intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án tiến sĩ Lịch sử: Cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của Việt Nam trên lĩnh vực đối ngoại từ năm 1954 đến năm 1975

Chia sẻ: Phong Tỉ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:191

70
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án phân tích làm rõ cơ sở hoạch định, nội dung chính sách đối ngoại và quá trình triển khai đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975 từ đó rút ra nhận xét và kinh nghiệm.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án tiến sĩ Lịch sử: Cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của Việt Nam trên lĩnh vực đối ngoại từ năm 1954 đến năm 1975

  1. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Lịch sử  dân tộc Việt Nam gắn liền với những cuộc đấu tranh giữ  nước vĩ đại, chống lại các thế  lực xâm lược mạnh hơn nhiều lần, thắng  lợi cuối cùng vẫn thuộc về dân tộc Việt Nam. Để giành được thắng lợi là  tổng hòa các yếu tố  làm nên sức mạnh của dân tộc  của Việt Nam đó là  lòng yêu nước, tinh thần đấu tranh anh dũng của nhân dân và đường lối   lãnh đạo đúng đắn, trong đó có chính sách đối ngoại phù hợp. Trải qua hàng  ngàn năm, chống lại các thế  lực phong kiến phương Bắc hùng mạnh hơn  nhiều lần, tổ tiên người Việt đã để lại những bài học đối ngoại hết sức quý  báu như, dĩ bất biến ứng vạn biến, ngoại giao tâm công, vừa đánh vừa đàm.  Cái bất biến chính là quyền lợi của quốc gia, dân tộc, cái vạn biến chính là  phương pháp đấu tranh linh hoạt, biến hóa để  đạt được mục tiêu, ngoại  giao tâm công là dùng nhân nghĩa đánh vào lương tri để tập hợp lực lượng   đồng thời thức tỉnh kẻ thù, vừa đánh vừa đàm, k ết hợp nhịp nhàng đấu tranh  trên mặt trận quân sự và ngoại giao để giành thắng lợi, đồng thời tạo cơ hội  để có thể hàn gắn mối quan hệ giữa hai nước sau này.  Sau Cách mạng Tháng 8/1945, ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba  Đình,  Chủ  tịch Hồ  Chí Minh đọc  Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước  Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Với sự kiện trọng đại này, thật sự Việt Nam  đã giành được độc lập, Tuyên ngôn khẳng định: "Nước Việt Nam có quyền  hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn  thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng  và của cải để  giữ  vững quyền tự  do, độc lập ấy" [69, tr. 9]. Để  thể  hiện  quyết tâm đó, cả  dân tộc Việt Nam đã đồng lòng, chung sức đấu tranh để  bảo vệ  nền  độc lập,  giành  chiến thắng vang dội  trong  hai cuộc kháng  chiến chống đế quốc. Đóng góp vào thành công hiển hách đó, phải kể đến  đường lối đối ngoại hết sức linh hoạt, mềm dẻo trong thời đại Hồ  Chí   Minh. 
  2. 2 Từ  năm 1954 đến năm 1975 trong hoàn cảnh cả  nước phải đương  đầu với đế quốc Mỹ với tiềm lực kinh tế, quốc phòng đứng đầu thế  giới,  trong khi giữa các nước xã hội chủ  nghĩa có những bất đồng sâu sắc, đặc   biệt là Liên Xô và Trung Quốc. Đối ngoại của Việt Nam  đóng vai trò quan  trọng trong việc tập hợp lực lượng, tranh thủ sự  ủng hộ của các nước xã   hội chủ nghĩa, tạo thêm thế và lực cho Việt Nam trong cuộc đấu tranh xây  dựng chủ  nghĩa xã hội  ở  miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam.  Trong đối ngoại từ  năm 1954 đến năm 1975, Việt Nam biết phân hóa, cô  lập kẻ thù, tập hợp lực lượng, giúp cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc   nhận được nhiều sự ủng hộ tích cực của các lực lượng tiến bộ và nhân dân   yêu chuộng hòa bình thế  giới. Trong đó, ngay cả  nhân dân Mỹ  cũng thực   hiện các phong trào phản chiến rầm rộ, góp phần buộc Chính phủ Mỹ phải  rút quân khỏi Việt Nam. Mặt khác, đối ngoại đã phối hợp hiệu quả  với  đấu tranh chính trị và quân sự, đánh bại từng bước, đánh đổ  từng bộ phận  âm mưu xâm lược của Mỹ, vạch trần các thủ đoạn lừa bịp để tiến hành leo  thang chiến tranh của Mỹ  và Chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Qua đó,  giúp nhân dân thế  giới hiểu được tinh thần yêu chuộng hòa bình, chính  nghĩa của dân tộc Việt Nam, nhận được sự động viên, ủng hộ, giúp đỡ  và  tiếp thêm nghị lực cho dân tộc Việt Nam tiến lên giành thắng lợi cuối cùng.  Hiện nay, Việt Nam đang hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, vấn  đề  đối ngoại trở  nên hết sức quan trọng, góp phần quyết định nhiều vấn  đề  lớn liên quan đến sự  phát triển của đất nước, bảo vệ  độc lập, chủ  quyền và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc. Việc cân bằng trong mối quan hệ  với các nước lớn, xây dựng lòng tin trong quan hệ  với các nước đối tác   chiến lược, các nước láng giềng, các nước bạn bè truyền thống đang là  một bài toán khó hiện nay. Bên cạnh đó, việc đẩy mạnh giao lưu, hợp tác   với thế  giới của Việt Nam với phương châm "hòa nhập nhưng không hòa  tan" đang đặt ra nhiều thách thức, đòi hỏi Việt Nam phải xử lý khôn khéo  các mối quan hệ. Đặc biệt, hiện nay tình hình tranh chấp ở Biển Đông đang 
  3. 3 diễn ra hết sức phức tạp, có những diễn biến khó lường, ảnh hưởng hoặc   trực tiếp đe dọa đến độc lập, chủ quyền của Việt Nam. Do đó, những kinh  nghiệm quý báu trong đối ngoại để bảo vệ độc lập dân tộc và thống nhất   đất nước từ  năm 1954 đến năm 1975 vẫn còn nguyên giá trị  thực tiễn và  mang tính thời sự  sâu sắc. Với lý do trên, tác giả  chọn đề  tài "Cuộc đấu   tranh bảo vệ độc lập dân tộc của Việt Nam trên lĩnh vực đối ngoại từ   năm 1954 đến năm 1975" làm luận án Tiến sĩ lịch sử, chuyên ngành Lịch  sử phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và giải phóng dân tộc.  2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án 2.1. Mục đích Luận án phân tích làm rõ cơ sở hoạch định, nội dung chính sách đối  ngoại và quá trình triển khai đấu tranh bảo vệ  độc lập dân tộc của Việt   Nam từ năm 1954 đến năm 1975 từ đó rút ra nhận xét và kinh nghiệm. 2.2. Nhiệm vụ của luận án ­  Phân tích cơ  sở  hoạch định chính sách đối ngoại của Việt Nam  trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc từ năm 1954 đến năm 1975;  ­  Phân tích nội dung chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước   Việt Nam trong cuộc đấu tranh bảo vệ  độc lập dân tộc từ  năm 1954 đến   năm 1975;  ­ Phân tích quá trình triển khai chính sách đối ngoại của Việt Nam   trong công cuộc đấu tranh bảo vệ  độc lập dân tộc từ  năm 1954 đến năm   1975;  ­ Nhận xét và rút ra kinh nghiệm về cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập   dân tộc của Việt Nam trên lĩnh vực đối ngoại từ năm 1954 đến năm 1975. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu  Luận án tập trung nghiên cứu cuộc đấu tranh bảo vệ  độc lập dân   tộc của Việt Nam trên lĩnh vực đối ngoại trong giai đoạn chống Mỹ, cứu   nước. 
