Luận án Tiến sĩ: Phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc
lượt xem 32
download
Trên cơ sở làm rõ lý luận về phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh và phân tích, đánh giá thực trạng ở một số tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam, luận án đề xuất quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số địa phương.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ: Phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc
- 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong giai đoạn hiện nay, nước ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, trong bối cảnh thế giới đang thay đổi rất nhanh, phức tạp, khó lường, như Nghị quyết Đại hội XI chỉ rõ: “Trên thế giới: Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng sẽ có những diễn biến phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường. Những căng thẳng, xung đột tôn giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, bạo loạn chính trị, can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn sẽ diễn ra gay gắt; các yếu tố đe doạ an ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao trong các lĩnh vực tài chính tiền tệ, điện tử viễn thông, sinh học, môi trường… còn tiếp tục gia tăng. Cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ hơn, xu thế dân chủ hoá trong quan hệ quốc tế tiếp tục phát triển nhưng các nước lớn vẫn sẽ chi phối các quan hệ quốc tế” [35, tr.182183]. Vì thế, Việt Nam đang đứng trước nhiều thời cơ và vận hội mới, nhưng đồng thời cũng có nhiều thách thức đan xen. Đặc biệt, các thế lực thù địch, phản cách mạng đang ra sức chống phá công cuộc đổi mới của Việt Nam bằng mọi âm mưu, thủ đoạn rất tinh vi và xảo quyệt, trên mọi lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, văn hoá, quốc phòng, an ninh, đối ngoại… Trước tình hình đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi Việt Nam phải thực hiện phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh nhằm tạo sức mạnh tổng hợp răn đe và sẵn sàng chiến thắng khi có tình huống xảy ra. Phát triển kinh tế xã hội là nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở. Một số
- 2 tỉnh biên giới phía Bắc có vị trí chiến lược rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là địa bàn có tiềm năng kinh tế lớn, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về quốc phòng, an ninh đối với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền quốc gia. Trong thời kỳ mới, tình hình biên giới đất liền cũng như biên giới phía Bắc trên bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc đã được giải quyết theo hướng hoà bình, hữu nghị. Tuy nhiên, vấn đề biển Đông vẫn còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ bất ổn trong khu vực nói chung và giữa Việt Nam với Trung Quốc nói riêng. Do đó, vẫn còn tiềm ẩn nguy cơ xung đột cả biên giới trên bộ và trên biển. Cùng với đó, các thế lực thù địch vẫn không từ bỏ âm mưu chiến lược “diễn biến hoà bình”… Chính vì vậy, biên giới phía Bắc vẫn là khu vực chiến lược quan trọng mà các lực lượng thù địch luôn tìm cách lợi dụng, chống phá cách mạng Việt Nam. Trước tình hình đó, vấn đề đặt ra hết sức quan trọng là bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia nói chung, biên giới phía Bắc nói riêng. Muốn thực hiện tốt nhiệm vụ đó, vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu là phải phát triển kinh tế xã hội một cách toàn diện. Có như vậy mới tạo ra cơ sở kinh tế, cơ sở xã hội vững chắc nhằm đảm bảo quốc phòng an ninh trong thời kỳ mới. Gần 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, một số tỉnh biên giới phía Bắc luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước bằng việc đề ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm phát triển toàn diện kinh tế xã hội; quốc phòng, an ninh… đã đạt được nhiều kết quả. Tuy nhiên, trên thực tế, các tỉnh biên giới phía Bắc có điều kiện địa lý khó khăn, kết cấu hạ tầng thiếu và không đồng bộ, điểm xuất phát thấp, đặc biệt là phát triển kinh tế… thực trạng đó đã tác động tới mất ổn định về kinh tế xã hội; quốc phòng và an ninh không được đảm bảo. Vì vậy, phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc vừa là yêu cầu cơ bản, lâu dài của sự
- 3 nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung, vừa là đòi hỏi cấp thiết cho nhiệm vụ đảm bảo quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc nói riêng. Với lý do đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc” làm luận án tiến sỹ. 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu Mục tiêu: Trên cơ sở làm rõ lý luận về phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh và phân tích, đánh giá thực trạng ở một số tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam, luận án đề xuất những quan điểm cơ bản và những giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số địa phương. Nhiệm vụ: Để đạt được mục tiêu trên, luận án có các nhiệm vụ sau: + Tổng quan tình hình nghiên cứu về phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh; chỉ ra những nội dung đã được đề cập nghiên cứu, cũng như những vấn đề chưa được đề cập, nghiên cứu. + Hệ thống hoá và làm rõ khuôn khổ lý thuyết của việc phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam. + Phân tích và đánh giá đúng việc thực hiện phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc, chỉ rõ những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân của chúng và những vấn đề đặt ra trong thời kỳ mới. + Đề xuất quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc trong thời kỳ mới.
- 4 3. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án được xác định là phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc. Cụ thể là: mối quan hệ giữa phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh và các đối tượng có liên quan thuộc nhóm các nhân tố ảnh hưởng như: điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, chính trị… Trong mối quan hệ giữa phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh, kinh tế xã hội là yếu tố quyết định đến quốc phòng, an ninh. Ngược lại, quốc phòng, an ninh có tác động tích cực trở lại kinh tế xã hội, bảo vệ và tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Ngày nay, mối quan hệ giữa phát triển kinh tế xã hội với đảm bảo quốc phòng, an ninh càng chặt chẽ hơn bao giờ hết. Phát triển kinh tế xã hội ổn định nhanh, bền vững giữ vai trò quyết định cho đảm bảo quốc phòng, an ninh; quốc phòng, an ninh không chỉ bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, mà còn đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường hoà bình, ổn định, là tiền đề, điều kiện không thể thiếu đảm bảo cho quá trình phát triển kinh tế xã hội nhanh, bền vững. Bởi vậy, phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế xã hội với đảm bảo quốc phòng, an ninh phù hợp với từng điều kiện, giai đoạn lịch sử cụ thể trên từng địa phương. 4. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung: luận án nghiên cứu lý luận, thực tiễn phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh. Trong đó, tập trung làm rõ mối quan hệ giữa phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh; nội dung phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh và các đối tượng có liên quan thuộc nhóm các nhân tố ảnh
- 5 hưởng đến phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh. Đảm bảo quốc phòng, an ninh theo nghĩa hẹp là đảm bảo nhu cầu vật chất kỹ thuật, tài chính và nhân lực (xét ở mặt kỹ thuật, thuộc phạm vi chuyên ngành Kinh tế quân sự Hậu cần quân sự); theo nghĩa rộng, đảm bảo quốc phòng, an ninh là chủ quyền quốc gia không bị xâm phạm, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo (môi trường hoà bình, ổn định được đảm bảo), theo đó luận án nghiên cứu đảm bảo quốc phòng, an ninh theo nghĩa rộng. Về không gian: luận án nghiên cứu phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc, trong đó tập trung vào 3 tỉnh: Quảng Ninh, Lạng Sơn và Cao Bằng. Về thời gian: luận án nghiên cứu phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc, tập trung vào 3 tỉnh: Quảng Ninh, Lạng Sơn và Cao Bằng từ năm 2001 đến 2013. 5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận, thực tiễn Luận án được nghiên cứu dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kinh tế quân sự, học thuyết bảo vệ Tổ quốc và các văn kiện của Đảng, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh; những chủ trương, phương hướng phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng biên giới phía Bắc; các chỉ thị, nghị quyết của Bộ Quốc phòng; các báo cáo tổng kết, số liệu thống kê của các cơ quan, sở, ban, ngành ở một số tỉnh biên giới phía Bắc; các công trình liên quan đến đề tài đã được công bố; kết quả điều tra khảo sát
- 6 nghiên cứu thực tế có liên quan đến đề tài là cơ sở lý luận, thực tiễn của luận án. Phương pháp nghiên cứu Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của kinh tế chính trị Mác Lênin; sử dụng phương pháp trừu tượng hoá khoa học, kết hợp các phương pháp lôgíc và lịch sử; phân tích và tổng hợp; thống kê so sánh và phương pháp chuyên gia để làm sáng tỏ nội dung luận án. Phương pháp đó được vận dụng vào các chương cụ thể như sau: Chương 1, Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài. Phương pháp nghiên cứu trong chương này chủ yếu sử dụng phương pháp thống kê, kết hợp với phương pháp phân tích. Cuối chương sử dụng phương pháp trừu tượng hoá khoa học, gạt bỏ những yếu tố ngẫu nhiên xảy ra trong những quá trình và những hiện tượng phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh đã được nghiên cứu, từ đó tách ra những cái điển hình, bền vững, ổn định trong những hiện tượng và quá trình đó, trên cơ sở ấy nắm được bản chất của các hiện tượng, từ bản chất cấp một tiến đến bản chất ở trình độ sâu hơn, hình thành những phạm trù và những quy luật phản ánh những bản chất, để thấy được bản chất của vấn đề mà các công trình khoa học, các đề tài, luận án trước đó đã nghiên cứu. Trên cơ sở đó, tiếp tục nghiên cứu, kế thừa và phát triển để làm cơ sở cho nghiên cứu các chương sau của luận án. Chương 2, Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh. Phương pháp nghiên cứu trong chương này chủ yếu sử dụng phương pháp trừu tượng hoá khoa học để hình thành các khái niệm, phạm trù khoa học đặc trưng cho các mặt khác nhau của các hiện
- 7 tượng quá trình phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc, tiến tới hình thành các qui luật, xác lập sự phụ thuộc và tác động lẫn nhau một cách nhân quả, ổn định của các hiện tượng và quá trình phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh mà đề tài luận án đưa ra. Cùng với phương pháp trừu tượng hoá khoa học là phương pháp phân tích để thấy được những nội dung, những nhân tố ảnh hưởng và kinh nghiệm trong phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh. Chương 3, Thực trạng phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc. Phương pháp nghiên cứu trong chương này kết hợp sử dụng các phương pháp: phân tích và tổng hợp, thống kê so sánh, chuyên gia; sau đó sử dụng phương pháp phân tích và phương pháp trừu tượng hoá khoa học. Trên cơ sở đó hoàn thành chương 4: quan điểm và giải pháp phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc trong thời kỳ mới. Trong suốt quá trình viết luận án, nhất là sự chuyển tiếp, kế thừa nội dung các chương và nội dung toàn luận án cần phải chú ý vận dụng tốt phương pháp logic và lịch sử. 6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án Hệ thống hoá và làm rõ hơn một bước cơ sở khoa học về phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh. Phân tích, đánh giá thực trạng và nhận diện những vấn đề đang đặt ra đối với phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc, đặc biệt là trong tình hình phức tạp hiện nay.
- 8 Đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc thời gian tới. 7. Kết cấu của luận án Luận án gồm: phần mở đầu; 4 chương, 12 tiết; kết luận; danh mục các công trình nghiên cứu của tác giả đã công bố liên quan đến đề tài luận án; danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI Phát triển KT XH gắn với đảm bảo QP, AN không phải là vấn đề riêng của thời đại ngày nay, không chỉ là vấn đề có tính quy luật của cách mạng Việt
- 9 Nam, mà là vấn đề có tính quy luật chung cho mọi XH còn giai cấp và đấu tranh giai cấp, còn mưu đồ thôn tính của dân tộc này đối với dân tộc khác. Đối với Việt Nam, phát triển KT XH gắn với đảm bảo QP, AN là một quy luật khách quan, là sự thiết lập mối quan hệ hữu cơ giữa hai nội dung, hai lực lượng, cái này tạo tiền đề cho phát triển cái kia và ngược lại. Qua mỗi thời kỳ, nhận thức và tổ chức thực hiện nội dung gắn kết đó đều được bổ sung, phát triển. Chính vì vậy, việc khái quát lịch sử vấn đề nghiên cứu và nghiên cứu, tiếp cận nhiều kênh thông tin, đặc biệt là những công trình khoa học đã được công bố liên quan đến đề tài là vấn đề có ý nghĩa to lớn giúp cho luận án có cơ sở khoa học trong kế thừa, phát triển. 1.1. Khái quát lịch sử vấn đề nghiên cứu phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở Việt Nam 1.1.1. Phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh trong thời kỳ Phong kiến Việt Nam là quốc gia có vị trí địa chiến lược quan trọng trong khu vực và trên thế giới, nền KT chậm phát triển, nên trải qua hàng nghìn năm lịch sử, kể từ khi các Vua Hùng dựng nước đến nay, Việt Nam luôn bị nhiều kẻ thù nhòm ngó, tiến công xâm lược. Tình hình đó đã đặt ra cho dân tộc ta phải nhận thức rõ KT và QP là những nhân tố có vai trò rất quan trọng, phải chú trọng phát triển KT và thường xuyên chăm lo đến QP, tạo sức mạnh bền vững bảo vệ vững chắc đất nước. Vì vậy, ngay từ thời kỳ phong kiến, phát triển KT XH gắn với đảm bảo QP, AN đã trở thành kế sách dựng nước và giữ nước của dân tộc. Kế sách “Dựng nước đi đôi với giữ nước” đã trở thành nét văn hoá QS, QP độc đáo và là truyền thống quý báu của dân tộc. Kế sách đó đòi hỏi sự chuẩn bị đất nước đánh giặc ngay từ thời bình; đồng thời, khi chiến tranh xảy ra thực hiện vừa đánh giặc, vừa lao động sản xuất; thắng giặc rồi thì lo xây dựng đất nước, lúc nào
- 10 cũng phải sẵn sàng đối phó với mọi kẻ thù, nhiệm vụ đánh giặc giữ nước gắn với nhiệm vụ xây dựng đất nước. Thực chất, đây là sự nhận thức về tính tất yếu của việc kết hợp KT với QP trên cơ sở nhận thức mối quan hệ chặt chẽ giữa KT với chiến tranh, KT với QP: “Thực túc, bình cường”, “Phú quốc, binh cường”; đất nước giàu mạnh là cơ sở vật chất tạo ra sức mạnh QP đủ sức ngăn ngừa, đẩy lùi, làm thất bại các âm mưu, kế hoạch xâm lược của kẻ thù; QP mạnh tạo ra môi trường hoà bình cho xây dựng, phát triển đất nước. Kế sách “Dựng nước đi đôi với giữ nước” của ông cha ta trong thời kỳ phong kiến được biểu hiện tập trung ở những nội dung sau: Một là, nhiều triều đại phong kiến Việt Nam đã đề ra nhiều kế sách giữ nước sáng tạo, linh hoạt; thể hiện sự gắn kết chặt chẽ KT với QP, tiêu biểu là kế sách “Ngụ binh ư nông” dưới các triều đại phong kiến Lý, Trần và Lê Sơ; “Lấy dân làm gốc”, dân giàu nước mạnh, quốc phú binh cường... “Ngụ binh ư nông” là gửi một bộ phận quân vào nông dân, nông thôn, kết hợp quân với dân cùng xây dựng quân đội, chỉ duy trì một số lượng quân thường trực hợp lý. Kế sách “Ngụ binh ư nông” là sản phẩm của nhận thức coi trọng việc binh với vai trò quan trọng của nông nghiệp nhằm bảo đảm sự cân đối, hợp lý giữa phát triển KT và củng cố QP, giữa xây dựng LLVT thường trực với LLVT dự bị. Khi Bàn về kế sách “Ngụ binh ư nông”, nhà sử học Ngô Thì Sĩ đánh giá: “Chế độ binh lính của nhà Lý… mỗi tháng lên cơ ngũ một lần, gọi là đi canh, hết canh lại về quê làm ruộng, quân không phải cấp lương… không có phí tổn nuôi lính, mà có công hiệu dùng sức lính, cũng là chế độ hay” [63, tr.27]. Nhà sử học Phan Huy Chú cũng đưa ra lời bình: “Đời xưa binh lấy nghề nông là có ý phục việc nguy hiểm vào nơi thuận tiện… Trong thành vua có quân Túc vệ, đội ngũ đông nghiêm. Còn quân ở ngoài thì vẫn theo ý nghĩa đời xưa, lúc vô sự
- 11 thì về làm ruộng, khi có động thì chiếu sổ gọi ra hết. Cho nên binh vẫn đủ mà không phải tiêu phí nhiều, càng thêm hăng hái chống thù. Cái chiến công dẹp quân Chiêm, phá quân Tống, cái oai hùng ba lần đánh bại quân Nguyên cũng đủ cho biết binh lực hai đời cường thịnh là thế nào” [18, tr.8]; “Đời Lý… ngoại binh thì không có lương, cứ luân phiên đến canh, hết phiên canh cho về nhà cày cấy trồng trọt để tự cấp. Nhà Trần theo phép nhà Lý… binh các đạo thì đều chia phiên về làm ruộng cho đỡ tốn lương… Phép nuôi binh đời Lê sơ đại để theo phép ngụ binh ư nông của các đời Lý, Trần, không phải cấp lương bổng. Thời Hồng Đức trở về sau, cứ theo phép đấy không đổi” [18, tr.20]. Như vậy, có thể nói, kế sách “Ngụ binh ư nông” là một cơ chế hoàn hảo về mặt động viên và sử dụng nguồn nhân lực trong việc xây dựng LLVT phòng giữ đất nước, xây dựng tiềm lực QP mạnh trên cơ sở phát triển KT với củng cố lực lượng QS. Nhờ cơ chế này đã tạo ra binh mạnh, lương nhiều trong thời bình và khi thời chiến xảy ra, sẽ tao ra một lực lượng hùng hậu toàn dân là lính, cả nước đánh giặc. Hai là, các triều đại phong kiến luôn quan tâm đến việc xây dựng lực lượng, khuyến khích việc di dân lên các vùng biên giới, hải đảo, thực hiện chính sách giãn dân, khai hoang lập ấp ở các vùng biên ải để khai phá đất hoang, phân bố lại lực lượng, tăng cường lực lượng tại chỗ, vừa làm giàu cho đất nước, vừa phục vụ cho nhiệm vụ giữ nước, tạo ra thế trận đánh giặc từ xa và thực hiện gửi lực lượng, tích trữ lương thực trong dân để chuẩn bị sẵn sàng cho chiến tranh bảo vệ biên cương đất nước, như thực tiễn ông cha ta đã thực hiện đưa quân lính lên khai hoang lập ấp ở vùng biên giới Quảng Yên, Lạng Sơn. Ba là, nhiều triều đại phong kiến như: Tiền Lê, Lý, Trần, Lê Sơ… rất coi trọng mở mang hệ thống giao thông thuỷ, bộ như: kênh nhà Lê ở Thanh Hoá và Nghệ An; kênh Vĩnh Tế ở Tây Nam Bộ… với mục đích vừa
- 12 phục vụ nhu cầu giao lưu phát triển KT, vừa đảm bảo QP, QS như: cơ động lực lượng, phương tiện QS, vận tải tiếp tế, thông tin liên lạc khi chiến tranh xảy ra. Bốn là, để chuẩn bị cho công cuộc giữ nước từ thời bình, các triều đại phong kiến thường xuyên quan tâm đến phát triển nhiều ngành KT có tính lưỡng dụng, tiêu biểu là các ngành thủ công nghiệp trong nước, nhất là các ngành nghề có liên quan đến QP để vừa đáp ứng nhu cầu dân sinh, vừa đảm bảo nhu cầu QP của đất nước. Trên thực tế, từ thế kỷ XI, ở nước ta (Đại Việt) đã hình thành và phát triển các xưởng thủ công của triều đình vừa sản xuất các sản phẩm mang tính chất KT như sản xuất các sản phẩm dân sinh dùng trong hoàng gia, cung đình, vừa sản xuất sản phẩm trực tiếp đảm bảo cho các nhu cầu QS như: đảm bảo nhu cầu xây dựng LLVT, quân đội, thuyền chiến, vũ khí… Thời Lý đã sản xuất được thuyền lớn đảm bảo cho thuỷ quân tác chiến trên sông lớn và biển gần; vũ khí hạng nặng như máy bắn đá… Thời Trần đã sản xuất được “Thần cơ song pháo” là một loại hoả pháo có uy lực mạnh. Thời Lê đã sản xuất ra các loại thuyền chiến, vũ khí rất phong phú và có tác dụng chiến đấu rất cao… Các lò thủ công gia đình cũng được quan tâm phát triển, thời bình tập trung sản xuất các sản phẩm dân sinh đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của nhân dân địa phương; thời chiến sẵn sàng chuyển sang sản xuất các sản phẩm đảm bảo nhu cầu QS như: khai mỏ, đúc đồng, rèn sắt, đóng thuyền, sản xuất vũ khí… Đây là các cơ sở sản xuất cung cấp chủ yếu các loại vũ khí cho các lực lượng dân binh, thổ binh và còn đảm bảo cung ứng, sửa chữa vũ khí cho cả quân triều đình khi chiến tranh xảy ra. Những nội dung trên cho thấy, các triều đại phong kiến nước ta đã quan tâm phát triển nhiều ngành KT có tính lưỡng dụng, vừa đáp
- 13 ứng nhu cầu dân sinh, vừa đáp ứng nhu cầu tăng cường khả năng đảm bảo QP, AN của đất nước. 1.1.2. Phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo 1.1.2.1. Trong thời kỳ Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược Ngay từ khi thành lập và trong suốt quá trình lãnh đạo cách cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin về mối quan hệ KT với chiến tranh, KT với QP, kế thừa truyền thống, kinh nghiệm kết hợp KT với QP trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, sự nhận thức về phát triển KT với đảm bảo QP ở Việt Nam luôn có những phát triển mới. Ngay sau khi cách mạng Tháng Tám thành công, “Chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương về kháng chiến kiến quốc” (25/11/1945), xác định nhiệm vụ cần kíp của cách mạng lúc này là “Phải củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bại trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân” [26, tr.2627]. Qua Chỉ thị cho thấy Đảng đã nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa kháng chiến và kiến quốc. Thực chất, đó là sự nhận thức sâu sắc và vận dụng sáng tạo phát triển KT với đảm bảo QP của Đảng, Nhà nước trong điều kiện kháng chiến. Vấn đề đảm bảo QP với phát triển KT thông qua hoạt động của quân đội trong thời gian chuẩn bị cho kháng chiến cũng được Đảng nhận thức sâu sắc. Nghị quyết Hội nghị QS toàn quốc của Đảng (19/10/1946), đã xác định nhiệm vụ lao động sản xuất của quân đội: “Những nơi bộ đội đóng, lấy đại đội hay trung đội độc lập làm đơn vị, bắt buộc phải tham gia sản xuất, trồng rau, chăn nuôi” [26, tr.128129]. Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược bùng nổ ra phạm vi cả nước, Đảng ra Chỉ thị “Toàn
- 14 quốc kháng chiến” (22/12/1946). Chỉ thị xác định: Toàn dân kháng chiến, kháng chiến khắp nơi; mỗi phố là một mặt trận, mỗi làng là một pháo đài; mỗi viên đạn diệt một quân thù; cướp súng giặc để bắn giặc… tăng gia sản xuất để kháng chiến; giữ gạo muối nuôi quân; vừa kháng chiến, vừa kiến quốc… “Chỉ thị toàn quốc kháng chiến” là sự phát triển nhận thức của Đảng về phát triển KT với đảm bảo QP. Để tiếp tục thực hiện chủ trương trên, Nghị quyết Hội nghị cán bộ Trung ương của Đảng (từ ngày 3 đến 6/4/1947) đã xác định: “Tổ chức căn cứ địa không những ở vùng rừng núi mà ở cả đồng bằng”; “Áp dụng chiến thuật tiêu thổ kháng chiến một cách rộng rãi”; “Phá KT địch bằng cách tẩy chay và QS phá hoại”; “Tích cực xây dựng kinh tế của ta, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, và lập nền kinh tế tự túc”; “Thực hành việc bộ đội tăng gia sản xuất” [26, tr.180181, 185]. Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ III (15/6/1947), tiếp tục khẳng định vị trí, tầm quan trọng của nhiệm vụ tăng gia sản xuất của quân đội: “Các chính trị viên cần làm cho bộ đội hiểu rằng tăng gia sản xuất là một nhiệm vụ quan trọng” [25, tr.172]; mặc dù trong thời kỳ này, thực hiện chức năng, nhiệm vụ chiến đấu là chủ yếu, nhưng quân đội đã quán triệt và nhận thức sâu sắc nhiệm vụ sản xuất. Tiếp tục chủ trương vừa kháng chiến vừa kiến quốc, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá II (tháng 3 năm 1951) xác định: Muốn kháng chiến trường kỳ, phải luôn luôn bồi dưỡng lực lượng KT, tài chính, phải coi nhiệm vụ KT, tài chính là một nhiệm vụ rất quan trọng. Đây chính là những phát triển mới trong nhận thức phù hợp với thực tiễn của Đảng ta về mối quan hệ giữa KT với chiến tranh và QP; đồng thời, thể hiện sự nhất quán trong thực hiện chủ trương kết hợp KT với QP ở nước ta trong giai đoạn này.
- 15 Kể từ khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược thắng lợi, nhân dân ta thực hiện công cuộc khôi phục KT đất nước sau gần 2 năm, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá II đã họp Hội nghị lần thứ 12 (mở rộng), ra Nghị quyết về kế hoạch nhà nước năm 1957. Nghị quyết xác định: “Trong khi thực hiện nhiệm vụ kinh tế, các ngành công tác còn phải kết hợp chặt chẽ với nhiệm vụ củng cố các khu vực tự trị, nhiệm vụ củng cố quốc phòng, nhiệm vụ đấu tranh chính trị để thực hiện thống nhất nước nhà” [27, tr.262]. Qua đó cho thấy, Đảng, Nhà nước có nhận thức đúng đắn về nhiệm vụ khôi phục, phát triển KT gắn với đảm bảo QP trong thời kỳ mới. Trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, có thể thấy rằng, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960), thể hiện sự nhận thức hoàn chỉnh của Đảng về đường lối, chủ trương kết hợp KT với QP xuyên suốt thời kỳ này. Nghị quyết Đại hội xác định, cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại có hai nhiệm vụ chiến lược: “ Một là, tiến hành cách mạng XHCN ở Miền Bắc. Hai là, giải phóng Miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn toàn độc lập và dân chủ trong cả nước” [28, tr.916]. Như vậy, đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước về kết hợp xây dựng KT với củng cố QP trong thời kỳ chống đế quốc Mỹ xâm lược là thắng lợi của việc Đảng đã tiếp tục phát triển đường lối “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc” trong kháng chiến chống thực dân Pháp thành đường lối kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng, phát triển KT với tăng cường, củng cố QP, tạo nên một hậu phương vững chắc, rộng lớn khắp cả nước để tiến hành chiến tranh giải phóng thắng lợi. 1.1.2.2. Thời kỳ cả nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội đến khi tiến hành công cuộc đổi mới
- 16 Sau đại thắng mùa xuân 1975, nước nhà được độc lập, thống nhất, cả nước đi lên xây dựng CNXH, với kinh nghiệm thực tiễn 30 năm chiến tranh giải phóng, Đại hội lần thứ IV của Đảng khẳng định, vấn đề kết hợp KT với QP là một trong những nội dung cơ bản và quan trọng của đường lối xây dựng nền KT XHCN trên phạm vi cả nước. Đại hội chỉ rõ: “Phải kết hợp đúng đắn kinh tế với quốc phòng. Xây dựng đất nước phải đi đôi với bảo vệ đất nước đó là yêu cầu sống còn của dân tộc ta” [29, tr.58]. Đường lối đó chỉ ra, xây dựng nền KT đất nước trong thời bình, phải đồng thời đáp ứng cùng một lúc các nhu cầu: cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân; đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá XHCN; mở rộng quan hệ KT với các nước, đảm bảo QP, AN thường xuyên vững chắc. Theo đó, vấn đề kết hợp QP với KT trong hoạt động của quân đội tiếp tục có sự phát triển trong nhận thức của Đảng, Nhà nước. Ngày 17 tháng 3 năm 1976, Bộ Chính trị khoá IV đã ra Nghị quyết số 250 NQ/TW “Về vấn đề quân đội làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế”. Nghị quyết đã xác định mục đích, nhiệm vụ KT và phương hướng nhiệm vụ căn bản trong xây dựng KT của quân đội. Đây là mốc đánh dấu sự chuyển biến kịp thời trong nhận thức của Đảng về kết hợp QP với KT trong điều kiện mới, đất nước thống nhất, cả nước đi lên CNXH. Tuy nhiên, khi mọi việc mới bắt đầu được vạch ra với mục tiêu phục vụ nền KT đất nước sau chiến tranh, thì chúng ta phải đương đầu với những khó khăn, phức tạp mới; trong đó nổi lên là hai cuộc chiến tranh xâm lược biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc của các thế lực thù địch. Trước tình hình đó, Đại hội V của Đảng tiếp tục có nhận thức sâu sắc về kết hợp KT với QP: “Kết hợp chặt chẽ KT v ới QP, QP v ới KT, t ừng b ước
- 17 phát triển kinh tế quốc phòng đi đôi với tăng cường tiềm lực KT của đất nước”. Những năm đầu của thập kỷ 80, thế kỷ XX, đất nước vừa có hoà bình, vừa xảy ra chiến tranh, nhiệm vụ đẩy mạnh sản xuất, ổn định và bảo đảm đời sống của nhân dân trở nên cấp bách. Để phát huy vai trò của quân đội, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết bổ sung về nhiệm vụ quân đội làm KT trong 5 năm (1981 1985). Theo đó, quân đội tập trung vào thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, công nghiệp, xây dựng cơ bản, hàng không dân dụng, hợp tác KT với Lào, Campuchia... đảm bảo kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ QS với nhiệm vụ xây dựng KT; ưu tiên lựa chọn các công việc có tính cấp bách, các công trình có giá trị KT lớn và có quan hệ chặt chẽ giữa KT với QP, tính toán kỹ và quản lý chặt chẽ, từng bước nâng cao hiệu quả KT, chống tham ô, lãng phí. Mặc dù từ đầu thập kỷ 80 đến cuối năm 1986, tình hình KT XH Việt Nam gặp nhiều khó khăn, tình trạng lạm phát gia tăng, Đảng, Nhà nước vẫn kiên trì đường lối xây dựng KT kết hợp với củng cố QP, phát huy tốt nhất những kết quả xây dựng KT đảm bảo cho QP. Theo đó, việc kết hợp KT với QP trong các hoạt động của quân đội tiếp tục được duy trì, có những bước phát triển mới. 1.1.2.3. Thời kỳ đổi mới, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế Kế thừa và phát triển chủ trương chiến lược kết hợp KT với QP trong thời kỳ mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã chỉ ra phương hướng cơ bản và những nội dung lớn, nhằm nâng cao hiệu quả của việc kết hợp KT với QP, QP với KT theo phương hướng cơ bản, lâu dài; đồng thời, có
- 18 dự kiến để kịp thời điều chỉnh cho phù hợp khi xảy ra biến động đảm bảo chiến thắng. Trên cơ sở đó, Đại hội chỉ ra những nội dung cụ thể của việc kết hợp: “Kết hợp trong công tác quy hoạch phân vùng kinh tế, phân bố lại lao động, phân bố lực lượng sản xuất; xây dựng các ngành kinh tế kỹ thuật, phát triển kinh tế địa phương phải nhằm tạo ra thế bố trí chiến lược thống nhất để làm chủ cả về kinh tế và quốc phòng trong cả nước và trong từng địa phương” [30, tr.67]. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, việc phát triển KT gắn với xây dựng nền QP càng được chú trọng hơn trong tình hình mới. Đại hội xác định: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế trong quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế của cả nước và trên từng địa phương” [31, tr.85]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, diễn ra trong bối cảnh chúng ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, Đại hội xác định, kết hợp KT với QP gắn liền với phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, từng bước tăng cường tiềm lực QP và AN của đất nước. Đại hội chỉ rõ: “Kết hợp chặt chẽ KT với QP trong việc quy hoạch và phát triển các vùng kinh tế, các ngành công nghiệp, lấy hiệu quả kinh tế gắn với yêu cầu bảo đảm QP AN làm cơ sở cho những chủ trương cụ thể” [32, tr.184]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tiếp tục phát triển đường lối, chủ trương kết hợp KT với QP của Đại hội VIII và cụ thể hoá trong những năm đầu của thế kỷ XXI, Đại hội xác định: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng và an ninh, quốc phòng và an ninh với kinh tế trong các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội” [33, tr.40]. Theo đó, Nghị quyết số 71/ĐUQSTW ngày 25/4/2002 của Đảng uỷ
- 19 QS Trung ương về: “Nhiệm vụ sản xuất xây dựng KT của quân đội trong thời kỳ mới, tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp quân đội”. Nghị quyết số 21, 37, 39, 53 của Bộ Chính trị (Khoá IX) về phát triển KT XH và đảm bảo QP, AN của 4 vùng (đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam bộ và vùng KT trọng điểm phía Nam, Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung, trung du và miền núi phía Bắc) và Nghị quyết 54 NQ/TW ngày 14/9/2005 về phát triển KT XH và đảm bảo QP, AN vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Những định hướng cơ bản đó đảm bảo về chính trị và cơ sở khoa học cho giải quyết quan hệ phát triển KT gắn với QP AN trong từng khu vực. Thực tiễn nêu trên đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục chỉ rõ: “Tiếp tục phát triển các khu KT QP, xây dựng các khu QP KT với mục tiêu tăng cường QP, AN là chủ yếu, tập trung vào các địa bàn chiến lược và những khu vực nhạy cảm trên biên giới đất liền, biển đảo” [43, tr.110]. Đại hội cũng chỉ ra: “Xây dựng CNQP trong hệ thống công nghiệp quốc gia dưới sự chỉ đạo, quản lý điều hành trực tiếp của Chính phủ, đầu tư có chọn lọc theo hướng hiện đại, vừa phục vụ QP vừa phục vụ dân sinh” [34, tr.110]. Kết hợp KT với QP, AN vừa là chủ trương, đường lối, quan điểm, vừa là giải pháp để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Qua mỗi thời kỳ, nhận thức và tổ chức thực hiện nội dung kết hợp đó đều được bổ sung, phát triển phù hợp với yêu cầu mới. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã chỉ ra những vấn đề cơ bản cần nắm vững về kết hợp KT với QP, AN trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Đây là chủ trương chiến lược hết sức quan trọng, được thể hiện nhất quán và xuyên suốt trong các văn kiện Đại hội XI của
- 20 Đảng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Kết hợp chặt chẽ KT với QP AN, QP AN với KT trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển KT XH và trên từng địa bàn” [35, tr.82]. Tiếp đó, chiến lược phát triển KT XH 10 năm (2011 2020) chỉ rõ: “Gắn kết QP với AN. Kết hợp chặt chẽ QP, AN với phát triển KT XH trên từng địa bàn lãnh thổ, trong công tác quy hoạch, kế hoạch và các chương trình, dự án” [35, tr.138]. Trong báo cáo chính trị Đảng tiếp tục xác định: “Kết hợp chặt chẽ KT với QP, AN; QP, AN với KT trong từng chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển KT XH; chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo” [35, tr.234]. Qua đó, thể hiện tính nhất quán, xuyên suốt thực hiện chủ trương kết hợp phát triển KT XH gắn với đảm bảo QP, AN trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng và trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc XHCN thời kỳ mới, Đảng, Nhà nước ta luôn coi đó vừa là đường lối, quan điểm, vừa là giải pháp chiến lược; mỗi bước đổi mới, phát triển KT XH luôn gắn với đảm bảo QP, AN, góp phần đảm bảo thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. 1.2. Những công trình khoa học nghiên cứu có liên quan đến phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh 1.2.1. Những công trình khoa học nghiên cứu liên quan đến phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số quốc gia trên thế giới Jayawardena , trong công trình nghiên cứu “ Một kết cấu khái niệm nghiên cứu quốc phòng và phát triển kinh tế quốc gia”, [84] đã làm rõ: thứ nhất, quan niệm hiện nay và cấu trúc lý luận của QP; thứ hai, xác định các đặc điểm bối cảnh QP của Sri Lanka và thứ ba, phát triển cấu trúc khái
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận án tiến sĩ: Phát triển du lịch sinh thái ở các tỉnh vùng Duyên hải cực Nam Trung Bộ đến năm 2020
161 p | 326 | 92
-
Luận án Tiến sĩ: Phát triển đội ngũ giáo viên trung học phổ thông thành phố Đà Nẵng trong bối cảnh hiện nay
239 p | 171 | 33
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Dịch vụ phát triển kinh doanh cho doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam - NCS. Đặc Xuân Phong
0 p | 268 | 28
-
Luận án Tiến sĩ: Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù tỉnh Phú Yên
219 p | 60 | 25
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Quản trị kinh doanh: Nghiên cứu phát triển thương mại điện tử trong các doanh nghiệp dịch vụ vùng kinh tế trọng điểm miền Trung
54 p | 159 | 17
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Dịch vụ phát triển kinh doanh cho doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam
0 p | 109 | 14
-
Luận án Tiến sĩ Phát triển nông thôn: Nghiên cứu tái cơ cấu ngành nông nghiệp tại tỉnh Bến Tre - Thực tiễn và bài học kinh nghiệm
206 p | 34 | 12
-
Luận án Tiến sĩ: Phát triển sản xuất chè nguyên liệu bền vững trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
212 p | 95 | 11
-
Luận án Tiến sĩ Phát triển nông thôn: Nghiên cứu chiến lược sinh kế của nông hộ miền núi tỉnh Thừa Thiên Huế
165 p | 58 | 11
-
Bản thông tin tóm tắt về những kết luận mới của luận án tiến sĩ: Phát triển dịch vụ phi tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
1 p | 110 | 9
-
Luận án Tiến sĩ Phát triển nông thôn: Nghiên cứu tái cơ cấu nông nghiệp tại tỉnh Bến Tre - Thực tiễn và bài học kinh nghiệm
206 p | 33 | 9
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ: Phát triển chiến lược Marketing của các chuỗi siêu thị bán lẻ Việt Nam trên địa bàn thành phố Hà Nội
26 p | 74 | 7
-
Luận án Tiến sĩ: Phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam
198 p | 32 | 6
-
Luận án Tiến sĩ: Phát triển năng lực đọc hiểu văn bản thơ trữ trình cho học sinh THPT qua hệ thống bài tập
227 p | 92 | 6
-
Luận án Tiến sĩ: Phát triển đội ngũ giảng viên chuyên ngành ở các trường đại học Sân khấu - Điện ảnh trong bối cảnh hiện nay
232 p | 12 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Phát triển nông thôn: Nghiên cứu tái cơ cấu ngành nông nghiệp tại tỉnh Bến Tre - Thực tiễn và bài học kinh nghiệm
35 p | 27 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ: Phát triển nuôi trồng thủy sản theo tiêu chuẩn VietGAP vùng ven biển tỉnh Nam Định
27 p | 78 | 2
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ: Phát triển đội ngũ giảng viên chuyên ngành ở các trường đại học Sân khấu - Điện ảnh trong bối cảnh hiện nay
24 p | 6 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn