intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Dược học: Nghiên cứu thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của một số nhà thuốc, quầy thuốc tại tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2012 - 2014

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:211

32
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung chính của luận án nhằm đánh giá thực trạng và xác định một số yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động nghề nghiệp của người quản lý chuyên môn tại một số nhà thuốc và quầy thuốc đạt tiêu chuẩn GPP trên địa bàn tỉnh Đồng Nai từ tháng 11/2012 - 9/2014. Đánh giá kết quả can thiệp bán thực nghiệm và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của các nhà thuốc và quầy thuốc đạt tiêu chuẩn GPP trên địa bàn tỉnh Đồng Nai từ tháng 10 -12/2014.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Dược học: Nghiên cứu thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của một số nhà thuốc, quầy thuốc tại tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2012 - 2014

  1. 2
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan bản luận án này là công trình nghiên cứu của riêng  tôi với sự hướng dẫn khoa học của tập thể cán bộ hướng dẫn. Các kết quả  nêu trong luận án là trung thực và được công bố  một  phần trong các bài báo khoa học. Luận án chưa từng được công bố. Nếu có  điều gì sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.       Tác giả NSC TRỊNH HỒNG MINH CÁN BỘ HƯỚNG DẪN 1 CÁN BỘ HƯỚNG DẨN 2
  3. PGS.TS. Phạm Đình Luyến                                     TS. Phan Văn Bình 4
  4. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục chữ viết tắt trong luận án Danh mục các bảng Danh mục các hình và biểu đồ TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN TT Phần viết  Phần viết đầy đủ tắt 1 BYT Bộ Y tế 2 CB, VC Cán bộ, viên chức 3 CCHN Chứng chỉ hành nghề 4 CĐD Cao đẳng dược 5 CM Chuyên môn 6 CP Chính phủ 7 ĐH Đại học 8 DSĐH Dược sĩ đại học 9 DSTC Dược sĩ trung cấp 10 DSC Dược sơ cấp 11 FIP Federation International Pharmaceutical (Liên đoàn  Dược phẩm Quốc tế 12 GCNĐĐKKD Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh 13 GPP Good pharmacy practice (Thực hành tốt nhà thuốc) 14 Hđnn Hoạt động nghề nghiệp 15 Sl Số lượng 16 SYT Sở Y tế 17 Tl Tỷ lệ 18 TP Thành phố 19 TT Thông tư 20 THCS Trung học cơ sở 21 THPT, TC, CĐ Trung học phổ thông, Trung cấp, Cao đẳng 22 TX Thị xã 23 WHO World Health Organization (Tổ chức Y tế thế giới) 6
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng Tên bảng Trang
  7. DANH MỤC CÁC HÌNH Hình Tên hình Trang DANH MỤC BIỂU ĐỒ Biểu đồ Tênbiểu đồ Trang 8
