Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Chính sách của chính quyền Sài Gòn đối với người Hoa ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975
lượt xem 67
download
Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Chính sách của chính quyền Sài Gòn đối với người Hoa ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975 tập trung tìm hiểu về chính sách kinh tế, tổ chức xã hội của chính quyền Sài Gòn đối với người Hoa ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Chính sách của chính quyền Sài Gòn đối với người Hoa ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH -------------------------- TRỊNH THỊ MAI LINH CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH QUYỀN SÀI GÒN ĐỐI VỚI NGƯỜI HOA Ở MIỀN NAM VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955 – 1975 Chuyên ngành: LỊCH SỬ VIỆT NAM Mã số: 62 22 03 13 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. TS. LÊ HUỲNH HOA 2. PGS. TS. PHAN AN Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2014
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu được sử dụng trong luận án có nguồn gốc rõ ràng. Những đánh giá, nhận định trong luận án do cá nhân tôi nghiên cứu trên những tư liệu xác thực. Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan danh dự này. Tác giả Trịnh Thị Mai Linh 2
- MỤC LỤC BẢNG DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT .................................................................................................. 1 MỞ ĐẦU ............................................................................................................................................................ 2 1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................................................ 2 2. Nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................................................................... 3 3. Mục đích nghiên cứu .......................................................................................................................... 4 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ......................................................................................................... 4 6. Nguồn tài liệu, tư liệu của luận án .................................................................................................... 6 7. Đóng góp của luận án ......................................................................................................................... 7 8. Cấu trúc của luận án .......................................................................................................................... 8 Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN, CÁCH TIẾP CẬN VẤN ĐỀ, TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, TỔNG QUAN VỀ NGƯỜI HOA VÀ CHÍNH QUYỀN SÀI GÒN Ở MIỀN NAM VIỆT NAM ...................................................9 1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN, CÁCH TIẾP CẬN, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.......................................... 9 1.1.1.Cơ sở lí luận ....................................................................................................................................................9 1.1.2.Cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu.................................................................................................................16 1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ NGƯỜI HOA Ở VIỆT NAM .......................................................18 1.2.1.Trên phương diện nghiên cứu lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa, chính sách của các chính quyền Việt Nam đối với người Hoa ở Việt Nam......................................................................................19 1.2.2.Trên phương diện nghiên cứu hoạt động kinh tế của người Hoa ở Việt Nam.......................................22 1.2.3.Trên phương diện nghiên cứu hoạt động văn hóa – xã hội của người Hoa ở Việt Nam ......................24 1.3. TỔNG QUAN VỀ NGƯỜI HOA VÀ SỰ RA ĐỜI CỦA CHÍNH QUYỀN SÀI GÒN Ở MIỀN NAM VIỆT NAM .............................................................................................................................28 1.3.1.Khái quát về cộng đồng người Hoa ở Việt Nam trước năm 1955 ..........................................................28 1.3.2.Khái quát về sự ra đời của chính quyền Sài Gòn ở miền Nam Việt Nam..............................................38 Chương 2: CHÍNH SÁCH VỀ QUỐC TỊCH CỦA CHÍNH QUYỀN SÀI GÒN ĐỐI VỚI NGƯỜI HOA Ở MIỀN NAM VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955 – 1975 ...............................................................................44 2.1. HOÀN CẢNH RA ĐỜI CHÍNH SÁCH VỀ QUỐC TỊCH CỦA CHÍNH QUYỀN SÀI GÒN ĐỐI VỚI NGƯỜI HOA Ở MIỀN NAM VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955 – 1975 ...................................44 2.1.1.Chính sách về quốc tịch của một số chính quyền Đông Nam Á đối với người Hoa ở Đông Nam Á.44 2.1.2.Tình hình quốc tịch của người Hoa ở Việt Nam trước năm 1955...........................................................46 2.2. NỘI DUNG CHÍNH SÁCH VỀ QUỐC TỊCH CỦA CHÍNH QUYỀN SÀI GÒN ĐỐI VỚI NGƯỜI HOA Ở MIỀN NAM VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955 – 1975 .........................................................48 2.2.1.Về việc xác định quốc tịch cho người Hoa ở miền Nam Việt Nam .......................................................48 2.2.2.Về việc nhập tịch cho người Hoa ở miền Nam Việt Nam .......................................................................53 2.2.3.Vấn đề hồi hương và trục xuất người Hoa ở miền Nam Việt Nam ........................................................63 3
