intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Biểu thức quy chiếu trong các văn bản khoa học xã hội

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:197

7
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài "Biểu thức quy chiếu trong các văn bản khoa học xã hội" nhằm tổng quan những vấn đề lí thuyết có liên quan đến biểu thức quy chiếu; phân loại và miêu tả các biểu thức quy chiếu xét từ phương diện cấu tạo; tìm hiểu các đặc điểm ngữ nghĩa học và dụng học của biểu thức quy chiếu trong một số văn bản khoa học xã hội.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Biểu thức quy chiếu trong các văn bản khoa học xã hội

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN ĐỨC LONG BIỂU THỨC QUY CHIẾU TRONG CÁC VĂN BẢN KHOA HỌC XÃ HỘI Ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 9 22 90 20 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGÔ HỮU HOÀNG HÀ NỘI - 2024 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Nguyễn Đức Long
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ..................................................................................................... 1 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................... 5 3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ........................................................ 5 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án .................................. 7 5. Đóng góp của luận án ............................................................................................. 8 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án ................................................................. 8 7. Bố cục của luận án .................................................................................................. 9 Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT .................................................................................................................. 10 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu biểu thức quy chiếu ....................................... 10 1.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới.................................................................. 10 1.1.2. Tình hình nghiên cứu biểu thức quy chiếu ở Việt Nam................................... 20 1.2. Cơ sở lý thuyết ................................................................................................... 30 1.2.1. Vấn đề giao tiếp .............................................................................................. 30 1.2.2. Giao tiếp từ phương diện Dụng học ............................................................... 33 1.2.3. Biểu thức quy chiếu ................................................................................................ 38 1.2.4. Văn bản và văn bản khoa học xã hội ................................................................... 65 1.2.5. Đặc điểm cấu trúc, ngôn ngữ của văn bản khoa học xã hội ............................. 68 1.3. Tiểu kết ........................................................................................................................ 69 Chương 2. ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO CỦA BIỂU THỨC QUY CHIẾU TRONG MỘT SỐ VĂN BẢN KHOA HỌC XÃ HỘI ......................................................... 71 1.1. Biểu thức tên riêng ..................................................................................................... 72 2.2. Biểu thức miêu tả ............................................................................................... 82 2.3. Biểu thức chỉ xuất .............................................................................................. 91 2.4. Các dạng kết hợp....................................................................................................... 97 2.4.1. Biểu thức tên riêng kết hợp với miêu tả .......................................................... 99 2.4.2. Biểu thức tên riêng kết hợp với chỉ xuất ....................................................... 100
  4. 2.4.3. Biểu thức miêu tả kết hợp với chỉ xuất .......................................................... 101 2.4.4. Biểu thức tên riêng kết hợp với miêu tả và chỉ xuất ..................................... 102 2.5. Cơ sở để thành lập biểu thức quy chiếu ................................................................ 103 2.6. Tiểu kết...................................................................................................................... 108 Chương 3. ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA NGỮ DỤNG CỦA BIỂU THỨC QUY CHIẾU TRONG MỘT SỐ VĂN BẢN KHOA HỌC XÃ HỘI ......................... 111 3.1. Đặc điểm ngữ nghĩa ................................................................................................. 111 3.1.1. Tỷ lệ biểu thức quy chiếu xác định và không xác định ................................. 114 3.2. Đặc điểm ngữ dụng của các biểu thức quy chiếu trong các văn bản khoa học xã hội123 3.2.1. Đặc điểm của biểu thức quy chiếu ................................................................ 123 3.2.2 Nhận diện đối tượng biểu thức quy chiếu trỏ tới trong các bài viết khoa học xã hội ............................................................................................................................ 126 3.3. Tiểu kết...................................................................................................................... 145 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 147 NHỮNG CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ..................................................................................................... 151 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 152 PHỤ LỤC 1: DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐƯỢC TRÍCH DẪN ......... 160 PHỤ LỤC 2: CÁC BIỂU THỨC QUY CHIẾU TRONG VĂN BẢN KHOA HỌC XÃ HỘI ........................................................................................................ 166
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BTQCXĐ biểu thức quy chiếu xác định BTQCKXĐ biểu thức quy chiếu không xác định ĐT định tố NNL nguồn ngữ liệu P phụ Phs phụ sau Pht phụ trước Trt trung tâm
  6. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Hiện nay, xu hướng trong lĩnh vực ngôn ngữ học là tập trung nghiên cứu sâu rộng các vấn đề liên quan đến đời sống hàng ngày và hoạt động giao tiếp. Ngôn ngữ học chú trọng chức năng phục vụ trao đổi thông tin và tương tác giữa con người với nhau. Các nhà ngôn ngữ học quan tâm nghiên cứu rộng rãi về sự đa dạng của lời nói, xét theo góc độ chung nhất của hệ thống ngôn ngữ. Từ các nghiên cứu của Searle [97] và Austin [73], các nhà ngôn ngữ học đã phát triển dụng học, trong đó quy chiếu và biểu thức quy chiếu được coi là một trong những khía cạnh quan trọng. Quy chiếu (reference), hiểu theo nghĩa chung nhất, là việc người nói, người viết chỉ cho người nghe, người đọc biết mình đang đề cập tới đối tượng nào. Quy chiếu, còn gọi là chiếu vật, hoặc sở chỉ, như Asher định nghĩa, là “Thực thể trong thế giới hiện thực được chỉ ra bằng một sự diễn đạt ngôn từ” [72, 5164]. Trong luận án này, chúng tôi dùng thuật ngữ “quy chiếu”. Theo Fontain, L., Jones, K., &Schonthal, D. [80], thì người đầu tiên trên thế giới nghiên cứu quy chiếu là Frege (1892 - 1993). Frege cho rằng “Biểu thức quy chiếu là một biểu thức trỏ tới một vật thể duy nhất, nói cách khác, đây là sự mô tả xác định” (dẫn theo Fontain, L., Jones, K., &Schonthal, D, [80, 6]). Theo Dictionary of semiotics của Martin, B. & Ringham, F., “biểu thức quy chiếu là những từ chỉ có nghĩa một phần: để có thể tìm hiểu được nghĩa toàn thể của nó trong một trường hợp cụ thể, ta phải quy chiếu tới một đối tượng khác” [94, 109]. Theo tác giả Nguyễn Thiện Giáp [23], “Thuật ngữ quy chiếu được các nhà ngôn ngữ học dùng để chỉ mối quan hệ giữa các yếu tố ngôn ngữ với các sự vật, biến cố, hành động, tính chất mà chúng thay thế” [23, 372]. Còn biểu thức quy chiếu (referring expression) là những đơn vị ngôn ngữ mà người nói, người viết sử dụng để “trỏ” về một đối tượng nào đó, giúp cho người nghe, người đọc hiểu được đối tượng nào đang được nhắc tới, đề 1
  7. cập tới. Hurford, Heasley and Smith [88] định nghĩa “Biểu thức quy chiếu là bất cứ biểu thức ngôn ngữ nào được dùng trong một phát ngôn để ám chỉ tới điều gì đó hoặc ai đó (hoặc tới một tập hợp rõ ràng, không hạn định các vật hoặc người), tức là dùng để chỉ một đối tượng cụ thể xuất hiện trong tâm trí họ”. (A referring expression is any expression used in an utterance to refer to something or someone (or a clearly delimited collection of things or people), i. e. used with a particular referent in mind) [88, 37]. Tác giả Nguyễn Thiện Giáp [23] cho rằng biểu thức quy chiếu là “những hình thức ngôn ngữ mà người nói hoặc người viết đã dùng cho phép người nghe, người đọc nhận diện cái gì đó. Các tên riêng, chẳng hạn Hà Nội, Hải Phòng, Trà Vinh, Hùng, Tuấn, v. v. là những biểu thức quy chiếu ít phụ thuộc vào hoàn cảnh giao tiếp nhất. Biểu thức quy chiếu có thể là các danh ngữ xác định, chẳng hạn: phóng viên này, ca sỹ kia, cô sinh viên ấy…; các danh ngữ không xác định, chẳng hạn: một phóng viên nào đó, một ca sỹ nào đó…; các đại từ chỉ ngôi, chẳng hạn: tôi, mày, nó, họ, v. v.” [23, 89 - 90]. Biểu thức quy chiếu đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình giao tiếp, giúp người đọc hoặc người nghe nhận biết một cách chính xác và nhanh chóng đối tượng mà người viết hoặc người nói đang ám chỉ tới. Giả sử không sử dụng biểu thức quy chiếu, người nói hoặc người viết sẽ phải dùng một lượng lớn từ ngữ hoặc câu chữ để mô tả, giải thích mới có thể chỉ ra một cách rõ ràng đối tượng cụ thể mà họ muốn đề cập tới. Cao Xuân Hạo [27] cho rằng: “Muốn biết một câu nói ra phản ánh sự tình cụ thể nào, có giá trị chân lý hay không, phải biết sở chỉ của các thành tố của nó” [27, 114]. (Cao Xuân Hạo, và một số nhà Việt ngữ khác, dùng thuật ngữ “sở chỉ”, không dùng thuật ngữ “quy chiếu”). Trong các công bố khoa học xã hội, nhà khoa học và độc giả được xem là các bên của một cuộc đối thoại đặc biệt thông qua văn bản, và đối tượng độc giả thường thay đổi liên tục. Thậm chí đối với cùng một độc giả, sự khác 2
  8. biệt về độ tuổi, kinh nghiệm và mức độ quen thuộc với chủ đề nghiên cứu sẽ xảy ra theo diễn trình thời gian: cùng một độc giả đó, nhưng ở lần đầu tiên đọc tác phẩm và lần đọc sau đó rất lâu (ví dụ, 20 năm) sẽ có sự khác biệt lớn về độ tuổi, trình độ, kinh nghiệm của độc giả, điều này có thể dẫn tới những phản ứng khác nhau với bài viết. Do đó, tác giả cần chủ động sử dụng biểu thức quy chiếu phù hợp để duy trì tính chuyên nghiệp khi triển khai lập luận, giúp tránh khỏi những phản ứng tiêu cực từ độc giả. Việc sử dụng các biểu thức quy chiếu đa dạng không chỉ làm cho văn bản trở nên phong phú hơn, mà còn ngăn chặn sự lặp lại nhàm chán, đồng thời tạo ra sự liên kết mạch lạc hơn trong bài viết. Điều này giúp độc giả dễ dàng nắm bắt nội dung hơn và tăng tính thú vị của bài viết. Theo tác giả Nguyễn Thiện Giáp [23], “quy chiếu rõ ràng gắn với ý định và niềm tin của người nói khi sử dụng ngôn ngữ. Để có sự quy chiếu đúng chúng ta phải công nhận vai trò của suy luận, bởi vì giữa các thực thể và các từ không có mối liên hệ trực tiếp nên nhiệm vụ của người nghe là phải suy luận đúng người nói có ý định nhận diện thực thể nào khi dùng một biểu thức quy chiếu” [2, 90]. Tức là, bản thân các từ không tự trỏ tới các thực thể bên ngoài thế giới, mà người nói, người viết sử dụng biểu thức ngôn ngữ để trỏ tới đối tượng bên ngoài, và người nghe, người đọc có thể hiểu được, suy luận được đối tượng nào đang được đề cập tới. G. Yule [69] cho rằng, quy chiếu hoặc sở chỉ không chỉ là một khía cạnh tự nhiên của ngôn ngữ, mà thực tế đó là một hoạt động của con người. Do đó, cần nhận ra rằng từ ngữ không tự “chỉ” đến một đối tượng cụ thể một cách tự động. Khả năng này chỉ có con người mới thực hiện được. Vì vậy, trong giao tiếp nói chung, trong văn bản khoa học xã hội nói riêng, quy chiếu đóng vai trò quan trọng như một cơ sở giúp nhận diện và phân loại các đối tượng mà người nói hoặc người viết muốn chỉ đến. Điều này cũng là một trong những vấn đề quan trọng đầu tiên của ngôn ngữ học khi xác định độ chân thực của một phát ngôn. 3
  9. Trong giao tiếp ngôn ngữ, quy chiếu và biểu thức quy chiếu là những yếu tố thường xuyên xuất hiện. Đặc biệt, trong lĩnh vực văn bản khoa học xã hội, các biểu thức quy chiếu thường được lựa chọn kỹ càng, mang văn phong nghiên cứu khoa học. Việc tìm hiểu kỹ về chúng là cần thiết để giúp hiểu đúng và sâu sắc hơn về nội dung của văn bản. Theo tác giả Nguyễn Thiện Giáp [23], “Trong ngữ cảnh mà mọi người đều nhìn thấy dùng các đại từ làm biểu thức quy chiếu có thể đủ để quy chiếu thành công, nhưng ở những chỗ việc nhận diện khó khăn hơn thì có thể dùng những danh ngữ phức tạp” [23, 90]. Việc nghiên cứu các biểu thức ngôn ngữ, những “danh ngữ phức tạp” – thuật ngữ của tác giả Nguyễn Thiện Giáp, để quy chiếu đúng đối tượng trong văn bản khoa học xã hội nói riêng, văn bản khoa học nói chung là điều rất cần thiết. Trên thế giới, biểu thức quy chiếu và tính mạch lạc của nó trong diễn ngôn là những vấn đề được nhiều nhà ngôn ngữ học trong các lĩnh vực cú pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng học quan tâm, nghiên cứu. Biểu thức quy chiếu có thể được nghiên cứu từ phương diện ký hiệu học, như công trình của Halliday [83], hay từ phương diện ngữ pháp chức năng cũng của chính Halliday [84]. Etsuko Yosida [79] cho rằng các nhà khoa học đang có xu hướng chú ý tới quy chiếu và các yếu tố diễn ngôn ảnh hưởng đến các lựa chọn tham chiếu như sự gắn kết cục bộ hoặc toàn thể của diễn ngôn, cấu trúc thông tin và xử lý diễn ngôn. Tuy nhiên, vẫn còn ít những công trình nghiên cứu biểu thức quy chiếu trong các văn bản khoa học xã hội ở Việt Nam hiện nay. Việc thiếu vắng mảng nghiên cứu quan trọng này là lí do cơ bản đưa chúng tôi thực hiện luận án tiến sỹ “Biểu thức quy chiếu trong các văn bản khoa học xã hội”, giúp cung cấp cho giới nghiên cứu những kết quả bước đầu về biểu thức quy chiếu trong các văn bản khoa học xã hội. 4
  10. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Luận án này nghiên cứu theo hướng ngữ dụng học, khảo sát và mô tả các dạng biểu hiện của các biểu thức quy chiếu trong văn bản khoa học xã hội, và luận án có hai mục đích chính: - Nghiên cứu các biểu thức quy chiếu xét từ các phương diện cấu trúc, ngữ nghĩa nhằm tìm hiểu phương thức quy chiếu. - Tìm hiểu các giá trị của biểu thức quy chiếu trong văn bản khoa học xã hội. Những phát hiện của nghiên cứu này có thể sẽ được áp dụng trong thực tế công tác tại Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, giúp cho công tác biên tập bài viết được tốt hơn. Để đạt được những mục đích trên, trong luận án này chúng tôi thực hiện những nhiệm vụ sau: - Tổng quan những vấn đề lí thuyết có liên quan đến biểu thức quy chiếu. - Phân loại và miêu tả các biểu thức quy chiếu xét từ phương diện cấu tạo. - Tìm hiểu các đặc điểm ngữ nghĩa học và dụng học của biểu thức quy chiếu trong một số văn bản khoa học xã hội. 3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là các biểu thức quy chiếu chỉ người trong văn bản khoa học xã hội. Do đối tượng của biểu thức quy chiếu rất rộng, trải dài nhiều lĩnh vực, nên việc khu biệt đối tượng nghiên cứu là cần thiết, và biểu thức quy chiếu chỉ người là một lựa chọn phù hợp với thực tế nghiên cứu. Văn bản khoa học xã hội bao gồm nhiều thể loại khác nhau, và thể loại văn bản khoa học xã hội mà chúng tôi lựa chọn là các bài viết nghiên cứu đăng trên Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam giai đoạn 2017 - 2022. Chúng tôi lựa chọn đối tượng nghiên cứu này vì đây là các bài báo thuộc ngành khoa học xã hội cơ bản, nghiên cứu các phương diện của khoa học xã 5
  11. hội và nhân văn. Đây là những bài viết chung, liên ngành, có độ phủ lớn, bao quát và có nhiều ngành nghiên cứu trong đó, có tính đại diện. Các bài viết nghiên cứu thường có cấu trúc mở đầu, tổng quan tình hình nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, kết quả nghiên cứu, thảo luận, kết luận. Chúng tôi lựa chọn Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam vì đây là tạp chí uy tín của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, có truyền thống lâu năm, có hàm lượng khoa học cao và được cộng đồng khoa học thừa nhận. Tạp chí là một diễn đàn để các nhà khoa học có thể trình bày các công trình nghiên cứu, qua đó thể hiện quan điểm, suy nghĩ của cá nhân về các vấn đề nghiên cứu, về thế giới cũng như mong muốn nhận được sự phản hồi từ độc giả. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Trong thế giới hiện thực, mỗi sự vật hiện tượng có thể được quy chiếu bằng những biểu thức quy chiếu khác nhau. Việc lựa chọn những biểu thức quy chiếu khác nhau để chỉ cùng một đối tượng phụ thuộc vào bản thân người viết, người nói để phục vụ cho dụng ý của riêng tác giả. Để có thể nghiên cứu tất cả các hiện tượng biểu thức quy chiếu trong thực tế là điều quá sức với hầu hết các nhà khoa học, do vậy trong luận án này, chúng tôi giới hạn phạm vi nghiên cứu là các biểu thức quy chiếu chỉ người được khảo sát qua các bài viết đăng trên Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam từ năm 2017 tới 2022, trải dài qua 72 số tạp chí. Do đặc thù là một tạp chí đa ngành, các bài viết thường không xuất hiện đồng đều trong các số, nên chúng tôi không phân loại các bài viết thành các chuyên mục khác nhau. Thay vào đó, chúng tôi lựa chọn tất cả các bài viết được đăng ở trên tạp chí, vì tất cả các bài viết này đều đáp ứng được các tiêu chí của một bài báo khoa học. 6
  12. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án Để nghiên cứu đề tài này, chúng tôi áp dụng một số phương pháp luận khoa học duy vật biện chứng. Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng trong luận án như sau: 4.1. Phương pháp thu thập ngữ liệu Chúng tôi xây dựng bảng tổng hợp các biểu thức quy chiếu có thể xuất hiện trong các văn bản khoa học xã hội, tìm kiếm và trích xuất các cụm từ, mệnh đề và câu có chứa biểu thức quy chiếu; đọc và sàng lọc, lựa chọn các biểu thức quy chiếu chỉ người. 4.2. Phương pháp nghiên cứu 4.2.1. Phương pháp miêu tả ngôn ngữ học Phương pháp này được dùng để miêu tả cấu trúc của các biểu thức quy chiếu và các vấn đề liên quan, để làm nổi bật các khía cạnh ngữ nghĩa hoặc dụng học của các biểu thức trong văn bản khoa học xã hội dựa trên các đặc thù của ngữ nghĩa, dụng học và phân tích văn bản. 4.2.2. Phương pháp phân tích diễn ngôn Phương pháp này được sử dụng để nhận diện các biểu thức quy chiếu, tìm hiểu ngữ nghĩa và chức năng của các biểu thức này. Các đặc điểm ngữ nghĩa học và dụng học của biểu thức quy chiếu trong văn bản khoa học xã hội được phân tích theo khung lý thuyết. 4.2.3. Thủ pháp thống kê Thủ pháp này được sử dụng để thu thập các biểu thức quy chiếu trong văn bản khoa học xã hội. Sau khi thu thập được dữ liệu, chúng tôi tiến hành thống kê các biểu thức quy chiếu trong nguồn dữ liệu, phân loại các dữ liệu về các tiểu mục phù hợp, và thống kê kết quả các biểu thức trong các tiểu mục đó. 7
  13. 5. Đóng góp của luận án Luận án góp phần đi sâu xem xét đối tượng biểu thức quy chiếu ở các văn bản khoa học xã hội đặc thù. Cụ thể là nhận diện, thống kê các biểu thức quy chiếu trong một số văn bản khoa học xã hội, chỉ ra những biểu thức quy chiếu hay được các nhà khoa học sử dụng trong các công trình nghiên cứu của mình. Luận án cho rằng, trong các bài viết khoa học xã hội, tác giả cần sử dụng nhiều biểu thức miêu tả trong quy chiếu chỉ người trong các bài báo khoa học xã hội nhằm thay đổi, đa dạng hóa cách diễn đạt, tạo ra sự mới mẻ sinh động cho văn bản. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Về lý luận - Luận án góp phần làm rõ hiện tượng quy chiếu trong một loại hình văn bản đặc thù là văn bản khoa học xã hội. Luận án chỉ ra được phương thức quy chiếu một đối tượng mà người Việt sử dụng thông qua việc nghiên cứu các biểu thức quy chiếu được họ sử dụng. - Bước đầu chỉ ra được ý nghĩa của biểu thức quy chiếu trong phân tích diễn ngôn, phương thức thực hiện chức năng liên nhân. - Bước đầu chỉ ra được vai trò của biểu thức quy chiếu trong văn bản khoa học xã hội. 6.2. Về thực tiễn - Những kết quả nghiên cứu của luận án giúp cho việc hiểu rõ hơn các văn bản khoa học xã hội trong mạch diễn ngôn và có thể ứng dụng trong việc đọc hiểu văn bản và việc xử lý văn bản khoa học xã hội. - Giúp cho các tác giả có thêm những nhận thức mới và tăng hiệu quả của biểu thức quy chiếu trong công tác viết bài khoa học xã hội. 8
  14. 7. Bố cục của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, và Phụ lục, luận án gồm 3 chương: Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí thuyết Chương này trình bày những vấn đề lí thuyết làm nền tảng cho việc triển khai đề tài. Chương 2. Đặc điểm cấu tạo của biểu thức quy chiếu trong một số văn bản khoa học xã hội Chương này tìm hiểu cấu tạo biểu thức quy chiếu trong các bài viết khoa học đăng trên Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam. Chương 3. Đặc điểm ngữ nghĩa ngữ dụng của biểu thức quy chiếu trong một số văn bản khoa học xã hội Chương 3 phân tích đặc điểm ngữ nghĩa ngữ dụng của biểu thức quy chiếu trong một số văn bản khoa học xã hội. Ngoài ra, luận án còn đính kèm Phụ lục thống kê 57 bài viết chứa biểu thức quy chiếu mà chúng tôi đã thu thập được và đưa làm ví dụ minh họa trong nghiên cứu. 9
  15. Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT Dẫn nhập Theo Fontain, L., Jones, K., &Schonthal, D. [80], thì người đầu tiên trên thế giới nghiên cứu quy chiếu là Frege (1892 - 1993). Thuật ngữ biểu thức quy chiếu (referring expression) được L. Hjelmslev [86] lần đầu tiên đưa ra trong cuốn Omkring sprogteoriens grundlæggelse (Cơ sở lí thuyết ngôn ngữ), xuất bản năm 1943 bằng tiếng Đan Mạch và sau đó được Nhà xuất bản Baltimore thuộc Đại học Indiana (Hoa Kỳ) cho dịch và xuất bản bằng tiếng Anh năm 1953, với tiêu đề Prolegomena to a theory of language. Biểu thức quy chiếu là đơn vị ngôn ngữ mà bên phát thông tin sử dụng để trỏ tới một đối tượng nào đó trong thế giới khả hữu. Biểu thức quy chiếu là đối tượng nghiên cứu được nhiều chuyên ngành khoa học quan tâm. 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu biểu thức quy chiếu 1.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới 1.1.1.1. Các nghiên cứu theo hướng lý thuyết Vấn đề biểu thức quy chiếu đã được nhiều nhà ngôn ngữ học trên thế giới quan tâm, trong đó có những công trình tiêu biểu của các tác giả sau: De Saussure [53] với cuốn Giáo trình Ngôn ngữ học đại cương; Otto Jespersen [91] có The philosophy of grammar; Austin [73] có cuốn How to do things with words; Yule [69] với cuốn Pragmatics (Dụng học, được dịch sang tiếng Việt và xuất bản năm 2003); Levinson [93] với Pragmatics; Ullmann, S. [100] The Principles of Semantics; James R. Hurford, Bredan Heasley và Michael B Schmith [88] với công trình “Semantics - A coursebook”; Geeraerts, D. [82] có Theories of Lexical Semantics; Lee, D. [16] có Dẫn luận ngôn ngữ học tri nhận; Lyons [43] có Ngữ nghĩa học dẫn luận. Những đóng 10
  16. góp quan trọng của các công trình này liên quan tới biểu thức quy chiếu được trình bày ở phần dưới đây. De Saussure [53] là nhà nghiên cứu tiêu biểu trong ngôn ngữ học nói chung, có nhiều đóng góp làm cơ sở cho dụng học phát triển sau này. Với cuốn Giáo trình Ngôn ngữ học đại cương, ông đã miêu tả phương thức người ta quy chiếu sự vật, với hình ảnh cái cây được thể hiện trong các ngôn ngữ khác nhau. Dù được thể hiện ra bằng nhiều hình thức khác nhau, nhưng cuối cùng thì đối tượng mà các biểu thức này trỏ về cũng là những cái cây. Ông chỉ ra việc cái cây, dù được thể hiện ra bằng nhiều hình thức ngôn ngữ khác nhau, nhưng người đọc, người nghe vẫn luôn có thể hình dung ra được một “cái cây”, có gốc, có thân, và có ngọn, thuộc loài thực vật, tồn tại trên trái đất. Việc quy chiếu “cái cây” này bằng nhiều hình thức ngôn ngữ khác nhau không cản trở độc giả trỏ về đúng đối tượng mà bên phát ngôn muốn chỉ ra. Theo ông, việc dùng các biểu thức ngôn ngữ để trỏ cho độc giả biết mình đang muốn nói đến một cái cây là một công đoạn phức tạp, đòi hỏi người nói phải dùng các phương tiện ngôn ngữ hiện có để giúp cho người nghe hiểu được mình đang muốn đề cập tới đối tượng nào. Người ta cần tránh đơn giản hóa vấn đề, bởi vì “nó đưa người ta đến chỗ giả định rằng mối quan hệ gắn bó một tên gọi với một sự vật là một thao tác hết sức đơn giản, mà điều đó hoàn toàn không đúng” [53, 138]. Otto Jespersen [91] là người có đóng góp rất lớn cho nghiên cứu về ngôn ngữ, ông đã dành nhiều thời gian nghiên cứu về dụng học và các biểu thức quy chiếu. Trong công trình The philosophy of grammar xuất bản lần đầu năm 1924, ông đã trình bày nhiều vấn đề cơ bản của quy chiếu. Ông cho rằng, quy chiếu về bản chất là quy trình một người tìm về đúng đối tượng mình cần tìm: tương tự như việc đi lên tầng 5, nếu người đó đang ở tầng 4 thì chỉ cần đi lên thêm một tầng nữa là tới tầng 5, nếu đang ở tầng 1 thì phải đi lên 5 tầng. Quy 11
  17. trình quy chiếu cũng vậy, nếu đối tượng cần quy chiếu là dễ dàng được chỉ ra và được nhận biết thì quy trình này đơn giản, còn nếu đối tượng khó nhận diện được thì người nói phải sử dụng nhiều phương tiện khác nhau mới chỉ ra cho người nghe biết được đấy là đối tượng nào. Các phương tiện mà người nói gắn thêm vào thành phần chính, để người nghe có thể xác định được đúng đối tượng mà người nói muốn đề cập tới, được Jespersen [91] gọi là restrictive/qualifying adjunt (phần phụ trợ sơ loại, tương đương định ngữ). Các từ phụ trợ sơ loại này có chức năng hạn chế số lượng các vật thể cần thiết để có thể xác định được đúng đối tượng mà người nói muốn trỏ tới, ví dụ “đỏ” trong “hoa hồng đỏ” sẽ xác định rõ chỉ có những hoa hồng màu đỏ mới được xem xét, các loại hoa hồng trắng/xanh… sẽ không được tính đến. Theo hướng nghiên cứu này, nhiều nhà ngôn ngữ học đã kế thừa và vận dụng phương thức mà Jespersen [91] đã đề ra. Jespersen cũng cho rằng, các phần phụ trợ sơ loại có tính chất tương đối, miễn là chúng có thể chỉ dẫn cho người nghe xác định đúng đối tượng mà người phát ngôn muốn người nhận phát ngôn nhận biết nó. Ví dụ, nếu một cảnh sát nói với đồng nghiệp, anh hãy theo dõi tên đang hút xì gà uống rượu ngoại ở góc cuối phòng, thì dù đối tượng đó có thể đang không hút xì gà mà chỉ là hút thuốc lá, không uống rượu ngoại mà chỉ đơn giản là uống rượu nội địa, thì người nghe (trong trường hợp này là người đồng nghiệp của viên cảnh sát) cũng vẫn có thể xác định được đúng đối tượng cần theo dõi. (Điều này tương tự ví dụ của Saussure, khi ông cho rằng, khi nhìn thấy đèn đỏ hoặc đèn xanh, dù màu sắc của đèn giao thông có thể chỉ là hơi đỏ hoặc hơi xanh, thì ý nghĩa của đèn đối với người tham gia giao thông cũng chỉ là một, là dừng lại/ tiếp tục đi). Trọng tâm của việc nghe và hiểu các chỉ dẫn ở đây là làm sao xác định được đúng đối tượng cần theo dõi, không phải là việc đối tượng đó có thật sự đang hút xì gà, hay đang uống rượu ngoại hay không. Việc người nghe 12
  18. có thể xác định đúng đối tượng mà người nói trỏ tới thường phụ thuộc vào các phụ trợ sơ loại này, các thành phần này càng cụ thể rõ ràng thì người nghe càng có cơ hội xác định đúng đối tượng được quy chiếu. Chúng tôi cho rằng, cách phân loại của Jespersen rất dễ hiểu và dễ áp dụng cho phân loại và nghiên cứu biểu thức quy chiếu, các thành phần phụ trong biểu thức chỉ là các phương tiện giúp cho người đọc, người nghe có thể nhận diện được những đối tượng đấy. Nghiên cứu về dụng học có sự đóng góp lớn của Austin [73] và Searle [97]. Năm 1962, sau khi Austin qua đời, các học trò của ông đã tổ chức và biên soạn những bài giảng của ông thành một tác phẩm có tựa đề “How to do things with words” (Cách thực hiện hành động bằng lời nói). Cuốn sách trình bày nhiều vấn đề trong giao tiếp, bao gồm hành động ngôn từ, hành động tại lời, và một số vấn đề thuộc về giao tiếp. Austin [73] đã mô tả nhiều khía cạnh liên quan đến lĩnh vực dụng học và hoạt động ngôn ngữ của con người, bao gồm các vấn đề về tiền giả định. Theo ông, để có thể thực hiện được giao tiếp thành công, các bên tham gia cần có những giả định để giao tiếp có thể tiến hành, cần được giải thích nếu một bên hiểu sai đối tượng bên kia đang bàn tới. Searle [97] đã tiếp tục và phát triển lý thuyết của Austin. Searle [97] đề xuất rằng để người nghe hoặc người đọc có thể suy luận đúng đối tượng mà người nói hoặc người viết đang đề cập tới, cần phải có bảy yếu tố quan trọng: 1) Đảm bảo điều kiện đầu vào và đầu ra; 2) Phát ngôn của người nói diễn ra như một phần của chuỗi phát ngôn hoặc chuỗi câu; 3) Phát ngôn được xem xét như một hành vi tại lời; 4) Phải có đối tượng được người nói hoặc người viết muốn người nghe hoặc người đọc nhận diện được; 5) Người nói hoặc người viết dự kiến rằng người nghe hoặc người đọc sẽ nhận diện được đối tượng; 6) Người nói hoặc người viết dự tính rằng người nghe hoặc người đọc sẽ nhận diện được đối tượng thông qua việc hiểu các quy tắc của phát ngôn và 13
  19. dựa trên ngữ cảnh của nó; 7) Các quy tắc ngữ nghĩa phải được thỏa mãn đầy đủ để quy chiếu có thể thành công. Yule [69] trong công trình Pragmatics (Dụng học) trình bày các hình thức quy chiếu, trực chỉ (deixis) bao gồm trực chỉ người (person deixis), trực chỉ không gian (spatial deixis), và trực chỉ thời gian (temporal deixis). Ông trình bày các vấn đề về quy chiếu và thuộc ngữ, quy chiếu và tên riêng, ngữ cảnh và quy chiếu, các hình thái quy chiếu hồi chỉ, khứ chỉ. Levinson [93] trong công trình Pragmatics (Ngữ dụng học) trình bày quy chiếu, chỉ xuất (deixis) bao gồm các chỉ xuất chỉ người/ngôi (person deixis), chỉ xuất không gian, chỉ xuất thời gian, chỉ xuất xã hội. Levinson rất chú trọng tới biểu thức quy chiếu và cho rằng, một trong những xuất phát điểm của dụng học là việc hai bên tham gia đối thoại có thể chỉ cho nhau biết họ đang đề cập tới đối tượng nào. Chỉ ra được đúng đối tượng mà bên phát tín hiệu đưa ra là một trong những yêu cầu rất cơ bản của dụng học. Ông đưa ra ví dụ: (1) Trời tối, một người tên là Harry nói “nghe này, tôi đồng ý với ông mà không đồng ý với ông, và không phải là về cái này mà là về cái này”. [93, 54 - 55]. Trong điều kiện trời tối và không có bất cứ nguồn sáng nào, thì có thể nói phát ngôn trên không chỉ cho người nghe biết người nói đang đồng ý với “ông” nào (giả sử là có nhiều ông trong phòng), về “cái này” hay “cái này” thật ra là cái gì/cái nào. Để chỉ được cho người nghe biết cụ thể các đối tượng đó, cần có ánh sáng. Tương tự, những trường hợp quy chiếu khác đều cần những điều kiện nhất định. Chỉ xuất diễn ngôn và chỉ xuất xã hội được Levinson [93], Lyons [43] chú ý nghiên cứu. Biểu thức quy chiếu không chỉ là đối tượng nghiên cứu của ngữ dụng học mà còn là đối tượng nghiên cứu của ngữ nghĩa học. Ullmann, S. [100] có 14
  20. công trình The Principles of Semantics, trong đó ông đã nghiên cứu nhiều về các quy tắc của ngữ nghĩa. Ông đề xuất mô hình tam giác ngữ nghĩa, được nhiều nhà ngôn ngữ học sau này sử dụng. James R. Hurford, Bredan Heasley và Michael B Schmith [88] với công trình “Semantics - A coursebook” đã nghiên cứu về các biểu thức quy chiếu, từ định nghĩa, phân loại tới cách dùng. Nhóm tác giả coi hai câu chỉ có thể giống nhau nếu giống nhau tuyệt đối cả thành phần và vị trí các bộ phận cấu thành, nếu có bất kì một sự khác biệt nào thì đấy là hai câu khác nhau. Các biểu thức quy chiếu trong câu/phát ngôn chỉ ra người/sự vật ở bên ngoài thế giới, xác định đối tượng đó. Trong công trình này, các tác giả nghiên cứu quy chiếu từ phương diện của ngữ nghĩa học. Geeraerts, D. [82] có công trình Theories of Lexical Semantics, trong đó ông lý giải nhiều vấn đề của ngữ nghĩa học trong tương quan độc lập với mối quan hệ tín hiệu - vật của dụng học. Moskalskaja [48] có công trình nghiên cứu Ngữ pháp văn bản, trong đó tác giả dành một phần để trình bày các vấn đề liên quan tới diễn ngôn và biểu thức quy chiếu. Lee, D. [16] đã dành một phần công trình nghiên cứu của mình để đề cập tới vấn đề mơ hồ quy chiếu, một trong những điểm tác giả quan tâm là liệu các biểu thức quy chiếu có “trỏ” đúng người, đúng vật mà người nói muốn để cập tới hay không. Lee xem xét những vấn đề quy chiếu liên quan tới thời tính (temporal space) hay quan hệ không gian, tác giả cho rằng có thể có những không gian được lồng vào nhau, và do đó nó có thể quy chiếu tới những đối tượng hoàn toàn khác nhau [16, 146]. Lyons [43] nghiên cứu các vấn đề biểu thức quy chiếu và cho rằng quy chiếu là mối liên hệ được xác lập giữa người nói/chủ thể phát ngôn với cái mà người nói đề cập đến trong những hoàn cảnh cụ thể. Tên gọi dùng để trỏ, để chỉ ra thực thể/nhóm thực thể thuộc thế giới thực hữu được nói tới, còn vị từ được gán thuộc tính cho những thực thể đơn lẻ/tập hợp những thực thể đơn lẻ 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2