  8. 9 ĐẶT VẤN ĐỀ Thuốc là một loại hàng hóa đặc biệt nên hoạt động bán lẻ  thuốc là   một lĩnh vực kinh doanh luôn được sự quan tâm của toàn xã hội. Nhà nước  đã ban hành đạo đức hành nghề dược và các quy định quản lý, các cơ quan  quản lý nhà nước tiến hành giám sát hoạt động bán lẻ thuốcnhằm đảm bảo  thống nhất hoạt động bán lẻ  thuốc trên phạm vi cả  nước, thực hiện mục  tiêu: “Sử  dụng thuốc an toàn, hiệu quả, phục vụ  sự  nghiệp bảo vệ, chăm  sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân, đáp ứng yêu cầu hội nhập khu vực và   thế  giới” được nêu  trong đề  án “Phát triển công nghiệp Dược và xây  dựng mô hình hệ thống cung ứng thuốc của Việt Nam giai đoạn 2007 ­  2015 và tầm nhìn đến năm 2020” [1]. Kinh doanh thuốc còn là loại hình  kinh doanh có điều kiện nên mối quan hệ  giữa người bán và người mua   cũng không hoàn toàn là mối quan hệ “thuận mua, vừa bán” như những loại  hàng hóa khác mà phải thực hiện theo các quy định do nhà nước ban hành.  Chính vì vậy, việc người tham gia kinh doanh bán lẻ  thuốc tuân thủ  chặt  chẽ  những quy định sẽ  góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe   cho người mua thuốc nói riêng và toàn xã hội nói chung. Để  thực hiện mục tiêu nêu trên,  từ  năm 2007, nước ta cũng đã triển  khai áp dụng tiêu chuẩn GPP (thực hành tốt nhà thuốc) [2] cho hai loại hình   bán lẻ thuốc là nhà thuốc và quầy thuốc nhằm đưa hoạt động bán lẻ thuốc  vào những chuẩn mực chung của thế  giới. Trong tiêu chuẩn GPP, hoạt  động nghề nghiệp đóng vai trò quan trọng vì ảnh hưởng trực tiếp đến mục   tiêu sử  dụng thuốc an toàn, hiệu quả  cho   người dùng thuốc. Từ  khi áp  dụng tiêu chuẩn GPP ở nước ta đến nay, qua một số đề tài nghiên cứu cho   thấy cơ sở vật chất của các cơ sở bán lẻ thuốc đã có sự  thay đổi đáng kể, 
  9. 10 tuy nhiên hoạt động nghề nghiệp của người bán lẻ thuốc tại các cơ sở này  vẫn còn nhiều hạn chế và chưa được đánh giá một cách cụ thể. Cùng với sự phát triển chung của cả nước,  các cơ sở bán lẻ thuốc tại  tỉnh Đồng Nai cũng phát triển nhanh chóng về  số  lượng để  đáp  ứng cho  nhu cầu dùng thuốc của người dân trên địa bàn.Theo thống kê của Sở Y tế  Đồng Nai, tính đến cuối năm2013, đã có gần 2.000 cơ  sở  hành nghề  dược  tư  nhân bán lẻ thuốc chữa bệnh đã được cấp phép hoạt động với các loại   hình khác nhau, trong đó hai loại hình chủ yếu là nhà thuốc và quầy thuốc  [3].Kết quả  thanh, kiểm tra cũng đã cho thấy một số  hạn chế  trong hoạt   động nghề  nghiệp tại các cơ  sở  bán lẻ  thuốc nhưng chưa được thể  hiện  một cách đầy đủ. Chúng tôi cho rằng cần tiến hành một nghiên cứu nhằm   đánh giá việc chấp hành những quy định trong hoạt động nghề nghiệp của  các cơ sở bán lẻ thuốc từ đó tìm ra những yếu tố  ảnh hưởng đến kết quả  hoạt động,thực hiện bước can thiệp bán thử nghiệm ban đầu để làm cơ sở  kiến nghị với cấp thẩm quyền có những tác động phù hợp nhằm nâng cao   chất lượng hoạt động nghề  nghiệp của các cơ  sở  bán lẻ  thuốc.Chính vì  vậy, chúng tôi thực hiện đề  tài: “Nghiên cứu thực trạng và giải pháp   nhằm nâng cao chất lượng hoạt  động của một số  nhà thuốc, quầy   thuốc tại tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2012 ­ 2014 ”nhằmđạt các mục tiêu như  sau: 1. Đánh giá thực trạng và xác định một số  yếu tố   ảnh hưởng đến  hoạt động  nghề  nghiệp của người quản lý chuyên môn tại một số  nhà  thuốc và quầy thuốc đạt tiêu chuẩn GPP trên địa bàn tỉnh Đồng Nai từ  tháng 11/2012 ­ 9/2014.