- 2.3. TÁC ĐỘNG TỪ CHÍNH SÁCH VỀ QUỐC TỊCH CỦA CHÍNH QUYỀN SÀI GÒN ĐỐI VỚI NGƯỜI HOA Ở MIỀN NAM VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955 – 1975 ...........................................67 2.3.1.Đối với cộng đồng người Hoa ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975 .....................................67 2.3.2.Đối với chính quyền Sài Gòn ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975 ......................................78 Chương 3 CHÍNH SÁCH VỀ KINH TẾ CỦA CHÍNH QUYỀN SÀI GÒN ĐỐI VỚI NGƯỜI HOA Ở MIỀN NAM VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955 – 1975 ............................................................................87 3.1. HOÀN CẢNH RA ĐỜI CHÍNH SÁCH VỀ KINH TẾ CỦA CHÍNH QUYỀN SÀI GÒN ĐỐI VỚI NGƯỜI HOA Ở MIỀN NAM VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955 – 1975 ...........................................87 3.1.1.Chính sách về kinh tế của một số chính quyền Đông Nam Á đối với người Hoa ở Đông Nam Á.....87 3.1.2.Tình hình hoạt động kinh tế của người Hoa ở Việt Nam trước năm 1955.............................................89 3.2. NỘI DUNG CHÍNH SÁCH VỀ KINH TẾ CỦA CHÍNH QUYỀN SÀI GÒN ĐỐI VỚI NGƯỜI HOA Ở MIỀN NAM VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955 – 1975 .........................................................93 3.2.1.Đối với tổ chức kinh tế của người Hoa ở miền Nam Việt Nam ..............................................................93 3.2.2.Đối với hoạt động kinh tế của người Hoa ở miền Nam Việt Nam .........................................................96 3.3. TÁC ĐỘNG TỪ CHÍNH SÁCH VỀ KINH TẾ CỦA CHÍNH QUYỀN SÀI GÒN ĐỐI VỚI NGƯỜI HOA Ở MIỀN NAM VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955 – 1975 .......................................................................102 3.3.1.Đối với cộng đồng người Hoa ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975 .................................. 102 3.3.2.Chính quyền Sài Gòn đối phó với những phản ứng từ chính sách về kinh tế của chính quyền Sài Gòn đối với người Hoa ở miền Nam Việt Nam ............................................................................................. 114 Chương 4: CHÍNH SÁCH VỀ TỔ CHỨC XÃ HỘI CỦA CHÍNH QUYỀN SÀI GÒN ĐỐI VỚI NGƯỜI HOA Ở MIỀN NAM VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955 – 1975 .............................................122 4.1. HOÀN CẢNH RA ĐỜI CHÍNH SÁCH VỀ TỔ CHỨC XÃ HỘI CỦA CHÍNH QUYỀN SÀI GÒN ĐỐI VỚI NGƯỜI HOA Ở MIỀN NAM VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955 – 1975 ............................................. 122 4.1.1.Chính sách về tổ chức xã hội của các chính quyền Đông Nam Á đối với người Hoa ở Đông Nam Á122 4.1.2.Tình hình tổ chức xã hội của người Hoa ở Việt Nam trước năm 1955 ............................................... 124 4.2. NỘI DUNG CHÍNH SÁCH VỀ TỔ CHỨC XÃ HỘI CỦA CHÍNH QUYỀN SÀI GÒN ĐỐI VỚI NGƯỜI HOA Ở MIỀN NAM VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955 – 1975 .........................................129 4.2.1.Dưới hình thức xã hội................................................................................................................................ 129 4.2.2.Dưới hình thức văn hóa............................................................................................................................. 135 4.3. TÁC ĐỘNG TỪ CHÍNH SÁCH VỀ TỔ CHỨC XÃ HỘI CỦA CHÍNH QUYỀN SÀI GÒN ĐỐI VỚI NGƯỜI HOA Ở MIỀN NAM VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955 – 1975 .................................143 4.3.1.Hoạt động dưới hình thức xã hội, văn hóa của cộng đồng người Hoa ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975 ...................................................................................................................................... 143 4.3.2.Chính quyền Sài Gòn đối phó với phản ứng đối với chính sách về tổ chức xã hội của chính quyền Sài Gòn đối với người Hoa ở miền Nam Việt Nam .............................................................................. 154 KẾT LUẬN....................................................................................................................................................164 CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ...........................................................172 4
- TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................................................173 PHỤ LỤC ......................................................................................................................................................192 5
- 1 BẢNG DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 1. BQT: Ban Quản trị 2. CHXHCN : Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa 3. CHND: Cộng hòa Nhân dân 4. HĐQNCM: Hội đồng Quân nhân Cách mạng 5. LSH: Lí Sự Hội 6. LSHQTH: Lí sự Hội quán Trung Hoa 7. LST: Lí Sự trưởng 8. MTDTGP: Mặt trận Dân tộc Giải phóng 9. PTT – ĐI: Phông Phủ Tổng thống Đệ Nhất Cộng hòa 10. PTT – ĐII: Phông Phủ Tổng thống Đệ Nhị Cộng hòa 11. PTTg: Phông Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa 12. PTMHK: Phòng Thương mại Hoa Kiều 13. QGVN: Quốc gia Việt Nam 14. Đài Loan: Trung Hoa Dân quốc 15. THLSTH: Trung Hoa Lí Sự Tổng Hội 16. THSV: Trung Hoa Sự vụ 17. TTII: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II 18. TTIII: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III 19. VNCH: Việt Nam Cộng hòa 20. VNDCCH: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 21. UBHPTƯ: Ủy Ban Hành pháp Trung ương 22. UBLĐQG: Ủy Ban Lãnh đạo Quốc gia 23. UBQT: Ủy Ban Quản trị 24. UBQTTS: Ủy Ban Quản trị tài sản
- 2 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Người Hoa ở Việt Nam là một tộc người có tỉ lệ khá đông so với những tộc người khác, ngoài tộc người Kinh. Lịch sử hình thành cộng đồng của người Hoa ở Việt Nam cũng có những thăng trầm gắn liền với bối cảnh của từng chính quyền thống trị trong lịch sử Việt Nam. Bên cạnh đó, những đóng góp ở nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội của cộng đồng người Hoa ở Việt Nam góp phần làm đa dạng nền văn hóa Việt Nam. Do vậy, tộc người Hoa ở Việt Nam được nhiều nhà nghiên cứu thuộc nhiều lĩnh vực quan tâm tìm hiểu trên nhiều khía cạnh. Ở khu vực Đông Nam Á đều có dấu ấn đặc biệt của người Hoa, nhất là từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai (1945) và đặc biệt sau Hiệp định Genève (1954) đặt các nước có đông người Hoa sinh sống phải đưa ra những quyết định nhằm quản lí hoàn toàn và chặt chẽ người Hoa trong khu vực. Các quốc gia này vừa giành được độc lập về chính trị và cố gắng giành độc lập về kinh tế trong bối cảnh phải thoát khỏi ảnh hưởng kinh tế của “yếu tố ngoại kiều”, mà chủ yếu là Hoa kiều. So với các nước ở Đông Nam Á, sau năm 1954, vấn đề người Hoa ở miền Nam Việt Nam phức tạp hơn. Ở miền Nam Việt Nam hoàn cảnh lịch sử có những thay đổi và tác động lớn trên nhiều phương diện. Chính quyền Sài Gòn, với sự hậu thuẫn của Mỹ được thành lập ở miền Nam Việt Nam năm 1955 đã bắt tay ngay vào việc giải quyết “vấn đề Hoa kiều”. Chính quyền Sài Gòn đã hoạch định và áp dụng một chính sách nhằm Việt Nam hóa Hoa kiều ở miền Nam Việt Nam trên các phương diện: quốc tịch, kinh tế, văn hóa – xã hội và chính sách này đã tác động đến mọi sinh hoạt trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội của cộng đồng người Hoa ở miền Nam Việt Nam. Do đó, việc nghiên cứu chính sách của chính quyền Sài Gòn đối với người Hoa ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975 không chỉ góp phần hoàn chỉnh nghiên cứu về chính sách đối với người Hoa tại Việt Nam mà còn cung cấp cho chúng ta những nét đặc thù của việc giải quyết “vấn