  4. 4 3.2. Phạm vi nghiên cứu  Về  không gian: Luận án nghiên cứu quá trình bảo vệ  độc lập dân  tộc trên lĩnh vực đối ngoại để  tập hợp các lực lượng tiến bộ  trên thế giới   ủng hộ Việt Nam tiến hành chống Mỹ, cứu nước, bảo vệ độc lập dân tộc   trong bối cảnh thế giới đang diễn ra Chiến tranh lạnh. Về  thời gian:  Luận án nghiên cứu cuộc đấu tranh bảo vệ  độc lập   dân  tộc của Việt Nam trên lĩnh vực đối ngoại từ  năm 1954 đến năm 1975:   Mốc thời gian năm 1954, là năm Hiệp định Giơnevơ được ký kết, Pháp rút hết  quân về nước, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, cũng là năm cả dân tộc Việt   Nam bước vào cuộc đấu tranh chống sự can thiệp của Mỹ để bảo vệ độc lập  dân tộc. Năm 1975, Việt Nam  kết thúc  thắng lợi cuộc kháng chiến chống  Mỹ, thống nhất đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, trong đó có sự  đóng góp công sức rất lớn của mặt trận đối ngoại. Về phạm vi nội dung: Trọng tâm nghiên cứu của luận án là nội dung  chính sách đối ngoại của Đảng Lao động Việt Nam được đề ra từ Đại hội  II đến Đại hội III trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước, từ năm 1954 đến năm  1975. Đồng thời, luận án phân tích quá trình triển khai hoạt động đối ngoại   của Đảng Lao động Việt Nam, Chính phủ  Việt Nam Dân chủ  Cộng hòa,   Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Chính phủ  Cách  mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Trong đó, luận án chỉ  tập  trung nghiên cứu việc triển khai chính sách đối ngoại trong quan hệ với các   nước  xã hội chủ  nghĩa; quan hệ  với Lào và Campuchia; quan hệ  với các  nước dân chủ, các tổ  chức tiến bộ  và nhân dân yêu chuộng hòa bình thế  giới; triển khai chiến lược đánh ­ đàm để  giành thắng lợi cuối cùng vào   năm 1975. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu  ­  Cơ  sở  lý luận,  luận án nghiên cứu dựa trên cơ  sở  phương pháp  luận của chủ  nghĩa duy vật biện chứng, chủ  nghĩa duy vật lịch sử  và hệ  thống phương pháp luận sử  học mácxít. Quan điểm của chủ  nghĩa Mác ­  
  5. 5 Lênin về quan hệ quốc tế và tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh. Đồng thời,  luận án còn dựa trên Cương lĩnh chính trị, đường lối đối ngoại của Đảng   Lao động Việt Nam nêu ra  ở  các văn kiện trong các đại hội, hội nghị  của  Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975. ­  Phương pháp nghiên cứu  của luận án  là:  Phương pháp lịch sử,  phương   pháp  phân   tích,  phương   pháp  so   sánh,  phương   pháp  đối   chiếu,  thống kê, khái quát, tổng hợp, lôgic, quy nạp, diễn dịch v.v... 5. Những đóng góp của luận án ­  Luận án phân tích làm rõ quan niệm  về  bảo vệ  độc lập dân tộc  trên lĩnh vực đối ngoại và cơ sở hoạch định chính sách đối ngoại của Việt   Nam từ năm 1954 đến năm 1975. ­ Luận án phân tích nội dung chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà  nước Việt Nam để bảo vệ độc lập dân tộc từ năm 1954 đến năm 1975 bao  gồm:   Mục   tiêu,   tư   tưởng   chỉ   đạo,   nguyên   tắc,   phương   châm,   phương  hướng và nhiệm vụ  đối ngoại mà Đảng Lao động Việt Nam, Chính phủ  Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đề ra. Trên cơ sở đó, luận án làm rõ quá trình  triển khai chính sách đối ngoại của Việt Nam để bảo vệ độc lập dân tộc từ  năm 1954 đến năm 1975. Đồng thời, luận án rút ra nhận xét về  thuận lợi,  khó khăn và kinh nghiệm của quá trình đấu tranh bảo vệ  độc lập dân tộc   trên lĩnh vực đối ngoại của Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975. ­ Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên   cứu, giảng dạy môn Lịch sử  phong trào cộng sản, công nhân quốc tế  và  giải phóng dân tộc, Lịch sử  Đảng Cộng sản Việt Nam, Quốc tế  học và  Quan hệ quốc tế. 6. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ  lục, nội dung của luận án gồm 4 chương: Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu.
  6. 6 Chương 2: Cơ sở hoạch định và nội dung chính sách đối ngoại của  Việt Nam nhằm đấu tranh bảo vệ  độc lập dân tộc từ  năm 1954 đến năm  1975. Chương 3: Triển khai đấu tranh bảo vệ  độc lập dân tộc của Việt  Nam trên lĩnh vực đối ngoại từ năm 1954 đến năm 1975. Chương 4: Nhận xét và kinh nghiệm về cuộc đấu tranh bảo vệ độc  lập dân tộc của Việt Nam trên lĩnh vực đối ngoại từ  năm 1954 đến năm  1975.