  10. 11 2. Đánh giá kết quả can thiệp bán thực nghiệm và đề xuất giải pháp  nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của các nhà thuốc và quầy thuốc đạt  tiêu chuẩn GPP trên địa bàn tỉnh Đồng Nai từ tháng 10 ­12/2014. CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN 1.1. Cơ sở lý luận của nội dung nghiên cứu 1.1.1. Lý luận về  mối quan hệ  giữa nhận thức ­ hoạt động thực tiễn  và mối quan hệ giữa nhận thức – hành vi Chủ  nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng định khái niệm về  nhận  thức: Về bản chất, nhận thức là quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng  tạo thế  giới khách quan vào bộ  óc người trên cơ  sở  thực tiễn. Khái niệm   về thực tiễn: Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích,  mang tính lịch sử ­ xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.   Hoạt động thực tiễn rất đa dạng, phong phú và luôn luôn phát triển. Giữa   nhận thức và thực tiễn có mối quan hệ  qua lại, tác động lẫn nhau. Thực  tiễn là cơ  sở  của nhận thức, là động lực của nhận thức, là mục đích của  nhận thức và là tiêu chuẩn để  kiểm tra chân lý. Lý luận tích cực sẽ  thúc  đẩy thực tiễn. Lý luận, nhận thức xác định mục tiêu, phương hướng cho  hoạt động thực tiễn. Nếu lý luận đúng đắn, khoa học thì sẽ tạo điều kiện   để định hướng, chỉ đạo, điều chỉnh hoạt động thực tiễn, làm cho hoạt động  thực tiễn có hiệu quả [4]. Cùng với mối liên hệ giữa nhận thức và hoạt động thực tiễn, có mối  liên hệ giữa nhận thức và hành vi. Khái niệm về hành vi  theo từ điển tiếng  Việt: Hành vi con người là toàn bộ những phản ứng, cách cư xử, biểu hiện  ra   bên   ngoài   của   một   con   người   trong   một   hoàn   cảnh   thời   gian   nhất  
  11. 12 định.Theo thuyết nhận thức – hành vi thì hành vi của con người không phải   được tạo ra bởi môi trường, hoàn cảnh mà là do cách thức con người nhìn   nhận vấn đề tác động lên hành vi đó [5].  Xuất phát từ lý luận trên, khi xem xét sự tác động của nhận thức lên  hoạt động nghề  nghiệp của người bán lẻ  thuốc chính là xem xét sự  tác  động nhận thức của họ về những yếu tố ảnh hưởng lên các hành vi cụ thể  của bản thân người bán lẻ thuốc. 1.1.2. Lý luận về sự phù hợp của các văn bản quy phạm pháp luật Tính phù hợp của các văn bản quy phạm pháp luật được xem xét trên  một số lĩnh vực như sau: ­ Trước hết, các quy định pháp luật phải tạo ra được những điều  kiện thuận lợi cho sự phát triển nhanh, bền vững của kinh tế đất nước. ­Thứ hai là văn bản quy phạm pháp luật phải phù hợp với đường lối,   chính sách của Đảng.  ­ Thứ  ba, nội dung của các quy định pháp luật phải đảm bảo sự  tương quan giữa các loại lợi ích của các tầng lớp xã hội khác nhau có được  sự hài hoà và có thể chấp nhận được, lợi ích hợp pháp của tầng lớp xã hội   này không xung đột với lợi ích của các tầng lớp khác. Nếu không quan tâm   tới sự thống nhất, hài hoà giữa các loại lợi ích của các lực lượng khác nhau  trong quá trình xây dựng và thực hiện pháp luật thì có thể  dẫn đến nhiều  hiện tượng tiêu cực trong xã hội. ­ Thứ  tư, không chỉ  phù hợp với các điều kiện kinh tế  ­ xã hội của  đất nước,   hệ  thống pháp luật quốc gia còn phải phù hợp với pháp luật  quốc tế [6].  Từ  cơ  sở  lý luận về  sự  phù hợp của các văn bản quy phạm pháp  luật, khi nghiên cứu hoạt động của các cơ  sở  bán lẻ  thuốc, đây là hoạt   động kinh doanh có điều kiện được quản lý bằng văn bản pháp luật của  