- 3 đề Hoa kiều” ở Việt Nam so với những giai đoạn trước và so với các nước trong khu vực ở cùng giai đoạn. Trong bối cảnh vấn đề tộc người, xung đột tộc người/dân tộc, chia rẽ cộng đồng tộc người trong cùng một dân tộc diễn ra khá phổ biến ở các nơi trên thế giới; và mối quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc ngày càng phát triển, việc nghiên cứu về các tộc người cấu thành nên dân tộc Việt Nam là việc cần thiết. Ngoài ra, trên cơ sở nghiên cứu chính sách của những chính quyền trước đây đối với người Hoa ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước CHXHCN Việt Nam có cơ sở khoa học hoạch định một chính sách đối với tộc người Hoa phù hợp với lợi ích chung của dân tộc Việt Nam. Đồng thời, đáp ứng được nguyện vọng, phù hợp với thực tiễn của cộng đồng người Hoa ở Việt Nam. Ngoài ra, việc nghiên cứu về cộng đồng người Hoa ở Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975 còn cung cấp những cứ liệu trong việc quản lí vấn đề cư trú, hoạt động, đóng góp của cộng đồng dân cư có yếu tố nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam. Mặc dù, đã có nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu nhiều khía cạnh liên quan đến cộng đồng người Hoa ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975 nhưng đến nay, vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu hệ thống và toàn diện chính sách của chính quyền Sài Gòn đối với người Hoa ở miền Nam Việt Nam cùng tác động nhiều mặt, cũng như lý giải nguyên nhân vì sao ra đời chính sách. Từ ý nghĩa trên, chúng tôi chọn đề tài: “Chính sách của chính quyền Sài Gòn đối với người Hoa ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975” làm Luận án Tiến sĩ, chuyên ngành Lịch sử Việt Nam; mã số 62 22 03 13. 2. Nhiệm vụ nghiên cứu Thu thập và xử lí nguồn tư liệu lưu trữ, điền dã về nội dung các biện pháp do chính quyền Sài Gòn ban hành và áp dụng đối với người Hoa ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975. Khôi phục bức tranh tổng thể, có hệ thống về các biện pháp mà chính quyền Sài Gòn áp dụng với cộng đồng người Hoa ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975
- 4 Đồng thời, phục dựng đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của cộng đồng người Hoa ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975 dưới ảnh hưởng của chính sách mà chính quyền Sài Gòn áp dụng đối với họ. Qua đó, đánh giá đa chiều, trên nhiều phương diện về chính sách của chính quyền Sài Gòn đối với người Hoa ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975 với những tác động trên nhiều phương diện của chính sách đến cộng đồng người Hoa ở miền Nam Việt Nam và chính quyền Sài Gòn giai đoạn 1955 – 1975. 3. Mục đích nghiên cứu Góp phần xác định một số khái niệm và thuật ngữ trong hệ thống đề tài nghiên cứu; phân loại các biện pháp trong chính sách của chính quyền Sài Gòn đối với người Hoa ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975 và nêu đặc điểm, bản chất của chính sách này. Góp phần xác định đúng vai trò, vị trí kinh tế - xã hội của người Hoa ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975. Qua đó, giúp người đọc phân định được rõ sự khác nhau cũng như sự thống nhất giữa chính sách của các nhà cầm quyền Việt Nam đối với người Hoa ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, tác giả luận án có điều kiện để tiếp tục phát triển đề tài trong việc tìm hiểu chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước CHXHCN Việt Nam đối với người Hoa. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Đối trượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là hoàn cảnh ra đời, nội dung chính sách của chính quyền Sài Gòn đối với người Hoa ở miền Nam Việt Nam cùng những tác động của chính sách trên các phương diện: Chính trị, Kinh tế, Văn hóa – Xã hội đối với người Hoa và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975. Trong luận án này, khái niệm Người Hoa được dùng để chỉ những người Hoa gắn với bối cảnh lịch sử giai đoạn 1955 – 1975, khái niệm Người Hoa dùng trong luận án này bao gồm người Hoa sinh tại Việt Nam và Hoa kiều từ nước khác đến Việt Nam sinh sống. Tên gọi Chính quyền Sài Gòn dùng chỉ chính quyền
- 5 VNCH ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975. Phạm vi nghiên cứu Về không gian: Ở miền Nam Việt Nam, bao gồm: 35 tỉnh và Đô thành Sài Gòn năm 1956 cho đến năm 1975 là 44 tỉnh và Đô thành Sài Gòn, theo địa giới hành chính của VNCH. Về thời gian: Từ ngày 26 tháng 10 năm 1955 - Ngày ra đời Hiến ước tạm thời quyết định: “Việt Nam là một nước Cộng hòa”, đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 - Ngày Chính quyền Sài Gòn đầu hàng Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. 5. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu tổng thể là dựa vào phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước CHXHCN Việt Nam. Phương pháp nghiên cứu cụ thể là kết hợp hai phương pháp cơ bản của sử học Mác-xít là phương pháp lịch sử và phương pháp logic: Phương pháp lịch sử dùng để xem xét và trình bày quá trình ra đời, thi hành, kết quả của chính sách đối với người Hoa của chính quyền Sài Gòn giai đoạn 1955 – 1975 theo một trình tự liên tục và trên nhiều phương diện. Chính sách của chính quyền Sài Gòn đối với người Hoa thể hiện sự nối tiếp về chính sách của các chính quyền sở tại trong lịch sử Việt Nam đối với người Hoa ở Việt Nam. Tác giả luận án chia làm 2 giai đoạn nghiên cứu: Giai đoạn 1955 – 1963 và giai đoạn 1963 – 1975. Trong từng giai đoạn, phương pháp lịch sử làm rõ điều kiện, đặc điểm phát sinh, phát triển và biểu hiện của từng sự kiện, làm sáng tỏ mối liên hệ đa dạng của từng sự kiện. Phương pháp logic được sử dụng khi rút ra đặc điểm, bản chất của chính sách đối với người Hoa ở miền Nam Việt Nam của chính quyền Sài Gòn. Từ đó, góp phần tìm hiểu mối quan hệ giữa chính sách đối với người Hoa trong tổng thể chính sách của chính quyền Sài Gòn ở miền Nam Việt Nam, làm cơ sở để đánh giá bản chất chính sách đối nội và đối ngoại của chính quyền Sài Gòn.
