intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Triết học: Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: Nguyễn Minh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:182

326
lượt xem
120
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án Tiến sĩ Triết học: Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam hiện nay nhằm xác định một quan niệm có tính hệ thống về chất lượng lao động của trí thức giáo dục đại học để xây dựng luận cứ khoa học đánh giá thực trạng vấn đề này ở Việt Nam, qua đó đề ra những giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao chất lượng hoạt động nghề nghiệp của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam trong những thập kỷ đầu thế kỷ XXI.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Triết học: Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam hiện nay

  1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THỊ LAN chÊt l­îng lao ®éng cña ®éi ngò trÝ thøc gi¸o dôc ®¹i häc ViÖT NAM hiÖn nay Chuyên ngành : Chủ nghĩa xã hội khoa học Mã số : 62 22 85 01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC Ng­êi h­íng dÉn khoa häc: GS.TS hoµng chÝ b¶o HÀ NỘI - 2014
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, tư liệu được sử dụng trong luận án là trung thực, có nguồn gốc và xuất xứ rõ ràng. Tác giả luận án Trần Thị Lan
  3. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 6 1.1. Những công trình nghiên cứu ở trong nước liên quan đến luận án 6 1.2. Những công trình nghiên cứu ở nước ngoài liên quan đến luận án 17 1.3. Những giá trị, hạn chế của các công trình nghiên cứu liên quan đến luận án và những vấn đề luận án tiếp tục làm sáng tỏ 20 Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG CỦA TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC 23 2.1. Quan niệm về trí thức, trí thức giáo dục đại học và lao động của trí thức giáo dục đại học 23 2.2. Tính đặc thù của lao động trí thức giáo dục đại học Việt Nam trong bối cảnh hiện nay 35 2.3. Quan niệm về chất lượng lao động và chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học 48 2.4. Tính tất yếu nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam trong bối cảnh hiện nay 59 Chương 3: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA 69 3.1. Thực trạng chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam hiện nay 69 3.2. Một số vấn đề đặt ra đối với chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam hiện nay 94 Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM HIỆN NAY 114 4.1. Quan điểm cơ bản về nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam hiện nay 114 4.2. Những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam hiện nay 125 KẾT LUẬN 148 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ 149 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 151 PHỤ LỤC
  4. DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN CBGD : Cán bộ giảng dạy CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ĐH : Đại học GDĐH : Giáo dục đại học GS : Giáo sư NCKH : Nghiên cứu khoa học Nxb : Nhà xuất bản PGS : Phó giáo sư TB : Trung bình Ths : Thạc sĩ TS : Tiến sĩ
  5. DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN ÁN Trang Bảng 3.1: Đánh giá của sinh viên về chất lượng một số hoạt động kiêm nhiệm của đội ngũ trí thức GDĐH 80 Bảng 3.2: Mức độ hài lòng của trí thức GDĐH đối với kết quả lao động của bản thân 85 Bảng 3.3: Mức độ hài lòng của sinh viên về một số lĩnh vực hoạt động của đội ngũ trí thức GDĐH 86 Bảng 3.4: Các kỹ năng và phẩm chất cá nhân, phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực sinh viên đạt được trong thời gian học tập tại trường đại học 89 DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ TRONG LUẬN ÁN Trang Biểu đồ 3.1: Cơ cấu trình độ của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam năm 2012 - 2013 71 Biểu đồ 3.2: Cơ cấu chức danh phân theo ngành của trí thức giáo dục đại học Việt Nam ở một số trường đại học tiêu biểu năm 2010 - 2011 101 Biểu đồ 3.3: Cơ cấu chức danh GS, PGS theo vùng, miền của trí thức giáo dục đại học Việt Nam ở một số trường đại học tiêu biểu năm 2010 - 2011 102
  6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bước vào thế kỷ XXI, sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế tri thức và cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đã không những xác định vị trí của con người ở hàng đầu trong lực lượng sản xuất mà còn định hình ngày càng rõ hơn vai trò đặc biệt quan trọng của nguồn lực trí tuệ đối với việc phát triển nội lực của mỗi quốc gia, dân tộc. Việt Nam đang ở thời kỳ bước ngoặt của phát triển với việc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bối cảnh của thế giới và thời đại đang mở ra những triển vọng, điều kiện thuận lợi cho Việt Nam đồng thời cũng đặt nước ta trước nhiều nguy cơ, thách thức nghiệt ngã trên tiến trình hội nhập, trong đó, sự lạc hậu, tụt hậu về trí tuệ là điều đáng sợ nhất. Với tư cách là cái nôi đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, GDĐH Việt Nam có trọng trách to lớn trong quá trình tạo lập, phát triển tiềm lực trí tuệ cho dân tộc. Điều này lý giải tại sao giờ đây, khắc phục điểm nghẽn về nguồn nhân lực trình độ cao thông qua việc cải biến chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH được đặt ra như một giải pháp chiến lược cho sự phát triển, chấn hưng dân tộc mà Việt Nam phải hết sức quan tâm. Đó là kết quả trực tiếp của sự gia tăng nguồn lực trí tuệ được Việt Nam cũng như các quốc gia đặc biệt chú trọng trước tính cạnh tranh trong nền kinh tế dựa trên sức mạnh của tri thức, khoa học và công nghệ. Vấn đề hệ trọng này còn được cắt nghĩa từ chính những yếu kém kéo dài, chậm được khắc phục trong chất lượng đào tạo nguồn nhân lực của GDĐH ở nước ta. Càng đi sâu vào hội nhập, chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ở Việt Nam càng bị chi phối bởi qui luật cạnh tranh và những tác động tiêu cực từ mặt trái của cơ chế thị trường. Đáng lo ngại là tình trạng bất cập về trình độ, năng lực và những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, lao động hình thức, thiếu tận tâm, tận lực của không ít trí thức nhà giáo trước trọng trách vinh quang của sự nghiệp “trồng người”. Đặc biệt là những thách thức
  7. 2 được đặt ra từ chất lượng nguồn nhân lực được đào tạo đại học chưa đáp ứng tốt yêu cầu thị trường lao động trong nước và quốc tế. Điều đó xa lạ với bản chất lao động khoa học sư phạm sáng tạo và phẩm chất cao qúi của nhà giáo, nếu không kịp thời khắc phục chắc chắn sẽ để lại “di chứng” cho nguồn lực con người không chỉ hiện hữu ở thực tại mà còn trong tương lai. Để vượt qua lực cản và thách thức này cần đến những giải pháp đồng bộ, nhất là những giải pháp mang tính đột phá nhằm cải biến hiện trạng đã nêu. Chính yêu cầu tìm kiếm chìa khoá cho sự phát triển nguồn nhân lực đã đưa vấn đề chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH trở thành mối quan tâm thường trực, hàng đầu của các chủ thể lãnh đạo, quản lý cũng như toàn xã hội trong quá trình thực hiện cuộc cách mạng về giáo dục. Mặt khác, đó cũng là điều kiện đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển bền vững của cơ sở đào tạo đại học Việt Nam trong bối cảnh cạnh tranh, hội nhập quốc tế, trước những kỳ vọng của xã hội vào sự cách tân từ các chủ thể giáo dục, từ chương trình, phương pháp giáo dục đại học mà mục đích cao nhất là cải biến chất lượng nguồn nhân lực được đào tạo. Đây là đòi hỏi bức xúc của xã hội, là công việc khó khăn, phức tạp, tốn kém nhiều công sức, thời gian, tâm lực, trí lực và tiền bạc. Trên một bình diện cao hơn, thuộc về trách nhiệm, lương tâm xã hội, quan tâm đến chất lượng lao động của trí thức GDĐH là chăm lo cho sự nghiệp đào tạo nguồn lực trí tuệ của dân tộc. Để đảm bảo độ tin cậy cho chiến lược phát triển, bền vững của quốc gia cần thiết phải tìm ra khâu đột phá từ tiềm lực của con người trên cái giá đỡ vật chất của sự phát triển kinh tế. Cơ sở để tạo nên nguồn lực trí tuệ không thể nằm ngoài GDĐH mà mấu chốt là ở chất lượng lao động của đội ngũ trí thức nhà giáo. Chỉ với cái nhìn biện chứng như vậy mới thấy hết tầm quan trọng và tính bức thiết vì sao phải đổi mới GDĐH, bắt đầu từ những cải biến trong chất lượng lao động của đội ngũ cán bộ quản lý cũng như các thế hệ giảng viên đại học. Luận giải, khảo sát vấn đề này để tìm giải pháp phát triển không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn góp phần thực hiện chủ trương kiểm định chất lượng các
  8. 3 trường đại học theo hệ tiêu chuẩn của Bộ Giáo dục và Đào tạo nhằm “đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục” theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI của Đảng. Xuất phát từ những lý do nêu trên, tác giả chọn vấn đề “Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án Xác định một quan niệm có tính hệ thống về chất lượng lao động của trí thức GDĐH để xây dựng luận cứ khoa học đánh giá thực trạng vấn đề này ở Việt Nam, qua đó đề ra những giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao chất lượng hoạt động nghề nghiệp của đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam trong những thập kỷ đầu thế kỷ XXI. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án Để đạt được mục đích nêu trên, ngoài việc tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến vấn đề trí thức, trí thức GDĐH, luận án tập trung giải quyết những nhiệm vụ cơ bản sau: - Làm rõ cơ sở lý luận về chất lượng lao động của trí thức GDĐH Việt Nam từ quan niệm chung đến việc chỉ ra những đặc điểm lao động, tiêu chí đánh giá và tính tất yếu nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH ở nước ta hiện nay. - Đánh giá thực trạng chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam và những vấn đề đặt ra. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế tri thức và đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án nghiên cứu về chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH ở Việt Nam trong điều kiện của đổi mới, của đẩy mạnh CNH, HĐH
  9. 4 đất nước, với tác động của xu thế hội nhập quốc tế và sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế tri thức. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH có nội dung rất rộng. Tuy nhiên, luận án chỉ giới hạn nghiên cứu trên ba phương diện chủ yếu: giảng dạy; NCKH; quản lý giáo dục của đội ngũ trí thức GDĐH ở các trường Đại học công lập của Việt Nam. - Về thời gian, luận án khảo sát thực trạng chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam giai đoạn 2000 - 2013 và xây dựng giải pháp nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ đó cho những năm tới. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Cơ sở lý luận Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về trí thức, trí thức giáo dục, trí thức GDĐH; về vấn đề lao động và động lực lao động nói chung. Luận án còn kế thừa hợp lý những kết quả nghiên cứu có liên quan đến luận án của các tác giả trong và ngoài nước. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử đồng thời chú trọng sử dụng phương pháp logic - lịch sử cùng các phương pháp có tính liên ngành như phân tích, tổng hợp, điều tra xã hội học, so sánh, khái quát hoá. 5. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án - Luận án nghiên cứu một cách hệ thống vấn đề chất lượng lao động của trí thức GDĐH dưới góc độ triết học - chính trị - xã hội - giáo dục. - Luận án xây dựng tiêu chí đánh giá đối với chất lượng lao động của trí thức GDĐH trong hoạt động nghề nghiệp. - Luận án đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam trong điều kiện của đổi mới,
  10. 5 của đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, trước tác động của xu thế hội nhập, toàn cầu hóa và phát triển kinh tế tri thức. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án - Luận án góp phần phát triển hướng nghiên cứu mới về lý luận và thực tiễn đối với vấn đề chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam từ sự kết hợp cách tiếp cận triết học - chính trị - xã hội và giáo dục. - Luận án góp phần củng cố vững chắc luận cứ khoa học làm cơ sở cho việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác trí thức GDĐH trong điều kiện mới. - Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy những chuyên đề liên quan đến trí thức, trí thức GDĐH. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án gồm 4 chương, 11 tiết.
  11. 6 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN Trước xu thế hội nhập, toàn cầu hoá và những tác động sâu sắc của kinh tế tri thức, vai trò của GDĐH trong xã hội ngày càng được nâng cao, mối quan tâm đến chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH vì thế cũng trở nên có sức hút mạnh mẽ đối với nhiều chủ thể. Liên quan đến vấn đề chất lượng lao động của trí thức GDĐH ở những khía cạnh và góc độ tiếp cận khác nhau, có nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước. 1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở TRONG NƯỚC CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1.1.1. Những công trình nghiên cứu tiêu biểu bàn luận trực tiếp đến trí thức Một là, những công trình nghiên cứu tiêu biểu đã được in thành sách: - GS, TS Phạm Tất Dong (chủ biên): “Định hướng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [42]. Công trình đã có những luận giải xác đáng về vai trò của trí thức trong phát triển lực lượng sản xuất, trong sáng tạo văn hóa, phát huy bản sắc dân tộc, trong lãnh đạo, quản lý và điều hành sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Với thái độ tôn trọng trí thức, GS, TS Phạm Tất Dong khẳng định, trong nền kinh tế thị trường, “sản phẩm lao động của trí thức là một loại hàng hóa đặc biệt, nó có thể mất đi hoặc bị chiếm đoạt mà không ai biết, song nó cũng có thể được lưu thông và trả giá xứng đáng như bao thứ hàng quý hiếm khác” [42, tr.330]. Đây chính là khởi nguồn cho sự đổi mới tư duy khi xem tiền lương và các loại phụ cấp của trí thức như những chính sách đầu tư có lợi nhất để mua lại “chất xám” - một loại sản phẩm đặc biệt trong nền kinh tế thị trường. - TS Nguyễn Đắc Hưng: “Trí thức Việt Nam trước yêu cầu phát triển đất nước” [72] và “Trí thức Việt Nam tiến cùng thời đại” [73]. Hai cuốn sách làm rõ quan niệm về trí thức; vị trí, vai trò của trí thức; những phương hướng chủ yếu để xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức ở nước ta đáp ứng
  12. 7 yêu cầu của thời đại. Trên cơ sở khẳng định nội hàm rất rộng của khái niệm trí thức, tác giả đã chỉ rõ: trí thức là những người không chỉ có trình độ học vấn cao mà điều quan trọng nhất là họ thực sự lao động bằng trí tuệ có tính sáng tạo, có những cống hiến nhất định hữu ích cho xã hội và phải được xã hội kiểm định chất lượng thông qua hoạt động thực tiễn [72, tr.16-17]. Đây là sự đổi mới tư duy về trí thức, từ chỗ coi trọng trình độ chuyên môn được đào tạo đến chỗ thừa nhận và đòi hỏi năng lực lao động thực tế thông qua sự kiểm định khách quan của xã hội. - PGS, TS Nguyễn An Ninh: “Phát huy tiềm năng của trí thức khoa học xã hội và nhân văn trong công cuộc đổi mới đất nước” [109]. Từ những kiến giải về tiềm năng của trí thức khoa học xã hội và nhân văn trong giai đoạn hiện nay, tác giả đã đề xuất những giải pháp thiết thực nhằm phát huy tiềm năng của đội ngũ này góp phần đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. - GS, TS Nguyễn Văn Khánh - chủ biên của hai công trình: “Xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam phục vụ sự nghiệp chấn hưng đất nước” [74]; “Nguồn lực trí tuệ Việt Nam - Lịch sử, hiện trạng và triển vọng” [75]. Giá trị của hai công trình nghiên cứu thể hiện tập trung ở những luận chứng khoa học về vấn đề trí thức, nguồn lực trí tuệ với cách tiếp cận liên ngành. Đội ngũ trí thức được tác giả quan niệm là tầng lớp tinh hoa của nguồn lực trí tuệ Việt Nam. Trên cơ sở khảo sát, đánh giá chất lượng của nguồn nhân lực này, tác giả đã đưa ra hệ thống giải pháp có ý nghĩa thiết thực đối với việc xây dựng và phát huy vai trò của nguồn lực trí tuệ đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của sự nghiệp chấn hưng đất nước. - PGS, TS Nguyễn Khánh Bật, Th.s Trần Thị Huyền (đồng chủ biên), “Xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH theo tư tưởng Hồ Chí Minh” [18]. Đây là công trình nghiên cứu mang tính chuyên sâu về trí thức dưới góc độ tư tưởng Hồ Chí Minh. Tác giả đã khái quát những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức, làm rõ sự vận dụng sáng tạo của Đảng và Nhà nước ta trong công tác xây dựng trí thức đồng thời đánh giá
  13. 8 những đóng góp, hạn chế của đội ngũ này trong cách mạng Việt Nam, trên có sở đó, đi sâu phân tích những giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức ở nước ta thời kỳ 2011- 2020 đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Hai là, các đề tài khoa học nghiên cứu về trí thức: - GS, TS Phạm Tất Dong với Đề tài khoa học cấp nhà nước, mã số KX 04 - 06: "Luận cứ khoa học cho các chính sách nhằm phát huy năng lực sáng tạo của giới trí thức và sinh viên” [40] đã chú trọng phân tích làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và pháp lý của việc hoạch định chính sách, giải pháp hướng vào việc khơi dậy, khai thác, sử dụng năng lực sáng tạo của giới trí thức và sinh viên trong hoạt động giáo dục và đào tạo. - PGS, TS Đàm Đức Vượng, PGS, TS Nguyễn Viết Thông: “Xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam giai đoạn 2011- 2020” [161]. Đây là công trình nghiên cứu công phu và có hệ thống về trí thức. Trên cơ sở đánh giá tổng thể về thực trạng đội ngũ trí thức Việt Nam, đề tài đi sâu phân tích, kiến nghị những giải pháp nhằm xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước. Đề tài đã làm rõ thêm nội hàm của khái niệm trí thức trên bình diện rộng. Không những chỉ ra tính chất lao động trí óc cùng với những yêu cầu về sự hiểu biết, trình độ, khát vọng dân chủ, công bằng, tự do và kết quả sáng tạo trong việc truyền bá, phổ biến, ứng dụng vào đời sống xã hội của trí thức, các tác giả đề tài còn xác định rõ thiên chức, phẩm chất, tính cách của người trí thức Việt Nam. Ba là, các luận án nghiên cứu về trí thức đã bảo vệ thành công trong những năm gần đây: - PGS, TS Phan Thanh Khôi: “Động lực của trí thức trong lao động sáng tạo ở nước ta hiện nay” [77]. Trên cơ sở nhận diện lực lượng trí thức với tư cách là “tầng lớp xã hội đặc biệt”, tác giả luận giải tính chất lao động của người trí thức đồng thời cũng tập trung làm rõ động lực lao động sáng tạo và những giải pháp chủ yếu phát huy vai trò của đội ngũ trí thức ở nước ta hiện nay. - PGS, TS Đỗ Thị Thạch: “Trí thức nữ Việt Nam trong công cuộc đổi mới hiện nay - tiềm năng và phương hướng xây dựng” [133]. Đây là công
  14. 9 trình nghiên cứu chuyên sâu về lực lượng trí thức nữ. Tác giả đã có những đóng góp mới cả về lý luận và thực tiễn khi kiến giải tiềm năng cũng như vai trò to lớn của lực lượng trí thức nữ Việt Nam đối với sự phát triển của đời sống xã hội. Xuất phát từ thái độ tôn trọng, tin cậy vào khả năng đóng góp của lực lượng này, tác giả đã đề xuất những phương hướng cơ bản nhằm phát huy tiềm năng, vai trò của lực lượng trí thức nữ trong sự nghiệp cách mạng nước ta, đặc biệt là trong quá trình đổi mới toàn diện của đất nước. - TS Nguyễn Công Trí: “Trí thức Việt Nam trong phát triển kinh tế tri thức” [146]. Từ cách tiếp cận tổng hợp, luận án chỉ ra những đặc trưng, tiêu chí cơ bản để xác định trí thức, vai trò của đội ngũ này trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức. Luận án xác định, trí thức là người lao động trí óc và thường có trình độ học vấn cao, được đào tạo hoặc tự đào tạo. Tuy nhiên, “giá trị quan trọng nhất của người trí thức chân chính đó là chân lý và lẽ phải; trí thức là người tự tin và ngay thẳng, có lòng tự trọng, khả năng hành xử đúng mực và thích ứng cao với các biến đổi của môi trường tự nhiên, xã hội” [146, tr.30]. Bốn là, những công trình nghiên cứu tiêu biểu về trí thức được công bố trên các tạp chí trong những năm gần đây: Bước vào giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, yêu cầu đổi mới tư duy về vấn đề trí thức đã được đặt ra trong mối quan tâm của không ít nhà khoa học. Tiếp tục làm rõ bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và sự nhận thức đúng đắn của Đảng ta trong quan điểm về trí thức là hướng nghiên cứu lý luận quan trọng. Một số bài báo đăng trên các tạp chí trong thời gian qua đã đề cập tới vấn đề này, tiêu biểu như: “Đội ngũ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”của PGS, TS Phan Thanh Khôi [78]; “Những bài học từ quan điểm của Lênin về trí thức” của PGS, TS Phan Thanh Khôi [79]; “Suy ngẫm và nhận thức về vấn đề trí thức”, Tạp chí Lý luận chính trị, 2008, số 9 của PGS, TS Nguyễn Đức Bách [17]. Ngoài ra cần phải nhấn mạnh rằng, trong những năm gần đây, trên đà phát triển cả về số lượng, chất lượng của trí thức Việt Nam, những khía cạnh mới về chức năng, nhiệm vụ, chính sách tuyển dụng, đãi ngộ, giải pháp phát huy
  15. 10 vai trò của đội ngũ trí thức nhằm đáp ứng đòi hỏi, yêu cầu của quá trình CNH, HĐH, hội nhập, phát triển kinh tế tri thức cũng đã được đặt ra và nghiên cứu một cách nghiêm túc. Có thể kể đến một số bài viết có giá trị khoa học như: “Mấy vấn đề cần đổi mới tạo động lực và điều kiện để trí thức nước ta phát huy tài năng trí tuệ” của Nguyễn Đức Bách [16]; “Tổng quan về đội ngũ trí thức nước ta hiện nay” [81] và “Nhà khoa học và sự sáng tạo trong khoa học xã hội” [82] của PGS, TS Phan Thanh Khôi. Những công trình nghiên cứu nêu trên đã cung cấp cơ sở lý luận, thực tiễn quan trọng để tác giả luận chứng về trí thức, về vai trò của đội ngũ trí thức trong điều kiện đổi mới, hội nhập, phát triển kinh tế tri thức và CNH, HĐH đất nước. 1.1.2. Những công trình nghiên cứu về trí thức giáo dục đại học, đặc điểm và chất lượng lao động của trí thức giáo dục đại học Một là, những công trình nghiên cứu khái quát về trí thức GDĐH: Thông qua việc làm sáng tỏ khái niệm, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ nhà giáo; khảo sát thực trạng cơ cấu, chất lượng của trí thức GDĐH, nhiều công trình nghiên cứu đã đề xuất giải pháp để xây dựng, phát triển đội ngũ này ở bậc đại học. Có thể kể đến những công trình tiêu biểu sau: - TS Phạm Văn Thanh: “Xây dựng đội ngũ trí thức khoa học Mác - Lênin trong các trường đại học ở nước ta hiện nay” [131]. Tác giả chỉ rõ, đội ngũ giảng viên giảng dạy lý luận Mác - Lênin ở Việt Nam vừa là nhà giáo dục, vừa là nhà khoa học, vừa là nhà chính trị. Vai trò của đội ngũ đó được tác giả đề cập và phân tích ở nhiều bình diện từ chức năng đào tạo cán bộ, phát triển lực lượng trí thức mới cho đất nước đến việc đảm trách nhiệm vụ NCKH và tham gia các công tác khác ở hệ thống những trường đại học, cao đẳng thuộc hệ thống giáo dục quốc dân. Trên cơ sở đánh giá thực trạng và xu hướng biến đổi của đội ngũ trí thức khoa học Mác - Lênin ở nước ta, tác giả đã đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng đội ngũ này thành lực lượng lớn mạnh, đóng góp ngày càng nhiều trí tuệ cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
  16. 11 - TS Đỗ Minh Cương - Nguyễn Thị Doan“Phát triển nguồn nhân lực giáo dục đại học Việt Nam” [38]. Với quan điểm xem nhà giáo đại học là nhân tố quan trọng và có ý nghĩa quyết định nhất đến chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ở nước ta, tác giả đã đi sâu phân tích vai trò của trí thức GDĐH, qua đó luận chứng một số giải pháp xây dựng, phát triển nguồn nhân lực GDĐH trước yêu cầu hội nhập quốc tế. - PGS, TS Nguyễn Văn Sơn: “Trí thức Giáo dục Đại học Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá” [126]. Theo tác giả, đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam có một số đặc điểm cơ bản: là lực lượng trực tiếp tham gia vào quá trình đào tạo ở bậc cao nhất trong hệ thống giáo dục quốc dân; đối tượng tác động chủ yếu của người trí thức GDĐH là những sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh; mục đích lao động nhằm đào tạo ra những người lao động sáng tạo, có phẩm chất đạo đức tốt; trí thức GDĐH vừa là nhà giáo vừa là nhà khoa học, nhà chính trị. Từ việc đánh giá thực trạng về cơ cấu, chất lượng của trí thức GDĐH, tác giả đưa ra phương hướng, giải pháp cơ bản để phát triển đội ngũ trí thức GDĐH đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực phục vụ cho quá trình CNH, HĐH đất nước. - Bộ Giáo dục và Đào tạo: “Đổi mới quản lý hệ thống GDĐH giai đoạn 2010 - 2012” [26]. Công trình nghiên cứu đã giới thiệu Nghị quyết của Ban cán sự Đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo về đổi mới quản lý GDĐH giai đoạn 2010 - 2012. Nghị quyết đã nghiêm túc chỉ ra hạn chế trong chất lượng GDĐH và khẳng định sự cần thiết phải đẩy mạnh việc đánh giá và kiểm định chất lượng GDĐH; hình thành ở các cơ sở GDĐH tổ chức chuyên trách về hướng dẫn, bảo vệ và khai thác sở hữu trí tuệ của giảng viên; tôn vinh và tạo điều kiện ngày càng tốt hơn để nhà giáo ở bậc đại học phát huy tính tích cực trong NCKH. Có thể khẳng định, đây là cơ sở pháp lý quan trọng có ý nghĩa định hướng cho tác giả luận án trong việc xây dựng giải pháp nhằm nâng cao chất lượng lao động của trí thức GDĐH Việt Nam hiện nay. Xuất phát từ quan điểm coi trí thức GDĐH là nhân tố quyết định nhất đến chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, nhiều nhà nghiên cứu đã tập trung
  17. 12 luận giải vị trí, vai trò của trí thức GDĐH đồng thời tìm ra hệ thống giải pháp cơ bản tạo động lực lao động cho đội ngũ nhà giáo ở bậc đại học. Liên quan đến vấn đề đó, những năm gần đây, có một số công trình khoa học, đáng chú ý là: - PGS, TS Bùi Khắc Việt (chủ nhiệm): “Trí thức trẻ và sinh viên” [160]. Tác giả đã trực tiếp khẳng định vai trò của đội ngũ trí thức trẻ và sinh viên ở các trường đại học, cao đẳng. Trên cơ sở đánh giá thành tựu, hạn chế, bất cập, nhất là về chất lượng của lực lượng đó trước yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội, tác giả đi đến khẳng định việc phát triển đội ngũ trí thức trẻ và sinh viên ở các trường đại học, cao đẳng là việc làm cần thiết. - Ngoài những công trình nêu trên, có thể kể đến một số bài nghiên cứu của các học giả đăng trên tạp chí, kỷ yếu hội thảo, tiêu biểu như: Nguyễn Văn Duệ: “Đội ngũ cán bộ giảng dạy đại học - thực trạng và kiến nghị” [43]; Nguyễn Duy Yên: “Đổi mới giáo dục trước hết phải đổi mới từ những người làm giáo dục” [176]; Đinh Thị Minh Tuyết: “Xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên đại học” [153]. Nhìn chung, các tác giả nêu trên đều có chung quan điểm khi xem nhà giáo ở bậc đại học là lực lượng nòng cốt xây dựng cho sinh viên thế giới quan, nhân sinh quan tiến bộ, trang bị tri thức và phương pháp tư duy khoa học, khả năng làm việc độc lập, sáng tạo cho người học. Các tác giả nhận định, để nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo cần tập trung đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo theo hướng chuẩn hoá và hiện đại hoá; việc bố trí, sử dụng nhà giáo phải hợp lý, coi trọng năng lực sáng tạo thực sự về chuyên môn nghiệp vụ đồng thời phải tạo lập hệ thống động lực cho đội ngũ nhà giáo. Hai là, những công trình nghiên cứu bước đầu bàn luận trực tiếp về đặc điểm lao động của trí thức GDĐH: - Tác giả Đỗ Văn Phức với bài viết “Đặc điểm lao động của giáo viên đại học và dạy nghề” [117] chủ yếu nhấn mạnh đến các đặc điểm về tính chất lao động và những đặc thù nghề nghiệp của trí thức GDĐH. Tác giả nhận định, lao động của đội ngũ giảng viên là loại lao động sáng tạo, lao động trí óc, có cả một số yếu tố độc hại và những căng thẳng đặc thù.
  18. 13 - Xác định tính chất lao động của trí thức GDĐH, PGS, TS Nguyễn Thị Mỹ Lộc và TS Đặng Xuân Hải với chuyên đề “Người dạy ở bậc đại học và giao tiếp sư phạm”, “Phương pháp dạy học ở bậc đại học” trong tài liệu bồi dưỡng “Giáo dục học đại học” đã đưa ra quan niệm: “Ở đại học, sự sáng tạo sư phạm đi liền với sự sáng tạo khoa học” [53, tr.217]. Do đó, hoạt động giảng dạy đại học được thực hiện bởi những người gắn bó với NCKH. Ngoài những phẩm chất và năng lực của các chuyên gia, họ phải có hai phẩm chất năng lực có ý nghĩa nhất đối với lao động chuyên môn là năng lực sư phạm và năng lực NCKH. Rèn luyện kỹ năng của một nhà khoa học và nhà sư phạm tâm huyết là yêu cầu tất yếu để nâng cao chất lượng nghề nghiệp của đội ngũ giảng viên đại học. - PGS, TS Phạm Hồng Quang - tác giả cuốn sách “Môi trường giáo dục” [119] đưa ra quan niệm về đặc điểm lao động của trí thức GDĐH. Tác giả khẳng định, đối tượng lao động sư phạm là nhân cách học sinh đang phát triển; để tác động đến đối tượng này, người giảng viên cần dùng công cụ là chính nhân cách của mình; chức năng lao động sư phạm là tái sản xuất sức lao động xã hội; lao động của người giảng viên là lao động trí óc chuyên nghiệp; nó đòi hỏi ở người giảng viên tính khoa học, nghệ thuật và sự sáng tạo. Tác giả cho rằng, đặc điểm lao động sư phạm cũng qui định những yêu cầu cơ bản về nhân cách người giảng viên nên nhà giáo dục phải có năng lực sư phạm và tổ hợp các phẩm chất đạo đức nghề nghiệp như: thế giới quan khoa học, lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ và lòng yêu người, yêu nghề. - Khi luận giải “Bản chất của hoạt động sáng tạo trong nghiên cứu khoa học” [9], GS, TS Hoàng Chí Bảo nhấn mạnh: GDĐH gắn liền giảng dạy với NCKH và phục vụ sản xuất. Đội ngũ nhà giáo và các nhà khoa học có quan hệ hợp tác, gắn bó với nhau thường xuyên, lâu dài. Hình thức lao động của họ có nhiều nét tương đồng về bản chất. Đó là sự phát hiện, sự sinh thành giá trị mới thông qua những cách tân, tìm tòi hướng tiếp cận và phương pháp giảng dạy, nghiên cứu mới. Vì vậy, lao động của trí thức GDĐH thể hiện rõ tính sáng tạo với những sắc thái biểu hiện phong phú, đa dạng và phức tạp của nó.
  19. 14 - TS Nguyễn Bá Cần: “Hoàn thiện chính sách phát triển Giáo dục đại học Việt Nam hiện nay” [31]. Tiếp cận đặc điểm của GDĐH trong điều kiện kinh tế thị trường, tác giả đã cho rằng, là một loại sản phẩm dịch vụ, GDĐH có đầy đủ tính chất kinh tế giống như các loại sản phẩm hàng hoá và dịch vụ khác, nhưng nó không thích hợp với việc mua - bán hàng hóa. Khi so sánh với các loại dịch vụ khác thì “sản phẩm dịch vụ GDĐH còn có tính đặc thù - đó là những người công dân có ích với chính mình, có trách nhiệm với gia đình, xã hội và quốc gia. Những sản phẩm như vậy được gọi là loại hàng hoá có ngoại biên thuận” [31, tr.22]. - TS Ngô Văn Hà: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về người thầy và việc xây dựng đội ngũ giảng viên đại học hiện nay” [66]. Trên cơ sở phân tích nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về người thầy giáo, tác giả đã nêu lên một số luận đề về đặc điểm lao động của giảng viên: công tác giảng dạy là loại lao động đặc thù; “người giảng viên đại học phải kết hợp trong bản thân mình những phẩm chất năng lực của một nhà khoa học và một nhà giáo dục - dạy học; nhiệm vụ của họ không chỉ là đào tạo nhân lực có trình độ cao cho đất nước mà còn là chỗ dựa về khoa học cho các viện nghiên cứu và các cơ sở sản xuất kinh doanh” [66, tr.158]. Đạo đức cách mạng của người giảng viên là sự say mê với công việc giảng dạy, nghiên cứu, trung thực trong khoa học, tìm tòi sáng tạo, có khát vọng chinh phục đỉnh cao của tri thức. Ba là, những công trình nghiên cứu bước đầu đề cập đến chất lượng lao động của trí thức GDĐH: - Năm 2006, GS, TS Nguyễn Đức Chính và PGS, TS Nguyễn Phương Nga đã nghiệm thu đề tài “Nghiên cứu xây dựng các tiêu chí đánh giá hoạt động giảng dạy đại học và NCKH của giảng viên trong Đại học Quốc gia” [37]. Giá trị thực tiễn của đề tài thể hiện ở những khuyến nghị đổi mới các tiêu chí đánh giá hoạt động giảng dạy và NCKH của giảng viên có tính đến xu thế hội nhập toàn cầu trong GDĐH. Đây là nghiên cứu về lĩnh vực đo lường và đánh giá hiệu quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ của đội ngũ nhà giáo do các chuyên gia, cán bộ quản lý giáo dục thực hiện nên kết quả nghiên cứu có
  20. 15 ý nghĩa quan trọng trong việc gợi mở cách tiếp cận theo hướng đánh giá tổng thể chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH cho tác giả luận án. - Năm 2008, Phòng Phát triển con người Khu vực Đông Á và Thái Bình Dương của Ngân hàng thế giới đã công bố Báo cáo“GDĐH và kỹ năng cho tăng trưởng” [113]. Báo cáo tập trung nghiên cứu lĩnh vực GDĐH trong mối liên hệ với trị trường lao động ở Việt Nam. Nhiều nội dung quan trọng về chất lượng của GDĐH đã được luận giải, khảo sát và chứng minh. Đáng chú ý là vấn đề hiệu quả đào tạo; chương trình học, phương pháp sư phạm; chất lượng đội ngũ giảng dạy; năng lực nghiên cứu của giảng viên; sự hài lòng của sinh viên; khả năng, mức độ cung cấp thỏa đáng các kỹ năng cần thiết của GDĐH Việt Nam cho nguồn nhân lực, cho gia tăng năng suất lao động và thúc đẩy năng lực sáng tạo của người lao động trước những yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao từ thị trường trong nước, khu vực và quốc tế. Kết quả nghiên cứu của Báo cáo có ý nghĩa quan trọng đối với tác giả luận án trong việc kế thừa những số liệu minh chứng về hiệu quả giảng dạy, NCKH của đội ngũ trí thức GDĐH. - Năm 2010, Luận án tiến sĩ: “Đánh giá giảng viên đại học theo hướng chuẩn hoá trong giai đoạn hiện nay” của Trần Xuân Bách [15] được bảo vệ thành công. Ở góc độ quản lý giáo dục, tác giả có thể kế thừa, tiếp thu kết quả của công trình nghiên cứu trên một số bình diện như quan niệm về giảng viên đại học, cơ sở lý luận về các phương thức đánh giá giảng viên. Tác giả đã xác định, đánh giá giảng viên là quá trình mô tả, thu thập, xử lí, phân tích một cách toàn diện hệ thống những thông tin về người giảng viên, để rồi phán đoán giá trị lao động thực thụ của họ. - PGS, TS Trần Quốc Toản (chủ biên): “Phát triển giáo dục trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế” [145]. Giá trị nổi bật của công trình nghiên cứu là những luận cứ khoa học về mối quan hệ giữa giáo dục - đào tạo với thị trường trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn, đặc biệt là những khảo sát, đánh giá, luận giải về chất lượng nguồn nhân lực, sự đáp ứng của giáo dục đào tạo nói chung, GDĐH nói riêng đối với nhu cầu xã hội trước tác động của kinh tế thị trường và quá trình hội nhập quốc tế.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2