
7
trung vào bảo vệ hệ thống và dữ liệu của tổ chức. Kiến trúc an ninh đảm bảo tính bảo mật và
tuân thủ các quy định và chuẩn mực liên quan đến an ninh thông tin.
1.1.2. EA và các vấn đề công nghệ có liên quan
Trong một nghiên cứu của Rosing (Rosing và cộng sự, 2011) đã nhấn mạnh “Kết hợp
EA và BPM (Business Process Management) là tạo những vùng nghiên cứu mới để giúp cho
các doanh nghiệp ra tăng lợi thế cạnh tranh”, tác giả này cũng chỉ ra rằng, kết hợp giữa EA
và BPM là một trong các giải pháp phù hợp cho các dự án CNTT phức tạp.
Kiến trúc hướng dịch vụ - SOA (Service Oriented Architecture) xuất hiện như một
phương pháp xây dựng phần mềm có những ưu thế phù hợp với các dự án phần mềm quy
mô lớn (Hanschke & cộng sự, 2015). Trong nghiên cứu của Lapalme & cộng sự (2016) thì
SOA có vai trò trong việc tích hợp các hệ thống thông tin với nhau tạo thành một hệ thống
thông tổng tin tổng thể (Enterprise Information System) và được sử dụng trong triển khai
EA như là một kiến trúc thành phần để kết nối các hệ thống thông tin với nhau. Quan điểm
này phù hợp với đề xuất của Yuliana & Rahardjo (2016) khi dịch chuyển từ kiến trúc hiện
tại (kiến trúc cơ sở) sang kiến trúc tương lại (kiến trúc đích). Luận án này được thực nghiệm
dựa trên khung kiến trúc TOGAF kết hợp SOA và sử dụng phương pháp phát triển phần
mềm linh hoạt (Agile Development Method).
Như vậy, kết hợp SOA trong TOGAF và sử dụng phương pháp AGILE sẽ giải quyết được
các vấn đề phát sinh trong quá trình chuyển đổi từ hệ thống thông tin tiện tại sang hệ thống trong
tương lai, đảm bảo sự liên kết công nghệ thông tin và quy trình nghiệp vụ.
1.1.3. EA và giáo dục đại học
Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ 4.0, chuyển đổi số trở
thành xu hướng tất yếu, tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đặc biệt
trong lĩnh vực giáo dục. Chuyển đổi số hiện nay là một phần tất yếu trong quá trình phát
triển của giáo dục đại học, giúp nâng cao hiệu lực hiệu quả quản trị, nâng cao chất lượng
đào tạo, phục vụ cho sự phát triển của đất nước Vũ Hải Quân (2021). Theo quan điểm của
Vũ Hải Quân (2021) đưa ra mô hình tổng quan về chuyển đổi số (CĐS) trong giáo dục đại
học, bao gồm các tác nhân, thành phần và hiệu quả. Theo đó, ba tác nhân thúc đẩy quá trình
CĐS ở một trường đại học là: (1) ngân sách nhà nước ngày càng giảm; (2) kỳ vọng ngày
càng cao của người học; (3) công nghệ ngày càng phát triển. Ba thành phần cơ bản của quá
trình CĐS gồm: (1) con người; (2) chiến lược; (3) công nghệ. Bốn hiệu quả được kỳ vọng
khi thực hiện CĐS là (1) nâng cao chất lượng đào tạo, (2) nâng cao hiệu quả nghiên cứu, (3)
xuất hiện những phương thức/mô hình đào tạo mới, và (4) gia tăng nguồn lực tài chính.
1.2. Tổng quan về việc áp dụng EA
1.2.1. Tình hình áp dụng EA và các nghiên cứu liên quan
Syynimaa (2015) đã tiến hành đánh giá tài liệu có hệ thống (SLR) về việc áp dụng
EA. Các phát hiện chỉ ra rằng trong số 20 bài báo, 12 bài báo đã tiến hành nghiên cứu trong
khu vực công, 07 bài báo tiến hành trong khu vực tư nhân và 01 bài trong ngành kinh
doanh. Trong số các bài báo đó, tác giả đã xác định 25 nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng
EA và phân loại chúng thành ba loại (nhóm), gồm: Tổ chức (ví dụ: giao tiếp, văn hóa tổ
chức và sự phù hợp trong thay đổi), Mô hình EA (ví dụ, định nghĩa về EA và lựa chọn mô
hình EA) và nhóm các nhân tố Môi trường và thể chế (ví dụ: về quy trình, hỗ trợ cấp cao
và áp lực/khởi xướng áp dụng EA).
8
Như vậy, từ các nghiên cứu đánh giá tài liệu một cách có hệ thống (SLRs) cho thấy
việc áp dụng EA trong các trường đại học ở Việt Nam còn khiêm tốn, đặc biệt cách thức
chuyển đổi hệ thống khả thi trong tương lai trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay của các
trường đại học ở Việt Nam.
1.2.2. Quy trình xây dựng EA
Thông thường một dự án EA có quy mô rất lớn, vì vậy EA được áp dụng vào các
tổ chức thông qua các chương trình hoặc dự án nhằm phát triển và triển khai EA vào các
hoạt động thực tế. Quá trình đưa EA vào thực tiễn được gọi là quy trình áp dụng EA.
Tuy nhiên, sẽ có sự khác biệt giữa lý thuyết và thực tế khi áp dụng EA trong các tổ chức.
Theo Yuliana & Rahardjo (2016) sẽ có 4 bước để áp dựng EA vào thực tế:
Mô tả kiến trúc hiện tại (As-Is): Là quá trình khảo sát và đánh giá hiện trạng, tiến hành
dựng lại kiến trúc hiện tại của hệ thống. Từ đó có thể xác định được vấn đề của hệ thống hiện
tại.
(1) Mô tả kiến trúc tương lai (To-Be): Là mô tả kiến trúc cần đạt tới của tổ chức dựa
trên khung kiến trúc tổng thể, tầm nhìn và sự lựa chọn công nghệ.Phân tích khác biệt
(Stategy of Change): Bằng việc so sánh kiến trúc hiện tại và kiến trúc tương lai, chúng ta
tìm và phân tích các điểm khác biệt giữa chúng. Các điểm khác biệt là căn cứ để chúng ta
lập kế hoạch chuyển đổi.
(2) Kế hoạch chuyển đổi (Transition Plan): Từ kiến trúc hiện tại và kiến trúc tương
lai, xây dựng các bước bao gồm các giải pháp, trình tự và độ ưu tiên cần thực hiện để
chuyển từ As-Is sang To-Be.
Tóm lại, quy trình này không chỉ giúp tổ chức hiểu rõ kiến trúc tổng thể của mình mà
còn giúp tối ưu hóa hoạt động, cải thiện hiệu suất và đảm bảo sự linh hoạt của tổ chức trong
việc thích nghi với sự thay đổi trong tương lai.
1.2.3. Tình hình áp dụng EA trên các nước trên thế giới
Các nghiên cứu đã chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình áp dụng EA trong các tổ
chức công, bao gồm: môi trường, quy trình, sự hỗ trợ của lãnh đạo, công nghệ, áp lực, lợi ích,
kỹ năng quản lý, nhận thức (truyền thông), chính sách, con người, giao tiếp. Đây là cơ sở để
phát triển các yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng EA trong các trường đại học công lập nói
chung và các trường đại học khối sư phạm nói riêng của Việt Nam.
1.2.4. Thực trạng áp dụng EA ở Việt Nam
Các nghiên cứu về EA trong bối cảnh Việt Nam rất đa dạng, chủ yếu tập trung ở các
khối Chính phủ nhằm ban hành khung Kiến trúc Chính phú điện tử theo các Bộ ngành. Như
vậy, trước thách thức về CĐS trong giáo dục đại học, các nghiên cứu về việc áp dụng EA
trong các trường đại học công lập còn khá khiêm tốn.
1.2.5. Tình hình áp dụng EA tại các trường đại học ở Việt Nam
Trong nghiên cứu của Nguyễn Ái Việt và cộng sự (2015) chỉ ra rằng xây dựng
trường đại học điện tử có nghĩa là phát triển ứng dụng CNTT làm thay đổi phương thức
quản lý của nhà trường từ văn bản giấy sang văn bản điện tử. Trong kết quả nghiên cứu của
Nguyễn Thanh Tuấn (2015) về việc “Xây dựng mô hình Quản lý toàn diện trường đại học
URP (University Resource Planning) ứng dụng trong các trường đại học ở Việt Nam” đề
xuất mô hình lý thuyết toàn diện về URP cho các trường đại học Việt Nam nhằm hỗ trợ