- 6 Phương pháp điều tra dân tộc học: Trải qua những biến cố quan trọng trên nhiều phương diện thì những phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo của cộng đồng người Hoa vẫn còn được lưu giữ trong các gia đình, ở từ đường, hội quán, trường học, bệnh viện, nghĩa trang… của người Hoa. Sử dụng phương pháp này để xem xét quá trình vận động của cộng đồng người Hoa ở Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc Việt Nam. Phương pháp đối chiếu, so sánh: là phương pháp được vận dụng để so sánh, đối chiếu chính sách của chính quyền sở tại đối với cộng đồng người Hoa ở Việt Nam ở trước và sau giai đoạn 1955 – 1975. Trong cùng giai đoạn, luận án thực hiện so sánh, đối chiếu giữa các nước trong khu vực Đông Nam Á trong việc giải quyết “vấn đề người Hoa”. Từ đó thấy được sự khác biệt, phân tích tính kế thừa, tính sáng tạo trong chính sách của các chính quyền Việt Nam đối với cộng đồng người Hoa ở Việt Nam. Ngoài ra các biện pháp kĩ thuật như: chụp ảnh, ghi âm, quay phim, scan… cũng được sử dụng trong quá trình thực hiện đề tài. 6. Nguồn tài liệu, tư liệu của luận án Nguồn tài liệu quan trọng nhất và sử dụng chủ yếu nhất trong luận án là tài liệu lưu trữ từ các Phông Lưu trữ hiện được bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia II (TPHCM) gồm các phông: - Phông Phủ Thủ tướng Quốc gia Việt Nam (1949 – 1954) - Phông Phủ Thủ Hiến Nam Việt (1949 – 1954) - Phông Phủ Thủ Hiến Trung Việt (1949 – 1954) - Phông Phủ Thủ tướng VNCH (1954 – 1975) - Phông Hội đồng Quân nhân Cách mạng (1963 – 1965) - Phông Ủy Ban Lãnh đạo Quốc gia (1965 – 1967) - Phông Phủ Tổng thống Đệ nhất Cộng hòa (1955 – 1963) - Phông Phủ Tổng thống Đệ nhị Cộng hòa (1967 – 1975) Các phông hồ sơ lưu trữ này gồm các văn bản Luật, Nghị định, Sắc lệnh, các Báo cáo, Tờ trình, Phúc trình về vấn đề quản lí người Hoa, thi hành chính sách
- 7 đối với người Hoa ở miền Nam Việt Nam. Trong đó, có nhiều tài liệu được chính quyền Sài Gòn, xếp vào loại: “Tối mật”, “Mật”, “Thượng khẩn”, “Khẩn”... Một nguồn tư liệu khác dùng để nghiên cứu đề tài luận án được khai thác từ Phông Lưu trữ thuộc Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III (Hà Nội) gồm: - Phông Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ (1945 – 1955) - Phông Phông Phủ Thủ tướng (1945 – 1985) - Phông Bộ Nội vụ (1945 – 1970) Những phông này cung cấp tư liệu của Chính phủ VNDCCH cùng thời điểm với những tư liệu của phía VNCH về vấn đề người Hoa ở Việt Nam, để tác giả luận án tập hợp những quan điểm; Cách nhìn nhận nhiều chiều, đa phương diện về vấn đề người Hoa ở Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975. Tài liệu về chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước VNDCCH, Nhà nước CHXHCN Việt Nam qua Văn kiện Đảng toàn tập về công tác đối với cộng đồng người Hoa ở Việt Nam. Ngoài ra, luận án còn tham khảo các công trình nghiên cứu là các Luận văn Cao học của Học viện Hành chánh Quốc gia Sài Gòn nghiên cứu về vấn đề Hoa kiều ở VNCH giai đoạn 1955 – 1975. Hiện nay, các chuyên khảo này được bảo quản tại Phòng Hạn chế Thư viện Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, còn có các tác phẩm, bài viết của nhiều tác giả trong và ngoài nước có liên quan trực tiếp đến đề tài, hiện lưu giữ tại Thư viện Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thư viện Khoa học Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh… 7. Đóng góp của luận án - Tập hợp tư liệu và hệ thống hoá một lượng lớn tư liệu đáng tin cậy của chủ đề nghiên cứu chính sách về quốc tịch, kinh tế và tổ chức xã hội của chính quyền Sài Gòn ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975. - Luận án hệ thống chính sách của chính quyền Sài Gòn đối với người Hoa ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975. Trong đó, luận án tập trung tìm hiểu nội dung chính sách của chính quyền Sài Gòn đối với người Hoa ở miền Nam Việt Nam trên các phương diện: Quốc tịch, kinh tế, tổ chức xã hội, giáo dục, báo chí
- 8 cùng những tác động nhiều mặt của chính sách đến cộng đồng người Hoa và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975. - Luận án tổng kết một bước có hệ thống nội dung, đặc điểm, tính chất chính sách của chính quyền Sài Gòn đối với người Hoa ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975, làm cơ sở khoa học khi nghiên cứu chính sách của các chính quyền Việt Nam đối với người Hoa ở Việt Nam có tính liên tục, kế thừa và phát triển. - Luận án góp phần bổ sung lý luận và thực tiễn để xây dựng chính sách phát triển bền vững cộng đồng người Hoa ở Việt Nam hiện nay. Những bài học kinh nghiệm rút ra từ chính sách của các chính quyền trong lịch sử đối với người Hoa, giúp Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước CHXHCN Việt Nam có cơ sở khoa học trong việc hoạch định chính sách đối với tộc người Hoa ở Việt Nam. 8. Cấu trúc của luận án Luận án ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, phần Nội dung được trình bày trong 4 chương: Chương 1 Cơ sở lí luận, cách tiếp cận vấn đề, tình hình nghiên cứu, tổng quan về người Hoa và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam Việt Nam. Chương 2 Chính sách về quốc tịch của chính quyền Sài Gòn đối với người Hoa ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975. Chương 3 Chính sách về kinh tế của chính quyền Sài Gòn đối với người Hoa ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975. Chương 4 Chính sách về tổ chức xã hội của chính quyền Sài Gòn đối với người Hoa ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975.