  12. 13 nhà nước. Việc đánh giá sự  phù hợp của các quy định quản lý nhà nước  hiện hành đối với những người nhận sự tác động trực tiếp từ các quy định  đó đến hoạt động bán lẻ thuốc của bản thân họ và so với những đối tượng  khác trong cùng một lĩnh vực hoạt động là cần thiết. 1.1.3. Lý luận về sự đáp ứng của hoạt động quản lý nhà nước Quản lý nhà nước là quá trình tổ  chức, điều hành của hệ  thống cơ  quan hành chính nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động  của con người theo pháp luật nhằm đạt được những mục tiêu yêu cầu  nhiệm vụ  quản lý nhà nước [7].  Bắt đầu từ  thập niên 1990, thuật ngữ  “Quản trị  nhà nước” bắt đầu được sử  dụng. Mô hình “Quản trị  nhà nước  tốt” có tám đặc tính cơ bản là: Mở rộng sự tham gia của công dân vào hoạt   động quản lý nhà nước; hoạch định chính sách trên nguyên tắc đồng thuận   xã hội; nền hành chính có trách nhiệm giải trình; minh bạch; đáp ứng; hiệu  quả và hiệu lực; công bằng và thu hút; nhà nước pháp quyền. Trong đó hai  vấn đề có liên quan trực tiếp đến nội dung nghiên cứu của đề tài là:  + Mở  rộng sự  tham gia của công dân vào hoạt động quản lý nhà  nước:   Quản   trịnhà   nước   tốt   phải   huy   động   được   sựtham   gia   của   các  chủthểtrong xã hội vào hoạt động quản lýnhà nước, cụthểlà việc ban hành  các quyết định hành chính, các chính sách, biện pháp hành động. Thực tếcải  cách của nhiều nước cho thấy, việc gia tăng sựtham gia của người dân vào  hoạt động quản lýhành chính, cung cấp dịch vụcông đem lại nhiều lợi ích.   Thứnhất, các quyết định và chính sách của nhà nước được ban hành sát với  thực tếhơn nên hiệu quảvà hiệu lực được cải thiện hơn. Thứhai, thông qua   sựtham gia vào hoạt động quản lý của nhà nước, lòng tin của người dân  đối với nhà nước được tăng lên. + Đáp  ứng: Các thiết chếtổ  chức và các quy trình hành chính phải  phục vụtổ chức và công dân trong khoảng thời gian thích hợp. Các quy định 
  13. 14 của pháp luật phải được ban hành kịp thời, đúng đắn theo yêu cầu của thực  tiễnđời sống. Các cá nhân, tổ  chức thực thi pháp luật cần sáng tạo, linh  hoạt trong quá trình thực thi nhiệm vụ để đáp ứng tốt các yêu cầu của công  dân [8]. Với cơ sở lý luận trên, trong luận án này, chúng tôi nghiên cứu sự đáp  ứng của các hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước đối với những người  nhận sự tác động trực tiếp từ các hoạt động đó đến hoạt động kinh doanh  bán lẻ thuốc của bản thân họ. 1.1.4. Lý luận về nhận thức những lợi ích trong hoạt động kinh doanh  bán lẻ thuốc Hiện nay,  ở nước ta đang xây dựng một nền kinh tế thị trường theo   định hướng xã hội chủ  nghĩa có sự  quản lý của nhà nước và coi đó là mô  hình phát triển kinh tế phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển   kinh tế của thế giới. Nhưng rõ ràng là, cho đến nay, khi nước ta đã trải qua  gần 30 năm tiến hành đổi mới nhưng nền kinh tế thị trường vẫn đang trong  tiến trình hoàn thiện cả  về  cơ  chế  thị  trường lẫn thể chế  xã hội. Vì thế,  phương thức kinh doanh và hành lang pháp lý cho hoạt động kinh doanh  vẫn còn chưa hoàn toàn đầy đủ. Do đó, hoạt động kinh doanh còn nhiều  lĩnh vực chưa tuân thủ  theo pháp luật và chưa được bảo đảm bằng hệ  thống pháp luật và ngay cả  những chuẩn mực đạo đức kinh doanh cũng  chưa hình thành một cách đầy đủ, thậm chí cả  các chuẩn mực, các giá trị  đạo đức đã có cũng không được nhiều doanh nghiệp quan tâm [9].  Vì thuốc là hàng hóa đặc biệt, hoạt động kinh doanh mặt hàng thuốc  ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của người bệnh, vì vậy kinh doanh  thuốc khác với một số ngành nghề kinh doanh khác, đó là ngành nghề kinh   doanh có điều kiện, với các tiêu chí cơ bản sau đây:
