1<br />
<br />
MỞ ĐẦU<br />
1. Tính cấp thiết của đề tài<br />
1.1. Là một công cụ điều chỉnh hành vi con người trên cơ sở tự nguyện, tự giác,<br />
với nguyên tắc ưu tiên lợi ích xã hội, đạo đức xuất hiện, tồn tại trong tất cả các lĩnh vực<br />
hoạt động của con người, trong đó có lĩnh vực sản xuất kinh doanh (SXKD).<br />
Ở Việt Nam, đạo đức kinh doanh (ĐĐKD) được hình thành từ rất sớm, dẫu<br />
rằng ngành nghề kinh doanh trong xã hội Việt Nam thời xưa chưa được coi trọng.<br />
Có thể nhận thấy điều đó qua các câu châm ngôn, như làm ăn phải có chữ tín, một<br />
lần bất tín, vạn lần bất tin, trung thực... như là các quy tắc đạo đức mà mỗi người<br />
kinh doanh cần phải tuân thủ. Tuy nhiên, trong một xã hội chưa phát triển và ngành<br />
nghề kinh doanh chưa được coi trọng, đề cao thì vấn đề ĐĐKD chưa được các tầng<br />
lớp/ giai tầng chú ý.<br />
Ngày nay, với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội<br />
chủ nghĩa (XHCN), ở Việt Nam vấn đề ĐĐKD đã được chú trọng nghiên cứu<br />
ngày càng nhiều hơn. Bởi điều đó không chỉ giúp các nhà kinh doanh tăng lợi<br />
nhuận, mà còn giúp Việt Nam giải quyết được một số vấn đề, như ô nhiễm môi<br />
trường, phát triển con người, chất lượng cuộc sống,v.v.... Việt Nam mới chập<br />
chững bước vào kinh tế thị trường và vẫn còn chưa dứt bỏ hoàn toàn tàn dư của<br />
thời kinh tế tập trung, bao cấp, đặc biệt là cơ chế xin - cho, quan hệ thân quen<br />
vẫn tiếp tục gây nhức nhối trong một số lĩnh vực. Điều đáng lo ngại nhất khi<br />
Việt Nam bước vào nền kinh tế này nằm ở những lỗ hổng lớn là pháp luật, đạo<br />
đức và văn hoá kinh doanh. Bên cạnh đó, việc kết hợp giữa lợi ích trước mắt và<br />
lợi ích lâu dài cũng có không ít vấn đề cần được tính toán cẩn thận. Mọi nền<br />
kinh tế chuyển đổi đều chứa đựng trong bản thân nó rất nhiều cơ hội cho sự<br />
phát triển của từng người cũng như của cả đất nước nhờ việc tạo ra các động<br />
lực. Song cũng chính trong nền kinh tế đó lại chứa đựng đầy rẫy những hiểm<br />
họa và cạm bẫy do đạo đức suy thoái, do lợi ích trước mắt, lợi ích cá nhân, lợi<br />
ích nhóm được đặt lên hàng đầu trong điều kiện pháp luật chưa thật định hình<br />
và chưa đủ mạnh.<br />
<br />
2<br />
<br />
1.2. Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, kinh tế thị trường đang ngày càng phát<br />
triển mạnh mẽ đem lại những cơ hội to lớn, song cũng đặt ra không ít những khó<br />
khăn, thách thức cho mỗi quốc gia. Phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất<br />
là mục tiêu quan trọng của tất cả các nước. Quy luật khắc nghiệt của kinh tế thị<br />
trường được ví như cái mặt sàng mà qua sự sàng lọc của nó những ai không thích<br />
ứng sẽ bị đào thải. Thực tế qua 30 năm đổi mới, kinh tế - xã hội nước ta đã có<br />
những bước chuyển dịch to lớn, đạt được thành tựu trên nhiều mặt. Tuy nhiên, bên<br />
cạnh mặt tích cực, kinh tế thị trường cũng có những mặt tác động tiêu cực, đặc<br />
biệt là sự xuống cấp về đạo đức, lối sống của một bộ phận dân cư. Nổi bật trong<br />
lĩnh vực kinh tế là tình trạng vi phạm ĐĐKD. Lối sống thực dụng, cá nhân ích kỷ<br />
đã làm cho tình trạng tham nhũng, buôn lậu, lừa đảo… trong SXKD ngày càng có<br />
đà sinh sôi, nảy nở. Không ít những người kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận, vụ<br />
lợi cá nhân đã sản xuất hàng hóa trái phép, thải chất độc ra môi trường, buôn lậu,<br />
trốn thuế, buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng, đe dọa sức khỏe, tính mạng<br />
người tiêu dùng. Điều đó đặt ra những vấn đề quan trọng trong việc giáo dục<br />
ĐĐKD và giáo dục chuẩn mực đạo đức kinh doanh (CMĐĐKD) XHCN cho<br />
những người tham gia vào quá trình sản xuất ở Việt Nam hiện nay.<br />
1.3. Giai cấp nông dân (ND) Việt Nam có vị trí, vai trò, có bề dầy truyền thống,<br />
có đóng góp xứng đáng trong lịch sử dựng nước, giữ nước, trong đấu tranh cách mạng<br />
giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, cũng như trong công cuộc đổi mới, xây dựng<br />
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành<br />
Trung ương Đảng (khoá X) về "Nông nghiệp, nông dân, nông thôn" khẳng định:<br />
“Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp<br />
hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), xây dựng và bảo vệ tổ quốc, là lực lượng quan trọng<br />
để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ gìn ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc<br />
phòng, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái của đất<br />
nước…” [16; tr156]. Nghị quyết cũng đã đặt ra nhiệm vụ: “Chăm lo xây dựng giai cấp<br />
nông dân Việt Nam, củng cố liên minh công nhân – nông dân - trí thức trong thời kỳ<br />
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [16; tr178].<br />
<br />
3<br />
<br />
Hà Nội là trung tâm chính trị - văn hóa - xã hội của cả nước, là thành phố<br />
hướng tới công nghiệp hiện đại. Trong giai đoạn hội nhập hiện nay cùng với giai<br />
cấp công nhân và trí thức, ND thành phố Hà Nội đã và đang là lực lượng xã hội<br />
quan trọng góp phần phát huy vị thế của thủ đô trên nhiều mặt, đặc biệt trong đó có<br />
lĩnh vực phát triển kinh tế. Họ cũng đã nhận thức được vai trò của mình trong công<br />
cuộc xây dựng CNXH hiện nay và không ngừng tham gia vào quá trình SXKD, đẩy<br />
mạnh quá trình tái cơ cấu ngành gắn với xây dựng nông thôn mới, làm thay đổi bộ<br />
mặt nông thôn trên địa bàn thành phố.<br />
Tuy nhiên, hoạt động SXKD của người ND Hà Nội còn nhiều bất cập. Nhìn<br />
chung ND thu nhập còn thấp, mức sống chưa cao; sản xuất nông nghiệp còn manh<br />
mún, sản xuất nhỏ vẫn là chủ yếu; môi trường nông thôn ngày càng bị ô nhiễm; tư<br />
duy kinh tế gắn sản xuất với thị trường của người dân còn sơ khai, chưa được hình<br />
thành rõ nét; động cơ sản xuất còn chạy theo lợi nhuận trước mắt, ít quan tâm đến<br />
thương hiệu hàng hoá nông sản thông qua sự đảm bảo về xuất xứ, vệ sinh an toàn<br />
thực phẩm, ổn định chất lượng và số lượng, chủng loại… Điều này đang tạo nên<br />
những lo lắng của người dân trong thời gian gần đây, đặc biệt là nỗi bất an trước tình<br />
hình chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm. Người dân hoài nghi và không còn đủ<br />
niềm tin với cái gọi là “thực phẩm sạch”, bởi nếu “bỏ phiếu” cho rau thì không ít loài<br />
rau đã nhiễm chì và “ngậm” hóa chất trầm trọng; “bỏ phiếu” cho quả thì khá nhiều<br />
loại quả đã “ngấm” hóa chất bảo quản độc hại để tươi ngon lạ lùng hàng tháng trời;<br />
“bỏ phiếu” cho thịt, cá thì dư lượng hóa chất gây ung thư vượt ngưỡng…. Trong môi<br />
trường thiếu an toàn đó, đã đến lúc phải gióng lên hồi chuông cấp thiết về ĐĐKD.<br />
Do đó để nâng cao đạo đức trong kinh doanh cho người ND, giúp họ hình thành<br />
những chuẩn mực cơ bản của ĐĐKD thì việc giáo dục CMĐĐKD cho ND là một vấn<br />
đề quan trọng. Đó là một cơ sở quan trọng để xây dựng nền ĐĐKD XHCN ở nước ta<br />
giai đoạn hiện nay.<br />
Từ những lý do trên tác giả lựa chọn vấn đề “Giáo dục chuẩn mực đạo đức<br />
kinh doanh cho nông dân thành phố Hà Nội hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ<br />
chuyên ngành công tác tư tưởng.<br />
<br />
4<br />
<br />
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu<br />
2.1. Mục đích<br />
Mục đích của luận án là làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của giáo dục<br />
CMĐĐKD cho ND Việt Nam, từ đó đề xuất quan điểm, giải pháp cơ bản nhằm tăng<br />
cường giáo dục CMĐĐKD cho ND Hà Nội hiện nay.<br />
2.2. Nhiệm vụ<br />
- Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án.<br />
- Nghiên cứu, làm rõ cơ sở lý luận của việc giáo dục CMĐĐKD cho ND thành<br />
phố Hà Nội .<br />
- Phân tích, đánh giá thực trạng và những vấn đề đặt ra trong giáo dục CMĐĐKD<br />
cho ND ở thành phố Hà nội hiện nay, thông qua việc khảo sát các hộ ND và hợp tác xã<br />
ngoại thành Hà Nội.<br />
- Qua việc phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra, luận án đề xuất và luận<br />
giải cơ sở khoa học của những quan điểm, giải pháp nhằm tăng cường giáo dục<br />
CMĐĐKD cho ND ở Hà Nội hiện nay.<br />
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu<br />
4.1. Đối tượng nghiên cứu<br />
Giáo dục CMĐĐKD cho ND ở thành phố Hà Nội hiện nay.<br />
4.2. Phạm vi nghiên cứu<br />
- Thực trạng giáo dục CMĐĐKD cho ND được nghiên cứu từ năm 2008- là<br />
năm hợp nhất tỉnh Hà Tây và TP Hà Nội. Những quan điểm, giải pháp được đề xuất<br />
có ý nghĩa đến năm 2025.<br />
- Địa bàn khảo sát: Luận án chọn 6 huyện, trong đó 3 huyện thuộc địa bàn Hà<br />
Nội cũ, 3 huyện thuộc địa bàn tỉnh Hà Tây cũ, đặc trưng cho vùng nông thôn ngoại<br />
thành Hà Nội, gồm: Đông Anh, Thanh Trì, Sóc Sơn, Phú Xuyên, Quốc Oai, Ba Vì.<br />
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp luận nghiên cứu đề tài<br />
5.1. Cơ sở lý luận: Dựa trên cơ sở những nguyên lý lý luận chủ nghĩa Mác –<br />
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về đạo đức và giáo dục đạo đức<br />
trong SXKD; về vị trí, vai trò của giai cấp ND trong công cuộc xây dựng CNXH.<br />
<br />
5<br />
<br />
5.2. Cơ sở thực tiễn: Tình hình đạo đức nói chung, ĐĐKD của ND và thực<br />
trạng giáo dục CMĐĐKD cho ND TP Hà Nội hiện nay.<br />
5.3. Phương pháp nghiên cứu:<br />
Luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học, trong đó<br />
tập trung vào một số phương pháp cơ bản sau đây:<br />
- Trên cơ sở khoa học của phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử<br />
Đây là phương pháp cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin. Phương pháp này đòi<br />
hỏi: khi xem xét các hiện tượng và quá trình giáo dục phải đặt trong mối liên hệ tác<br />
động qua lại lẫn nhau, thường xuyên vận động, phát triển không ngừng, chứ không<br />
phải là bất biến. Quá trình phát triển là quá trình tích lũy những biến đổi về lượng<br />
dẫn đến những biến đổi về chất. Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy<br />
vật lịch sử trong nghiên cứu giáo dục CMĐĐKD cho ND thành phố Hà Nội để xem<br />
xét quá trình giáo dục gắn với những điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể, cũng<br />
như đặc điểm riêng của người ND.<br />
- Phương pháp phân tích và tổng hợp<br />
Với phương pháp này, tác giả luận án đi từ cái chung, đó là khái niệm, phạm<br />
trù cũng như những vấn đề lý luận cơ bản, cần thiết về giáo dục CMĐĐKD, để từ<br />
đó đi đến cái chi tiết của vấn đề mà luận án nghiên cứu- đó là giáo dục CMĐĐKD<br />
cho ND thành phố Hà Nội. Sau đó, tác giả lại đi từ cái riêng, cái cụ thể- đó là giáo<br />
dục CMĐĐKD cho ND ở một số huyện ngoại thành Hà Nội để khái quát thành<br />
những nội dung, phương thức giáo dục CMĐĐKD cho ND thành phố Hà Nội và ở<br />
các địa phương khác có đặc điểm tương đồng về kinh tế - xã hội. Trên cơ sở đó, liên<br />
kết từng mặt nghiên cứu đã được phân tích tạo ra hệ thống lý thuyết mới về<br />
CMĐĐKD và giáo dục CMĐĐKD cho ND.<br />
- Phương pháp trừu tượng hóa khoa học<br />
Luận án sử dụng phương pháp này để tạm thời gạt bỏ khỏi đối tượng nghiên cứu<br />
những biểu hiện ngẫu nhiên, cá biệt để đi sâu luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn<br />
đề cơ bản thuộc đối tượng nghiên cứu. Cụ thể là luận án tập trung nghiên cứu vấn đề<br />
giáo dục CMĐĐKD cho ND nói chung ở thành phố Hà Nội, mà không đi vào nghiên<br />
cứu từng người ND cụ thể hoặc từng thành phần trong cơ cấu giai cấp ND ở Hà Nội.<br />
<br />