- 9 Chương 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN, CÁCH TIẾP CẬN VẤN ĐỀ, TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, TỔNG QUAN VỀ NGƯỜI HOA VÀ CHÍNH QUYỀN SÀI GÒN Ở MIỀN NAM VIỆT NAM 1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN, CÁCH TIẾP CẬN, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1.1.1. Cơ sở lí luận 1.1.1.1. Một số khái niệm liên quan đến người Hoa ở Việt Nam Người Hoa Khái niệm “Người Hoa” dùng để chỉ những người có nguồn gốc Trung Hoa, nhưng sống ở hải ngoại. “Người Hoa” còn được gọi là người Trung Quốc, người Trung Hoa, người Hán, người Đường, người Tống, người Minh, người Thanh, người Hoa, người gốc Hoa, người Hoa kiều, người Tàu… Ở Việt Nam, khái niệm “Người Hoa” được hình thành khá sớm, cùng với cộng cư của người Hoa ở Việt Nam. Danh xưng “Người Hoa” dùng để chỉ một nhóm người của đất nước Trung Hoa di cư đến Việt Nam, sinh sống và định cư nhiều đời trên đất nước Việt Nam. Cùng với lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Việt Nam là tên gọi “Người Hoa” ra đời và phát triển. Hầu hết các tác giả khi nghiên cứu về người Hoa ở Việt Nam đều đề cập đến vấn đề tên gọi của người Hoa ở Việt Nam. Tuy nhiên, tùy vào cách tiếp cận nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu của các công trình mà tên gọi người Hoa được bàn đến với nội hàm và ngoại diên của khái niệm hướng vào việc phục vụ hướng nghiên cứu của đề tài cụ thể. Đáng kể nhất là những nhận định về tên gọi “Người Hoa” của các nhà nghiên cứu sau: Người Trung Quốc cư trú ở nước ngoài được gọi là “Overseas Chinese” trong các tài liệu tiếng Anh hay “Resident Chinois” hoặc “Ressortissants Chinois” trong các tài liệu tiếng Pháp. Còn các học giả Trung Quốc thường sử dụng thuật ngữ “Hoa kiều” để gọi người Trung Quốc đang cư trú ở hải ngoại, dù đã nhập hay chưa gia nhập quốc tịch nước sở tại. Theo Châu Hải thì cách gọi này “thể hiện rõ quan điểm, lập trường của Trung Quốc luôn luôn coi những kiều dân Trung Hoa cư trú ở
- 10 nước ngoài là bộ phận cư dân của họ và mãi mãi chỉ là kiều cư, chứ không thể trở thành cư dân nước họ tới cư trú” [85, tr.28]. Tác giả Châu Hải cho rằng: “Thuật ngữ người Hoa hoàn toàn không mang ý nghĩa tộc người mà chỉ có ý nghĩa đại diện cho một nền văn hóa hay văn minh. Và mặc dù mang tính thông lệ, thuật ngữ người Hoa do nhân dân sở tại gọi họ khác với từ Hoa mà họ tự gọi mình” [85, tr.31]. Trên cơ sở đó, Châu Hải nêu khái niệm “Người Hoa bao gồm tất cả những người di cư từ đất nước Trung Hoa (kể cả Trung Hoa hải đảo), và khái niệm đó thuộc phạm trù biến đổi chứ không phải phạm trù ổn định. Cùng với nó, những hình thức liên kết cộng đồng cũng biến đổi theo và mang ý nghĩa của một thực thể chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội” [85, tr.33]. Tác giả Trần Khánh trong công trình Người Hoa trong Xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc và dưới Chế độ Sài Gòn nêu nội dung khái niệm “Người Hoa” rất đáng lưu ý: “Người Hoa là những người gốc Hán hay bị Hán hóa, sống tương đối ổn định, thường xuyên tại các quốc gia Đông Nam Á, đã nhập tịch nước sở tại, còn giữ được những nét đặc trưng của nền văn hóa Trung Hoa và tự nhận mình là người Hoa. Họ là những cộng đồng dân nhập cư có nguồn gốc Trung Hoa ít hoặc chưa bị đồng hóa, là những nhóm tộc người đang trong quá trình liên kết hóa dân tộc, một bộ phận dân cư, dân tộc của các quốc gia Đông Nam Á, đang từng bước điều chỉnh, hội nhập vào các thể chế kinh tế - xã hội chính trị và văn hóa của từng quốc gia – dân tộc, khu vực và quốc tế…” [120, tr.35]. Tác giả Mạc Đường nêu cụm từ tộc danh Hoa khi nói về người Hoa ở Việt Nam. Theo tác giả, tên gọi “Người Hoa” đã trở thành tộc danh tự chọn và là niềm tự hào dân tộc khi gọi tộc danh này [83, tr.15]. Do đó, Mạc Đường khẳng định “chỉ có tên gọi Người Hoa là tên gọi được thừa nhận về mặt tự giác dân tộc cũng như về mặt công pháp hiện nay” [83, tr.15]. Ngoài ra, ở vấn đề tên gọi của người Hoa, tác giả Mạc Đường đã đề cập đến cụm từ “Người Việt gốc Hoa” mà chính quyền Sài Gòn đã dùng để nhằm chỉ nhóm người Hoa đã nhập Việt tịch ở giai đoạn 1955 – 1975. Tác giả Mạc Đường cho rằng “gọi tên một dân tộc khác theo cách gán ghép là xúc phạm đến tình cảm dân tộc, phủ nhận tộc danh tự gọi là biểu hiện ý thức xem