  7. 7 Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ  ĐàĐƯỢC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ  TÀI LUẬN ÁN 1.1.1. Các nghiên cứu trong nước  1.1.1.1.  Các công trình liên quan đến cơ  sở  hoạch định và nội   dung chính sách đối ngoại Việt Nam để  đấu tranh bảo vệ độc lập dân   tộc giai đoạn 1954 ­ 1975  Thứ  nhất, các công trình liên quan đến cơ  sở  lý luận và thực tiễn   nhằm hoạch định chính sách đối ngoại của Việt Nam, tiêu biểu có các công   trình như: Phan Văn Rân, Nguyễn Hoàng Giáp (2010),  Chủ  quyền quốc gia   trong xu thế toàn cầu hóa và vấn đề đặt ra với Việt Nam [90]. Các tác giả  nêu ra khái niệm độc lập dân tộc của một quốc gia là sự tự chủ trong việc   lựa chọn đường lối phát triển, tự quyết mọi vấn đề thuộc về thẩm quyền   quốc gia và thực thi quyền lực thông qua các hoạt động lập pháp, tư  pháp  mà không có sự can thiệp từ bên ngoài; Nguyễn Viết Thảo (2014),  Bảo vệ  chủ quyền quốc gia và độc lập dân tộc trong xu thế toàn cầu hóa [95], tác  giả đã nêu ra khái niệm độc lập dân tộc là chủ quyền về pháp lý trên tất cả  các mặt lãnh thổ, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại, an ninh mà  không bị  phụ  thuộc vào các thế  lực bên ngoài; Nguyễn Tất Giáp, Nguyễn  Thị  Quế, Mai Hoài Anh (2015), Mối quan hệ  giữa độc lập, tự  chủ  và hội   nhập quốc tế   ở  Việt Nam hiện nay  [32], giúp bổ  sung rõ thêm khái niệm  độc lập, tự chủ theo quan điểm trong hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện   nay, trong đó nhấn mạnh đến mối quan hệ  giữa kinh tế  và chính trị  tác   động đến đối ngoại; Thái Văn Long (2006), Độc lập dân tộc của các nước   đang phát triển trong xu thế toàn cầu hóa [57], tác giả đã phân tích về khái  niệm độc lập dân tộc trong xu thế  toàn cầu hóa và nội dung bảo vệ  độc  
  8. 8 lập của các nước đang phát triển trong xu thế  toàn cầu hóa; Nguyễn Duy  Quý (1996),  Độc lập dân tộc gắn liền với chủ  nghĩa xã hội  [88], tác giả  đưa ra quan điểm về độc lập dân tộc của quốc gia là không bị áp bức, bóc  lột, đói nghèo, lạc hậu, tụt hậu, có điều kiện để  vươn lên phát triển và  bình đẳng với các quốc gia khác trên thế  giới; Mai Hải Oanh (2016), Độc   lập dân tộc ­ Lợi ích cơ bản của đất nước  [87], tác giả đã trình bày về khái  niệm độc lập dân tộc, trong đó khẳng định, độc lập dân tộc được thể hiện  rõ nhất ở hai nội dung là quyền tối cao quốc gia dân tộc trong phạm vi lãnh   thổ và quyền độc lập của quốc gia trong quan hệ quốc tế. Nguyễn   Hoàng   Giáp,   Nguyễn   Thị   Quế   (đồng   chủ   biên   ­   2013),  Chính sách đối ngoại Việt Nam thời kỳ đổi mới [31] các tác giả đã trình bày  về  quan điểm của chủ  nghĩa Mác ­ Lênin và tư  tưởng ngoại giao Hồ  Chí  Minh về  quan hệ  quốc tế  và nội dung quá trình triển khai chính sách đối  ngoại Việt Nam từ năm 1986 đến Nay; Nguyễn Dy Niên (2009), Tư tưởng   ngoại giao Hồ  Chí Minh [84], tác giả đã hệ  thống hóa, giúp làm rõ nguồn  gốc, quá trình hình thành, nội dung chủ  yếu, phương pháp, phong cách,  nghệ  thuật  trong  tư  tưởng ngoại giao Hồ  Chí Minh, nêu  một số  bài học  kinh nghiệm của ngoại giao Việt Nam  và việc vận dụng tư  tưởng ngoại  giao Hồ  Chí Minh trở  thành kim chỉ  nam trong hoạch định đường lối đối  ngoại của Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975. Nguyễn Anh Thái (1998), Lịch sử thế giới hiện đại từ 1945 đến 1975   [94],  tác giả  đã phân tích về  lịch sử  thế  giới và quan hệ  quốc tế   từ  năm  1954 đến năm 1975, nêu rõ mục tiêu và việc triển khai đối ngoại của các  nước trên thế giới, đặc biệt là các nước lớn như Mỹ, Liên Xô, Trung Quốc.   Cuốn sách là cơ  sở  để  kiểm chứng một số  sự  kiện lịch sử  đối ngoại liên   quan, giúp làm sáng tỏ thêm một số vấn đề quan hệ quốc tế trong cuộc đấu  tranh   bảo   vệ   độc   lập   dân   tộc   của   Việt   Nam   trên   lĩnh   vực   đối   ngoại;  Trương Hữu Quýnh (chủ biên ­ 1998), Đại cương Lịch sử Việt Nam,  Tập I  [87], các tác giả đã trình bày về lịch sử Việt Nam từ thời nguyên thủy đến 
  9. 9 nửa đầu thế kỷ XIX; Đinh Xuân Lâm (chủ biên ­ 1998), Đại cương Lịch sử   Việt Nam, Tập II [51], các tác giả đã trình bày lịch sử Việt Nam từ 1858 ­   1945; Lê Mậu Hãn (chủ biên ­ 1999), Đại cương Lịch sử Việt Nam,  tập III  [35], các tác giả  trình bày khái quát lịch sử  Việt Nam từ  1945 ­ 1995. Các  công trình này, đã khái quát về  sự  nghiệp dựng nước và giữ  nước vĩ đại   của dân tộc Việt Nam và những bài học truyền thống quý báu trong đấu  tranh ngoại giao làm cơ sở, tiền đề cho những hoạch định đường lối, chính  sách đối ngoại của Việt Nam trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nước, bảo vệ  độc lập dân tộc (1954 ­ 1975). Nguyễn Trọng Hậu (2004),  Hoạt động đối ngoại của Nước Việt   Nam Dân chủ  Cộng hòa thời kỳ  1945 ­ 1950   [37],  tác giả  đã trình bày  những hoạt động đấu tranh ngoại giao của Việt Nam trong 5 năm (1945 ­  1950), kết hợp đấu tranh ngoại giao với đấu tranh chính trị và quân sự, giúp  Việt Nam đứng vững trong vòng vây kẻ thù, tạo cơ sở và tiền đề để hoạch  định đường lối, chính