  14. 15 ­ Cơ  sở  vật chất, kỹ  thuật và nhân sự  có trình độ  chuyên môn cần  thiết cho từng loại hình. ­ Người quản lý chuyên môn và nhân sự  hoạt động tuân thủ  theo  những quy định hiện hành. ­ Người hành nghề dược có trách nhiệm thực hiện 12 điều quy định   về Y đức, đồng thời phải có những chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp riêng  – Đạo đức hành nghề  dược –để  rèn luyện, tu dưỡng, phấn đấu góp phần   thực hiện sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân [10]. Mặc dù đã có  quy  định rất cụ  thể  về   đạo  đức hành nghề  dược,  nhưng trong hoạt động bán lẻ thuốc không phải người hành nghề nào cũng  nhận thức được nhữnglợi ích mà họ nhận được cho bản thân cũng như cho  cộng đồng (là những người mua thuốc tại cơ  sở  của họ) thông qua quá   trình hoạt động nghề nghiệp và tuân thủ đạo đức hành nghề. Vì vậy, việc  nghiên cứu và giúp cho người hành nghề hiểu rõ những lợi ích mà họ nhận  được trong quá trình hoạt động sẽ  góp phần thúc đẩy họ  tuân thủ  các quy  định quản lý cũng như những quy định trong đạo đức hành nghề dược. 1.1.5. Lý luận về mối liên hệ giữa người bán và người mua trong hoạt   động bán lẻ thuốc Trong hoạt động bán lẻ thuốc, mối quan hệ giữa người bán và người   mua không chỉ  đơn thuần là mối quan hệ  “thuận mua – vừa bán” mà phải   thực hiện theo những quy định cụ thể như sau: + Người bán lẻ thuốc: Thực hiện những quy định được nêu rõ trong   Luật Dược, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật [11] và trong tiêu chuẩn  GPP (trong phần hoạt động nghề nghiệp) [2]. +  Người sử  dụng thuốc: Có quyền lựa chọn cơ  sở  bán lẻ  thuốc để  mua thuốc;  thực hiện theo  đúng hướng dẫn  đã ghi trong  đơn thuốc, tờ 
  15. 16 hướng dẫn sử dụng thuốc và hướng dẫn sử  dụng thuốc của người bán lẻ  thuốc[11]. Từ  những quy định trên, để  người mua thuốc có thể  chọn lựa được   cơ  sở  bán lẻ  thuốc đạt chuẩn theo quy định để  mua thuốc cũng như  cùng   với hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước góp phần giám sát hoạt động   của người bán thì người mua thuốc cũng cần có kiến thức, thái  độ  và  những hành vi đúng khi thực hiện hoạt động mua thuốc của họ. 1.1.6. Cơ  sở  lý luận về  tiêu chuẩn “GPP: Thực hành tốt nhà thuốc”   của thế giới 1.1.6.1. Khái niệm về “Thực hành tốt nhà thuốc” GPP là thực hành của nhà thuốc nhằm đáp  ứng nhu cầu của những  người sử  dụng dịch vụ  dược để  cung cấp tối  ưu, chăm sóc sức khỏe dựa  trên bằng chứng. Để  hỗ  trợ  hoạt động này thì điều cần thiết là phải thiết  lập một tiêu chuẩn quốc gia về  chất lượng và hướng dẫn (FIP và WHO) [12]. 1.1.6.2. Lịch sử hình thành và phát triển của tiêu chuẩn “Thực hành tốt   nhà thuốc” Theo Tổ  chức Y tế  thế  giới (WHO), chiến lược sửa đổi về  thuốc  được thông qua tại Đại hội Y tế thế giới trong năm 1986, WHO đã tổ chức  hai cuộc họp  ở  Delhi­  Ấn Độ  vào năm 1988và tại Tokyo­ Nhật Bản vào  năm 1993 để thảo luận và ban hành các Nghị quyết về vai trò của các dược   sĩ vào năm 1994 [13]. Năm 1996,   FIPphát triển các tiêu chuẩn chodịch vụ  nhà thuốc với  tiêu đề  “thực hành tốt nhà thuốc trong cộng đồng vàthiết lập nhà thuốc   bệnh viện” và phối hợp với WHO ban hành [14]. Đến năm 1997, FIP và  WHO đã chỉnh sửa và ban hành tài liệu “Thực hành tốt nhà thuốc­ (GPP)”  và chính thức được xuất bản vào năm 1997 [15].
  16. 17 Phối hợp với WHO, năm 2006,FIP đã xuất bản cuốn cẩm nang tựa  đề   “Phát   triển   nhà   thuốc   thực   hành   –   tập   trung   vào   chăm   sóc   bệnh  nhân” [16]. Năm 2009, phiên bản GPP đã được chỉnh sửa lần đầu trong tháng 10   năm 2009[17]. Tiếp theo, năm 2011, WHO đã cùng với FIP xây dựng lại tiêu chuẩn   GPP của thế giới [12]. 1.1.6.3. Những yêu cầu của tiêu chuẩn“Thực hành tốt nhà thuốc” ­ Mối quan tâm đầu tiên trong tất cả  các hoạt động là phúc lợi của   bệnh nhân. ­ Yêu cầu cốt lõi trong hoạt động của nhà thuốc là: cung cấp thuốc  và các sản phẩm chăm sóc sức khỏe có chất lượng đảm bảo, thông tin và   tư vấn thích hợp. ­ Có chương trình khuyến mãi hợp lý theo quy định. ­ Mọi hoạt động cung cấp thuốc cho bệnh nhân phải được quy định  rõ ràng và tất cả mọi người tham gia đều phải nắm vững. ­ Có sự hợp tác đa ngành giữa các chuyên gia chăm sóc sức khỏe [12]. GPP cũng đặt ra yêu cầu cho mỗi quốc gia phải thiết lập: ­ Một khung pháp lý: +  Xác định những người có thể tham gia thực hành dược; + Xác định phạm vi hành nghề dược; +  Đảm bảo tính toàn vẹn của chuỗi cung ứng và chất lượng thuốc. ­  Một khuôn khổ lực lượng lao động: + Đảm bảo năng lực của các nhân viên nhà thuốc thông qua quá trình  tiếp tục đào tạo chuyên nghiệp.  + Xác định các nguồn nhân lực cần thiết để cung cấp GPP. ­  Một khuôn khổ kinh tế:
  17. 18 Cung cấp đủ  nguồn lực và động lực được sử  dụng một cách hiệu  quả để đảm bảohoạt động thực hiện trong GPP. 1.1.6.4. Một  số  điều kiện cần thiết  để  thực hiện tiêu chuẩn “Thực   hành tốt nhà thuốc” ­ Phải quan tâm đến sức khỏe bệnh nhân trên nền tảng của yếu tố  đạo đức và kinh tế.  ­ Các dược sĩ phải có kiến thức chuyên môn sâu về thuốc. ­ Thiết lập được mối quan hệ tin cậy lẫn nhau giữa dược sĩ với các  chuyên gia y tế khác, đặc biệt là bác sĩ. ­ Thiết lập mối quan hệ đồng nghiệp giữa các dược sĩ để  cải thiện  dịch vụ dược phẩm, không phải là đối thủ cạnh tranh. ­ Trong quá trình vận hành, các nhà quản lý dược phải có trách nhiệm   xây dựng các chính sách, các biện pháp đánh giá và nâng cao chất lượng. ­ Dược sĩ cần phải nhận thức cần thiết về  thông tin y tế  và dược   phẩm của mỗi bệnh nhân. Thu thập thông tin như  vậy được thực hiện dễ  dàng hơn nến bệnh nhân chỉ  chọn một nhà thuốc để  mua thuốc hoặc nếu   hồ sơ về thuốc của bệnh nhân có lưu trữ sẵn tại nhà thuốc. ­ Dược sĩ cần dựa trên bằng chứng, không thiên vị, toàn diện, khách   quan và thông tin hiện tại về trị liệu, trong sử dụng thuốc và các sản phẩm  chăm sóc sức khỏe khác, bao gồm cả nguy cơ môi trường từ thuốc. ­ Các dược sĩphải tự  xây dựng trách nhiệm cá nhân cho việc duy trì  và đánh giá năng lực chuyên môncủa mình trong công việc. Trong khi tự  giám sát là rất quan trọng, cũng cần phải có các tổ  chức chuyên nghiệp  quốc gia về dược chịu trách nhiệm cũng trong việc bảo đảm dược sĩduy trì  các tiêu chuẩn và tuân thủ yêu cầu phát triển nghề nghiệp liên tục.
  18. 19 ­ Các chương trình giáo dục cho người nhập cư  liên quan đến hành  nghề dược nên giải quyết một cách hợp lý cả hai cho hiện tại và tương lai   trong thực hành dược. ­ Chuẩn quốc gia về GPP phải được quy định và phải được tôn trọng   bởi tất cả những người tham gia trong lĩnh vực hành nghề [12]. 1.1.6.5. Các vai trò chính của dược sĩ trong tiêu chuẩn “Thực hành tốt   nhà thuốc”năm 2011 * Vai trò 1: Chuẩn bị, thu thập, lưu trữ, bảo mật, phân phối, quản lý,  phân phát và xử lý các sản phẩm y tế, gồm 6 chức năng. * Vai trò 2: Quản lý quá trình cung cấp thuốc điều trị  một cách hiệu  quả, gồm 4 chức năng. *  Vai trò 3: Duy trì và cải thiện hoạt động của bản thân, 01 chức  năng. * Vai trò 4: Góp phần cải thiện hiệu quả của hệ thống chăm sóc sức  khỏe và y tế công cộng, gồm 4 chức năng. Tóm lại:Những vai trò này có thể  thay đổi cho mỗi cá nhân phụ  thuộc vào trách nhiệm của mỗi dược sĩ hành nghề.Các tiêu chuẩn cụ  thể  của GPP chỉ có thể được phát triển trong một nhà thuốc có cơ cấu tổ chức  đúng theo quy định[12]. Hướng dẫn này được khuyến cáo như  là một tập hợp các mục tiêu  nghề  nghiệp nhằm đáp  ứng sự  quan tâm của bệnh nhân và các bên liên  quan khác trong ngành dược phẩm. Trách nhiệm này thuộc về  các hiệp   hội chuyên nghiệp về thuốc  ở mỗi quốc gia. Đạt được các tiêu chuẩn cụ  thể  của GPP cho mỗi quốc gia theo các khuyến nghị  có thể  đòi hỏi thời   gian và nỗ lực đáng kể. Theo các chuyên gia y tế, các quốc gia và dược sĩ  có nhiệm vụ  phải bắt đầu quá trình không được chậm trễ.Tài liệu cũng 
  19. 20 hướng dẫn mỗi quốc gia nên xây dựng các tiêu chuẩn chất lượng cho   quốc gia của mình theo tình hình thực tế[12].   1.1.6.6.Hoạt   động của người quản lý chuyên môn tại các nhà thuốc   cộng  đồng đạt tiêu chuẩn GPP của một số  khu vực và các nước trên   thế giới ­Khu vực Châu Âu Tỷ lệ và số lượng trung bình dược sĩ có mặt tại nhà thuốc khác nhau   giữa các nước trong khu vực Châu Âu:  + Tại nước Đức:Số  lượng dược sĩtrung bình tại nhà thuốc là 2,3;  ngoài dược sĩchủ  nhà thuốc,còn có các nhân viên khác, trung bình một nhà   thuốc có 7 người cả  chủ  nhà thuốc và nhân viên; thời gian thực tập nghề  một năm [18], [19]. + Tại nước Pháp: Số lượng dược sĩ trung bình tại nhà thuốc 2,4; mỗi  nhà thuốc thường có 01 dược sĩ làm chủ  và một hoặc hai dược sĩ là nhân   viên; thời gian thực tập nghề bốn năm[20], [21]. + Tại nước Anh: Số lượng dược sĩ trung bình tại nhà thuốc là 2; thời   gian thực tập nghề bốn năm [22]. + Tại nước Hà Lan: Số lượng dược sĩ trung bình tại nhà thuốc là 2;  thời gian thực tập nghề hai năm [23]. Mỗi nước trong Châu Âu có những quy định về  hành nghề  riêng và  tiêu  chuẩn   GPP   riêng,  nhưng  về   cơ   bản   tuân  thủ   tiêu   chuẩn   GPP   theo   hướng dẫn của WHO và FIP. Tiêu chuẩn GPP của Châu Âu cũng rất quan   tâm đến vai trò của dược sĩ trong lĩnh vực chăm sóc dược phẩm. Các hoạt động nâng cao vai trò của dược sĩ: Chuyển mô hình hoạt  động chủ yếu là từ  cung cấp dịch vụ dược phẩm sang mô hình dịch vụ  và  tư vấn:
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2