƯỜI HƯỞNG LỢI

Tìm hiểu thực trạng thu hút và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) vào phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam: Nghiên cứu điển hình tại vùng Duyên Hải Miền Trung

Thưa Ông/Bà!

Để tham khảo ý kiến của các cơ quan quản lý nhằm đánh giá đúng thực trạng “Thu hút và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) vào phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam: Nghiên cứu điển hình tại vùng Duyên Hải Miền Trung”, chúng tôi rất mong nhận được phản hồi của Ông/Bà cho các câu hỏi sau đây. Xin chân thành cảm ơn sự hợp tác của Ông/ Bà!

Ông/Bà vui lòng cho ý kiến về các nhận định sau đây theo 5 mức độ (Đề nghị đánh dấu (cid:2)(cid:2)(cid:2)(cid:2) hoặc đánh số vào ô phù hợp.

1. Hoàn toàn không đồng ý - 2. Không đồng ý - 3. Tạm chấp nhận được - 4. Ðồng ý - 5. Hoàn toàn đồng ý

Mức đánh giá

TT

Nội dung góp ý

1 2 3 4 5

I - Về tiếp cận nguồn vốn ODA

1 Ông (Bà) hiểu nguồn vốn ODA như thế nào?

a) Là nguồn vốn cho không của Nhà tài trợ

b) Không phải là nguồn vốn cho không nên phải sử dụng đúng mục đích và đạt hiệu quả

2 Nguồn thông tin giúp Ông (bà) tiếp cận các dự án ODA trên địa bàn?

a) Họp thôn và được trưởng thôn thông báo.

b) Ban quản lý dự án họp và thông báo đến người dân

c) Tờ rơi giới thiệu dự án

d) Báo, đài địa phương

e) Nguồn khác (đề nghị ghi cụ thể)

3

Người hưởng lợi cần đóng góp vốn đối ứng bằng tiền hoặc công lao động để tăng trách nhiệm khi tham gia các dự án ODA và để đảm bảo tính bền vững của dự án

4 Trong những năm tới cần tập trung nguồn vốn ODA cho các lình vực nảo sau đây?

a) Chế biến, bảo quản sau thu hoạch nông lâm thủy sản

b) Thị trường tiêu thụ nông sản

c) Khoa học - công nghệ về giống và kỹ thuật canh tác mới

d) Tín dụng (cho vay) ưu đãi cho hộ dân, doanh nghiệp

Cơ sở hạ tâng nông thôn: đường, công trình thủy lợi,v,v…

Hoàn thiện cơ chế, chính sách như các chính sách an sinh xã hội,v,v,,,.

Về năng lực tiếp nhận và thực hiện dự án các cấp

Năng lực quản lý và thực hiện dự án chưa tốt ở cấp:

Trung ương (Bộ Nông nghiệp và PTNT)

Địa phương (cấp tỉnh, huyện) vùng Duyên hải Miền Trung

Người hưởng lợi - người dân, doanh nghiệp vùng Duyên hải Miền Trung)

Năng lực tiếp thu kiến thức và công nghệ (bao gồm công nghệ quản lý, ngoại ngữ, công nghệ và tri thức mới sản xuất mới…) chưa tốt ở cấp:

Trung ương (Bộ Nông nghiệp và PTNT/ Các ban quản lý các dự án NN&PTNT)

Địa phương (cấp tỉnh, huyện) vùng Duyên hải Miền Trung

Người hưởng lợi - người dân, doanh nghiệp vùng Duyên hải Miền Trung)

Các dự án ODA tại địa phương đã hỗ trợ Ông (bà) về:

Vốn (hỗ trợ cho không hoặc cho vay ưu đãi

Tập huấn chuyển giao kiến thức khoa học công nghệ

Chế biến, bảo quản và Tiếp cận thị trường nông sản

Hỗ trợ khác (đề nghị ghi cụ thể)

Các chuyên gia tư vấn quốc tế và tư vấn trong nước đã chuyển giao tốt kiến thức và khoa học công nghệ tới địa phương

Về sử dụng nguồn vốn ODA

Thông tin về dự án ODA cũng như quy trình và thủ tục tiếp cận nguồn vốn này được phổ biến công khai và rõ ràng đển người hưởng lợi (người dân, doanh nghiệp…) Người hưởng lợi đã đóng góp theo đúng kế hoạch phần vốn đối ứng bằng tiền hoặc công lao động khi tham gia các dự án ODA

Nguồn ODA sử dụng trong lĩnh vực NN&PTNT thời gian qua đạt kết quả dự kiến

Giải ngân vốn ODA trong lĩnh vực NN&PTNT theo kế hoạch dự kiến

Thời gian thực hiện các dự án ODA theo kế hoạch dự kiến

Các dự án ODA lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn đã góp phần quan trọng vào:

- Tăng trưởng kinh tế của ngành, vùng

- Đảm bảo anh sinh xã hội

- Cải thiện môi trường

15

Các dự án ODA trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn là có tính bền vững (hộ gia đình, doanh nghiệp tiếp tục phát huy được thành quả sau dự án)

16

Các dự án ODA trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn được xây dựng và thực hiện phù hợp với nhu cầu của người dân, của doanh nghiệp

17

Các dự án ODA trong ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn chậm triển khai, giải ngân thấp và chưa đạt được các mục tiêu đặt ra là do: - Nội dung văn kiện dự án không rõ ràng, thiếu cơ sở thực tiễn

a

- Năng lực tiếp nhận và thực hiện dự án của cơ quan quản lý nhà nước các cấp và

b

đối tượng hưởng thụ còn hạn chế

- Bố trí vốn đối ứng chậm

c

- Giải phóng mặt bằng chậm

d

- Quy hoạch phát triển các ngành, Quy hoạch sử dụng đất,…chậm được phê duyệt

e

- Lý do khác (đề nghị ghi cụ thể)

f

- ….

g

18

Để tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA cho ngành nông nghiệp và PTNT các tỉnh Duyên Hải Miền Trung trong những năm tới, cần chú trọng hoàn thiện các vấn đề gì?

a, Đẩy nhanh tiến trình thẩm định và phê duyệt văn kiện dự án

b, Tăng cường năng lực quản lý và thực hiện dự án

c, Cải tiến một số thể chế và chính sách về quản lý nguồn vốn ODA để phù hợp với chính sách của Nhà tài trợ d, Bố trí đủ vốn đối ứng bằng tiền và hiện vật

e, Xây dựng đề án thu hút nguồn vốn ODA phù hợp với kế hoạch của các Nhà tài trợ

f, Xây dựng hệ thống theo dõi, đánh giá dự án có hiệu quả và tăng cường công tác giám sát, kiểm tra nội bộ. g, Tăng cường sự phối hợp đồng bộ, thông suốt giữa Nhà tài trợ, Trung ương và địa phương h, Chính sách an sinh xã hội (đền bù, giải phóng mặt bằng và tái định cư…) của Việt Nam

i, Công khai và minh bạch hoá thông tin về dự án ODA cũng như quy trình và thủ tục để người hưởng lợi tham gia tiếp cận nguồn vốn này. J, Khác (đề nghị ghi cụ thể)

k,

Đề nghị đánh số theo thứ tự ưu tiên từ 1-12 (cid:3) (cid:3) (cid:3) (cid:3) (cid:3) (cid:3) (cid:3) (cid:3) (cid:3) (cid:3) (cid:3) (cid:3)

THÔNG TIN NGƯỜI TRẢ LỜI Đề nghị Ông/ bà vui lòng cho biết: Tên tổ chức Ông (bà) đang công tác:……………………………………………………………………. Vị trí của Ông/ Bà trong tổ chức: …………………………………………………………………….

Xin chân thành cảm ơn sự hợp tác của Ông/ Bà!

Phiếu số:

Phụ lục 02:

BẢNG CÂU HỎI DÀNH CHO CƠ QUAN QUẢN LÝ

Tìm hiểu thực trạng thu hút và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) vào phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam: Nghiên cứu điển hình tại vùng Duyên Hải Miền Trung

Thưa Ông/Bà!

Để tham khảo ý kiến của các cơ quan quản lý nhằm đánh giá đúng thực trạng “Thu hút và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) vào phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam: Nghiên cứu điển hình tại vùng Duyên Hải Miền Trung”, chúng tôi rất mong nhận được phản hồi của Ông/Bà cho các câu hỏi sau đây. Xin chân thành cảm ơn sự hợp tác của Ông/ Bà!

Ông/Bà vui lòng cho ý kiến về các nhận định sau đây theo 5 mức độ (Đề nghị đánh dấu (cid:2)(cid:2)(cid:2)(cid:2) hoặc đánh số vào ô phù hợp.

1. Hoàn toàn không đồng ý - 2. Không đồng ý - 3. Tạm chấp nhận được - 4. Ðồng ý - 5. Hoàn toàn đồng ý

Mức đánh giá

Nội dung góp ý

1 2 3 4 5

Về chính sách của Nhà tài trợ và Khung thể chế về quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA

Khung thể chế về quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA của Chính phủ Việt Nam quy định hài hòa với các quy định quản lý nguồn vốn ODA của Nhà tài trợ

Hướng dẫn sử dụng nguồn vốn ODA tại Bộ Nông nghiệp và PTNT được ban hành đầy đủ và phát huy được hiệu quả

Thu hút nguồn vốn ODA vào ngành Nông nghiệp và PTNT chưa thực sự xuất phát từ nhu cầu thực tế mà còn bị động và phụ thuộc vào nhà tài trợ trong quá trình hình thành dự án ODA

Quy trình thẩm định và phê duyệt dự án đối với ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn đơn giản và thời hạn phê duyệt phù hợp

Các dự án ODA được thiết kế với sự tham gia của nhiều Bộ ngành, nhiều địa phương gây khó khăn cho Bộ chủ quản trong quá trình điều phối, quản lý và thực hiện

Chủ trương của một số nhà tài trợ lớn về thực hiện phân cấp mạnh từ Trung ương xuống địa phương ngay từ khi thiết kế dự án là phù hợp

Luật đấu thầu và các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam phù hợp với Hướng dẫn mua sắm, tuyển tư vấn của Nhà tài trợ

Kiểm soát nội bộ đối với các dự án tài trợ theo ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn đạt yêu cầu đặt ra

Quy định về cơ chế tài chính cho các dự án ODA của Việt Nam phù hợp với Hướng dẫn giải ngân của Nhà tài trợ

Về năng lực tiếp nhận và thực hiện dự án các cấp

Năng lực đàm phán và ký kết các dự án hỗ trợ ngành Nông nghiệp và PTNT chưa tốt Năng lực xây dựng dự án chưa tốt ở cấp:

Trung ương (Chính phủ và các Bộ ngành: Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính và Bộ Nông nghiệp và PTNT)

Địa phương (cấp tỉnh, huyện) vùng Duyên hải Miền Trung Năng lực quản lý và thực hiện dự án chưa tốt ở cấp:

Trung ương (Bộ Nông nghiệp và PTNT)

Địa phương (cấp tỉnh, huyện) vùng Duyên hải Miền Trung

Năng lực tiếp thu kiến thức và công nghệ (bao gồm công nghệ quản lý, ngoại ngữ, công nghệ và tri thức mới sản xuất mới…) chưa tốt ở cấp:

Trung ương (Bộ Nông nghiệp và PTNT/ Các ban quản lý các dự án NN&PTNT)

Địa phương (cấp tỉnh, huyện) vùng Duyên hải Miền Trung

Người hưởng lợi - người dân, doanh nghiệp vùng Duyên hải Miền Trung)

Hỗ trợ của Tư vấn quốc tế và trong nước là cần thiết trong quá trình xây dựng, thực hiện dự án

Về sử dụng nguồn vốn ODA

Thông tin về dự án ODA cũng như quy trình và thủ tục tiếp cận nguồn vốn này được phổ biến công khai và rõ ràng đển người hưởng lợi (người dân, doanh nghiệp…) Người hưởng lợi đã đóng góp theo đúng kế hoạch phần vốn đối ứng bằng tiền hoặc công lao động khi tham gia các dự án ODA

Nguồn ODA sử dụng trong lĩnh vực NN&PTNT thời gian qua đạt kết quả dự kiến

Giải ngân vốn ODA trong lĩnh vực NN&PTNT theo kế hoạch dự kiến

Thời gian thực hiện các dự án ODA theo kế hoạch dự kiến

Các dự án ODA lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn đã góp phần quan trọng vào:

- Tăng trưởng kinh tế của ngành, vùng

- Đảm bảo anh sinh xã hội

- Cải thiện môi trường

Các dự án ODA trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn là có tính bền vững (hộ gia đình, doanh nghiệp tiếp tục phát huy được thành quả sau dự án)

Các dự án ODA trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn là được xây dựng và thực hiện phù hợp với mục tiêu phát triển của ngành, địa phương và nhu cầu của người dân, của doanh nghiệp

Các dự án ODA trong ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn chậm triển khai, giải ngân thấp và chưa đạt được các mục tiêu đặt ra là do:

- Nội dung văn kiện dự án không rõ ràng, thiếu cơ sở thực tiễn

a

- Năng lực tiếp nhận và thực hiện dự án của cơ quan quản lý nhà nước các cấp và

b

đối tượng hưởng thụ còn hạn chế

- Bố trí vốn đối ứng chậm

c

- Giải phóng mặt bằng chậm

d

- Quy hoạch phát triển các ngành, Quy hoạch sử dụng đất,…chậm được phê duyệt

e

- Lý do khác (đề nghị ghi cụ thể)

f

- ….

g

24

Để tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA cho ngành nông nghiệp và PTNT các tỉnh Duyên Hải Miền Trung trong những năm tới, cần chú trọng hoàn thiện các vấn đề gì?

a, Đẩy nhanh tiến trình thẩm định và phê duyệt văn kiện dự án

b, Tăng cường năng lực quản lý và thực hiện dự án

c, Cải tiến một số thể chế và chính sách về quản lý nguồn vốn ODA để phù hợp với chính sách của Nhà tài trợ d, Bố trí đủ vốn đối ứng bằng tiền và hiện vật

e, Xây dựng đề án thu hút nguồn vốn ODA phù hợp với kế hoạch của các Nhà tài trợ

f, Xây dựng hệ thống theo dõi, đánh giá dự án có hiệu quả và tăng cường công tác giám sát, kiểm tra nội bộ. g, Tăng cường sự phối hợp đồng bộ, thông suốt giữa Nhà tài trợ, Trung ương và địa phương h, Chính sách an sinh xã hội (đền bù, giải phóng mặt bằng và tái định cư…) của Việt Nam

i, Công khai và minh bạch hoá thông tin về dự án ODA cũng như quy trình và thủ tục để người hưởng lợi tham gia tiếp cận nguồn vốn này. J, Khác (đề nghị ghi cụ thể)

k,

Đề nghị đánh số theo thứ tự ưu tiên từ 1-12 (cid:3) (cid:3) (cid:3) (cid:3) (cid:3) (cid:3) (cid:3) (cid:3) (cid:3) (cid:3) (cid:3) (cid:3)

THÔNG TIN NGƯỜI TRẢ LỜI Đề nghị Ông/ bà vui lòng cho biết: Tên tổ chức Ông (bà) đang công tác:……………………………………………………………………. Vị trí của Ông/ Bà trong tổ chức: …………………………………………………………………….

Xin chân thành cảm ơn sự hợp tác của Ông/ Bà!

Phụ lục 03

Phiếu số:

BẢNG CÂU HỎI DÀNH CHO NHÀ TÀI TRỢ

Tìm hiểu thực trạng thu hút và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) vào phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam: Nghiên cứu điển hình tại vùng Duyên Hải Miền Trung

Thưa Ông/Bà!

Để tham khảo ý kiến của các Nhà tài trợ nhằm đánh giá đúng thực trạng “Thu hút và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) vào phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam: Nghiên cứu điển hình tại vùng Duyên Hải Miền Trung”, chúng tôi rất mong nhận được phản hồi của Ông/Bà cho các câu hỏi sau đây. Xin chân thành cảm ơn sự hợp tác của Ông/ Bà!

Ông/Bà vui lòng cho ý kiến về các nhận định sau đây theo 5 mức độ (Đề nghị đánh dấu (cid:2)(cid:2)(cid:2)(cid:2) hoặc đánh số vào ô phù hợp.

1. Hoàn toàn không đồng ý - 2. Không đồng ý - 3. Tạm chấp nhận được - 4. Ðồng ý - 5. Hoàn toàn đồng ý

Mức đánh giá

TT

Nội dung góp ý

1 2 3 4 5

I - Về cơ chế, chính sách và sự hài hòa hóa thủ tục tài trợ giữa bên tài trợ và bên tiếp nhận tài trợ

1

Văn kiện dự án tài trợ cho ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn phù hợp với yêu cầu của Nhà tài trợ

2

Quy trình thẩm định và phê duyệt dự án đối với ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn đơn giản và thời hạn phê duyệt phù hợp

3

Luật đấu thầu và các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam phù hợp với Hướng dẫn mua sắm, tuyển tư vấn của Nhà tài trợ

4

Kiểm soát nội bộ đối với các dự án tài trợ theo ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn đạt yêu cầu đặt ra

