intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Nhân học: Nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Tày huyện Nà Hang tỉnh Tuyên Quang

Chia sẻ: Cẩm Tú | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:205

86
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án tập trung nghiên cứu sâu về nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Tày ở huyện Nà Hang bao gồm: nghi lễ sinh đẻ, nghi lễ hôn nhân và nghi lễ tang ma từ truyền thống đến biến đổi. Phạm vi truyền thống được giới hạn là giai đoạn trước năm 1986; Giai đoạn biến đổi được xác định là từ đổi mới năm 1986 đến nay và nhất là từ khi có Thủy điện Tuyên Quang đã tác động đáng kể đến văn hóa của người Tày và một số tộc người sinh sống ở nơi đây.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Nhân học: Nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Tày huyện Nà Hang tỉnh Tuyên Quang

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI --------------------------------- NGUYỄN THỊ HOA MAI NGHI LỄ TRONG CHU KỲ ĐỜI NGƢỜI CỦA NGƢỜI TÀY HUYỆN NÀ HANG TỈNH TUYÊN QUANG LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC Hà Nội - 2019
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI --------------------------------- NGUYỄN THỊ HOA MAI NGHI LỄ TRONG CHU KỲ ĐỜI NGƢỜI CỦA NGƢỜI TÀY HUYỆN NÀ HANG TỈNH TUYÊN QUANG Ngành: Nhân học Mã số : 9 31 03 02 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHẠM QUANG HOAN Hà Nội- 2019
  3. LỜI CAM ĐOAN Luận án với đề tài: “Nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Tày ở huyện Nà Hang, tỉnh Tuyên Quang” là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Tôi xin cam đoan các kết quả nghiên cứu của luận án là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Nghiên cứu sinh Nguyễn Thị Hoa Mai
  4. LỜI CẢM ƠN Sau quá trình học tập và thực hiện đề tài luận án “Nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Tày huyện Nà Hang, tỉnh Tuyên Quang, đến nay luận án đã được hoàn thành. Có được kết quả này, tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành đến PGS.TS. Phạm Quang Hoan, người Thầy đã tận tâm, nhiệt tình hướng dẫn, chỉ bảo cho tôi trong quá trình thực hiện luận án. Tôi xin bày tỏ sự biết ơn chân thành đến Khoa Dân tộc học và Nhân học, đặc biệt là PGS.TS. Nguyễn Thị Song Hà và các thầy, cô giáo trong Khoa đã tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận án. Tôi xin bày tỏ sự biết ơn chân thành đến Lãnh đạo và các phòng ban, đơn vị thuộc Học viện Khoa học xã hội đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi thực hiện luận án này. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến lãnh đạo và các cán bộ Viện Nghiên cứu Con người, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi về thời gian và vật chất để tôi thực hiện luận án này. Tôi xin bày tỏ lời biết ơn chân thành đến các thôn, bản, xã, thị trấn của huyện Nà Hang, tỉnh Tuyên Quang nơi tôi đã tiến hành khảo sát thực tiễn của đề tài luận án. Tôi xin bày tỏ lời biết ơn chân thành đến gia đình, người thân và bạn bè đã động viên và giúp đỡ tôi thực hiện luận án này. Hà Nội, tháng năm 2019 Nghiên cứu sinh Nguyễn Thị Hoa Mai
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1 Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN, CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ KHÁI QUÁT VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU ........................................................ 8 1.1.Tổng quan tình hình nghiên cứu .................................................................. 8 1.2. Cơ sở lý thuyết của đề tài ......................................................................... 18 1.3. Khái quát về Tuyên Quang, về Nà Hang và người Tày ở Nà Hang................. 29 Chƣơng 2: NGHI LỄ SINH ĐẺ VÀ NUÔI DẠY CON...................................... 40 2.1. Quan niệm của người Tày về con cái ........................................................ 40 2.2. Cơ sở tín ngưỡng của nghi lễ sinh đẻ ........................................................ 48 2.3. Chăm sóc và nuôi dạy trẻ ......................................................................... 62 Chƣơng 3: NGHI LỄ HÔN NHÂN CỦA NGƢỜI TÀY .................................... 68 3.1. Quan niệm của người Tày về hôn nhân..................................................... 68 3.2. Nguyên tắc kết hôn của người Tày ........................................................... 76 3.3. Phong tục và các nghi lễ hôn nhân của người Tày .................................... 78 Chƣơng 4: NGHI LỄ TANG MA CỦA NGƢỜI TÀY ...................................... 95 4.1. Quan niệm về sự sống, cái chết và linh hồn ............................................. 95 4.2. Quan niệm hồn vía con người ................................................................... 98 4.3. Các loại tang ma ....................................................................................... 99 4.4. Trình tự nghi lễ tang ma của người Tày .................................................. 101 4.5. Lễ chôn cất người chết. .......................................................................... 111 4.6. Các nghi lễ sau khi chôn cất người chết .................................................. 114 Chƣơng 5: BIẾN ĐỔI CỦA NGHI LỄ CHU KỲ ĐỜI NGƢỜI VÀ MỘT SỐ NHẬN XÉT ........................................................................................................ 125 5.1. Những biến đổi của nghi lễ chu kỳ đời người của người Tày .................. 125 5.2. Những mặt tích cực và hạn chế của nghi lễ trong sinh đẻ và nuôi dạy con..... 135 5.3. Những mặt tích cực và hạn chế của hôn nhân và nghi lễ trong hôn nhân ....... 139 5.4. Những mặt tích cực và hạn chế của nghi lễ trong tang ma ...................... 140 5.5. Một vài kiến nghị ................................................................................... 141 5.6. Một số giải pháp ..................................................................................... 143 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 148 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ........................................................... 151 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 152
  6. DANH MỤC BẢNG Bảng 5.1: Đánh giá sự biến đổi về sinh đẻ và nghi lễ trong sinh đẻ, nuôi dạy con ...... 125 Bảng 5.2: Đánh giá sự biến đổi về hôn nhân và nghi lễ trong hôn nhân ............... 130 Bảng 5.3: Đánh giá sự biến đổi của nghi lễ tang macủa người Tày ở Nà Hang hiện nay .................................................................................................... 133
  7. MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập khu vực và quốc tế hiện nay, văn hóa dân tộc nói chung và phong tục tập quán, các nghi lễ trong chu kỳ đời người của các tộc người trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam nói riêng cũng có những biến đổi nhất định do những nguyên nhân khác nhau.Việc tìm hiểu thực trạng và sự biến đổi văn hóa tộc người, trong đó có nghi lễ trong chu kỳ đời người, đặc biệt là việc bảo tồn và phát huy những giá trị của các nghi lễ đó là rất cần thiết trong tiến trình xây dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam thống nhất trong đa dạng. Dân tộc Tày là một dân tộc thiểu số đông dân nhất ở nước ta hiện nay chỉ sau người Kinh, có một bản sắc văn hóa đặc thù, phong phú. Họ sống tập trung tại một số tỉnh như Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang.... Cho đến nay đã có nhiều công trình về người Tày, các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước chủ yếu tập trung nghiên cứu về người Tày ở các tỉnh miền núi biên giới, nơi mà người Tày có điều kiện được giao lưu, tiếp xúc và trao đổi với nhiều nền văn hóa, kinh tế, chính trị, giáo dục khác nhau. Trong khi đó, dân tộc Tày đang sinh sống ở tỉnh Tuyên Quang, đặc biệt là một bộ phận người Tày ở huyện Nà Hang thì các dạng thức văn hóa, trong đó có nghi lễ trong chu kỳ đời người thường chậm biến đổi hơn so với người Tày ở một số tỉnh khác. Người Tày ở huyện Nà Hang hiện nay vẫn được coi là người Tày cổ, còn bảo tồn được nhiều yếu tố văn hóa truyền thống, nhất là trong các nghi lễ chu kỳ đời người của họ. Việc nghiên cứu nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Tày ở Nà Hang, sẽ giúp chúng ta biết được những bảo lưu, cũng như những biến đổi của nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Tày ở Nà Hang, qua đó phát huy được những giá trị văn hóa tốt đẹp, phù hợp và hạn chế được những biểu hiện tiêu cực, không phù hợp của nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Tày ở Nà Hang, để có những giải pháp góp phần giúp người Tày ở Nà Hang phát triển kinh tế, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá của mình. Mặt khác, cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu và có tính hệ thống, toàn diện về nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Tày ở huyện Nà Hang. Có thể nói, việc nghiên cứu nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Tày tại một địa bàn cụ thể là huyện Nà Hang, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Kết quả 1
  8. nghiên cứu của đề tài luận án góp phần làm sáng tỏ hơn các đặc trưng văn hóa, những vấn đề thực trạng và nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi văn hóa, cũng như việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong nghi lễ chu kỳ đời người của dân tộc Tày tại huyện Nà Hang. Kết quả đạt được của đề tài cũng có đóng góp cho việc thực hiện có hiệu quả chính sách dân tộc, chính sách phát triển văn hóa dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, phù hợp với tinh thần nghị quyết Trung ương V (khóa VIII) và Nghị quyết Trung ương IX ( khóa XI), đồng thời góp phần thực hiện trực tiếp chương trình xây dựng nông thôn mới ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số hiện nay . 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích Luận án đi sâu tìm hiểu đời sống văn hóa của người Tày ở huyện Nà Hang, tỉnh Tuyên Quang thông qua các nghi lễ trong chu kỳ đời người bao gồm nghi lễ sinh đẻ, hôn nhân và tang ma. Trên cơ sở đó, luận án đề xuất một số kiến nghị và giải pháp phục vụ công tác bảo tồn, gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa của tộc người nhằm góp phần xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của nhóm tộc người này trong tình hình mới hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ - Luận án tập trung làm sáng tỏ một số vấn đề liên quan tới nghi lễ trong chu kỳ đời người (quan niệm và thực hành nghi lễ gồm sinh đẻ, hôn nhân, tang ma) của người Tày ở huyện Nà Hang trong truyền thống; - Làm rõ những biến đổi trong nghi lễ chu kì đời người của người Tày ở huyện Nà Hang hiện nay và phân tích các nguyên nhân dẫn tới sự biến đổi đó; - Từ các kết quả đạt được, luận án đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phù hợp trong nghi lễ chu kỳ đời người của người Tày tại huyện Nà Hang trong tình hình hiện nay. 3. Đối tƣợngvà phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là các nghi lễ chu kỳ đời người của người Tày huyện Nà Hang. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Luận án tập trung nghiên cứu sâu về nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Tày ở huyện Nà Hang bao gồm: nghi lễ sinh đẻ, nghi lễ hôn nhân và nghi lễ tang ma 2
  9. từ truyền thống đến biến đổi. Phạm vi truyền thống được giới hạn là giai đoạn trước năm 1986; Giai đoạn biến đổi được xác định là từ đổi mới năm 1986 đến nay và nhất là từ khi có Thủy điện Tuyên Quang đã tác động đáng kể đến văn hóa của người Tày và một số tộc người sinh sống ở nơi đây. 4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở phương pháp luận Tác giả luận án dựa trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử và duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, văn hóa dân tộc để luận giải các sự vật, hiện tượng trong nghi lễ chu kỳ vòng đời trong hệ thống và bối cảnh cụ thể, có sự tác động qua lại lẫn nhau và luôn luôn có sự vận động, biến đổi. NCS còn vận dụng các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về dân tộc và bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số để làm sáng tỏ hơn những nội dung nghiên cứu dưới góc nhìn về chính sách quản lý và phát triển văn hóa tộc người trong xã hội hiện tại. Cùng với đó, luận án sử dụng các cơ sở lý luận chuyên ngành, các lý thuyết tiếp cận phù hợp để làm sáng tỏ các vấn đề trong văn hóa tộc người thông qua hệ thống các nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Tày ở huyện Nà Hang, tỉnh Tuyên Quang dưới góc nhìn Dân tộc học/Nhân học. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: - Thu thập tổng hợp và kế thừa các tài liệu sẵn có: NCS đã tìm đọc và xử lý nhiều nguồn tài liệu từ sách, tạp chí, luận án, luận văn và báo cáo kết quả của các chương trình, dự án nghiên cứu trong nước, các báo cáo tổng kết của các cơ quan trung ương và địa phương liên quan đến đề tài nghiên cứu; những nguồn số liệu thống kê ở trung ương và địa phương;... - Phương pháp điền dã Dân tộc học/ Nhân học: Đây là phương pháp nghiên cứu chủ đạo được NCS sử dụng để khai thác, thu thập các nguồn thông tin, tư liệu tại địa bàn nghiên cứu ở huyện Nà Hang. Với phương pháp này, các thao tác kỹ thuật được sử dụng gồm có: + Quan sát và quan sát tham dự: Việc quan sát được thực hiện trong suốt quá trình nghiên cứu tại thực địa tại các điểm nghiên cứu, giúp tác giả có cơ hội tiếp cận với chủ thể văn hóa và cộng đồng, dễ hòa nhập, gần gũi với người Tày, hiểu biết 3
  10. sâu về văn hóa Tày, về từng nghi lễ liên quan đến chu kỳ vòng đời của người Tày tại các điểm nghiên cứu được lựa chọn. + Phỏng vấn sâu: Công cụ này đã được tác giả luận án sử dụng cho nhiều đối tượng là người Tày ở huyện Nà Hang. Các thông tin viên ở các bản được lựa chọn để phỏng vấn sâu, khai thác thông tin khác nhau về giới tính, độ tuổi, nghề nghiệp... Trong đó, đối tượng được tác giả chú ý nhiều hơn là những người cao tuổi, am hiểu phong tục tập quán, những người làm thầy Tào, thầy Pụt, mai mối và các chủ hộ gia đình, phụ nữ, nam nữ thanh niên đã xây dựng gia đình. Tác giả cũng gặp gỡ, phỏng vấn những người trẻ tuổi để tìm hiểu quan niệm của họ về sinh nở, về nguyên vọng sinh con trai hay gái, lựa chọn bạn đời, về xu hướng biến đổi trong các nghi lễ vòng đời của người Tày ở huyện Nà Hang hiện nay cũng như các yếu tố tác động đến sự biến đổi... + Thảo luận nhóm cũng được tác giả luận án sử dụng để thu thập thông tin, tư liệu từ người Tày, qua đó thấy được những nhận định, đánh giá của họ về giá trị truyền thống và biến đổi của các nghi lễ chu kỳ đời người, cũng như các yếu tố có ảnh hưởng đến sự biến đổi đó; các quan điểm và giải pháp cụ thể nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị của các nghi lễ vòng đời trong bối cảnh mới, phục vụ cho mục tiêu phát triển từ góc nhìn của người Tày. + Trong những chuyến điền dã dân tộc học/ nhân học tại các bản làng của người Tày, tác giả luận án cũng tiến hành quay phim, chụp ảnh, kết hợp với phỏng vấn để thu thập những thông tin, tư liệu cập nhật liên quan đến các nghi lễ chủ yếu trong chu kỳ vòng đời của người Tày tại địa bàn nghiên cứu. Để có thể thu thập thông tin, tư liệu hoàn thành luận án, nghiên cứu đã tiến hành các đợt điền dã từ năm 2015 - 2018 tại các xã của huyện Nà Hang. cụ thể như sau: a. Thị trấn Nà Hang: Thị trấn Nà Hang gồm 20 tổ dân phố. Đó là tổ dân phố số 2 đến tổ dân phố số 17, tổ Hà Vị, tổ Khuôn Phươn, tổ Tân Lập, tổ Ngòi Nè và tổ Nà Mỏ. Trong 20 tổ dân phố, đề tài luận án đã khảo sát 3 tổ: Tổ 2, tổ 3, tổ Khuôn Phươn. b. Xã Sinh Long: bao gồm 9 thôn. Đó là thôn Trung Phàn, thôn Phiêng Ten, thôn Lũng Khiêng, thôn Phiêng Thốc, thôn Nà Tấu, thôn Nặm Đường, thôn Khuổi Phìn, 4
  11. thôn Bản Lá, thôn Phiêng Ngàn. Trong số 9 thôn của xã Sinh Long đề tài luận án đã khảo sát 3 thôn: Thôn Trung Phàn, thôn Nà Tấu, thôn Nặm Đường c. Xã Thượng Giáp: gồm có 6 thôn là thôn Nà Ngoa, thôn Bản Cườm, thôn Nà Thài, thôn Bản Muông, thôn Bản Vịt, thôn Năm Cằn. Trong số 6 thôn của xã Thượng Giáp đề tài luận án đã khảo sát 3 thôn: Thôn Bản Muông, thôn Bản Vịt, thôn Năm Cằn. d. Xã Côn Lôn: gồm có 7 thôn: Thôn Phia Lếch, thôn Nà Ngoãng, thôn Nà Thưa, thôn Pom Pán, thôn Đon Thài, thôn Pác Bẻ, thôn Lũng VàiTrong số 7 thôn của xã Sinh Long đề tài luận án đã khảo sát 3 thôn: Thôn Nà Ngoãng, thôn Nà Thưa, thôn Pom Pán. e. Xã Hồng Thái gồm có 7 thôn là Thôn Nà Khiếu, thôn Bản Muông, thôn Khau Tràng, thôn Hồng Ba, thôn Nà Mụ, thôn Khuổi Phẩy, thôn Pắc Khoang. Trong số 7 thôn của xã Sinh Long đề tài luận án đã khảo sát 3 thôn: Thôn Nà Mụ, thôn Khuổi Phẩy, thôn Pắc Khoang. g. Xã Khau Tình gồm có 4 thôn: Thôn Nà Lũng, thôn Khau Tình, thôn Khau Phiêng và thôn Nà TạngTrong số 4 thôn của xã Sinh Long, luận án đã khảo sát 3 thôn: Thôn Nà Lũng, thôn Khau Phiêng, thôn Khau Tình. Tại địa bàn, nghiên cứu tập trung phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm với các đối tượng cụ thể như sau: Bảng 1: Mẫu khách thể phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm TT Đối tƣợng nghiên cứu Số lƣợng 1.1 Cán bộ lãnh đạo thị trấn/ xã 6 1.2 Cán bộ lãnh đạo thôn và tổ dân phố 36 1.3 Người dân là dân tộc Tày ở thị trấn và xã 54 1.4 Thày mo 6 Như vậy, nghiên cứu đã khảo sát 06 điểm bao gồm 1 thị trấn và 5 xã, đều là những nơi có người Tày sinh sống tập trung, trong đó có những điểm như thị trấn có sự giao thoa văn hóa khá mạnh mẽ để luận án có thể thấy được mức độ biến đổi trong thực hành nghi lễ của người Tày tại các điểm nghiên cứu. - Phương pháp chuyên gia Phương pháp này giúp cho chúng tôi được gặp gỡ trao đổi với các chuyên gia về lĩnh vực nghiên cứu của mình, là những người có kiến thức, kinh nghiệm sâu về 5
  12. văn hóa tộc người, về người Tày và là những người có uy tín trong cộng đồng người Tày tại địa bàn đã chọn để nghiên cứu. Trong quá trình thực hiện đề tài luận án chúng tôi sẽ trao đổi, xin ý kiến của một số chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực văn hóa, dân tộc học/ nhân học để tìm hiểu sâu hơn về những biểu hiện, nguyên nhân của nghi lễ chu kỳ đời người của người Tày, đặc biệt là những nguyên nhân biến đổi của nghi lễ này ở người dân tộc Tày huyện Nà Hang, tỉnh Tuyên Quang. - Phương pháp so sánh: Nghiên cứu này đã sử dụng các phương pháp so sánh, để làm rõ những điểm tương đồng và khác biệt, cũng như sự biến đổi của nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Tày ở huyện Nà Hang thời kỳ trước 1986 và sau 1986 đến nay; đồng thời so sánh nghi lễ chu kỳ đời người của người Tày ở Nà Hang với người Tày ở địa phương khác. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án - Luận án là công trình nghiên cứu tổng thể, toàn diện, có hệ thống và chuyên sâu dưới góc độ chuyên ngành Nhân học về nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Tày ở huyện Nà Hang, tỉnh Tuyên Quang. - Trên cơ sở các tư liệu có được, luận án góp phần hiểu biết sâu sắc hơn về những đặc trưng văn hoá của người Tày ở huyện Nà Hang, thông qua các nghi lễ trong chu kỳ đời người. - Luận án đã cho thấy được sự biến đổi nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Tày ở huyện Nà Hang, dưới tác động của quá trình đổi mới, hội nhập và giao thoa văn hóa. Đồng thời qua hệ thống các nghi lễ trong chu kỳ đời người, luận án cung cấp cứ liệu để người Tày và chính quyền địa phương thấy được các giá trị văn hóa cần được bảo tồn và phát huy. - Luận án đề xuất một số giải pháp nhằm giữ gìn và phát huy các giá trị tốt đẹp, hạn chế những mặt không phù hợp của nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Tày huyện Nà Hang, Tuyên Quang hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận của luận án Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần cung cấp những luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện những vấn đề lý luận về các nghi lễ trong chu kỳ đời người của 6
  13. người Tày ở Việt Nam, chỉ ra được những biểu hiện, các yếu tố ảnh hưởng đến các nghi lễ này. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án Kết quả nghiên cứu của luận án có thể là tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu và giảng dạy về các nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Tày tại các cơ sở đào tạo ở nước ta hiện nay. Đây cũng là tài liệu tham khảo cho lãnh đạo địa phương có dân tộc Tày sinh sống, trước hết là cán bộ quản lý ngành văn hóa để phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của các nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Tày, hạn chế những biểu hiện không phù hợp trong các nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Tày ở Nà Hang nói riêng và ở khu vực miền núi phía Bắc nói chung. 7. Cấu trúc của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án có kết cấu 5 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và khái quát về địa bàn nghiên cứu Chương 2: Nghi lễ sinh đẻ và nuôi dạy con Chương 3: Nghi lễ hôn nhân của người Tày Chương 4: Nghi lễ tang ma của người Tày Chương 5. Biến đổi của nghi lễ chu kỳ đời người và một số nhận xét 7
  14. Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN, CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ KHÁI QUÁT VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1.1. Các nghiên cứu của học giả nước ngoài về người Tày Đã từ lâu, sử sách Trung Quốc có đề cập tới các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Tày – Thái, trong đó có tộc người Tày ở Việt Nam. Các nghiên cứu này đã viết về mối liên hệ giữa cộng đồng người Choang - Đồng ở Trung Quốc với một số tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái hiện nay ở Việt Nam, Lào… Thời kỳ cận hiện đại, các học giả Trung Quốc tập trung chủ yếu nghiên cứu về lịch sử hình thành và phát triển của các tộc người, trong khi lại ít quan tâm đến các khía cạnh văn hóa tộc người cũng như sự giao lưu, tiếp biến văn hóa giữa các tộc người. Từ đầu thế kỷ XX, một số học giả phương Tây đã bắt đầu quan tâm nghiên cứu về các khía cạnh như lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa… của các tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Choang - Đồng ở Trung Quốc và nhóm Tày - Thái ở Việt Nam. Một số cuốn sách đã được công bố như Vân Nam – cái chốt giữa Ấn Độ và sông Dương Tử của H. R. Danes, Tính năng động chủng tộc ở Đông Á và từ Vân Nam đến Thái Lan của V. Eichstedt, hay Thái - Kađai và Indonexia, một cách phân loại mới ở Đông Nam Á của Paul K. Benedict... Đáng chú ý là, vào những thập kỷ 60 - 70 của thế kỷ XX, các nhà Dân tộc học Xô Viết như IU. Bromlei, N. Cheboksarov, M. Kriucov… đã tiến hành các nghiên cứu và công bố một số ấn phẩm, trong đó có đề cập đến tộc người Tày như: Các dân tộc trên thế giới (Moscova, 1965), Những vấn đề dân tộc học hiện đại và Lịch sử tộc người Nam Đông Á (Moscova, 1972). Tuy nhiên, các công trình nêu trên chưa phải là những nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện , có hệ thống về các tộc người, về văn hóa của tộc người Tày ở Việt Nam nói riêng. 1.1.2. Các nghiên cứu của tác giả trong nước về người Tày Từ những năm 60 của thế kỷ XX, nhiều nhà dân tộc học Việt Nam đã quan tâm nghiên cứu sâu về tộc người Tày từ những góc nhìn chuyên ngành khác nhau. Có thể phân chia các nghiên cứu này theo các hướng chủ yếu như sau: 8
  15. - Hướng nghiên cứu tổng hợp về người Tày: Các công trình nghiên cứu này đề cập khá toàn diện về điều kiện địa lý tự nhiên, lịch sử tộc người, đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội của người Tày như Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc) (Viện Dân tộc học, 1978), Một số vấn đề về lịch sử tộc người và những đặc điểm chủ yếu của văn hóa các dân tộc Tày - Thái và Các dân tộc Tày - Nùng ở Việt Nam (Bế Viết Đẳng chủ biên, 1992), Văn hóa Tày – Nùng (Lã Văn Lô, Hà Văn Thư); Nguồn gốc lịch sử tộc người vùng biên giới phía Bắc Việt Nam (Hoàng Hoa Toàn, Nguyễn Chí Huyên chủ biên, 2000),v.v. - Nghiên cứu về ngôn ngữ của tộc người Tày: Có thể đưa ra một số công trình tiêu biểu nghiên cứu về tiếng Tày - Nùng và mối quan hệ giữa tiếng Tày - Nùng và tiếng Việt của Nguyễn Hàm Dương và Nguyễn Thiện Giáp công bố trên các Tạp chí Ngôn ngữ như Nguồn gốc lịch sử tiếng Tày - Nùng, Quan hệ giữa tiếng Tày - Nùng và tiếng Việt và vấn đề ngôn ngữ; Các chức năng xã hội của tiếng Tày – Nùng; Hiện tượng mượn từ trong tiếng Tày - Nùng và cách làm giàu vốn từ vựng Tày – Nùng, v.v. Cũng trong giai đoạn này, nhiều các tác giả là người Tày và người Nùng cũng đã tiến hành nghiên cứu chuyên sâu và công bố nhiều công trình có giá trị như Vấn đề chữ Tày - Nùng (Nông Quốc Chấn, 1960); Vài ý kiến nhỏ trong việc dùng tiếng và chữ Tày - Nùng (Ban Giáo dục Khu Việt Bắc, 1962); Tiếng nói chữ viết Tày – Nùng với việc xây dựng âm tiêu chuẩn cho chữ Tày – Nùng (Ma Thế Dân, 1969); Ngữ pháp tiếng Tày - Nùng (Hoàng Văn Ma - Lục Văn Pảo - Hoàng Chí, 1971); Từ điển Tày - Nùng - Việt (Hoàng Văn Ma - Lục Văn Pảo - Hoàng Chí, 1974); Từ điển thành ngữ - tụcngữ dân tộc Tày (Triều Ân, Hoàng Quyết, 1996); Việc xây dựng chữ dân tộc ở các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta (Phương Bằng, 1985),v.v. Từ những năm 80 của thế kỷ XX đã xuất hiện những nghiên cứu chuyên sâu về tiếp xúc ngôn ngữ, về các trạng thái song đa/ ngữ giữa các tộc người thiểu số và người Việt dưới góc độ Xã hội học – ngôn ngữ. Trong đó, đáng chú ý là tác giả Đặng Thanh Phương (1979), đã tiếp cận với phương pháp nghiên cứu định lượng và định tính trong nghiên cứu ngôn ngữ dân tộc, để chỉ ra sự tiếp xúc ngôn ngữ Tày - Việt trên bình diện chức năng xã hội và cấu trúc ngôn ngữ qua nghiên cứu trường hợp ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn,v.v. - Nghiên cứu, sưu tầm, giới thiệu về văn hóa dân gian Tày, Nùng: Đáng chú ý là công trình Văn hóa truyền thống Tày, Nùng của Hoàng Quyết và các cộng sự 9
  16. (1993); Ca dao Tày, Nùng của Triều Ân (1994); Truyện thơ nôm Tày của Hoàng Quyết và Triều Ân (1994); Từ điển thành ngữ - tục ngữ dân tộc Tày của Triều Ân và Hoàng Quyết (1996); Phong Slư của Phương Bằng (1994), Lượn cọi: Ngữ Tày - Quốc Tày của Lục Văn Pảo (1994). Cũng theo hướng nghiên cứu này còn có Lượn Tày Lạng Sơn (song ngữ Tày - Kinh) của Hoàng Văn Páo, 2003), đã nêu rõ giá trị tinh thần của hát lượn trong đời sống đồng bào Tày, trên cơ sở đó đề ra những giải pháp thích hợp nhằm bảo tồn và phát huy hát lượn Lạng Sơn. Cuốn sách Nghệ thuật múa rối Tày, Nùng (Nguyễn Huy Hồng, 2003) đã giới thiệu một số trò rối của người Tày, Nùng ở các tỉnh Bắc Kạn, Thái Nguyên và Cao Bằng. Nghệ thuật diễn xướng Then Tày được mô tả khá sinh động và tỷ mỉ trong công trình Nét chung và riêng của âm nhạc trong Then Tày - Nùng (Nông Thị Nhình, 2004). Tác giả đã đề cập tới phần âm nhạc trong Then, sự giống nhau và khác nhau về âm nhạc Then của mỗi vùng, qua đó thấy được sự phong phú, đa dạng cũng như giá trị nghệ thuật trong Then của người Tày, Nùng ở Việt Nam. Cuốn Lễ hội Nàng Hai của người Tày Cao Bằng (Nguyễn Thị Yên, 2003) đã đi sâu tìm hiểu đặc điểm, vị trí và ý nghĩa của lễ hội Nàng Hai trong hệ thống các lễ hội ở tỉnh Cao Bằng, từ đó rút ra những nhận xét ban đầu về sự hình thành và phát triển của lễ hội Nàng Hai ở tỉnh này. Cuốn Then Tày - những khúc hát (Triều Ân, 2000), đã giới thiệu những khúc hát cầu chúc và lễ hội: Thì thầm dân ca nghi lễ (Vi Hồng, 2001), giới thiệu dân ca nghi lễ của người Tày ở tỉnh Cao Bằng,v.v. - Nghiên cứu về tôn giáo, tín ngưỡng cổ truyền: Đáng chú ý là Bộ Then Tứ Bách, do nhà nghiên cứu quá cố Lục Văn Pảo dịch và biên soạn (1996). Cuốn sách giới thiệu một thể loại nghi lễ cúng bái của dân cư Tày ở Việt Bắc - bộ tứ bách gồm: Bách cốc, Bách thú, Bách điểu, Bách va. Cùng thể loại này còn có Then Bách điểu (Vi Quốc Bình, Nông Văn Tư, Hoàng Hạc, 1994). “Bách điểu” là một xã hội thu nhỏ của các loài chim, nhưng phản ánh rõ những bất công, ích kỷ, oan trái, buồn vui, v.v… mà trung tâm là chúa. Then “Bách điểu” có 3.980 câu, 27.860 từ bằng chữ Nôm Tày. Liên quan đến tín ngưỡng của người Tày có cuốn Tàng mừa pjá lệ đẳm (Hoàng Hạc, sưu tầm và biên soạn, 2004), sách gồm hai phần: Phần tiếng Tày là “Tằng mừa 10
  17. pjá lệ đẳm” và phần dịch ra tiếng Việt là “Đường lên dâng lễ tổ”, giới thiệu hình thức hát bụt trong lễ cúng vía và cúng mụ của dân tộc Tày,v.v. Viện Dân tộc học đã thực hiện dự án điều tra cơ bản kinh tế, xã hội, văn hóa các dân tộc ở Việt Nam (2000) do Khổng Diễn làm chủ nhiệm. Đề tài đã phác họa một bức tranh khá phong phú về các dân tộc thuộc bốn vùng ở nước ta (Tây Bắc Bộ, Đông Bắc, Trung Bộ và Nam Bộ). Tại vùng Đông Bắc, đã khảo sát dân tộc Tày, Nùng ở Cao Bằng. Ở đây đề tài chỉ ra thực trạng dân tộc, tỷ lệ sinh, chết, tăng dân số, những nơi đặc biệt khó khăn tỷ lệ đi học, không biết chữ, biết chữ, hộ nghèo, nhà ở, di dân tự do, đời sống tinh thần của hai dân tộc Tày, Nùng tại Cao Bằng. Tác giả Lê Thị Hường (2006), đã tìm hiểu nghi lễ hôn nhân của người Tày huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn. Trong nghiên cứu này, tác giả đã phân tích quá trình hôn nhân và các bước tiến hành nghi lễ hôn nhân của người Tày. Đó là quá trình từ lúc đôi trai gái tìm hiểu nhau, đến lễ dạm hỏi, lễ báo lá số, lễ ăn hỏi, lễ cưới chính thức, lễ lại mặt. Tác giả đã phân tích biểu hiện của từng lễ trong nghi lễ cưới này. Nghiên cứu cũng chỉ ra những biến đổi trong nghi lễ hôn nhân của người Tày ở Văn Lãng. Đó là quyền lựa chọn người yêu của con cái, sự giảm bớt các lễ vật mang đến nhà gái, sự thay đổi phương tiện đi đón dâu, thay đổi trang phục, thay đổi tục hát lượn. Tuy có một số thay đổi, song về cơ bản các phong tục truyền thống của nghi lễ cưới của người Tày ở Văn Lãng vẫn giữ được bản sắc truyền thống [37]. Tác giả Đặng Thanh Phương (2007), đã tìm hiểu về người phụ nữ Tày ở vùng ven thị trấn trong quá trình đô thị hóa hiện nay. Trong nghiên cứu này, tác giả đã phân tích đặc điểm nghề nghiệp và phân công lao động của phụ nữ Tày. Tác giả cũng phân tích về trình độ học vấn, việc giáo dục con cái của phụ nữ Tày. Kết quả khảo sát cho thấy, người phụ nữ Tày tham gia vào nhiều hoạt động sản xuất ngoài nông nghiệp. Các gia đình nhiều thế hệ của người Tày giảm và gia đình hai thế hệ có xu hướng tăng. Qua nghiên cứu này cho chúng ta thấy sự phát triển của người phụ nữ Tày trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế của đất nước hiện nay. Đó là sự phát triển về năng lực sản xuất, sự thay đổi quan hệ trong gia đình người Tày. Nghiên cứu không tập trung tìm hiểu về nghi lễ sinh đẻ của người Tày, cũng như các nghi lễ vòng đời khác của dân tộc này [52]. 11
  18. Nguyễn Thị Yên (2009), đã xuất bản cuốn sách có tựa đề: “Tín ngưỡng dân gian Tày – Nùng”. Trong cuốn sách này, tác giả đã đi sâu phân tích các hình thức văn hóa tín ngưỡng của người Tày, nùng (then, pụt; Tào và sinh hoạt tín ngưỡng tào; Một số hình thức văn hóa tín ngưỡng khác). Tác giả cũng đi sâu vào phân tích sự hình thành và biến đổi của các hình thức văn hóa tín ngưỡng Tày, nùng cũng như hiện trượng đời sống sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của người Tày, Nùng, vai trò hình thức văn hóa tín ngưỡng trong đời sống của người Tày, Nùng. Bên cạnh công trình tiêu biểu về tín ngưỡng dân gian Tày, Nùng đã phân tích ở trên, tác giả Nguyễn Thị Yên (2010) cũng đã cho người đọc thấy được bức tranh đời sống tín ngưỡng của người Tày ở Cao Bằng thông qua cuốn sách Đời sống tín ngưỡng của người Tày ven biên giới Hạ Lang, Cao Bằng. Trong đó, tác giả đã đi sâu phân tích về đời sống kinh tế, đời sống văn hóa của người Tày. Đặc biệt, tác giả đã đi sâu vào việc phân tích tín ngưỡng dân gian của người Tày thông qua việc phân tích quan niệm về thế giới ba tầng, đối tượng thờ cúng, các hình thức văn hóa tín ngưỡng của người Tày như là Then và sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng Then; Tào và sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng Tào; Siên và sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng Siên; Thầy Phường,... Nghiên cứu này đã khẳng định đời sống tín ngưỡng của người Tày ven biên giới Hạ Lang, Cao Bằng đã góp phần bảo lưu các phong tục tập quá cổ truyền của địa phương. Tác giả Nguyễn Thị Thanh Nga (2010), trong công trình nghiên cứu về các dân tộc vùng Tây Bắc đã phân tích một số nghi lễ của người Tày như: Lễ mừng năm mới, lễ cưới xin, lễ tang ma. Tác giả đã phân tích quan niệm, ý thức về tầm quan trọng của các lễ này đối với dân tộc Tày, chỉ ra cách thức tiến hành các lễ. Ngoài ra, tác giả còn phân tích một số nghi lễ liên quan đến tín ngưỡng tang ma, lễ thờ cúng của người Tày. Đây là những nghi lễ quan trọng của dân tộc này trong cuộc đời và cuộc sống của cộng đồng. Cũng trong công trình nghiên cứu này, tác giả Nguyễn Thị Thanh Nga đã phân tích một số nghi lễ của người Thái như lễ cúng nhà, lễ cầu hồn, chúc thọ, lễ hỏa táng, lễ đưa hồn về nghĩa địa, lễ đưa hồn lên trời gặp tổ tiên… Tác giả cũng chỉ ra sự bảo tồn và phát triển bản sắc của các dân tộc Tây Bắc trong bối cảnh hiện nay. Có thể nói, trong công trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Thanh Nga đã phân tich một số nghi lễ trong cuộc đời của người H’mông và người Thái – Những 12