sách đối ngoại ở những giai đoạn sau; Nguyễn Phúc  Luân (2004),  Ngoại giao Việt Nam từ  Việt Bắc đến Hiệp định Giơnevơ  [60], cuốn sách trình bày chính sách đối ngoại thời chiến, ngoại giao trong  giai đoạn đầu toàn quốc kháng chiến, chủ  trương và biện pháp đối ngoại   trong bối cảnh cuộc kháng chiến bị phong tỏa. Ngoại giao của Việt Nam đã   tích cực phá thế bao vây, cải thiện cục diện chiến tranh theo hướng có lợi   cho Việt Nam, thêm bạn, bớt thù, tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi,  tranh thủ  sự  đồng tình, giúp đỡ  của các nước xã hội chủ  nghĩa nhằm tạo  thế  và lực cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Những  kinh nghiệm  trong  giai đoạn này, trở  thành một trong những cơ  sở  quan trọng để  Đảng Lao   động Việt Nam và Nước Việt Nam Dân chủ  Cộng hòa hoạch định đường  lối, chính sách đối ngoại từ  năm 1954 đến năm 1975; Lê Kim Hải (2005),  Hồ Chí Minh với quan hệ ngoại giao Việt ­ Pháp thời kỳ 1945 ­ 1946 [34],  tác giả  đã tái hiện thời kỳ  hết sức khó khăn của cách mạng Việt Nam,   nhưng dưới bàn tay chèo lái tài tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong đó có 
  10. 10 những sách lược ngoại giao linh hoạt, hiệu quả, đã đưa chính quyền cách  mạng và nhân dân Việt Nam vượt quan những khó khăn. Đồng thời, tác giả  còn phân tích đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Chủ  tịch Hồ  Chí Minh trong phân hóa, cô lập kẻ thù và các mối quan hệ trên các lĩnh vực  chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao từ  năm 1945 đến năm 1946. Những   bài học lớn trong ngoại giao của Việt Nam trong thời kỳ này, trở thành cơ  sở rất quan trọng cho việc hoạch định chính sách đối ngoại để bảo vệ độc  lập dân tộc của Việt Nam trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nước. Thứ hai, các công trình liên quan đến nội dung chính sách đối ngoại   của Việt Nam:   Tiêu biểu là công trình của Trường Chinh (1963), Tiến lên dưới lá   cờ  của Đảng [8], tập hợp các bài viết của cố  Tổng Bí thư  Trường Chinh,  rút ra những bài học qua 30 năm lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.   Trong đó, đề  ra nhiệm vụ  trước mắt cho toàn Đảng, toàn dân, khẳng định  Đảng Lao động Việt Nam đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác ­ Lênin vào   hoàn cảnh cụ  thể  của cách mạng Việt Nam, động viên tất cả  mọi người   hăng hái thực hiện nghị quyết Đại hội III của Đảng, thi đua yêu nước, xây  dựng chủ nghĩa xã hội  ở  miền Bắc và đấu tranh thống nhất  đất nước; Lê  Duẩn (1976) Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng vì độc lập, tự do, vì chủ  nghĩa   xã hội  tiến lên giành những thắng lợi mới  [13],  tác giả   đã khẳng  định  đường lối đúng đắn mà Đảng và Nhà nước Việt Nam đề ra trong trong mặt   trận đối ngoại để đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng  sản và công nhân quốc tế  là nhân tố  quan trọng dẫn đến thắng của cuộc   kháng chiến chống Mỹ; Phạm Văn Đồng (1965), Toàn dân đoàn kết, chống   Mỹ  cứu nước [29], trong đó nêu ra chính sách đối ngoại của Việt Nam là  đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa anh em, đoàn kết với nhân dân thế  giới, thái độ kiên quyết chống Mỹ, cứu nước. Đồng thời, ủng hộ cuộc đấu  tranh chính nghĩa của Lào, Campuchia và  trình bày  những thành quả  tích  cực trong đối ngoại của Việt Nam; Phạm Văn Đồng (1975),  Thắng lợi vĩ  
  11. 11 đại, tương lai huy hoàng [30], tác giả  đã hệ  thống khá toàn diện quá trình  xâm lược Việt Nam của đế quốc Mỹ và quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập  dân tộc của dân tộc Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975, trong đó có mặt  trận đối ngoại, góp phần vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc Việt Nam trước  đế quốc Mỹ. Tác giả cũng khẳng định đường lối đối ngoại đúng đắn, tranh  thủ  sự  giúp đỡ  các nước anh em, bạn bè năm châu, nhân dân yêu chuộng  hòa bình thế  giới tạo thành mặt trận rộng rãi, mạnh mẽ,  giúp Việt Nam  chiến thắng. Nội dung cuốn sách cũng lên án việc leo thang chiến tranh của  Mỹ,  ủng hộ  cách mạng Lào, Campuchia, khẳng định lập trường kiên định  đòi Mỹ  phải chấm dứt chiến tranh xâm lược đối với Việt Nam. Sự  thống  nhất nước Việt Nam phải do nhân dân hai miền Việt Nam tự  giải quyết   bằng phương pháp hòa bình, trên cơ sở dân chủ, không có sự can thiệp của  nước ngoài; Nguyễn Chương (1960), Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở   Miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà [42], tác giả đã phân  tích về  sự  giúp đỡ  của phe xã hội chủ  nghĩa là nhân tố  quan trọng, đẩy  mạnh đoàn kết quốc tế là nhân tố  đảm bảo xây dựng chủ  nghĩa xã hội và  đấu tranh thống nhất nước nhà thắng lợi; Nhà xuất bản Quân đội nhân dân  (1971), Đoàn kết, tin tưởng, quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược,  cuốn sách tập hợp các bài xã luận báo Nhân dân,  Quân đội  nhân dân, đài  Giải phóng. Trong đó khẳng định, tinh thần đoàn kết trong nước, đoàn kết  quốc tế,  truyền thống  đấu tranh anh dũng và tin tưởng cuối cùng cuộc   kháng chiến chống Mỹ  sẽ  thắng lợi; Nguyễn Xuân Tú (2003),  Đảng chỉ   đạo giành thắng lợi từng bước trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,  cứu   nước thời kỳ 1965 ­ 1975 [127], tác giả tập trung phân tích sự chỉ đạo đúng  đắn của Đảng, thể  hiện trong việc ra sức  đánh thắng cuộc chiến tranh   bằng lục quân của Mỹ ở miền Nam, kết hợp và giành thắng lợi từng bước  trên cả ba lĩnh vực chính trị, quân sự và ngoại giao;  Nguyễn Mạnh Hùng và  Phạm Minh Sơn (đồng chủ biên ­ 2008), Đối ngoại Việt Nam truyền thống   và hiện đại [47], cuốn sách góp phần làm sáng tỏ  những kinh nghiệm quý 