5

Quy định về cơ chế tài chính cho các dự án ODA của Việt Nam phù hợp với Hướng dẫn giải ngân của Nhà tài trợ

II - Về năng lực tiếp nhận và thực hiện dự án các cấp

6 Năng lực đàm phán và ký kết các dự án hỗ trợ ngành Nông nghiệp và PTNT chưa tốt

7 Năng lực xây dựng dự án chưa tốt ở cấp:

a

Trung ương (Chính phủ và các Bộ ngành: Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính và Bộ Nông nghiệp và PTNT)

b Địa phương (cấp tỉnh, huyện) vùng Duyên hải Miền Trung

8 Năng lực quản lý và thực hiện dự án chưa tốt ở cấp:

a Trung ương (Bộ Nông nghiệp và PTNT)

b Địa phương (cấp tỉnh, huyện) vùng Duyên hải Miền Trung

1

Năng lực tiếp thu kiến thức và công nghệ (bao gồm công nghệ quản lý, ngoại ngữ, công nghệ và tri thức mới sản xuất mới…) chưa tốt ở cấp:

a Trung ương (Bộ Nông nghiệp và PTNT/ Các ban quản lý các dự án NN&PTNT)

b Địa phương (cấp tỉnh, huyện) vùng Duyên hải Miền Trung

c Người hưởng lợi - người dân, doanh nghiệp vùng Duyên hải Miền Trung)

III Về sử dụng nguồn vốn ODA

11 Nguồn ODA sử dụng trong lĩnh vực NN&PTNT thời gian qua đạt kết quả dự kiến

12 Giải ngân vốn ODA trong lĩnh vực NN&PTNT theo kế hoạch dự kiến

3 Thời gian thực hiện các dự án ODA theo kế hoạch dự kiến

14 Các dự án ODA trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn đã góp phần quan trọng vào:

- Tăng trưởng kinh tế của ngành, vùng

- Đảm bảo an sinh xã hội

- Cải thiện môi trường

15

Các dự án ODA trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn là có tính bền vững (hộ gia đình, doanh nghiệp tiếp tục phát huy được thành quả sau dự án)

16

Các dự án ODA trong ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn chậm triển khai, giải ngân thấp và chưa đạt được các mục tiêu đặt ra là do:

- Nội dung văn kiện dự án không rõ ràng, thiếu cơ sở thực tiễn

a

- Năng lực tiếp nhận và thực hiện dự án của cơ quan quản lý nhà nước các cấp và

b

đối tượng hưởng thụ còn hạn chế

- Bố trí vốn đối ứng chậm

c

- Giải phóng mặt bằng chậm

d

- Quy hoạch phát triển các ngành, Quy hoạch sử dụng đất,…chậm được phê duyệt

e

IV- Về kế hoạch, mục tiêu của nhà tài trợ trong thời gian tới:

17. Đề nghị Ông/bà cho biết mức độ ưu tiên vốn của Tổ chức mình/ Nhà tài trợ đối với Việt Nam và các

(cid:3) Philippines (cid:3) Singapore (cid:3) Thái Lan

(cid:3) Lào (cid:3) Malaysia (cid:3) Myanma

nước trong Khu vực ASEAN trong những năm tới (đánh số từ 1-10 theo thứ tự ưu tiên). (cid:3) Brunei (cid:3) Campuchia (cid:3) Indonesia (cid:3) Việt Nam

(cid:3) Vùng Tây Nguyên

17. Kế hoạch tài trợ của Tổ chức của Ông (Bà) trong thời gian tới ưu tiên cho vùng địa lý nào của Việt

(cid:3) Vùng Trung du Miền (cid:3) Vùng Đông Nam Bộ (cid:3) Vùng Đồng Bằng Sông

Hồng núi Bắc Bộ

Cửu Long

Nam (đánh số từ 1-7 theo thứ tự ưu tiên). (cid:3) Vùng Đồng bằng Sông (cid:3) Vùng Duyên Hải Miền Trung (Bắc Trung Bộ và Duyên Hải Nam Trung Bộ) (cid:3) Liên Vùng

(cid:3) Y tế, giáo dục đào tạo, môi trường, khoa học kỹ thuật.

18. Kế hoạch tài trợ cho Việt Nam của Tổ chức của Ông (Bà) trong thời gian tới ưu tiên như thế nào cho

(cid:3) Năng lượng và công

(cid:3) Khác ........................

các ngành, lĩnh vực? (đánh số từ 1-7 theo thứ tự ưu tiên). (cid:3) Giao thông vận tải, bưu (cid:3) Nông nghiệp và Phát chính viễn thông, cấp triển nông thôn thoát nước và phát triển đô thị

nghiệp

(cid:3) Tín dụng thương mại (cid:3) Viện trợ theo chương

19. Tổ chức của Ông (Bà) trong thời gian tới ưu tiên cấp vốn theo hình thức nào cho Việt Nam (đánh số

toán trình. từ 1-5 theo thứ tự ưu tiên). (cid:3) Hỗ trợ cán cân thanh (cid:3) Viện trợ theo dự án (cid:3) Khác ........................

THÔNG TIN NGƯỜI TRẢ LỜI Đề nghị Ông/ bà cui lòng cho biết: Tên tổ chức Ông (bà) đang công tác:……………………………………………………………………. Vị trí của Ông/ Bà trong tổ chức: …………………………………………………………………….

Xin chân thành cảm ơn sự hợp tác của Ông/ Bà!

Phụ lục 04:

Nguồn vốn ODA ký kết phân theo giai đoạn, lĩnh vực, thời kỳ 1993-2012

Đơn vị tính: USD

Năm

Lâm nghiệp Nông nghiệp Thuỷ lợi

PTNT

Thuỷ sản Tổng ODA

Trước 1993-1995

Trước 1993 116,236,695

1,247,000

60,000,000

-

100,000 177,583,695

1993

1,500,000

30,204

90,782,225

- 8,478,000 100,790,429

1994

1,400,000

96,302,000

250,000

-

400,000

98,352,000

1995

22,194,000

444,000 175,886,857

330,000 77,670,000 276,524,857

Cộng

141,330,695

98,023,204 326,919,082

330,000 86,648,000 653,250,981

Tỷ lệ (%)

15%

8%

0%

24%

11%

12%

GĐ 1996-2000

1996

85,904,091

7,194,048

827,443

- 93,925,582

1997

83,135,159

29,404,904

1,875,000

- 7,555,000 121,970,063

1998

22,087,200 124,606,820

10,723,426 139,500,000

300,000 297,217,446

1999

28,996,400

2,977,475 101,800,000 18,570,000

9,757,000 162,100,875

2000

56,754,603

74,975,187

20,215,000

4,090,000 48,008,000 204,042,790

Cộng

276,877,453 239,158,434 134,613,426 162,987,443 65,620,000 879,256,756

Tỷ lệ (%)

29%

20%

5%

25%

18%

15%

GĐ 2001 -2005

2001

597,154

84,690,273 193,727,900

378,000

2,223,000 281,616,327

2002

38,769,496

705,020 114,785,800 82,574,916

9,100,000 245,935,232

2003

34,446,845

94,593,288

7,845,000 29,880,000

4,338,000 171,103,133

2004

55,441,651

32,350,796 294,516,100

8,250,000

3,360,000 393,918,547

2005

102,487,264

33,028,783 210,764,100 34,502,100 41,800,000 422,582,247

Cộng

231,742,410 245,368,160 821,638,900 155,585,016 60,821,000 1,515,155,486

Tỷ lệ (%)

24%

30%

24%

17%

21%

26%

GĐ 2006 -2012

2006

66,597,691

40,636,314 266,435,747 14,102,829

915,000 388,687,581

Năm

Lâm nghiệp Nông nghiệp Thuỷ lợi

PTNT

Thuỷ sản Tổng ODA

2007

51,725,000 110,428,645

41,951,800 169,572,000

3,650,850 377,328,295

2008

4,547,400 190,874,624

34,700,000

6,797,000

- 236,919,024

2009

24,425,000 120,741,130 165,891,163

916,200

7,129,264 319,102,757

2010

13,750,000

89,500 171,800,000

5,253,000

454,600 191,347,100

2011

31,200,363

3,731,700 481,104,945 129,218,200

772,772 646,027,980

2012

120,220,272 120,000,000 303,902,585 10,700,000 132,251,226 687,074,083

Cộng

312,465,726 586,501,913 1,465,786,240 336,559,229 145,173,712 2,846,486,820

Tỷ lệ (%)

32%

50%

53%

51%

41%

48%

962,416,284 1,169,051,711 2,748,957,648 655,461,688 358,262,712 5,894,150,043

Tổng toàn thời kỳ

100%

100%

100%

100%

100%

100%

(Nguồn: Vụ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn)