intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ: Phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:208

184
lượt xem
32
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trên cơ sở làm rõ lý luận về phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh và phân tích, đánh giá thực trạng ở một số tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam, luận án đề xuất quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số địa phương.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ: Phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc

  1. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong giai đoạn hiện nay, nước ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh công  nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, trong bối cảnh thế giới đang  thay đổi rất nhanh, phức tạp, khó lường, như Nghị quyết Đại hội XI chỉ rõ:  “Trên thế giới: Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng sẽ  có những diễn biến phức tạp mới, tiềm  ẩn nhiều bất trắc khó lường.   Những căng thẳng, xung đột tôn giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ,  bạo loạn chính trị, can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn sẽ diễn ra gay gắt; các  yếu tố đe doạ an ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ  cao trong các  lĩnh vực tài chính ­ tiền tệ, điện tử  ­ viễn thông, sinh học, môi trường…  còn tiếp tục gia tăng. Cục diện thế  giới đa cực ngày càng rõ hơn, xu thế  dân chủ hoá trong quan hệ quốc tế tiếp tục phát triển nhưng các nước lớn  vẫn sẽ  chi phối các quan hệ  quốc tế” [35, tr.182­183]. Vì thế, Việt Nam   đang đứng trước nhiều thời cơ  và vận hội mới, nhưng đồng thời cũng có  nhiều thách thức đan xen. Đặc biệt, các thế  lực thù địch, phản cách mạng  đang ra sức chống phá công cuộc đổi mới của Việt Nam bằng mọi âm  mưu, thủ  đoạn rất tinh vi và xảo quyệt, trên mọi lĩnh vực: Kinh tế, chính  trị, văn hoá, quốc phòng, an ninh, đối ngoại… Trước tình hình đó, để  góp  phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ  quốc Việt Nam xã hội chủ  nghĩa, đòi hỏi Việt Nam phải thực hiện phát   triển kinh tế ­ xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh nhằm tạo sức   mạnh tổng hợp răn đe và sẵn sàng chiến thắng khi có tình huống xảy ra. Phát triển kinh tế ­ xã hội là nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn  dân, toàn quân, của các cấp, các ngành từ  Trung  ương đến cơ  sở. Một số 
  2. 2 tỉnh biên giới phía Bắc có vị  trí chiến lược rất quan trọng trong sự nghiệp  xây dựng và bảo vệ  Tổ  quốc, là địa bàn có tiềm năng kinh tế  lớn, có ý  nghĩa đặc biệt quan trọng về  quốc phòng, an ninh đối với sự  nghiệp bảo  vệ  chủ  quyền quốc gia. Trong thời kỳ  mới, tình hình biên giới đất liền   cũng như biên giới phía Bắc trên bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc đã được  giải quyết theo hướng hoà bình, hữu nghị. Tuy nhiên, vấn đề  biển Đông  vẫn còn tiềm  ẩn nhiều nguy cơ  bất  ổn trong khu vực nói chung và giữa   Việt Nam với Trung Quốc nói riêng. Do đó, vẫn còn tiềm ẩn nguy cơ xung   đột cả biên giới trên bộ và trên biển. Cùng với đó, các thế lực thù địch vẫn  không từ bỏ âm mưu chiến lược “diễn biến hoà bình”… Chính vì vậy, biên  giới phía Bắc vẫn là khu vực chiến lược quan trọng mà các lực lượng thù  địch luôn tìm cách lợi dụng, chống phá cách mạng Việt Nam. Trước tình  hình đó, vấn đề đặt ra hết sức quan trọng là bảo vệ vững chắc chủ quyền   quốc gia nói chung, biên giới phía Bắc nói riêng. Muốn thực hiện tốt nhiệm   vụ đó, vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu là phải phát triển kinh tế ­ xã   hội một cách toàn diện. Có như vậy mới tạo ra cơ sở kinh tế, cơ sở xã hội   vững chắc nhằm đảm bảo quốc phòng ­ an ninh trong thời kỳ mới.     Gần 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, một số tỉnh biên giới phía Bắc  luôn nhận được sự  quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước bằng việc đề  ra   nhiều chủ trương, chính sách nhằm phát triển toàn diện kinh tế ­ xã hội; quốc   phòng, an ninh… đã đạt được nhiều kết quả. Tuy nhiên, trên thực tế, các tỉnh  biên giới phía Bắc có điều kiện địa lý khó khăn, kết cấu hạ tầng thiếu và không   đồng bộ, điểm xuất phát thấp, đặc biệt là phát triển kinh tế… thực trạng đó đã  tác động tới mất ổn định về kinh tế ­ xã hội; quốc phòng và an ninh không được   đảm bảo. Vì vậy, phát triển kinh tế ­ xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an   ninh  ở một số  tỉnh biên giới phía Bắc vừa là yêu cầu cơ  bản, lâu dài của sự 
  3. 3 nghiệp xây dựng và bảo vệ  Tổ  quốc nói chung, vừa là đòi hỏi cấp thiết cho  nhiệm vụ đảm bảo quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc nói riêng. Với lý do  đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Phát triển kinh tế ­ xã hội gắn với đảm bảo quốc   phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc” làm luận án tiến sỹ.        2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu   ­ Mục tiêu:  Trên cơ sở làm rõ lý luận về phát triển kinh tế ­ xã hội gắn với đảm   bảo quốc phòng, an ninh và phân tích, đánh giá thực trạng  ở  một số  tỉnh  biên giới phía Bắc Việt Nam, luận án đề xuất những quan điểm cơ bản và  những giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế ­ xã hội gắn với đảm bảo quốc   phòng, an ninh ở một số địa phương. ­  Nhiệm vụ: Để  đạt được mục tiêu trên, luận án có các nhiệm vụ  sau: + Tổng quan tình hình nghiên cứu về  phát triển kinh tế ­ xã hội gắn   với đảm bảo quốc phòng, an ninh; chỉ  ra những nội dung đã được đề  cập   nghiên cứu, cũng như những vấn đề chưa được đề cập, nghiên cứu. + Hệ thống hoá và làm rõ khuôn khổ lý thuyết của việc phát triển kinh tế  ­ xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh trong điều kiện hiện nay ở Việt   Nam. + Phân tích và đánh giá đúng việc thực hiện phát triển kinh tế  ­ xã  hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc,   chỉ rõ những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân của chúng và những vấn đề  đặt ra trong thời kỳ mới. + Đề  xuất quan điểm cơ bản và giải pháp chủ  yếu nhằm phát triển  kinh tế  ­ xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh  ở  một số  tỉnh biên   giới phía Bắc trong thời kỳ mới.  
  4. 4 3. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án được xác định là phát triển kinh tế  ­ xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía  Bắc. Cụ thể là: mối quan hệ giữa phát triển kinh tế ­ xã hội gắn với đảm  bảo quốc phòng, an ninh và các đối tượng có liên quan thuộc nhóm các nhân  tố ảnh hưởng như: điều kiện tự nhiên, kinh tế ­ xã hội, chính trị… Trong mối quan hệ giữa phát triển kinh tế ­ xã hội gắn với đảm bảo   quốc phòng, an ninh, kinh tế ­ xã hội là yếu tố quyết định đến quốc phòng,   an ninh. Ngược lại, quốc phòng, an ninh có tác động tích cực trở lại kinh tế  ­ xã hội, bảo vệ và tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế ­ xã hội phát triển. Ngày   nay, mối quan hệ giữa phát triển kinh tế ­ xã hội với đảm bảo quốc phòng,  an ninh càng chặt chẽ hơn bao giờ hết. Phát triển kinh tế ­ xã hội  ổn định  nhanh, bền vững giữ vai trò quyết định cho đảm bảo quốc phòng, an ninh;  quốc phòng, an ninh không chỉ bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, mà còn   đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường hoà bình,  ổn định, là tiền đề, điều kiện không thể  thiếu đảm bảo cho quá trình phát  triển kinh tế ­ xã hội nhanh, bền vững. Bởi vậy, phải giải quyết đúng đắn  mối quan hệ  giữa phát triển kinh tế  ­ xã hội với đảm bảo quốc phòng, an  ninh phù hợp với từng điều kiện, giai đoạn lịch sử  cụ  thể  trên từng địa  phương.     4. Phạm vi nghiên cứu ­ Về  nội dung: luận án nghiên cứu lý luận, thực tiễn phát triển kinh  tế ­ xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh. Trong đó, tập trung làm   rõ mối quan hệ  giữa phát triển kinh tế  ­ xã hội gắn với đảm bảo quốc  phòng, an ninh; nội dung phát triển kinh tế ­ xã hội gắn với đảm bảo quốc   phòng, an ninh và các đối tượng có liên quan thuộc nhóm các nhân tố   ảnh 
  5. 5 hưởng đến phát triển kinh tế  ­ xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an  ninh. Đảm bảo quốc phòng, an ninh theo nghĩa hẹp là đảm bảo nhu cầu vật  chất ­ kỹ thuật, tài chính và nhân lực (xét ở mặt kỹ thuật, thuộc phạm vi chuyên  ngành Kinh tế  quân sự  ­ Hậu cần quân sự); theo nghĩa rộng, đảm bảo quốc  phòng, an ninh là chủ quyền quốc gia không bị xâm phạm, an ninh chính trị, trật   tự an toàn xã hội được đảm bảo (môi trường hoà bình, ổn định được đảm bảo),   theo đó luận án nghiên cứu đảm bảo quốc phòng, an ninh theo nghĩa rộng. ­ Về  không gian: luận án nghiên cứu phát triển kinh tế  ­ xã hội gắn  với đảm bảo quốc phòng, an ninh  ở  một số  tỉnh biên giới phía Bắc, trong  đó tập trung vào 3 tỉnh: Quảng Ninh, Lạng Sơn và Cao Bằng. ­ Về thời gian: luận án nghiên cứu phát triển kinh tế ­ xã hội gắn với   đảm bảo quốc phòng, an ninh  ở  một số  tỉnh biên giới phía Bắc, tập trung  vào 3 tỉnh: Quảng Ninh, Lạng Sơn và Cao Bằng từ năm 2001 đến 2013. 5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu ­ Cơ sở lý luận, thực tiễn  Luận án được nghiên cứu dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ  nghĩa Mác ­ Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kinh tế quân sự, học thuyết bảo   vệ  Tổ  quốc và các văn kiện của Đảng, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ  nghĩa Việt Nam về  phát triển kinh tế  ­ xã hội gắn với  đảm bảo quốc   phòng, an ninh; những chủ  trương, phương hướng phát triển kinh tế  ­ xã  hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng biên giới phía Bắc; các chỉ  thị, nghị quyết của Bộ Quốc phòng; các báo cáo tổng kết, số liệu thống kê  của các cơ quan, sở, ban, ngành ở một số tỉnh biên giới phía Bắc; các công   trình liên quan đến  đề  tài  đã được công bố; kết quả   điều tra khảo sát  
  6. 6 nghiên cứu thực tế  có liên quan đến đề  tài là cơ  sở  lý luận, thực tiễn của  luận án. ­ Phương pháp nghiên cứu  Luận án nghiên cứu dựa trên cơ  sở  phương pháp luận của kinh tế  chính trị Mác ­ Lênin; sử dụng phương pháp trừu tượng hoá khoa học, kết  hợp các phương pháp lôgíc và lịch sử; phân tích và tổng hợp; thống kê so  sánh và phương pháp chuyên gia để làm sáng tỏ nội dung luận án. Phương   pháp đó được vận dụng vào các chương cụ thể như sau: Chương 1, Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề  tài.  Phương pháp nghiên cứu trong chương này chủ  yếu sử  dụng phương pháp   thống kê, kết hợp với phương pháp phân tích. Cuối chương sử dụng phương  pháp trừu tượng hoá khoa học, gạt bỏ những yếu tố ngẫu nhiên xảy ra trong  những quá trình và những hiện tượng phát triển kinh tế ­ xã hội gắn với đảm  bảo quốc phòng, an ninh đã được nghiên cứu, từ  đó tách ra những cái điển  hình, bền vững, ổn định trong những hiện tượng và quá trình đó, trên cơ sở ấy  nắm được bản chất của các hiện tượng, từ bản chất cấp một tiến đến bản  chất ở trình độ sâu hơn, hình thành những phạm trù và những quy luật phản  ánh những bản chất, để thấy được bản chất của vấn đề  mà các công trình  khoa học, các đề tài, luận án trước đó đã nghiên cứu. Trên cơ sở đó, tiếp tục  nghiên cứu, kế  thừa và phát triển để  làm cơ  sở  cho nghiên cứu các chương  sau của luận án.    Chương 2, Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển  kinh tế ­ xã hội gắn  với đảm bảo quốc phòng, an ninh. Phương pháp nghiên cứu trong chương này  chủ  yếu sử  dụng phương pháp trừu tượng hoá khoa học để  hình thành các  khái niệm, phạm trù khoa học đặc trưng cho các mặt khác nhau của các hiện  
  7. 7 tượng quá trình phát triển kinh tế ­ xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an  ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc, tiến tới hình thành các qui luật, xác lập   sự phụ thuộc và tác động lẫn nhau một cách nhân quả, ổn định của các hiện  tượng và quá trình phát triển kinh tế ­ xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an   ninh mà đề  tài luận án đưa ra. Cùng với phương pháp trừu tượng hoá khoa  học là phương pháp phân tích để thấy được những nội dung, những nhân tố  ảnh hưởng và kinh nghiệm trong phát triển kinh tế ­ xã hội gắn với đảm bảo  quốc phòng, an ninh.  Chương 3, Thực trạng phát triển kinh tế  ­ xã hội gắn với đảm bảo  quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc. Phương pháp nghiên  cứu trong chương này kết hợp sử dụng các phương pháp: phân tích và tổng  hợp, thống kê so sánh, chuyên gia; sau đó sử dụng phương pháp phân tích và  phương pháp trừu tượng hoá khoa học. Trên cơ sở đó hoàn thành chương 4:  quan điểm và giải pháp phát triển kinh tế  ­ xã hội gắn với đảm bảo quốc  phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc trong thời kỳ mới. Trong suốt quá trình viết luận án, nhất là sự chuyển tiếp, kế thừa nội   dung các chương và nội dung toàn luận án cần phải chú ý vận dụng tốt   phương pháp logic và lịch sử. 6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án  ­ Hệ thống hoá và làm rõ hơn một bước cơ sở khoa học về phát triển   kinh tế ­ xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh.   ­ Phân tích, đánh giá thực trạng và nhận diện những vấn đề đang đặt  ra đối với phát triển kinh tế ­ xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh   ở một số tỉnh biên giới phía Bắc, đặc biệt là trong tình hình phức tạp hiện  nay.  
  8. 8 ­ Đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm phát triển kinh tế ­ xã hội gắn  với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc thời gian tới.  7. Kết cấu của luận án Luận án gồm: phần mở đầu; 4 chương, 12 tiết; kết luận; danh mục  các công trình nghiên cứu của tác giả đã công bố liên quan đến đề tài luận   án; danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI Phát triển KT ­ XH gắn với đảm bảo QP, AN không phải là vấn đề riêng  của thời đại ngày nay, không chỉ là vấn đề có tính quy luật của cách mạng Việt 
  9. 9 Nam, mà là vấn đề có tính quy luật chung cho mọi XH còn giai cấp và đấu tranh  giai cấp, còn mưu đồ thôn tính của dân tộc này đối với dân tộc khác. Đối với   Việt Nam, phát triển KT ­ XH gắn với đảm bảo QP, AN là một quy luật khách   quan, là sự thiết lập mối quan hệ hữu cơ giữa hai nội dung, hai lực lượng, cái  này tạo tiền đề cho phát triển cái kia và ngược lại. Qua mỗi thời kỳ, nhận thức   và tổ chức thực hiện nội dung gắn kết đó đều được bổ sung, phát triển. Chính vì   vậy, việc khái quát lịch sử  vấn đề  nghiên cứu và nghiên cứu, tiếp cận nhiều  kênh thông tin, đặc biệt là những công trình khoa học đã được công bố liên quan  đến đề tài là vấn đề có ý nghĩa to lớn giúp cho luận án có cơ sở khoa học trong  kế thừa, phát triển.  1.1. Khái quát lịch sử vấn đề nghiên cứu phát triển kinh tế ­ xã hội  gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở Việt Nam  1.1.1. Phát triển kinh tế ­ xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh trong   thời kỳ Phong kiến Việt Nam là quốc gia có vị trí địa chiến lược quan trọng trong khu vực và  trên thế giới, nền KT chậm phát triển, nên trải qua hàng nghìn năm lịch sử, kể từ  khi các Vua Hùng dựng nước đến nay, Việt Nam luôn bị nhiều kẻ thù nhòm ngó,   tiến công xâm lược. Tình hình đó đã đặt ra cho dân tộc ta phải nhận thức rõ KT  và QP là những nhân tố có vai trò rất quan trọng, phải chú trọng phát triển KT và  thường xuyên chăm lo đến QP, tạo sức mạnh bền vững  bảo vệ vững chắc đất  nước. Vì vậy, ngay từ thời kỳ phong kiến, phát triển KT ­ XH gắn với đảm bảo  QP, AN đã trở  thành kế  sách dựng nước và giữ  nước của dân tộc. Kế  sách   “Dựng nước đi đôi với giữ nước” đã trở thành nét văn hoá QS, QP độc đáo và là  truyền thống quý báu của dân tộc. Kế sách đó đòi hỏi sự chuẩn bị đất nước đánh  giặc ngay từ  thời bình; đồng thời, khi chiến tranh xảy ra thực hiện vừa đánh  giặc, vừa lao động sản xuất; thắng giặc rồi thì lo xây dựng đất nước, lúc nào  
  10. 10 cũng phải sẵn sàng đối phó với mọi kẻ thù, nhiệm vụ đánh giặc giữ nước gắn   với nhiệm vụ xây dựng đất nước. Thực chất, đây là sự nhận thức về tính tất   yếu của việc kết hợp KT với QP trên cơ sở nhận thức mối quan hệ chặt chẽ  giữa KT với chiến tranh, KT với QP: “Thực túc, bình cường”, “Phú quốc, binh  cường”; đất nước giàu mạnh là cơ sở vật chất tạo ra sức mạnh QP đủ sức ngăn   ngừa, đẩy lùi, làm thất bại các âm mưu, kế  hoạch xâm lược của kẻ  thù; QP  mạnh tạo ra môi trường hoà bình cho xây dựng, phát triển đất nước. Kế sách  “Dựng nước đi đôi với giữ nước” của ông cha ta trong thời kỳ phong kiến được  biểu hiện tập trung ở những nội dung sau:  Một là, nhiều triều đại phong kiến Việt Nam đã đề ra nhiều kế sách   giữ nước sáng tạo, linh hoạt; thể hiện sự gắn kết chặt chẽ KT với QP, tiêu  biểu là kế sách “Ngụ binh ư nông” dưới các triều đại phong kiến Lý, Trần   và Lê Sơ; “Lấy dân làm gốc”, dân giàu nước mạnh, quốc phú binh cường...  “Ngụ binh  ư nông” là gửi một bộ phận quân vào nông dân, nông thôn, kết   hợp quân với dân cùng xây dựng quân đội, chỉ  duy trì một số  lượng quân  thường trực hợp lý. Kế  sách “Ngụ  binh  ư  nông” là sản phẩm của nhận  thức coi trọng việc binh với vai trò quan trọng của nông nghiệp nhằm bảo  đảm sự cân đối, hợp lý giữa phát triển KT và củng cố  QP, giữa xây dựng  LLVT thường trực với LLVT dự  bị. Khi Bàn về  kế  sách “Ngụ  binh  ư  nông”, nhà sử  học Ngô Thì Sĩ đánh giá: “Chế  độ  binh lính của nhà Lý…  mỗi tháng lên cơ  ngũ một lần, gọi là đi canh, hết canh lại về  quê làm  ruộng, quân không phải cấp lương… không có phí tổn nuôi lính, mà có  công hiệu dùng sức lính, cũng là chế  độ  hay” [63, tr.27]. Nhà sử  học Phan  Huy Chú cũng đưa ra lời bình: “Đời xưa binh lấy nghề  nông là có ý phục   việc nguy hiểm vào nơi thuận tiện… Trong thành vua có quân Túc vệ, đội  ngũ đông nghiêm. Còn quân ở ngoài thì vẫn theo ý nghĩa đời xưa, lúc vô sự 
  11. 11 thì về làm ruộng, khi có động thì chiếu sổ gọi ra hết. Cho nên binh vẫn đủ  mà không phải tiêu phí nhiều, càng thêm hăng hái chống thù. Cái chiến công   dẹp quân Chiêm, phá quân Tống, cái oai hùng ba lần đánh bại quân Nguyên  cũng đủ  cho biết binh lực hai đời cường thịnh là thế  nào” [18, tr.8]; “Đời  Lý… ngoại binh thì không có lương, cứ luân phiên đến canh, hết phiên canh  cho về nhà cày cấy trồng trọt để tự cấp. Nhà Trần theo phép nhà Lý… binh   các đạo thì đều chia phiên về làm ruộng cho đỡ tốn lương… Phép nuôi binh   đời Lê sơ  đại để  theo phép ngụ  binh  ư  nông của các đời Lý, Trần, không   phải cấp lương bổng. Thời Hồng Đức trở về sau, cứ theo phép đấy không   đổi” [18, tr.20]. Như vậy, có thể nói, kế sách “Ngụ binh ư nông” là một cơ  chế hoàn hảo về mặt động viên và sử dụng nguồn nhân lực trong việc xây  dựng LLVT phòng giữ  đất nước, xây dựng tiềm lực QP mạnh trên cơ  sở  phát triển KT với củng cố  lực lượng QS. Nhờ cơ chế này đã tạo ra binh  mạnh, lương nhiều trong thời bình và khi thời chiến xảy ra, sẽ  tao ra một   lực lượng hùng hậu toàn dân là lính, cả nước đánh giặc.  Hai là, các triều đại phong kiến luôn quan tâm đến việc xây dựng lực   lượng, khuyến khích việc di dân lên các vùng biên giới, hải đảo, thực hiện chính  sách giãn dân, khai hoang lập ấp ở các vùng biên ải để khai phá đất hoang, phân  bố lại lực lượng, tăng cường lực lượng tại chỗ, vừa làm giàu cho đất nước, vừa  phục vụ cho nhiệm vụ giữ nước, tạo ra thế trận đánh giặc từ xa và thực hiện   gửi lực lượng, tích trữ  lương thực trong dân để  chuẩn bị  sẵn sàng cho chiến   tranh  bảo vệ biên cương đất nước, như thực tiễn ông cha ta đã thực hiện đưa   quân lính lên khai hoang lập ấp ở vùng biên giới Quảng Yên, Lạng Sơn. Ba là, nhiều triều đại phong kiến như: Tiền Lê, Lý, Trần, Lê Sơ…  rất coi trọng mở  mang hệ  thống giao thông thuỷ, bộ  như: kênh nhà Lê  ở  Thanh Hoá và Nghệ An; kênh Vĩnh Tế ở Tây Nam Bộ… với mục đích vừa  
  12. 12 phục vụ  nhu cầu giao lưu phát triển KT, vừa đảm bảo QP, QS như: cơ  động lực lượng, phương tiện QS, vận tải tiếp tế, thông tin liên lạc khi  chiến tranh xảy ra. Bốn là, để  chuẩn bị  cho công cuộc giữ  nước từ thời bình, các triều   đại phong kiến thường xuyên quan tâm đến phát triển nhiều ngành KT có  tính lưỡng dụng, tiêu biểu là các ngành thủ công nghiệp trong nước, nhất là  các ngành nghề có liên quan đến QP để vừa đáp ứng nhu cầu dân sinh, vừa   đảm bảo nhu cầu QP của đất nước. Trên thực tế, từ thế kỷ XI,  ở nước ta (Đại Việt) đã hình thành và phát  triển các xưởng thủ công của triều đình vừa sản xuất các sản phẩm mang tính  chất KT như sản xuất các sản phẩm dân sinh dùng trong hoàng gia, cung đình,   vừa sản xuất sản phẩm trực tiếp đảm bảo cho các nhu cầu QS như: đảm bảo  nhu cầu xây dựng LLVT, quân đội, thuyền chiến, vũ khí… Thời Lý đã sản  xuất được thuyền lớn đảm bảo cho thuỷ quân tác chiến trên sông lớn và biển   gần; vũ khí hạng nặng như máy bắn đá… Thời Trần đã sản xuất được “Thần  cơ song pháo” là một loại hoả pháo có uy lực mạnh. Thời Lê đã sản xuất ra các   loại thuyền chiến, vũ khí rất phong phú và có tác dụng chiến đấu rất cao… Các  lò thủ công gia đình cũng được quan tâm phát triển, thời bình tập trung sản xuất   các sản phẩm dân sinh đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của nhân dân địa phương;  thời chiến sẵn sàng chuyển sang sản xuất các sản phẩm đảm bảo nhu cầu QS   như: khai mỏ, đúc đồng, rèn sắt, đóng thuyền, sản xuất vũ khí… Đây là các cơ  sở sản xuất cung cấp chủ yếu các loại vũ khí cho các lực lượng dân binh, thổ  binh và còn đảm bảo cung  ứng, sửa chữa vũ khí cho cả  quân triều đình khi  chiến tranh xảy ra. Những nội dung trên cho thấy, các triều đại phong kiến  nước ta đã quan tâm phát triển nhiều ngành KT có tính lưỡng dụng, vừa đáp 
  13. 13 ứng nhu cầu dân sinh, vừa đáp ứng nhu cầu tăng cường khả năng đảm bảo QP,   AN của đất nước.   1.1.2. Phát triển kinh tế ­ xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an   ninh từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo 1.1.2.1. Trong thời kỳ  Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến chống   thực dân Pháp, đế quốc Mỹ  xâm lược Ngay từ khi thành lập và trong suốt quá trình lãnh đạo cách cách mạng  Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác   ­ Lênin về  mối quan hệ  KT với chiến tranh, KT với QP, kế  thừa truyền   thống, kinh nghiệm kết hợp KT với QP trong lịch sử dựng nước và giữ nước  của dân tộc, sự nhận thức về phát triển KT với đảm bảo QP ở Việt Nam luôn   có những phát triển mới. Ngay sau khi cách mạng Tháng Tám thành công, “Chỉ  thị của Ban Chấp hành Trung ương về kháng chiến kiến quốc” (25/11/1945),   xác định nhiệm vụ  cần kíp của cách mạng lúc này là “Phải củng cố  chính  quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bại trừ nội phản, cải thiện đời sống  cho nhân dân” [26, tr.26­27]. Qua Chỉ  thị cho thấy Đảng đã nhận thức đúng   đắn mối quan hệ  giữa kháng chiến và kiến quốc. Thực chất, đó là sự  nhận   thức sâu sắc và vận dụng sáng tạo phát triển KT với đảm bảo QP của Đảng,   Nhà nước trong điều kiện kháng chiến. Vấn đề đảm bảo QP với phát triển KT  thông qua hoạt động của quân đội trong thời gian chuẩn bị cho kháng chiến cũng  được Đảng nhận thức sâu sắc. Nghị  quyết Hội nghị QS toàn quốc của Đảng   (19/10/1946), đã xác định nhiệm vụ lao động sản xuất của quân đội: “Những nơi  bộ đội đóng, lấy đại đội hay trung đội độc lập làm đơn vị, bắt buộc phải tham   gia sản xuất, trồng rau, chăn nuôi” [26, tr.128­129]. Khi cuộc kháng chiến chống  thực dân Pháp xâm lược bùng nổ ra phạm vi cả nước, Đảng ra Chỉ thị “Toàn 
  14. 14 quốc kháng chiến” (22/12/1946). Chỉ  thị  xác  định: Toàn dân kháng chiến,   kháng chiến khắp nơi; mỗi phố  là một mặt trận, mỗi làng là một pháo đài;   mỗi viên đạn diệt một quân thù; cướp súng giặc để bắn giặc… tăng gia sản  xuất để  kháng chiến; giữ  gạo muối nuôi quân; vừa kháng chiến, vừa kiến  quốc… “Chỉ thị toàn quốc kháng chiến” là sự phát triển nhận thức của Đảng  về phát triển KT với đảm bảo QP.  Để  tiếp tục thực hiện chủ  trương trên, Nghị  quyết Hội nghị  cán bộ  Trung  ương của Đảng (từ ngày 3 đến 6/4/1947) đã xác định: “Tổ chức căn   cứ địa không những ở vùng rừng núi mà ở cả đồng bằng”; “Áp dụng chiến   thuật tiêu thổ kháng chiến một cách rộng rãi”; “Phá KT địch bằng cách tẩy   chay và QS phá hoại”; “Tích cực xây dựng kinh tế của ta, vừa kháng chiến,   vừa kiến quốc, và lập nền kinh tế tự túc”; “Thực hành việc bộ đội tăng gia   sản xuất” [26, tr.180­181, 185]. Hội nghị  quân sự  toàn quốc lần thứ  III   (15/6/1947), tiếp tục khẳng định vị  trí, tầm quan trọng của nhiệm vụ  tăng  gia sản xuất của quân đội: “Các chính trị  viên cần làm cho bộ  đội hiểu  rằng tăng gia sản xuất là một nhiệm vụ  quan trọng” [25, tr.172]; mặc dù  trong thời kỳ  này, thực hiện chức năng, nhiệm vụ  chiến đấu là chủ  yếu,   nhưng quân đội đã quán triệt và nhận thức sâu sắc nhiệm vụ  sản xuất.  Tiếp tục chủ trương vừa kháng chiến vừa kiến quốc, Hội nghị lần thứ nhất Ban   Chấp hành Trung ương Đảng khoá II (tháng 3 năm 1951) xác định: Muốn kháng  chiến trường kỳ, phải luôn luôn bồi dưỡng lực lượng KT, tài chính, phải coi   nhiệm vụ KT, tài chính là một nhiệm vụ rất quan trọng. Đây chính là những phát  triển mới trong nhận thức phù hợp với thực tiễn của Đảng ta về mối quan hệ  giữa KT với chiến tranh và QP; đồng thời, thể hiện sự nhất quán trong thực hiện   chủ trương kết hợp KT với QP ở nước ta trong giai đoạn này.
  15. 15 Kể  từ  khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược thắng  lợi, nhân dân ta thực hiện công cuộc khôi phục KT đất nước sau gần 2  năm, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá II đã họp Hội nghị lần thứ 12   (mở rộng), ra Nghị quyết về kế hoạch nhà nước năm 1957. Nghị quyết xác  định: “Trong khi thực hiện nhiệm vụ kinh tế, các ngành công tác còn phải  kết hợp chặt chẽ với nhiệm vụ củng cố các khu vực tự trị, nhiệm vụ củng   cố quốc phòng, nhiệm vụ đấu tranh chính trị để thực hiện thống nhất nước  nhà” [27, tr.262]. Qua đó cho thấy, Đảng, Nhà nước có nhận thức đúng đắn   về  nhiệm vụ khôi phục, phát triển KT gắn với đảm bảo QP trong thời kỳ  mới. Trong thời kỳ  kháng chiến chống đế  quốc Mỹ  xâm lược, có thể  thấy  rằng, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960), thể hiện sự  nhận thức hoàn chỉnh của Đảng về đường lối, chủ trương kết hợp KT với QP  xuyên suốt thời kỳ  này. Nghị  quyết Đại hội xác định, cách mạng Việt Nam   trong giai đoạn hiện tại có hai nhiệm vụ chiến lược: “ Một là, tiến hành cách  mạng XHCN ở Miền Bắc. Hai là, giải phóng Miền Nam khỏi ách thống trị của  đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn toàn độc lập và   dân chủ  trong cả  nước” [28, tr.916]. Như  vậy, đường lối, chủ  trương của  Đảng, Nhà nước về kết hợp xây dựng KT với củng cố QP trong thời kỳ chống   đế quốc Mỹ xâm lược là thắng lợi của việc Đảng đã tiếp tục phát triển đường   lối “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc” trong kháng chiến chống thực dân Pháp  thành đường lối kết hợp chặt chẽ  giữa xây dựng, phát triển KT với tăng  cường, củng cố QP, tạo nên một hậu phương vững chắc, rộng lớn khắp cả  nước để tiến hành chiến tranh giải phóng thắng lợi. 1.1.2.2. Thời kỳ cả nước thống nhất đi lên chủ  nghĩa xã hội đến khi   tiến hành công cuộc đổi mới
  16. 16 Sau đại thắng mùa xuân 1975, nước nhà được độc lập, thống nhất,   cả  nước đi lên xây dựng CNXH, với kinh nghiệm thực tiễn 30 năm chiến  tranh giải phóng, Đại hội lần thứ IV của Đảng khẳng định, vấn đề kết hợp  KT với QP là một trong những nội dung cơ bản và quan trọng của đường   lối xây dựng nền KT XHCN trên phạm vi cả  nước. Đại hội chỉ  rõ: “Phải   kết hợp đúng đắn kinh tế với quốc phòng. Xây dựng đất nước phải đi đôi  với bảo vệ  đất nước đó là yêu cầu sống còn của dân tộc ta” [29, tr.58].   Đường lối đó chỉ ra, xây dựng nền KT đất nước trong thời bình, phải đồng  thời đáp ứng cùng một lúc các nhu cầu: cải thiện đời sống nhân dân, thực   hiện quyền làm chủ  của nhân dân; đẩy mạnh sự  nghiệp công nghiệp hoá   XHCN;  mở  rộng quan hệ  KT  với  các nước,   đảm bảo QP, AN thường   xuyên vững chắc. Theo đó, vấn đề kết hợp QP với KT trong hoạt động của  quân đội tiếp tục có sự  phát triển trong nhận thức của Đảng, Nhà nước.   Ngày 17 tháng 3 năm 1976, Bộ  Chính trị  khoá IV đã ra Nghị  quyết số  250­ NQ/TW “Về vấn đề quân đội làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế”. Nghị quyết  đã xác định mục đích, nhiệm vụ  KT và phương hướng nhiệm vụ  căn bản  trong xây dựng KT của quân đội. Đây là mốc đánh dấu sự chuyển biến kịp  thời trong nhận thức của Đảng về kết hợp QP với KT trong điều kiện mới, đất   nước thống nhất, cả nước đi lên CNXH.  Tuy nhiên, khi mọi việc mới bắt đầu được vạch ra với mục tiêu  phục vụ nền KT đất nước sau chiến tranh, thì chúng ta phải đương đầu với  những khó khăn, phức tạp mới; trong đó nổi lên là hai cuộc chiến tranh xâm  lược biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc của các thế  lực thù địch.  Trước tình hình đó, Đại hội V của Đảng tiếp tục có nhận thức sâu sắc về  kết hợp KT với QP: “Kết hợp chặt chẽ KT v ới QP, QP v ới KT, t ừng b ước  
  17. 17 phát triển kinh tế  quốc phòng đi đôi với tăng cường tiềm lực KT của đất   nước”. Những năm đầu của thập kỷ  80, thế  kỷ  XX, đất nước vừa có hoà   bình, vừa xảy ra chiến tranh, nhiệm vụ đẩy mạnh sản xuất, ổn định và bảo   đảm đời sống của nhân dân trở nên cấp bách. Để phát huy vai trò của quân  đội, Bộ  Chính trị đã ra Nghị quyết bổ sung về nhiệm vụ quân đội làm KT  trong 5 năm (1981 ­ 1985). Theo đó, quân đội tập trung vào thực hiện một  số  nhiệm vụ  cụ  thể trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư  nghiệp,  công nghiệp, xây dựng cơ bản, hàng không dân dụng, hợp tác KT với Lào,  Campuchia... đảm bảo kết hợp chặt chẽ  nhiệm vụ  QS với nhiệm vụ xây   dựng KT; ưu tiên lựa chọn các công việc có tính cấp bách, các công trình có  giá trị KT lớn và có quan hệ chặt chẽ giữa KT với QP, tính toán kỹ và quản   lý chặt chẽ, từng bước nâng cao hiệu quả KT, chống tham ô, lãng phí. Mặc  dù từ đầu thập kỷ 80 đến cuối năm 1986, tình hình KT ­ XH Việt Nam gặp  nhiều khó khăn, tình trạng lạm phát gia tăng, Đảng, Nhà nước vẫn kiên trì  đường lối xây dựng KT kết hợp với củng cố QP, phát huy tốt nhất những   kết quả xây dựng KT đảm bảo cho QP. Theo đó, việc kết hợp KT với QP   trong các hoạt động của quân đội tiếp tục được duy trì, có những bước  phát triển mới.  1.1.2.3. Thời kỳ  đổi mới, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất   nước và hội nhập quốc tế Kế thừa và phát triển chủ trương chiến lược kết hợp KT với QP trong   thời kỳ mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã chỉ ra phương  hướng cơ bản và những nội dung lớn, nhằm nâng cao hiệu quả của việc kết   hợp KT với QP, QP với KT theo phương hướng cơ bản, lâu dài; đồng thời, có  
  18. 18 dự kiến để kịp thời điều chỉnh cho phù hợp khi xảy ra biến động đảm bảo chiến   thắng. Trên cơ sở đó, Đại hội chỉ ra những nội dung cụ thể của việc kết hợp:   “Kết hợp trong công tác quy hoạch phân vùng kinh tế, phân bố lại lao động, phân   bố lực lượng sản xuất; xây dựng các ngành kinh tế kỹ thuật, phát triển kinh tế  địa phương phải nhằm tạo ra thế bố trí chiến lược thống nhất để làm chủ cả về  kinh tế và quốc phòng trong cả nước và trong từng địa phương” [30, tr.67].  Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ  VII của Đảng, việc phát   triển KT gắn với xây dựng nền QP càng được chú trọng hơn trong tình hình  mới. Đại hội xác định: “Kết hợp chặt chẽ  kinh tế  với quốc phòng, quốc   phòng với kinh tế  trong quy hoạch và kế  hoạch phát triển kinh tế  của cả  nước và trên từng địa phương” [31, tr.85].  Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, diễn ra trong bối   cảnh chúng  ta  bước  vào thời  kỳ   đẩy  mạnh sự   nghiệp  CNH,  HĐH  đất  nước, Đại hội xác định, kết hợp KT với QP gắn liền với phát huy sức   mạnh tổng hợp của toàn dân, từng bước tăng cường tiềm lực QP và AN  của đất nước. Đại hội chỉ rõ: “Kết hợp chặt chẽ KT với QP trong việc quy   hoạch và phát triển các vùng kinh tế, các ngành công nghiệp, lấy hiệu quả  kinh tế  gắn với yêu cầu bảo đảm QP ­ AN làm cơ  sở  cho những chủ  trương cụ thể” [32, tr.184]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tiếp tục phát triển   đường lối, chủ trương kết hợp KT với QP của Đại hội VIII và cụ thể hoá   trong những năm đầu của thế kỷ XXI, Đại hội xác định: “Kết hợp chặt chẽ  kinh tế với quốc phòng và an ninh, quốc phòng và an ninh với kinh tế trong  các chiến lược, quy hoạch và kế  hoạch phát triển kinh tế  ­ xã hội” [33,  tr.40]. Theo đó, Nghị  quyết số  71/ĐUQSTW ngày 25/4/2002 của Đảng uỷ 
  19. 19 QS Trung  ương về: “Nhiệm vụ sản xuất xây dựng KT của quân đội trong   thời kỳ  mới, tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả  doanh nghiệp quân đội”.  Nghị  quyết số  21, 37, 39, 53 của Bộ  Chính trị  (Khoá IX) về  phát triển KT ­ XH và đảm bảo QP, AN của 4 vùng (đồng  bằng sông Cửu Long, Đông Nam bộ và vùng KT trọng điểm phía Nam, Bắc   Trung bộ và duyên hải miền Trung, trung du và miền núi phía Bắc) và Nghị  quyết 54 ­ NQ/TW ngày 14/9/2005 về phát triển KT ­ XH và đảm bảo QP,   AN vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2010 và định hướng đến năm  2020.  Những định hướng cơ  bản đó đảm bảo về  chính trị  và cơ  sở  khoa  học cho giải quyết quan hệ phát triển KT gắn với QP ­ AN trong từng khu   vực.  Thực tiễn nêu trên đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của   Đảng tiếp tục chỉ rõ: “Tiếp tục phát triển các khu KT ­ QP, xây dựng các khu  QP ­ KT với mục tiêu tăng cường QP, AN là chủ yếu, tập trung vào các địa  bàn chiến lược và những khu vực nhạy cảm trên biên giới đất liền, biển đảo”  [43, tr.110]. Đại hội cũng chỉ ra: “Xây dựng CNQP trong hệ thống công nghiệp  quốc gia dưới sự chỉ đạo, quản lý điều hành trực tiếp của Chính phủ, đầu tư  có chọn lọc theo hướng hiện đại, vừa phục vụ QP vừa phục vụ dân sinh” [34,   tr.110].  Kết hợp KT với QP, AN vừa là chủ trương, đường lối, quan điểm, vừa   là giải pháp để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Qua mỗi thời kỳ, nhận thức và tổ  chức thực hiện nội dung kết hợp đó đều được bổ sung, phát triển phù hợp với  yêu cầu mới. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã  chỉ ra những vấn đề cơ bản cần nắm vững về kết hợp KT với QP, AN trong   thời kỳ hội nhập quốc tế. Đây là chủ trương chiến lược hết sức quan trọng,   được thể  hiện nhất quán và xuyên suốt trong các văn kiện Đại hội XI của  
  20. 20 Đảng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ  quá độ  lên CNXH (bổ  sung, phát triển năm 2011) xác định: “Kết hợp chặt chẽ KT với QP ­ AN, QP ­   AN với KT trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển  KT ­ XH và trên từng địa bàn” [35, tr.82]. Tiếp đó, chiến lược phát triển KT ­  XH 10 năm (2011 ­ 2020) chỉ rõ: “Gắn kết QP với AN. Kết hợp chặt chẽ QP,   AN với phát triển KT ­ XH trên từng địa bàn lãnh thổ, trong công tác quy hoạch,   kế hoạch và các chương trình, dự án” [35, tr.138]. Trong báo cáo chính trị Đảng   tiếp tục xác định: “Kết hợp chặt chẽ KT với QP, AN; QP, AN với KT trong   từng chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển KT ­ XH; chú trọng vùng sâu,  vùng xa, biên giới, hải đảo” [35, tr.234]. Qua đó, thể hiện tính nhất quán, xuyên   suốt thực hiện chủ trương kết hợp phát triển KT ­ XH gắn với đảm bảo QP,   AN trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng và trong xây dựng, bảo vệ  Tổ  quốc XHCN thời kỳ  mới, Đảng, Nhà nước ta luôn coi đó vừa là đường lối,   quan điểm, vừa là giải pháp chiến lược; mỗi bước đổi mới, phát triển KT ­ XH  luôn gắn với đảm bảo QP, AN, góp phần đảm bảo thực hiện thắng lợi hai   nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.  1.2. Những công trình khoa học nghiên cứu có liên quan đến phát  triển kinh tế ­ xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh 1.2.1.  Những công trình khoa học nghiên cứu liên quan đến phát   triển kinh tế  ­ xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở  một số   quốc gia trên thế giới Jayawardena , trong công trình nghiên cứu “ Một kết cấu khái niệm   nghiên cứu quốc phòng và phát triển kinh tế quốc gia”,  [84] đã làm rõ: thứ  nhất, quan niệm hiện nay và cấu trúc lý luận của QP;  thứ hai, xác định các  đặc điểm bối cảnh QP của Sri Lanka và  thứ  ba, phát triển cấu trúc khái 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2