- 11 thường dân tộc khác” của chính quyền Sài Gòn. Theo tác giả luận án, cụm từ Người Việt gốc Hoa được chính quyền Sài Gòn dùng để chỉ những người Hoa sinh tại Việt Nam hoặc sinh ngoài lãnh thổ Việt Nam đã nhập Việt tịch theo tinh thần Dụ số 10 và Dụ số 48. Cụm từ này được chính quyền Sài Gòn dùng từ năm 1958. Khi chính quyền Sài Gòn đề nghị các tỉnh tiến hành soạn thảo Địa phương chí, trong phần thống kê dân số, có mục thống kê dân số Người Việt gốc Hoa. Tuy nhiên, theo sự điều tra của chúng tôi từ Địa phương chí các Tỉnh tiến hành biên soạn từ năm 1958, do sự chỉ đạo chưa quyết liệt của chính quyền Sài Gòn cùng với tâm lý của người Hoa không chịu nhận khai mình là Người Việt gốc Hoa, nên có tỉnh tiến hành thu thập được số liệu về dân số Người Việt gốc Hoa, có tỉnh thì ở mục kê khai này để trống. Do vậy, cho đến nay, việc thống kê chính xác từ các tỉnh về dân số Người Việt gốc Hoa gặp khó khăn. Năm 1960, khi vấn đề người Hoa ở miền Nam Việt Nam dần đi vào ổn định, trong các công văn của Nha THSV có dùng các danh xưng như: công dân Việt Nam gốc Hoa kiều để chỉ nhóm người Hoa sinh tại Việt Nam đã nhập Việt tịch. Từ năm 1965 trở đi, trong tất cả các văn bản của chính quyền Sài Gòn đều sử dụng cụm từ Người Việt gốc Hoa một cách phổ biến. Còn với Huỳnh Ngọc Đáng, khi nghiên cứu chính sách của các vương triều phong kiến Việt Nam đối với người Hoa ở Việt Nam đã khu biệt khái niệm người Hoa trong nghiên cứu của mình như sau: “1. Những người có gốc Hán (hoặc đã Hán hóa); đến từ Trung Quốc và từ các cộng đồng người Hoa hải ngoại hoặc sinh đẻ tại Việt Nam; sống ổn định và thường xuyên ở Việt Nam, đã được ghi tên vào sổ bộ nhân khẩu Việt Nam hay sổ bộ của các Bang, là thần dân hay chưa là thần dân của các vương triều Việt Nam nhưng có những quyền lợi và nghĩa vụ nhất định do chính quyền sở tại quy định; về cơ bản vẫn còn giữ văn hóa Trung Hoa và tự nhận mình là người Hoa; 2. Những người sống ở Việt Nam có tên là Minh Hương và những người có nguồn gốc Hoa trong các đơn vị hành chính, tổ chức có tên Minh Hương, Thanh Hà, Đại Minh khách phố của Việt Nam trong khoảng thời gian từ thế kỷ XVII đến giữa cuối thế kỷ XIX; 3. Bao gồm cả những nhóm người Hoa vì nhiều
- 12 lý do chạy sang Việt Nam hoạt động như những toán thổ phỉ ở vùng thượng du miền Bắc; cả những khách thương người Hoa do công việc làm ăn buôn bán phải thường xuyên trú ngụ dài ngày ở Việt Nam; những người Hoa đi biển gặp nạn, phải lên bờ và sống dài ngày hay ngắn ngày, thậm chí ở lại, sống lâu dài ở Việt Nam...”. Khái niệm “Người Hoa” được đề cập trong Chỉ thị 62-CT/TW ngày 8-11- 1995 của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã xác định: “Người Hoa bao gồm những người có gốc Hán và những người thuộc dân tộc ít người của Trung Quốc đã Hán hóa di cư sang Việt Nam và con cháu của họ sinh ra và lớn lên tại Việt Nam, đã nhập quốc tịch Việt Nam, nhưng vẫn còn giữ những đặc trưng văn hóa, chủ yếu là ngôn ngữ, phong tục tập quán của dân tộc Hán và tự nhận mình là người Hoa”. Trong luận án Chính sách của chính quyền Sài Gòn đối với người Hoa ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975, khái niệm Người Hoa dùng để chỉ những người Hoa ở miền Nam Việt Nam, gắn với bối cảnh xã hội của miền Nam Việt Nam, với thực thể thống trị là Chính quyền Sài Gòn (Chính quyền VNCH) chứ không phải là người Hoa hiện nay hay người Hoa chung chung của bất cứ thời đại nào, ở bất cứ quốc gia, khu vực nào trên thế giới. Do vậy, tham khảo và vận dụng các định nghĩa khái niệm người Hoa của các tác giả đi trước, luận án không đề ra nội dung khái niệm mới mà đi vào cơ cấu thành phần, đối tượng của nội dung khái niệm người Hoa chỉ ở miền Nam Việt Nam, là đối tượng chính sách của Chính quyền Sài Gòn giai đoạn 1955 – 1975. Đó là: 1. Người Hoa sinh tại Việt Nam (Minh Hương và Hoa kiều thổ sinh); 2. Người Hoa không sinh tại Việt Nam (Hoa kiều – với tư cách ngoại kiều). Việc minh định khái niệm người Hoa nhằm phục vụ cho việc xác định các mốc thời gian nghiên cứu, xác định thực thể dân tộc, cũng như đánh giá một cách toàn diện, đầy đủ và chuyên sâu về vai trò xã hội, vị trí kinh tế của người Hoa ở từng giai đoạn lịch sử của dân tộc được nhất quán. Đánh giá về người Hoa ở Việt Nam cần đặt cộng đồng này trong quy luật vận động chung của những nhóm cộng đồng kiều dân đã tách khỏi cộng đồng dân tộc của họ và đang tồn tại, phát triển trong lòng các cộng đồng cư dân mà họ tới định cư.
- 13 Tộc người Hoa Tộc người (ethnic, ethnos) là “một cộng đồng người mang tính tộc người có chung một tên gọi, một ngôn ngữ (trừ những trường hợp cá biệt)… được liên kết với nhau bằng những giá trị sinh hoạt văn hóa tạo thành một tính cách tộc người có chung một ý thức tự giác tộc người, tức có chung một khát vọng cùng chung sống, có chung một số phận lịch sử thể hiện ở những kí ức lịch sử [160, tr.15]. Ở Việt Nam, ngoài tộc người Kinh là tộc người chiếm đa số ở Việt Nam, thì các tộc người còn lại là tộc người thiểu số. Theo Viện ngôn ngữ học (năm 1988): “Dân tộc thiểu số là dân tộc chiếm số dân ít so với dân tộc chiếm số dân đông trong một nước nhiều dân tộc. Hiểu một cách đầy đủ: Dân tộc thiểu số là dân tộc có dân số ít, cư trú trong một quốc gia thống nhất đa dân tộc, trong đó có một dân tộc chiếm số đông” [160, tr.18]. Do vậy, người Hoa ở Việt Nam được hiểu là một tộc người, cùng với những tộc người còn lại như: Kinh, Ê đê, Bana cấu thành nên dân tộc (nation) Việt Nam. Hiện nay, tộc người Hoa ở Việt Nam là tộc người thiểu số. Theo tác giả Nguyễn Văn Huy, “Người Hoa tại Việt Nam là một trong nhiều thành phần sắc tộc cấu thành dân tộc Việt Nam. Cộng đồng người Hoa là một trong nhiều cộng đồng dân tộc của đại gia đình Việt Nam [116, tr.8]. Khác với quan điểm nghiên cứu của giới sử học Mác-xít, Nguyễn Văn Huy cho rằng: “Tại Việt Nam, cộng đồng người Hoa vừa là một cộng đồng chủng tộc (họ Hán Tạng) vừa là một cộng đồng sắc tộc (Hoa) từ Trung Hoa đã đến Việt Nam khai phá đất đai và an cư lạc nghiệp từ nhiều thế kỷ. Con của những người này mặc dầu sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam nhưng một số vẫn giữ phong tục, tập quán Trung Hoa” [116, tr.8]. Theo tác giả Nguyễn Văn Tiệp chủ nhiệm đề tài Chính sách dân tộc của chính quyền Việt Nam Cộng hòa và tác động của nó đối với vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc ở Tây Nguyên (1954 – 1975) không đồng tình với cụm từ “sắc tộc” mà chính quyền Sài Gòn dùng nhằm chỉ cụm từ “tộc người”. “Chính quyền Đệ Nhất Cộng Hòa đã chia các dân tộc thiểu số miền Nam thành 4 khối khác nhau để có chính sách cai trị và quản lí các dân tộc, cụ thể: 1. Khối các dân tộc cao nguyên Trung phần và Trung nguyên Trung phần gọi là sắc tộc Thượng miền Nam; 2. Khối
- 14 dân tộc Chàm được gọi là sắc tộc Chàm; 3. Khối dân tộc Khmer được gọi là người Việt gốc Miên; 4. Khối các dân tộc miền Bắc di cư gọi là Sắc dân Thượng miền Bắc” [160, tr.88]. Chính quyền Sài Gòn với công cụ pháp chế đã bằng những văn bản luật, Việt Nam hóa các tộc người kể trên một cách dứt khoát và quyết liệt. Việc này, tất nhiên có lợi đối với sự cầm quyền của một nhóm người, mà lợi ích của họ không phù hợp và không phục vụ cho lợi ích của dân tộc Việt Nam, đó là chính quyền Sài Gòn – công cụ tay sai của chủ nghĩa thực dân kiểu mới của Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Việc này tạo cơ hội cho những xung đột tộc người vốn đã có từ thời Pháp thuộc có điều kiện phát triển. Chính sách đối với người Hoa ở Việt Nam Theo Nguyễn Văn Tiệp: “Trong quá trình lãnh đạo và quản lí đất nước giai cấp cầm quyền phải thông qua bộ máy nhà nước để đề ra chính sách trên tất cả các lĩnh vực mà yêu cầu thực tiễn đòi hỏi nhằm giải quyết, đáp ứng các hoạt động theo nhu cầu khách quan. Sự tồn tại và phát triển của các quốc gia là điều kiện để giai cấp cầm quyền hoạch định các chủ trương, đề ra các kế hoạch cụ thể nhằm thực hiện các mục tiêu của từng giai đoạn đặt ra. Với cách hiểu như vậy, khái niệm chính sách chung trong quá trình quản lí quốc gia trong từng giai đoạn nhất định là: sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình thực tế mà đề ra” [160, tr.26]. Chính sách đối với người Hoa ở Việt Nam là một khái niệm đặc thù, khái niệm ra đời cùng với quá trình hình thành cộng đồng người Hoa ở Việt Nam, tên gọi người Hoa ở Việt Nam. Chính sách đối với người Hoa ở Việt Nam gồm một hệ thống các biện pháp trên các lĩnh vực hộ tịch, kinh tế, văn hóa – xã hội nhằm quản lí người Hoa ở Việt Nam. Hầu hết các chính quyền trong lịch sử Việt Nam đều có những biện pháp nhằm quản lí người Hoa ở Việt Nam chặt chẽ và hữu hiệu. 1.1.1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước CHXHCN Việt Nam về người Hoa ở Việt Nam Ngay từ thời kỳ đầu đấu tranh giành độc lập dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chú ý đến lực lượng người Hoa ở Việt Nam. Trong Nghị quyết của Ban