  12. 12 báu hình thành nên truyền thống ngoại giao Việt Nam và những chặng  đường phát triển giúp ngoại giao trở  thành vũ khí sắc bén trong cuộc đấu  tranh giành độc lập, bảo vệ độc lập của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt  Nam. Cuốn sách đã khái quát truyền thống đối ngoại Việt Nam từ  thời  dựng nước đến Cách mạng Tháng Tám 1945, với các sự  kiện lịch sử  tiêu  biểu về ngoại qua các thời kỳ lịch sử. Đồng thời, phân tích khái quát đường   lối, chính sách đối ngoại của Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng  sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong hai cuộc kháng chiến chống   Pháp và chống Mỹ, cứu nước, tập trung phân tích làm rõ sự phối hợp giữa  ngoại giao với chính trị, quân sự, kinh tế  và  văn hóa;  Hoàng Đức Thịnh  (2015), Đường lối tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế của Đảng giai đoạn 1965 ­   1975 [96], tác giả tập trung phân tích nguồn gốc, cơ sở lý luận và thực tiễn  hình thành quan điểm của Đảng Lao động Việt Nam về  tranh thủ  sự  giúp  đỡ  quốc tế, trong đó làm rõ mục tiêu, phương hướng, nội dung, đối tượng  mà hoạt động tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế hướng tới, chỉ ra phương châm  và yêu cầu của hoạt động. Tác giả  đã phân tích làm nổi bật các biện pháp  chỉ  đạo của Đảng, phác họa khá đầy đủ  phong trào quốc tế   ủng hộ  Việt   Nam kháng chiến chống Mỹ, qua  đó rút ra những thành công, hạn chế,   nguyên nhân và bài học kinh nghiệm trong quá trình Đảng Lao động Việt   Nam lãnh đạo tranh thủ  sự  giúp đỡ  quốc tế  trong kháng chiến chống Mỹ,   cứu nước; Vũ Dương Ninh (2016), Cách mạng Việt Nam trên bàn cờ quốc   tế, lịch sử và vấn đề [86], tác giả đã phân tích quá trình đấu tranh anh dũng,  gian khổ  để  bảo vệ  độc lập, chủ  quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ  của Việt Nam kể  từ  khi tuyên bố  độc lập năm 1945 đến năm 1975 với   những cơ  hội, thuận lợi, khó khăn và thách thức. Trong đó, Việt Nam đã  chịu sự  tác động nhiều phía trong quan hệ  quốc tế  và ngược lại tình hình  Việt Nam tác động ngược trở lại đối với tình hình thế giới. Đồng thời, tác  giả  cũng  phân tích về  đường lối đối ngoại của Việt Nam, mối quan hệ 
  13. 13 giữa các mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, trước tác động của tình  hình thế giới để bảo vệ độc lập dân tộc giai đoạn 1945 đến năm 1975.  1.1.1.2. Các công trình liên quan đến quá trình triển khai  đấu   tranh bảo vệ độc lập dân tộc trên lĩnh vực đối ngoại của Việt Nam từ   năm 1954 đến năm 1975 Nguyễn Vũ ­ Nguyễn Thái Anh (2008), Hồ Chí Minh về nghệ thuật   ngoại giao [130] cuốn sách tập hợp các thư, điện văn của Chủ tịch Hồ Chí  Minh gửi các nước lớn như  Liên Xô, Trung Quốc, Mỹ, Pháp, gửi cá nhân  lãnh đạo và chính phủ  các nước xã hội chủ  nghĩa, đảng cộng sản một số  nước, nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới. Bên cạnh đó còn có nội dung  các bài phát biểu của Chủ  tịch Hồ  Chí Minh trong các chuyến thăm, hội  đàm ngoại giao. Qua đó, giúp người đọc hiểu biết thêm nhiều vấn đề  và   khía cạnh trong việc triển khai nội dung đối ngoại của Đảng và Nhà nước  Việt Nam trong chống Mỹ, cứu nước  từ  năm 1954 đến năm 1975; Khu di  tích Chủ  tịch Hồ  Chí Minh tại Phủ  Chủ tịch (2010), Hoạt động đối ngoại   của Chủ  tịch Hồ  Chí Minh với các nước Châu Á (1954 ­ 1969 ) [50], cuốn  sách là công trình sưu tầm, tập hợp các bài viết, các hoạt động đối ngoại   của Chủ  tịch Hồ  Chí Minh với các nước châu Á trong giai đoạn 1954 ­   1969. Nội dung cuốn sách,  góp phần làm rõ thêm nhiều vấn đề  về  việc  triển khai hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước và Chủ  tịch Hồ  Chí   Minh. Qua đó cho thấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng lĩnh vực   đối  ngoại, Người trực tiếp  thực hiện các  hoạt động ngoại  giao  với việc  thực hiện nhiều chuyến thăm, gửi nhiều thư từ, điện văn đến các nước và  chỉ  đạo sát sao công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam để  phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Trong đó, tư tưởng chủ  đạo là luôn đoàn kết với tất cả  các nước anh em, chính phủ  và nhân dân  yêu chuộng hòa bình ở châu Á.  Mai Văn Bộ (1985), Tấn công ngoại giao và tiếp xúc bí mật [5], đây  là hồi ký của nhà ngoại giao Mai Văn Bộ, ghi lại những điều mắt thấy, tai  
  14. 14 nghe, giúp người đọc hiểu được những thủ  đoạn của Mỹ, đồng thời hiểu   rõ cuộc đấu tranh kiên quyết, khôn khéo của Việt Nam trên mặt trận ngoại   giao. Trong đó, Việt Nam đã kết hợp hiệu quả  đấu tranh ngoại giao với  hoạt động quân sự trên chiến trường, tranh thủ sự ủng hộ quốc tế để buộc  Mỹ  phải tiếp xúc và đàm phán theo điều kiện có lợi cho Việt Nam; Lưu  Văn Lợi (1996), Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam, Tập 1 (Ngoại giao  Việt Nam 1954 ­ 1975) [56], tác giả  đã khái quát ngắn gọn những bài học  ngoại giao của Việt Nam trong lịch sử, đặc biệt tập trung phân tích cuộc  đấu tranh ngoại giao của Việt Nam từ  năm 1945 đến năm 1975 góp phần  thực hiện hai nhiệm vụ kháng chiến và kiến quốc, nhấn mạnh đến quyết  tâm bảo vệ  độc lập dân tộc của Việt Nam; Ban chỉ  đạo Tổng kết chiến   tranh trực thuộc Bộ  Chính trị  (2000),  Chiến tranh cách mạng Việt Nam   1945 ­ 1975 thắng lợi và bài học [2], các tác giả đã dựng lại một cách khái  quát, chân thực, phân tích về những sự kiện lịch sử chính yếu, những đánh  giá về  sự  lãnh đạo của Đảng trong cuộc chiến tranh cách mạng 30 năm  (1945 ­ 1975). Từ đó, rút ra một số bài học lớn làm nên thắng lợi của Việt   Nam, bài học về  phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, kết hợp sức   mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, biết  phân hóa, cô lập kẻ  thù, tranh  thủ  tối đa sự   ủng hộ  của các lực lượng cách mạng và của cả  loài người   tiến bộ. Đặc biệt, nội dung cuốn sách nhấn mạnh đến vai trò đối ngoại   của Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975, nêu ra nhiều số liệu về sự giúp  đỡ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa cho cuộc kháng  chiến chống Mỹ  của Việt Nam.  Qua đó  khẳng định, sự  thành công trong  lĩnh vực đối ngoại là một trong nhân tố quan trọng góp phần làm nên thắng  lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ,  cứu nước của Việt Nam; Nguyễn Phúc  Luân chủ biên (2001), Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp giành độc   lập, tự  do (1945  ­ 1975)  [59], các  tác  giả  đã tập trung trình bày đấu tranh  ngoại giao thời kỳ  giữ  vững chính quyền cách mạng vừa mới thành lập   (8/1945 ­ 12/1946), ngoại giao Việt Nam thời kỳ chống Pháp (1947 ­ 1954) 
  15. 15 và thời kỳ chống Mỹ (1954 ­ 1975); Nguyễn Phúc Luân (2005), Ngoại giao   Việt Nam trong cuộc đụng đầu lịch sử [61], tác giả đi sâu phân tích đường  lối, chính sách, sự kết hợp giữa đấu tranh ngoại giao với chính trị, quân sự  và những thành tựu nổi bật của ngoại giao Việt Nam dưới sự lãnh đạo của  Đảng và Chủ  tịch Hồ  Chí Minh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.  Cuốn  sách góp phần trả lời câu hỏi: Tại sao một nước nghèo, lạc hậu như  Việt   Nam lại có thể  chiến thắng một nước có tiềm lực hàng đầu về  kinh tế,   quốc phòng, khoa học công nghệ như Mỹ? Bộ  Quốc phòng Việt Nam, Viện Lịch sử  Quân sự  Việt Nam (1991),   Lịch  sử  kháng chiến chống Mỹ  cứu nước (1954  ­  1975)  [128], nội dung  cuốn sách trình bày mối quan hệ  Việt Nam ­ Lào ­ Campuchia trong phối   hợp đánh Mỹ, liên minh này là tất yếu khách quan, trở thành quy luật tồn tại,  phát triển và làm nên những thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,  cứu nước của ba nước Đông Dương; Lê Đình Chỉnh (2007), Quan hệ  đặc   biệt hợp tác toàn diện Việt Nam ­ Lào trong giai đoạn 1954 ­ 2000  [9], tác  giả phân tích đến mối quan hệ Việt Nam ­ Lào trong giai đoạn 1954 ­ 1975,  mối quan hệ  láng giềng anh em đặc biệt của hai nước Việt Nam ­ Lào,  đoàn kết của hai dân tộc cùng chiến đấu để giành thắng lợi trước đế quốc  Mỹ; Đảng Nhân dân Cách mạng Lào ­ Đảng Cộng sản Việt Nam (2011),  Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam ­ Lào, Lào ­ Việt Nam (1930 ­ 2007), Biên   niên sự kiện I (1930 ­ 1975) [28], nội dung cuốn sách đã phản ánh khá đầy  đủ  quá trình hình thành và phát triển mối quan hệ đoàn kết chiến đấu của   hai nước Việt ­ Lào, Lào ­ Việt trong cuộc đấu tranh chống Pháp, chống  Mỹ, giành và bảo vệ  độc lập dân tộc. Đặc biệt, những sự  kiện lịch sử  từ  năm 1954 đến năm 1975 phản ánh tình đoàn kết, sự  hợp đồng chiến đấu  hiệu quả giữa hai nước cùng chống kẻ thù chung là đế  quốc Mỹ. Các thế  hệ  cán bộ, chiến sĩ quân đội Việt Nam nối tiếp nhau   quán triệt sâu sắc  đường lối của Đảng Lao động Việt Nam thực hiện nhiệm vụ quốc tế giúp  đỡ  cách mạng Lào. Đáp lại, Đảng Nhân dân cách mạng Lào và nhân dân 
  16. 16 Lào trong điều kiện của mình đã hết lòng giúp đỡ  Việt Nam, trong đó sự  giúp đỡ Việt Nam trong việc mở tuyến đường Trường Sơn Tây để chi viện   cho miền Nam là một minh chứng sống động về  sự  đoàn kết  và  giúp đỡ  của Lào; Trần Nam Tiến (2010) Quan hệ Việt Nam ­ Hoa Kỳ thực trạng và   triển vọng [123], tác giả đã giành một phần nói về quan hệ Việt ­ Mỹ trong  giai đoạn 1954 ­  1975, trong đó Mỹ  thực hiện   Chiến lược toàn cầu  can  thiệp sâu vào tình hình Việt Nam bằng cách dựng lên chính quyền Việt  Nam Cộng hòa là giai đoạn cực xấu trong quan hệ hai nước; Nguyễn Đình  Thực (2001),  Chủ  trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về  quan hệ  đối   ngoại với ASEAN (1967  ­ 1995),  tác giả  có giành một phần   phân tích  về  quan hệ Việt Nam ­ ASEAN giai đoạn 1967 ­ 1975. Nguyễn Duy Trinh (1979),  Mặt trận ngoại giao thời kỳ chống M ỹ,   cứu nước (1965 ­ 1975) [124], tác giả đã phân tích tình hình ngoại giao và  khẳng định sự quyết tâm của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đấu tranh đòi  Mỹ   chấm   dứt   chiến   tranh   xâm   lược   và   rút   quân   về   nước.   Cuốn   sách   khẳng định, mối quan hệ mật thiết giữa mặt tr ận ngo ại giao v ới chính trị,  quân sự, xây dựng chiến lược, sách lược ngoại giao chủ  động, tích cực,  tăng cường tập hợp lực lượng và tranh thủ  sự   ủng hộ  quốc tế. Tác giả  khẳng định, sự ủng hộ, tình đoàn kết chiến đấu của các nước anh em láng   giềng, các nước xã hội chủ  nghĩa  giúp Việt Nam  tăng thêm sức mạnh  trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước,   đặt  cơ  sở  cho mặt trận  nhân dân thế  giới  ủng hộ Việt Nam, vạch tr ần âm mưu, thủ  đoạn xuyên   tạc,  góp phần đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ   đi đến thắng lợi cuối  cùng; Nguyễn Thị  Mai Hoa (2013),   Các nước xã hội chủ  nghĩa  ủng hộ   Việt Nam kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 ­ 1975)  [39], tác giả tập  trung tìm hiểu, phục dựng toàn bộ  bức tranh về sự  giúp đỡ  của các nước  xã hội chủ  nghĩa, trong đó Trung Quốc và Liên Xô, đã có những sự  giúp  đỡ  về  vật chất và tinh thần to lớn, tiếp thêm sức mạnh cho Việt Nam  trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, tạo thêm thế và lực cho Việt Nam để 
  17. 17 giành thắng lợi; Bộ Ngoại giao Việt Nam (1979),  Sự thật về quan hệ Việt   Nam ­ Trung Quốc trong 30 năm qua  [6],  cuốn sách đánh giá lại những  mục tiêu, sách lược hai mặt ẩn chứa phía sau nhằm gia tăng phạm vi  ảnh  hưởng, kiềm chế  Việt Nam  của Trung Quốc trong các vấn đề liên quan  đến cuộc chiến tranh Việt Nam; Trần Mai Hùng (2011), Sự  giúp đỡ  của   Liên Xô đối với Việt Nam trong hai cu ộc kháng chiến chống thực dân   Pháp và đế  quốc Mỹ  [43],  tập trung làm rõ  những giúp đỡ  của Liên Xô  đối với Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ,  rút ra bài học kinh nghiệm và gợi mở  một số  vấn  đề  về  quan hệ  đối  ngoại trong bối cảnh hiện nay; Nguy ễn Kh ắc Hu ỳnh (2011),  Ngoại giao   Việt Nam góc nhìn và suy ngẫm [46], tác giả đã phân tích tư  tưởng ngoại  giao Hồ  Chí Minh, vị  trí, vai trò, chức năng, bản lĩnh và trí tuệ  của ngoại  giao Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ. Trong đó, tác giả  tập trung   phân tích vai trò ngoại giao của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa  miền Nam  Việt  Nam trong tiến trình  đàm phán Paris, phong trào phản  chiến của nhân dân Mỹ, sự giúp đỡ của Liên Xô và mặt trận nhân dân thế  giới ủng hộ Việt Nam chống Mỹ. Đặc biệt, tác giả đã rút ra được một số  bài học kinh nghiệm trong đấu tranh ngoại giao của  Việt Nam giai đoạn  chống Mỹ, cứu nước. Thông tấn xã Giải phóng,   Bản tin hàng ngày  (từ  [97] đến [121]), là cơ  quan ngôn luận của Mặt trận Dân tộc Giải phóng  miền Nam Việt Nam và Chính phủ  Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền  Nam Việt Nam,  đưa  thêm nhiều thông tin về  việc triển khai ho ạt  động  đối ngoại  của Việt Nam  và những kết quả  trong giai đoạn từ  1964 đến  1975. Cục Văn thư và Lưu trữ  Nhà nước, Trung tâm Lưu trữ  Quốc gia II   (2012),  Hiệp định Paris về  Việt Nam năm 1973 qua tài liệu của Chính   quyền Sài Gòn [125], sách gồm 2 tập trong đó Tập I tập trung  về  nội dung  đánh và đàm, Tập II nội dung ký kết và thực thi. Cuốn sách tập hợp nguồn  sử liệu gốc của các cơ quan trung ương Chính quyền Sài Gòn, các cơ  quan 
  18. 18 Mỹ   ở  miền Nam Việt Nam trong giai đoạn diễn ra đàm phán Paris (1968  ­  1973), giúp người đọc biết được phần nào góc nhìn của phía bên kia để có   cơ  sở  so sánh, đối chiếu và đặc biệt thấy rõ hơn âm mưu của Hoa Kỳ  và  Chính   quyền   Sài   Gòn   trong   đàm   phán   tại   Paris;   Nguyễn   Khắc   Huỳnh  (2012), Nghệ thuật ngoại giao với cuộc đàm phán Paris [47], cuốn sách tập  hợp những bài nghiên cứu, tham luận chọn lọc của tác giả,  trong đó tập  trung làm rõ tư  tưởng ngoại giao Hồ  Chí Minh.  Sự   ủng hộ  nhân dân thế  giới với Việt Nam, đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước   Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, đặc biệt trong đàm phán tại Paris  với những vấn đề  gay cấn trong  đàm phán và bài học ngoại giao rút ra từ  đàm phán; Bộ Ngoại giao chủ trì biên soạn (2015), Mặt trận ngoại giao với   cuộc đàm phán Paris về Việt Nam  [7], cuốn sách gồm 4 phần chính: Đánh ­  đàm và ký kết; Đấu tranh thi hành hiệp định; Mặt trận nhân dân thế  giới  ủng hộ Việt Nam; Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa và bài học. Trong đó, tập  hợp những phát biểu chỉ đạo của các vị lãnh đạo cao cấp Việt Nam, các bài  viết, trả lời phỏng vấn, hồi ký, bình luận của những người trực tiếp hoặc   gián tiếp tham gia đàm phán, tái hiện lại cuộc đấu tranh cam go của Việt  Nam để giành thắng lợi tại Hội nghị Paris 1973; Nguyễn Đình Bin chủ biên  (2002), Ngoại giao Việt Nam 1945 ­ 2000  [3], các tác giả đã phân tích hoạt  động ngoại giao của Việt Nam  từ năm 1954 đến năm 1975, trong đấu tranh  thi hành Hiệp định Giơnevơ, góp phần đánh bại các loại hình chiến tranh   xâm lược thực dân kiểu mới, buộc Mỹ  ký Hiệp định Paris ,  tạo thời cơ  thuận lợi để  tiến lên giải phóng miền Nam; Nguyễn Khắc Huỳnh (2006),  Ngoại giao Việt Nam phương sách và nghệ  thuật đàm phán  [45],  tác giả  tập trung nghiên cứu vận dụng truyền thống ngoại giao của dân tộc và tư  tưởng ngoại giao Hồ  Chí Minh để  xây dựng phương sách và nghệ  thuật  đàm phán cho ngoại giao Việt Nam. Trong đó, tập trung những cuộc đàm  phán lớn với Pháp, Mỹ  để  góp phần giành thắng lợi cuối cùng trong cuộc   đấu tranh giải phóng dân tộc; Vũ Dương Ninh (2015),  Quan hệ  đối ngoại  
  19. 19 Việt Nam 1940 ­ 2010 [85], tác giả đã tập trung trình bày những nét cơ bản  về  đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam qua các giai  đoạn, thông qua phân tích bối cảnh quốc tế và trong nước liên quan đến các  sự  kiện, diễn biến trong quan hệ đối ngoại, rút ra nhận định chung và bài  học kinh nghiệm. Cuốn sách trình bày giai đoạn 1954 ­ 1968 với nội dung  chính đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ, chống "chiến tranh đặc   biệt", "chiến tranh cục bộ" và chống các thủ đoạn lừa bịp của chính quyền  Johnson về cái gọi là "tìm kiếm hòa bình". Trong giai đoạn 1968 ­ 1973, tác  giả  tập trung vào cuộc đàm phán Việt ­ Mỹ,  đấu tranh đòi thi hành Hiệp  định Paris giai đoạn 1973 ­ 1975 và những hoạt động đối ngoại phục vụ  cuộc Tổng tiến công mùa Xuân 1975. Ngoài ra, tác giả còn đề cập đến một  số  nhân tố  tác động, mối quan hệ  ngoại giao giữa Việt Nam với một số  nước, đánh giá những thành tựu trong hoạt động đối ngoại và rút ra những  kinh nghiệm trong đấu tranh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay v.v... 1.1.2. Các công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài Để  nghiên cứu và nhận xét hiệu quả  đối ngoại của Việt Nam từ  năm 1954 đến năm 1975, góp phần làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến  chống Mỹ, cứu nước, giải phóng dân tộc, không thể không tìm hiểu những  đối sách ngoại giao, những đánh giá của tác giả các nước có quan hệ, nhiều  duyên nợ với Việt Nam trong giai đoạn này, tiêu biểu là các công trình sau:  Richard Reeves (2004) Một nhiệm kỳ  Tổng thống dở dang [92], tác  giả đã trình bày những hoạt động đối ngoại trong thời kỳ tổng thống John  F.Kennedy cầm quyền,  phân tích  mối quan hệ  căng thẳng Mỹ  ­ Xô trong  việc cạnh tranh vị  trí lãnh đạo thế  giới.  Quyết định  can thiệp vào  Việt  Nam,  ủng hộ, viện trợ chính quyền Ngô Đình Diệm của Mỹ để  thực hiện  âm mưu ngăn chặn sự lan rộng của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Nam Á  và  sau đó  thất vọng về  chính quyền Ngô Đình Diệm  khi không thực hiện  được những yêu cầu mà Mỹ kỳ vọng nên đã loại bỏ ông ta.
  20. 20 Richard Nixon (2004), Hồi ký [91], tác giả đã trình bày những chiến  lược, sách lược của chính quyền mình đối với cuộc chiến tranh Việt Nam,  trong  đó có việc đánh lừa dư  luận Mỹ, xích lại gần Liên Xô và bắt tay   Trung Quốc để cô lập, làm Việt Nam suy yếu nhằm mục đích giành thắng  lợi trong cuộc chiến này. Henrry Kissinger (2004),  Hồi ký những năm bão táp và cuộc chạy   đua và nhà trắng [38], tác giả đã trình bày những quan điểm bất đồng giữa  Chính phủ  Mỹ  và Việt Nam Dân chủ  Cộng hòa trong việc tìm giải pháp  hòa bình cho Việt Nam. Đồng thời, thuật lại những nước cờ ngoại giao của  Mỹ  trong việc tiếp cận với Liên Xô, xích lại gần với Trung Quốc để  cô  lập Việt Nam và những vấn đề  tranh luận căng thẳng trong đàm phán tại  Paris. Micheal J.Hogan (1992), The End of the Cold War ­ Its Meaning and   Implications  (Kết thúc chiến tranh lạnh ­ Nội dung và ý nghĩa)  [155], nội  dung cuốn sách tập trung trình bày và phân tích quan điểm của các nhà sử  học, khoa học chính trị, các nhà phân tích chính sách và các nhà bình luận từ  Hoa Kỳ, Anh, Đức, Pháp, Na Uy và Liên Xô. Trong đó, nội dung xoay quanh  những vấn đề  như: nguồn gốc của Chiến tranh lạnh, các nguồn tư  tưởng  địa chính trị, chi phí của xung đột,  ảnh hưởng của nó đối với đời sống và  thể chế của người Mỹ. Nội dung cuốn sách cũng phân tích quan điểm của  Mỹ lo sợ Việt Nam theo chủ nghĩa cộng sản và rơi vào tầm ảnh hưởng của   Trung Quốc nên nên quyết định can thiệp vào Việt Nam. Bên cạnh đó, cuốn   sách cũng tập trung phân tích việc Mỹ lợi dụng mâu thuẫn Xô ­ Trung, bắt  tay với Trung Quốc nhằm tìm lối thoát danh dự trong cuộc chiến tranh Việt   Nam.  Ang   Cheng   Guan   (2000),  The   Vietnam   War   1962   ­   1964:   The   Vietnamese Communist Perspective (Chiến tranh Việt Nam 1962 ­ 1964 theo   quan điểm của cộng sản Việt Nam)   [136], bài viết đã tập trung phân tích  những khó khăn tình hình Việt Nam sau Hiệp định Giơnevơ  trong việc đi 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
8=>2