  19. dân tộc thiểu số lớn ở khu vực Tây Bắc. Qua đó cho chúng ta thấy sự bảo tồn và những biến đổi của các nghi lễ ở các dân tộc này [47]. Tác giả Bùi Xuân Đính trong đề tài nghiên cứu về một số vấn đề cơ bản của các dân tộc vùng Đông Bắc đã phân tích các nghi lễ cưới xin, tang ma của người Lô Lô, H’mông vùng Hà Giang, của người Tày, Nùng ở vùng biên giới Lạng Sơn trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và vùng Đông Bắc hiện nay. Theo tác giả, các nghi lễ cưới xin, ma chay hiện nay của các dân tộc không thay đổi nhiều. Điểm thay đổi rõ nhất của nghi lễ cưới xin là thủ tục đơn giản hơn, lễ vật thách cưới dành cho nhà giái trước đây bằng lễ vật (lợn, gạo, rượu) thì nay bằng tiền đựng trong phong bì. Các bài hát mới thay cho các bài hát truyền thống trong lễ cưới. Lễ tang của bộ phận người Tày không thay đổi nhiều. Ngoài ra, trong nghiên cứu này, tác giả cũng cho rằng, các hình thái tín ngưỡng của các tộc người thiểu số ở đây vẫn còn được bảo lưu khá tốt như thờ cúng tổ tiên, thờ mụ, thờ thổ công… Tuy tác giả không phân tích đầy đủ các nghi lễ vòng đời của các dân tộc thiểu số, song đã phân tích một số nghi lễ trong cuộc đời con người của một số dân tộc, trong đó có dân tộc Tày vùng Đông Bắc [32]. Gần đây, tác giả Vũ Phương Nga đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ ngành Nhân học với đề tài: Tiếp biến văn hóa trong bối cảnh gia đình hỗn hợp dân tộc (qua nghiên cứu về người Tày ở huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn), đã luận giải khá rõ sự tiếp nhận các giá trị văn hóa của các tộc người khác trong gia đình hỗn hợp dân tộc là người Tày với người Kinh trên các phương diện ngôn ngữ, phân công lao động, giáo dục và chăm sóc sức khỏe, quan hệ gia đình và dòng họ, thực hành tôn giáo, tín ngưỡng, trong đó có các nghi lễ trong chu kì đời người. Theo tác giả, trong bối cảnh hội nhập, có sự giao thoa văn hóa giữa các gia đình hỗn hợp việc biến đổi là điều tất yếu và trong quá trình giao thao ấy, sự tự điều chỉnh và thích ứng của mỗi cá nhân để phù hợp với lối sống của gia đình đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì gia đình tốt đẹp. Trong thời gian qua, khi nghiên cứu về các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, một số tác giả cũng đã tìm hiểu nghi lễ sinh đẻ, tang ma của một số dân tộc. Những nghiên cứu này bổ sung và làm đậm nét hơn bức tranh về nghi lễ trong chu kỳ đời người của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. 13
  20. 1.1.3. Những nghiên cứu về nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Tày Khi nghiên cứu về nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Tày, một số tác giả đã quan tâm đến nghi lễ tang ma của dân tộc này. Có thể kể ra một số nghiên cứu sau: Tang ma là một việc hệ trọng trong chu kỳ đời người trên cõi trần gian. Mặc dù mỗi quốc gia, mỗi tộc người có các cách thức tổ chức nghi lễ khác nhau, nhưng cách tiếp cận nghiên cứu, cách nhìn nhận, đánh giá về tang ma của các tác giả trong nước cũng như ngoài nước nhìn chung khá thống nhất. Các tác giả Lã Văn Lô, Đặng Nghiêm Vạn trong cuốn Sơ lược giới thiệu các nhóm Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam (1968), đã phân tích khá sâu về tôn giáo, tín ngưỡng, ý niệm về hồn Phi, khoăn và cái chết, về sự tồn tại của thế giới bên kia, những nghi lễ liên quan đến sản xuất của dân tộc Tày [41]. Trong công trình nghiên cứu Các dân tộc Tày - Nùng ở Việt Nam (1982) của các tác giả Bế Viết Đẳng, Khổng Diễn, Phạm Quang Hoan, Nguyễn Quang Huy, Nguyễn Anh Ngọc đã phân tích khá sâu về nghi lễ tang ma của dân tộc Tày. Trong cuốn sách Văn hóa Tày - Nùng, xuất bản 1984, các tác giả Lã Văn Lô, Hà Văn Thư đã giới thiệu khá đầy đủ về xã hội, con người và văn hoá của hai dân tộc Tày, Nùng ở Việt Nam. Các tác giả đã miêu tả về 9 nghi lễ chính và 13 lễ nhỏ của người Tày. Đây là nghiên cứu khá sâu về nghi lễ chu kỳ đời người của người Tày ở Việt Nam [42]. Một cuốn sách khác cũng phân tích tương đối đầy đủ về các phong tục tập quán trong văn hóa dân tộc Tày là cuốn Phong tục tập quán dân tộc Tày ở Việt Bắc của tác giả Hoàng Quyết (1995). Cuốn sách đã tập trung tìm hiểu về đời sống văn hoá tinh thần của dân tộc Tày ở khu Việt Bắc, với những phong tục tập quán về ăn mặc, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tang ma, cưới hỏi,… từ xa xưa của người Tày. Công trình nghiên cứu này đã cho ta thấy một bức tranh khá sinh động về đời sống văn hóa của dân tộc Tày ở Việt Nam [55]. Tác giả Đỗ Thúy Bình trong công trình Hôn nhân và gia đình các dân tộc Tày - Nùng - Thái ở Việt Nam (1994), đã phân tích 6 nghi lễ chính trong tang ma của 3 dân tộc, trong đó có tang ma của dân tộc Tày [9]. 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0