- 15 Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương họp từ ngày 25 đến ngày 28- 2-1943, khi bàn về Phong trào cách mạng Đông Dương có chú ý đến việc vận động Hoa kiều: “Hơn năm mươi vạn Hoa kiều ở Đông Dương là một lực lượng không phải nhỏ. Đảng phải có uỷ ban vận động hoa Kiều đang giúp Hoa kiều tổ chức ra Việt nam Hoa Kiều cửu vong hội và phải vận động Hoa Kiều cùng nhân dân Đông Dương tranh đấu chống Nhật, Pháp và lũ Việt gian, Hán gian” [193, tr.302]. Chính sách vận động Hoa kiều nằm trong chính sách vận động các giới (Công vận, Nông vận, Binh vận, Thanh vận, Phụ vận, Vận động phú hào, Vận động văn hóa, Vận động dân tộc thiểu số) chuẩn bị khởi nghĩa. Để giành được độc lập cho dân tộc Việt Nam, sự đoàn kết của các tộc người trên lãnh thổ Việt Nam là một trong những thành tố làm nên thành công. Để ghi nhớ sự đoàn kết ấy, ngày 2-9-1945, trong Thư gửi anh em Hoa kiều, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Tôi xin thay mặt Chính phủ Nhân dân Lâm thời Việt Nam và toàn dân Việt Nam đưa bàn tay nồng nhiệt hoan nghênh anh em Hoa kiều sinh sống trên đất nước ta, mong rằng anh em hai nước chúng ta thân mật đoàn kết, có việc gì thì giải quyết với nhau theo nguyên tắc hợp pháp, hợp lý với thái độ kính trọng nhường nhịn lẫn nhau, không được vì những việc tranh chấp nhỏ của cá nhân mà gây điều bất hạnh ngǎn cách giữa hai dân tộc. Trước đây nếu có chỗ hiểu lầm hoặc bất hoà thì cũng mong từ nay về sau mỗi bên đều vứt bỏ thành kiến mà chân thành hợp tác thân thiện với nhau. Trung Quốc – Việt Nam vốn là người một nhà” [89, tr.5] Sau đó, quyền lợi chính trị của người Hoa ở Việt Nam được Thông tri của Ban Chấp hành Trung ương, số 10B TT/TW, ngày 21 tháng 2 nǎm 1952 minh định: “Mọi Hoa kiều sống trên đất Việt Nam, tuân theo pháp luật của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đều được sống bình đẳng như người Việt Nam, có quyền tự do thân thể, quyền đi lại, cư trú, quyền làm ǎn...” [194, tr.33], nghĩa là Hoa kiều được hưởng cả chính quyền, tài quyền và nhân quyền như người Việt Nam. Sau khi thống nhất Tổ quốc, bàn về công tác đối với người Hoa ở Việt Nam, Chỉ thị 256/CP/HĐBT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ngày 11-10-1986 khẳng định: “Người Hoa là công dân của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Quan hệ chính trị - ngoại giao, an ninh của ASEAN với Trung Quốc và Nhật Bản (1991 - 2010)
238 p | 597 | 132
-
Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của các cơ quan giám sát triều Nguyễn giai đoạn 1802 - 1885
222 p | 267 | 76
-
Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Quá trình xây dựng tổ chức và hoạt động của Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục Miền Nam từ năm 1945 đến năm 1954
177 p | 328 | 72
-
Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Quan hệ giữa nhà nước quân chủ Lý, Trần với Phật giáo - Hoàng Đức Thắng
11 p | 236 | 53
-
Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Tiến trình hợp tác kinh tế giữa các nước thuộc hành lang Đông Tây (1998 - 2010)
195 p | 195 | 51
-
Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ từ sau Nội chiến đến kết thúc Chiến tranh thế giới thứ nhất 1865 – 1918
190 p | 164 | 32
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Tiến trình quan hệ kinh tế Hoa Kỳ - Việt Nam giai đoạn 2000 - 2012
60 p | 219 | 29
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Quan hệ chính trị - ngoại giao, an ninh của ASEAN với Trung Quốc và Nhật Bản (1991 - 2010)
24 p | 270 | 28
-
Luận án tiến sĩ lịch sử: Cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của cơ quan giám sát triều Nguyễn giai đoạn 1802-1885
222 p | 158 | 28
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Quá trình xây dựng tổ chức và hoạt động của Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục Miền Nam từ năm 1945 đến năm 1954
27 p | 152 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của các cơ quan giám sát triều Nguyễn giai đoạn 1802 - 1885
27 p | 145 | 13
-
Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Quá trình phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin ở Việt Nam từ năm 1993 đến năm 2020
258 p | 16 | 11
-
Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Quan hệ Ấn Độ - Indonesia giai đoạn từ năm 1991 đến năm 2018
212 p | 33 | 10
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Tiến trình hợp tác kinh tế giữa các nước thuộc hành lang Đông Tây
27 p | 131 | 7
-
Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Đô thị hóa ở thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An từ năm 1974 đến năm 2008
206 p | 19 | 7
-
Luận án Tiến sĩ Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam: Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên - Tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam
217 p | 16 | 7
-
Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Quá trình hình thành và phát triển của cơ chế hợp tác Tiểu vùng Mekong mở rộng từ năm 1992 đến năm 2012
248 p | 41 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Quan hệ Ấn Độ - Indonesia giai đoạn từ năm 1991 đến năm 2018
28 p | 14 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn