Luận án Tiến sĩ Triết học: Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay
lượt xem 18
download
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài nhằm xác định những yếu tố cần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng; nghiên cứu thực trạng và trên cơ sở đó, đề xuất các quan điểm và giải pháp nhằm giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng trong quá trình phát triển.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Triết học: Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ THỊ TÂM GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC Ở TỈNH SÓC TRĂNG HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI - 2020
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ THỊ TÂM GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC Ở TỈNH SÓC TRĂNG HIỆN NAY Chuyên ngành: CNDVBC & CNDVLS Mã số: 9.22.90.02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. HỒ SĨ QUÝ HÀ NỘI - 2020
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu đã sử dụng trong luận án là trung thực. Những kết luận nêu trong luận án chưa công bố ở bất kỳ công trình khoa học nào. Tác giả Lê Thị Tâm
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ............................... 5 1.1. Những công trình nghiên cứu về văn hóa, bản sắc văn hóa dân tộc ...................... 5 1.2. Những công trình nghiên cứu về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở Nam Bộ và Sóc Trăng ................................................................................................... 19 1.3. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố và những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án ................................................. 29 Chương 2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC Ở TỈNH SÓC TRĂNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY35 2.1. Về văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc ................................................................. 35 2.2. Về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ................................................... 46 2.3. Vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc ở Nam Bộ ................... 56 Chương 3. BẢN SẮC VĂN HÓA CỘNG ĐỒNG CÁC DÂN TỘC Ở TỈNH SÓC TRĂNG THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ................................. 77 3.1. Nhận diện bản sắc văn hóa cộng đồng các dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng .................. 77 3.2. Thực trạng của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng ............................................................................................................................ 100 3.3. Những vấn đề đặt ra trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay .............................................................................................. 116 Chương 4. NHỮNG QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM GIỮ GÌN PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC Ở TỈNH SÓC TRĂNG HIỆN NAY ................................................................................................................... 124 4.1. Quan điểm cơ bản nhằm giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay ............................................................................................................. 124 4.2. Giải pháp về kinh tế - xã hội nhằm giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay .............................................................................................. 127 KẾT LUẬN ................................................................................................................ 147 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 151
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN STT Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ tiếng Việt 1 BSVH Bản sắc văn hóa 2 BVHTTDL Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 3 CNH, HĐH Công nghiệp hoá, hiện đại hoá 4 DTTS Dân tộc thiểu số 5 GDTX Giáo dục thường xuyên 6 LHQ Liên Hợp Quốc 7 MTTQ Mặt trận tổ quốc 8 UBMTTQVN Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam 9 UBND Ủy ban nhân dân 10 VHPVT Văn hóa phi vật thể 11 XHCN Xã hội chủ nghĩa
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bản sắc văn hóa dân tộc là sự tập hợp của những nét đặc thù, độc đáo của mỗi dân tộc; tính chất thiêng liêng, cao quý của bản sắc văn hóa dân tộc thể hiện ở đó. Bản sắc văn hóa nào cũng được được hình thành trong những giai đoạn nhất định của lịch sử dân tộc, và do vậy thường được các thế hệ đi trước lưu truyền cho các thế hệ tiếp theo. Với Việt Nam, qua hơn 30 năm đổi mới, đất nước đã đạt được những thành tựu có ý nghĩa to lớn và quan trọng, trong đó, bản sắc văn hóa dân tộc được khơi dậy, giữ gìn và đang ngày càng phát huy giá trị to lớn của nó đối với sự phát triển đất nước. Thực tế nhiều quốc gia cho thấy, để phát triển kinh tế - xã hội của một đất nước, nhân tố thúc đẩy hoàn toàn không chỉ dựa vào yếu tố kinh tế mà cần có sự kết hợp tác động biện chứng, hài hòa của nhiều yếu tố, trong đó văn hóa là một trong những thành phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển của một quốc gia. Muốn phát triển bền vững, cần gắn kết chặt chẽ, giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII đã khẳng định: “Phát triển bền vững văn hóa, xã hội; gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân dân”[33, tr.299]. Từ góc độ triết học có thể thấy, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc chính là giữ gìn những thế mạnh, những nét độc đáo, đặc sắc… của văn hóa, nhưng không chỉ có thế, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc còn là giữ gìn những giá trị cốt lõi làm nên sức sống của một dân tộc - điều tạo nên lòng tự hào, ý thức tự tôn dân tộc. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em. Văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất trong sự đa dạng của 54 nền văn hóa dân tộc. Với tính cách là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần mà con người đã sáng tạo ra trong lịch sử lâu dài, sự khác biệt về dân cư, địa hình, khí hậu, phương thức sống, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo… tạo nên những nét văn hóa riêng biệt của mỗi địa phương. Sóc Trăng là một tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cửu Long, có dân số và diện tích đứng thứ 6 ở Đồng bằng sông Cửu Long. Nơi đây, cộng đồng các dân tộc Kinh, Hoa, Khmer đã lựa chọn để khai hoang, lập ấp, cư trú, tồn tại và phát triển tạo ra nhiều nét độc đáo và riêng biệt, làm giàu cho lịch sử vùng đất này. 1
- Ngày nay, trong điều kiện hội nhập quốc tế, do không được chú ý giữ gìn đúng mức, hoặc do không đứng vững trước sự tấn công ồ ạt của các hiện tượng văn hóa mới, nhiều nét văn hóa của các dân tộc nơi đây đang có nguy cơ bị mai một. Làm thế nào để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc một cách có hiệu quả nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự phát triển kinh tế, ổn định chính trị, lành mạnh xã hội…đó là vấn đề đang được đặt ra một cách cấp thiết ở Sóc Trăng hiện nay. Những vấn đề nêu trên, trên thực tế đã và đang được các cấp chính quyền, các tổ chức đoàn thể và các tầng lớp nhân dân các dân tộc quan tâm, có kế sách giải quyết. Tuy vậy, những gì làm được thực ra vẫn là quá nhỏ bé so với đòi hỏi gay gắt, khách quan và chính đáng từ thực tế. Việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trên phạm vi cả nước nói chung và ở tỉnh Sóc Trăng nói riêng, do vậy, vẫn đang là một vấn đề hết sức cấp thiết. Về phương diện nghiên cứu, đối mặt với tình hình nói trên, trong những năm qua, một số công trình lý luận về bản sắc văn hóa các dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng với những vấn đề có liên quan như đánh giá các giá trị vật chất và tinh thần, các giá trị cốt lõi và bản sắc… của văn hóa tỉnh Sóc Trăng đã được nghiên cứu và một số đã được công bố. Tuy vậy, chưa có một công trình khoa học nào đi sâu, nghiên cứu một cách chi tiết về bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay, nhất là từ góc độ triết học. Xuất phát từ thực tế nêu trên, nghiên cứu sinh đã lựa chọn đề tài “Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay” làm luận án tiến sĩ. 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục tiêu nghiên cứu của luận án Xác định những yếu tố cần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng. Nghiên cứu thực trạng và trên cơ sở đó, đề xuất các quan điểm và giải pháp nhằm giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng trong quá trình phát triển. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án - Tổng quan những nghiên cứu lý luận và thực tiễn về văn hóa và bản sắc văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa về những nét đặc thù và bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng truyền thống và hiện nay. - Hệ thống hóa, làm rõ những nội dung lý luận để xây dựng khung lý thuyết cho nghiên cứu thực tiễn giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc trăng. 2
- - Nghiên cứu, xác định giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng. - Nghiên cứu và đánh giá thực trạng giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng và phát hiện những vấn đề cấp bách của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng trong quá trình phát triển hiện nay. - Đề xuất quan điểm các giải pháp giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng trong quá trình phát triển. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng Đối tượng nghiên cứu của luận án là giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Thời gian: văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc tỉnh Sóc Trăng được luận án nghiên cứu chủ yếu từ khi đổi mới (cuối những năm 80) đến nay. - Không gian nghiên cứu: các địa phương tại tỉnh Sóc Trăng. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Cơ sở lý luận - Cơ sở lý luận của luận án là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. - Luận án được thực hiện trên cơ sở các chỉ dẫn lý luận và phương pháp luận về văn hóa và con người của C.Mác - Ph.Ăngghen; tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam với các Văn kiện, Nghị quyết có liên quan trực tiếp đến văn hóa và phát triển, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. - Luận án cũng sử dụng các Báo cáo của Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng, các công trình nghiên cứu ngoài triết học của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Phù hợp với phương pháp luận biện chứng duy vật, luận án sử dụng các phương pháp logic - lịch sử, phân tích - tổng hợp… để trình bày và phân tích, luận giải triết học về văn hóa, bản sắc văn hóa dân tộc. 3
- Bên cạnh việc nghiên cứu định tính, phân tích và khái quát lý luận, luận án cũng chú ý sử dụng các tài liệu văn hóa học, các dữ liệu và số liệu nghiên cứu của các báo cáo chuyên môn của các ban, ngành, đoàn thể các cấp ở Trung ương và tỉnh Sóc Trăng, các nghiên cứu định lượng về văn hóa Sóc Trăng. 5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án Thứ nhất, luận án phân tích và đánh giá được thực trạng văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng trong thời gian qua. Thứ hai, xác định được bản sắc văn hóa cộng đồng dân tộc tỉnh Sóc Trăng trên cơ sở làm rõ đặc thù của văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng. Phát hiện được những vấn đề của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng. Thứ ba, luận án đề xuất được một số quan điểm và giải pháp nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng trong giai đoạn hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Về ý nghĩa lý luận, luận án hệ thống hóa và phân tích chi tiết những nội dung và những vấn đề của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay. Về ý nghĩa thực tiễn, luận án cung cấp thêm nguồn tư liệu cho các cấp chính quyền tỉnh Sóc Trăng những tư liệu và căn cứ khoa học để quản lý và hoạch định chính sách về văn hóa và phát triển. Những kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy về vấn đề triết học, văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo. Luận án có 4 chương và 11 tiết: Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu Chương 2: Một số vấn đề lý luận về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng trong giai đoạn hiện nay Chương 3: Bản sắc văn hóa cộng đồng dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng: Thực trạng và những vấn đề đặt ra Chương 4: Những quan điểm và giải pháp nhằm giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay. 4
- CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Những công trình nghiên cứu về văn hóa, bản sắc văn hóa dân tộc Trong những thập kỷ gần đây, trước xu thế phát triển mạnh mẽ của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, đề tài văn hóa, bản sắc văn hóa, bản sắc văn hóa dân tộc đã thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều chuyên gia, học giả, các nhà hoạch định chính sách, các tổ chức quốc tế, và nhiều công trình khoa học nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau về đề tài này và đã được công bố. Tiêu biểu trong số đó có các công trình sau: Việt Nam văn hóa sử cương do Quan Hải tùng thư ấn hành năm 1938, của Đào Duy Anh là một trong những nghiên cứu sớm nhất về văn hóa Việt Nam. Trong tác phẩm, Đào Duy Anh đã nghiên cứu và trình bày hệ thống cả hai mảng văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của người Việt từ thời cổ đến hiện đại. Ngay cả cách minh định “Văn hóa tức là sinh hoạt” ở cuốn sách này cũng cho thấy học giả Đào Duy Anh nhìn văn hóa ở thể động, không bó buộc, không khô cứng. Tác giả Trần Ngọc Thêm, trong cuốn Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh năm 1996), với cách tiếp cận hệ thống - cấu trúc nhằm xác định những đặc trưng của bản sắc văn hóa Việt Nam. Không lấy văn hóa nước ngoài làm tiêu chuẩn cho bảng giá trị của bản sắc văn hóa Việt Nam. Cuốn sách được xem xét theo các thành tố, nhưng trong mỗi thành tố, mỗi bộ phận của thành tố lại chú trọng đến tính lịch đại của nó. Trong tác phẩm, tác giả đã định nghĩa: “…Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình”[119, tr.27]. Ở những phần sau tác giả có cái nhìn khá hệ thống, đi từ nhận thức về văn hóa (bản chất vũ trụ, triết lý âm dương…triết lý về thời gian của vũ trụ, về nhận thức của con người), đến phân tích văn hóa tổ chức cộng đồng trên cơ sở văn hóa tập thể (tổ chức nông thôn, quốc gia, đô thị) và văn hóa cá nhân (tín ngưỡng, phong tục, văn hóa giao tiếp và nghệ thuật ngôn từ), trong các phạm trù cổ truyền - hiện đại, thì hiển nhiên cái hiện đại là quan trọng. Nhưng cái cổ truyền cũng quan trọng không kém, bởi không hiểu rõ quá khứ thì sẽ không có cách ứng xử đúng với tương lai. Trong cuốn sách, các tác giả đã nêu và phân tích các 5
- khái niệm văn hiến, văn minh về hình thái và mô hình văn hóa theo cách nhìn truyền thống và hiện đại, những thành tố cơ bản của văn hóa, các chức năng và cấu trúc của văn hóa.v.v.. Công trình Các câu hỏi về bản sắc văn hóa của Stuart Hall và Paul Du Gay, (Nxb SAGE, Anh năm 1996). Các tác giả phân tích, lý giải vấn đề bản sắc văn hóa của các dân tộc, chủng tộc, giai cấp trong xã hội hiện đại đang bị suy giảm; các hình thức để nhận dạng và phân biệt giữa hiện đại và bản sắc văn hóa của các dân tộc, chủng tộc, giai cấp trong thời đại hiện nay. Tác giả Jonathan Friedman trong tác phẩm Bản sắc văn hoá và quá trình toàn cầu, (Khoa Nhân học xuất bản tại Đại học Teessude, năm 1994). Trong tác phẩm, tác giả đã phân tích mối quan hệ giữa các quá trình toàn cầu và bản sắc của nền văn hóa; phân tích mối quan hệ giữa toàn cầu và văn hóa các địa phương. Tác giả Thomas L.Friedman trong tác phẩm Dân tộc và ranh giới. (Nhà xuất bản Trẻ 2014). Trong tác phẩm, vấn đề dân tộc tộc người được Thomas L.Friedman xem như là đơn vị mang văn hóa. Thomas L.Friedman tập trung vào khía cạnh mang văn hóa, việc phân loại người và nhóm địa phương là thành viên của một nhóm dân tộc phải phụ thuộc vào việc họ thể hiện những đặc điểm cụ thể nào của văn hóa? nghĩa là phải có bản sắc riêng biệt. Ngoài ra, Thomas L.Friedman còn nghiên cứu về Văn hóa tiếp xúc và thay đổi về dân tộc và tiến hóa văn hóa. Công trình “Chính sách ngôn ngữ, văn hóa và bản sắc trong bối cảnh Châu Á” của Amy B. M. Tsui và James W. Tollefson (Xuất bản tại Routledge, Hoa Kỳ, 2007). Các tác giả đã phân tích vấn đề văn hóa và bản sắc văn hóa của các dân tộc trong bối cảnh thay đổi chính trị - xã hội ở Châu Á. Tác giả Peter Wallace Preston trong tác phẩm Chính trị, bản sắc văn hoá: Công dân và quốc gia trong một kỷ nguyên toàn cầu, (Nhà xuất bản Biddles, Anh năm 1997). Thông qua tác phẩm, tác giả đã phân tích tổng quan về bản sắc văn hóa trong bối cảnh thay đổi về chính trị trong kỷ nguyên toàn cầu; chỉ ra sự đa dạng của văn hóa trong một môi trường toàn cầu đang thay đổi. Khi chúng ta hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế thị trường, vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc đã được đề cập trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng, vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc đã thu hút sự quan tâm đặc biệt của các nhà khoa 6
- học, các tổ chức chính trị, xã hội, văn hóa và khoa học trên cả nước. Cho đến nay, nhiều công trình khoa học nghiên cứu về đề tài này đã được công bố. Có thể khái quát các công trình tiêu biểu trong số đó theo các chủ đề chính như sau: Lý luận chung về bản sắc văn hóa dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam: Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã nhấn mạnh: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”[24, tr.54-55]. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội lần thứ VII (6-1991), đã xác định nền văn hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc là một trong sáu đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tiếp tục khẳng định: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”. Văn kiện Đại hội XI đã xác định: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”[32, tr.46-47]. Hội nghị Trung ương 9 khóa XI (tháng 5-2014), đã nhất trí ban hành nghị quyết mới về: “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. Tại Đại hội XII của Đảng, khi nói về phát triển văn hóa và con người Việt Nam, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh việc xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, tạo điều kiện để xây dựng con người Việt Nam đẹp về nhân cách, đạo đức, tâm hồn; cao về trí tuệ, năng lực, kỹ năng sáng tạo; khoẻ về thể chất; nâng cao trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật. Tác giả Nguyễn Văn Huyên trong bài viết Giá trị truyền thống - nhân lõi và sức sống bên trong của sự phát triển đất nước, dân tộc. (Tạp chí Triết học, số 4, năm 1998), đã chỉ ra giá trị truyền thống là cốt lõi, là sức sống bên trong của một dân tộc cho dù có bị xâm lấn 7
- bởi văn hóa ngoại lai thì văn hóa dân tộc vẫn được gìn giữ và trường tồn cùng dân tộc. Bài viết đã kiến giải sâu sắc về giá trị văn hóa truyền thống, về bản sắc văn hóa và sức sống mãnh liệt, trường tồn của văn hóa trong bối cảnh đất nước ngày càng hội nhập. Tác giả Liêu Trần Tiêu trong bài viết Giữ gìn và phát huy bản lĩnh, bản sắc dân tộc của văn hóa. (Tạp chí Di sản Văn hóa số 01, năm 2002), đã đưa ra các khái niệm đồng nghĩa về bản sắc văn hóa của dân tộc như: “Bản sắc dân tộc”, “Bản lĩnh dân tộc”, “Màu sắc dân tộc”, “ Sắc thái dân tộc”,“ Bản sắc dân tộc của văn hóa”, “Bản sắc văn hóa của dân tộc”... Bản sắc dân tộc gắn với văn hoá và thường được biểu hiện thông qua văn hóa, nên cũng có thể coi là bản sắc dân tộc của văn hóa. Từ đó, tác giả đư ra khái niệm về bản sắc văn hóa của dân tộc, cũng như những biểu hiện của bản sắc văn hóa của dân tộc như ý thức về cội nguồn, sự gắn kết cộng đồng, lòng khoan dung, khả năng thích ứng, sự khiêm nhường, giản dị.v.v..Trong bài viết, tác giả cũng dẫn chứng về lòng yêu nước của nhân dân ta thông qua các áng văn bất hủ như Nam quốc sơn hà nam đế cư, Hịch tướng sĩ...hay thông qua các tác phẩm của đồng chí Phạm Văn Đồng. Sự gắn kết Nhà - Làng - Nước là một cấu trúc cần được phát huy vì đây là nguồn cội của tư tưởng cộng đồng, yêu thương, đùm bọc, hòa hợp với nhau “nước mất, nhà tan”. Lòng nhân ái, khoan dung trọng nghĩa tình là nền tảng của giá trị văn hóa Việt Nam, được thể hiện ở quan niệm về vai trò của con người như: “Ở hiền gặp lành”; “Con dại cái mang”; “Phúc đức tại mẫu”... Bản sắc dân tộc còn là tư tưởng sống nhân nghĩa, thủy chung: “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” là đạo lý của người Việt Nam. Ngoài ra, bản sắc văn hóa dân tộc còn đậm nét trong các hình thức biểu hiện độc đáo ở cách ứng xử, phong cách sinh hoạt, ăn uống, trang phục, trong nghệ thuật kiến trúc, ca dao, dân ca.v.v..Tất cả những nét độc đáo đó tuy không kỳ vĩ, lớn lao nhưng đều chứa đựng trí tuệ sâu sắc, tinh thần tự cường với bản lĩnh và bản sắc riêng của dân tộc mình. Tác giả Hồ Sĩ Vịnh trong bài viết Bản sắc dân tộc và sự giao lưu hội nhập văn hóa. (Tạp chí Cộng sản số 23, tháng 8-2002), đã phân tích bản sắc dân tộc ở nhiều góc độ khác nhau từ phạm trù rộng, bao quát tới kết quả của quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của một cộng đồng người. Bản sắc dân tộc còn được chú ý đến thông qua hai bình diện đời sống tinh thần và bản sắc dân tộc. Bản sắc dân tộc thường trùng khít với bản sắc văn hóa dân tộc. Bởi vì, văn hóa có nội hàm rộng bao trùm các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ở đâu 8
- có con người là ở đó có văn hóa. Tác giả cũng khẳng định bản sắc ở cấp độ dân tộc và sắc thái địa phương không thể là phạm trù bất biến mà là một phạm trù động, mở. Bản sắc dân tộc lần theo dấu chân lịch sử là quá trình đối kháng và đồng hóa, tuy nhiên bên cạnh sự đồng hóa chúng ta cũng có những yếu tố văn hóa của riêng mình thể hiện sự tự tôn, tự cường của dân tộc. Trong bài viết tác giả nhận định các dòng chảy văn hóa như những đợt sóng ùa vào thị trường văn hóa dân tộc là không thể cưỡng lại được! Vậy, chúng ta phải làm thế nào để văn hóa vừa đậm đà bản sắc vừa cởi mở, giao lưu? Tác giả đã nêu lên các luận điểm như: văn hóa Việt Nam phải gắn với chủ nghĩa Mác - Lênin; văn hóa tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội…Bài viết là cơ sở khoa học để nghiên cứu sinh tiếp tục phát triển trong luận án “Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay”. Tác giả Mai Hải Oanh trong bài viết Toàn cầu hóa kinh tế và xây dựng nền văn hóa dân tộc. (Tạp chí Cộng sản số 690 tháng 9-2003), luận chứng: toàn cầu hóa là xu thế của thế giới đương đại, lấy các quốc gia phát triển, các công ty xuyên quốc gia làm động lực chủ yếu. Xu thế toàn cầu hóa như làn sóng bao trùm toàn thế giới và ảnh hưởng tới nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội, trong đó có văn hóa. Toàn cầu hóa góp phần tạo ra sự đa dạng của văn hóa nhân loại. Nó phản ánh sự đa dạng, đa sắc màu độc đáo của văn hóa, sự gặp gỡ này sẽ tạo ra sự đa sắc màu của văn minh nhân loại. Nhưng mặt khác, theo tác giả, do áp lực từ nhiều phía một số quốc gia chỉ chú ý đến vấn đề đổi mới mà có phần xem nhẹ những di sản văn hóa truyền thống đặc biệt ở các nước xã hội chủ nghĩa, nó thông qua con đường “diễn biến hòa bình”; “tự diễn biến về văn hóa”… sự thẩm thấu này có thể công phá mạnh mẽ về lối sống, nhân cách rồi đến tư tưởng, chính trị. Về khía cạnh văn hóa, tác giả cho rằng: “diễn biến hòa bình” thẩm thấu vào các giá trị xã hội, vào lối sống khiến con người chạy theo lợi ích vật chất, khô cạn tình người, quay lưng lại với giá trị truyền thống mà quên đi tấm “căn cước văn hóa dân tộc”. Tác giả cũng nhấn mạnh, văn hóa chịu sự chế ước của kinh tế và chính trị. Do đó, gương mặt xã hội là sự nhất thể hóa của kinh tế - văn hóa - chính trị. Do vậy, ở Việt Nam xây dựng, phát triển văn hóa dân tộc, giữ vững độc lập dân tộc không có nghĩa là lệ thuộc vào các dân tộc khác, cũng không có nghĩa là chúng ta“bế quan tỏa cảng về văn hóa”. Bên cạnh quá trình kế thừa còn có vấn đề tích lũy, giữ gìn, tiếp nhận các hệ giá trị văn hóa từ bên ngoài. 9
- Tác giả Nguyễn Khoa Điềm trong bài viết Đề cương văn hóa Việt Nam với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (Tạp chí Cộng sản số 690 tháng 9-2003), nhận định: Đảng ta luôn giành sự quan tâm đặc biệt đối với công tác văn hóa, văn nghệ. Bởi lẽ trong thời điểm đó, nhân dân ta đang sống trong ngột ngạt dưới sự cai trị và bóc lột của phát xít Nhật và thực dân Pháp, một bộ phận trí thức lại hoang mang giao động. Bản Đề cương văn hóa Việt Nam ra đời, đã nói lên tầm vóc chính trị tư tưởng sâu sắc của một chính đảng của giai cấp công nhân. Lần đầu tiên, Đảng ta công bố quan niệm của mình về văn hóa theo quan điểm Mác - xít và đã có sức lan tỏa mạnh mẽ. Hơn 70 qua, đường lối và quan điểm không ngừng được bổ sung và hoàn thiện, với sự ra đời của Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Nghị quyết đã đi vào đời sống, tạo ra sự chuyển biến nhận thức về vai trò của văn hóa. Nhận xét về những đóng góp của Đề cương văn hóa Việt Nam tác giả khẳng định: cho tới nay những đóng góp của Đề cương văn hóa Việt Nam vẫn còn nguyên giá trị, giúp chúng ta có cái nhìn đúng đắn, vững vàng để triển khai nhiệm vụ văn hóa trước thời cơ và thách thức hiện nay. Tác giả Trần Quốc Vượng trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam đã đề cập đến các khái niệm cơ bản về văn hóa, cấu trúc và diễn trình lịch sử, không gian của văn hóa Việt Nam. Tác giả nêu lên: Sự hình thành bản sắc dân tộc Việt Nam cũng khẳng định sự tồn tại của tính cách dân tộc Việt Nam và tâm lí dân tộc; giá trị tinh thần tính cách dân tộc Việt Nam mà điển hình là tinh thần yêu nước kiên cường gắn bó với quê hương xứ sở, cụ thể là với làng, nước, với nhà, làm tế bào chung; ý thức sâu sắc về bản ngã, tinh thần cố kết cộng đồng; cần cù, chịu thương, chịu khó, giỏi chịu đựng gian khổ, tình nghĩa; ứng xử linh hoạt mềm dẻo, dễ thích nghi, hội nhập…[139, tr.15]. Tác giả Phan Ngọc trong cuốn Bản sắc văn hóa Việt Nam phân tích khái niệm văn hóa và bản sắc văn hóa; cách tiếp cận một nền văn hóa cụ thể là văn hóa Việt Nam; bản sắc văn hóa Việt Nam là gì? văn hóa Việt Nam khác văn hóa Trung Hoa, văn hóa Pháp, văn hóa Mỹ...ở những điểm nào? Phan Ngọc định nghĩa: 10
- Văn hóa là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng trong óc một cá nhân hay một tộc người với cái thế giới thực tại ít nhiều đã bị cá nhân này hay tộc người này mô hình hóa theo cái mô hình tồn tại trong biểu tượng. Điều biểu hiện rõ nhất chứng tỏ mối quan hệ này, đó là văn hóa dưới hình thức dễ thấy nhất, biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng của cá nhân hay tộc người, khác các kiểu lựa chọn của các cá nhân hay tộc người khác[103, tr.20]. Trong cuốn sách tác giả đã phân tích, đưa ra quan điểm để bảo vệ văn hóa Việt Nam trong quá trình giao lưu, hội nhập như: cách phát huy văn hóa trong cuộc tiếp xúc văn hóa hiện nay, ưu thế của văn hóa Việt Nam trong giai đoạn kinh tế thị trường... những phân tích trên vô cùng quý giá, tạo cơ sở bảo vệ văn hóa Việt Nam trong quá trình giao lưu hội nhập và, như lời tác giả: “Hy vọng những cố gắng tìm hiểu chính mình khá nghiêm túc suốt một đời sẽ giúp các bạn hiểu được chính các bạn”. Tác giả Nguyễn Đình Tường trong bài viết Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống ở Việt Nam trước tác động của toàn cầu hóa (Tạp chí Triết học, số 5 , tháng 5 - 2006), có những luận giải: trong giai đoạn hiện nay, toàn cầu hoá đã trở thành xu thế khách quan, có tác động mạnh mẽ không chỉ trong lĩnh vực kinh tế, mà còn ở các lĩnh vực chính trị, xã hội và văn hoá. Do vậy, văn hoá Việt Nam có cơ hội để hội nhập và giao lưu với các nền văn hoá khác của thế giới, để làm giàu và khẳng định bản sắc của mình. Song, hơn lúc nào hết, đây cũng là giai đoạn mà các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc phải đối diện với những tác động tiêu cực rất lớn. Vì vậy, đối với Việt Nam, việc nhận thức rõ hội nhập quốc tế và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc có ý nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giữ gìn, phát huy giá trị truyền thống dân tộc. Thông qua bài viết, tác giả cũng đưa ra những giải pháp nhằm góp phần xây dựng chiến lược giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống ở nước ta hiện nay như: tăng cường giáo dục truyền thống lịch sử và truyền thống cách mạng của dân tộc cho các thế hệ trẻ; giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống phải luôn gắn liền với tăng cường giáo dục pháp luật; xác lập bản lĩnh văn hóa Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế... Ở một khía cạnh khác, tác giả Phạm Duy Đức trong cuốn Phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 2011-2020 - Những vấn đề phương pháp luận (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010), đây là một trong những kết quả nghiên cứu bước đầu của đề tài khoa 11
- học cấp nhà nước về Phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020. Cuốn sách có độ dày hơn 300 trang, nghiên cứu những đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, những quan điểm chỉ đạo cơ bản và nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam trong những năm 2006 - 2010. Từ việc nghiên cứu những vấn đề này, các tác giả nêu lên tầm quan trọng của việc xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một yêu cầu cần thiết trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Phương hướng phát triển này vừa giữ gìn và phát huy được bản sắc và bản lĩnh văn hóa dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để phát triển không ngừng, đạt tới trình độ tiên tiến của các nước trong khu vực và thế giới. Mặt khác, các tác giả cũng đánh giá thực trạng văn hóa Việt Nam và thực trạng lãnh đạo, quản lý văn hóa của Đảng và Nhà nước; chỉ rõ các mối quan hệ giữa văn hóa và các lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng văn hóa chính trị; đề xuất mục tiêu, quan điểm, định hướng và giải pháp có tính chất đột phá để phát triển nền văn hóa dân tộc trong thập kỷ tới. Những nội dung sau, tác giả đã nêu lên để xây dựng thành công nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Đảng ta đã chỉ ra những nhiệm vụ cụ thể. Từ đó, các tác giả nêu lên những kết quả của việc xây dựng và phát triển văn hóa trong những năm 1986-2005, chủ trương tiếp tục xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong những năm 2006- 2010, những thành tựu lý luận của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ vừa qua cần được kế thừa và phát huy trong giai đoạn mới, giai đoạn 2011-2020. Cuốn sách Văn hóa Việt Nam giàu bản sắc do tác giả Nguyễn Đắc Hưng sưu tầm và biên soạn, (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm 2010), tác giả đã giới thiệu những lễ hội, phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa giàu bản sắc của từng dân tộc, tạo nên nét riêng biệt của nền văn hóa Việt Nam. Trong cuốn Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, của Trần Văn Giàu (Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980, tái bản 2011). Tác giả đã nghiên cứu và đưa ra những kiến giải sâu sắc về các giá trị truyền thống, đặc thù của dân tộc Việt Nam. Cuốn sách được chia làm 11 chương và được tác giả luận giải cụ thể về các khái niệm giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc, ảnh hưởng của lịch sử đối với việc phát triển các giá trị 12
- truyền thống, những đức tính tốt đẹp của dân tộc Việt Nam bao gồm: yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa. Các phạm trù được trình bày một cách có hệ thống và khoa học với ý nghĩa giống như một “bảng giá trị tinh thần” của người Việt Nam. Những giá trị tốt đẹp trên, theo tác giả, giá trị truyền thống đã được định hình ngay từ thời lập quốc và phát triển độc lập, không bị các yếu tố ngoại bang đồng hóa. Cũng trong tác phẩm này, tác giả đã nhắc về Chủ tịch Hồ Chí Minh - Con người kết tinh mọi giá trị truyền thống của dân tộc và sự kết hợp những giá trị cao đẹp của nhân loại. Bằng lời văn khúc triết, mạch lạc, với nền tảng kiến thức uyên bác… tác giả đã làm sáng tỏ những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Tác giả Trần Thị Minh trong cuốn Phát triển văn hóa với tư cách nền tảng tinh thần của xã hội, đã luận giải sâu sắc về phát triển văn hóa với tư cách nền tảng tinh thần của xã hội, cuốn sách được chia làm ba chương. Trong chương 1, tác giả phân tích cụ thể từng khái niệm như: khái niệm văn hóa, khái niệm nền tảng tinh thần của xã hội. Tác giả đã định nghĩa: “Văn hóa là tổng thể các giá trị vật chất và tinh thần do con người tạo ra nhằm mục đích phát triển bản thân con người và xã hội”[93, tr.22]; ở những nội dung sau, tác giả nêu lên sự cần thiết phải phát triển văn hóa với tư cách nền tảng tinh thần của xã hội, thực trạng phát triển văn hóa cũng như những phương hướng và giải pháp phát triển nền văn hóa với tư cách nền tảng tinh thần của xã hội Việt Nam hiện nay. Cuốn sách giúp người đọc tiếp cận một cách đầy đủ về phát triển văn hóa, với tư cách nền tảng tinh thần của xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường đã nảy sinh nhiều mâu thuẫn, để giải quyết những mâu thuẫn ấy, từng bước xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc cần phải có thời gian lâu dài và cần sự chung sức của toàn xã hội. Tác giả Trần Quang Phúc trong cuốn Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc (Nhà xuất bản Lao Động Xã Hội, năm 2013). Đã nghiên cứu và đưa ra những kiến giải sâu sắc về các giá trị truyền thống, đặc thù của dân tộc Việt Nam. Theo Trần Quang Phúc, văn hóa khắc họa bản sắc và phương thức tồn tại của một cộng đồng, khiến cộng đồng ấy có một đặc thù riêng. Từ đó, có thể khẳng định, văn hóa mang bản sắc dân tộc. Và, yếu tố dân tộc là yếu tố quyết định nhất của một nền văn hóa. Bản sắc văn hóa dân tộc là cái “hồn”, là sức sống nội sinh, là cái thẻ căn cước của mỗi dân tộc, để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác, từ đó 13
- nó có thể biểu lộ một cách trọn vẹn nhất sự hiện diện của dân tộc mình trong quá trình giao lưu và hội nhập. Cuốn sách được chia làm ba phần: Phần thứ nhất: Một số vấn đề lý luận về bản sắc văn hóa dân tộc. Được tác giả nêu lên những quan điểm về bản sắc văn hóa dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh và những suy nghĩ trong việc kế thừa, phát huy các bản sắc văn hóa dân tộc trong thời đại mới. Trong phần thứ hai: Giữ gìn bản sắc băn hóa dân tộc. Tác giả nêu những quan điểm của Đảng ta về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; đề ra những biện pháp để giữ gìn văn hóa dân tộc trong giai đoạn hiện nay. Phần thứ ba: Những giá trị văn hóa cần phải giữ gìn. Tác giả đi vào giới thiệu cụ thể các phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo và các giá trị nghệ thuật trong nền văn hóa Việt Nam cần được phát huy, lưu giữ. Từ đó, đưa ra một số biện pháp nhằm giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc ta. Tác giả Nguyễn Văn Huyên trong bài viết Lối sống người Việt Nam dưới tác động của toàn cầu hoá (Tạp chí Triết học, số 12 năm 2013) khẳng định: các quan hệ mật thiết của truyền thống xã hội nông nghiệp xưa kia không còn đậm nét, tình cảm không những ít được quan tâm mà ngày càng bị nghèo đi, những nghĩa cử cao đẹp sẵn sàng giúp đỡ người khác lúc sa cơ, lỡ vận ngày càng phai nhạt, đây là thực trạng đáng báo động trong xã hội ta ngày nay. Tác giả Vũ Ngọc Hoàng trong bài viết Tiếp tục xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ mới. (Tạp chí Cộng sản số 855 tháng 1-2014), cho rằng: nói tới văn hóa là nói tới con người với nhân cách của họ. Nhưng những năm gần đây đạo đức xã hội, nhân cách con người có nhiều mặt xuống cấp nghiêm trọng. Từ nạn cướp của, giết người đến tham nhũng, chạy chức, chạy quyền…các hiện tượng nguy hại trên không chỉ diễn ra ở cấp cơ sở mà còn ở cán bộ lãnh đạo cấp trung và cao cấp. Nghiêm trọng hơn, nhân cách con người xuống cấp không chỉ ở một vài lĩnh vực mà còn diễn ra ở những nơi đáng lí ra phải luôn được trang nghiêm, trong sạch (như nơi nắm cán cân công lý, bảo vệ pháp luật, nơi dạy người, nơi biên soạn và tham mưu các chủ trương, chính sách cấp chiến lược…). Từ đó, tác giả chỉ ra những nguyên nhân khiến tình trạng đạo đức xã hội sút kém, đó là hệ giá trị đạo đức bị đảo lộn về vị trí, thang bậc, vì tiền con người ta đã vi phạm nhân cách. Tác giả cho rằng để giảm bớt tình trạng trên trước tiên, cần tiếp tục nhận 14
- thức sâu hơn tầm quan trọng đặc biệt của vấn đề văn hóa, đạo đức trong đời sống xã hội. Từ đó, xác định đặc điểm của nền văn hóa mà chúng ta đang xây dựng là tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong truyền thống văn hóa Việt Nam, chữ “nhân” luôn đứng vị trí hàng đầu trong thang bậc của hệ giá trị nhân cách. Ngoài ra, cũng cần bổ sung, điều chỉnh, hoàn thiện hệ giá trị nhân cách con người Việt Nam mới trong thời đại Hồ Chí Minh. Theo tác giả, chúng ta cần kế thừa tối đa các giá trị truyền thống của văn hóa đạo đức Việt Nam, như “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín …” điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với thời kỳ mới. Bài viết nêu lên việc tiếp tục xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ mới, nghiên cứu sinh có thể kế thừa để phân tích, làm rõ trong luận án của mình. Tác giả Phạm Duy Đức trong bài viết Thực trạng đời sống văn hóa Việt Nam qua gần 30 năm đổi mới. (Tạp chí Cộng sản số 862, tháng 8-2014), đã nêu khá rõ: dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam, qua gần 30 năm đổi mới lĩnh vực văn hóa đã thu được những thành tựu đáng ghi nhận, tuy nhiên nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc của chúng ta không chỉ có những thành tựu mà còn có những hạn chế nhất định. Tác giả nêu lên các lĩnh vực hoạt động văn hóa đã được phát triển một cách tương đối đồng bộ, toàn diện, vấn đề xây dựng con người như đạo đức, lối sống, phẩm chất, trí tuệ được chú trọng; môi trường văn hóa của đất nước được quan tâm xây dựng; vấn đề giữ gìn và phát huy các di sản văn hóa dân tộc đã đạt được nhiều kết quả to lớn. Bên cạnh những thành tựu nêu trên, vẫn còn nhiều những hạn chế, yếu kém. Văn hóa phát triển chưa tương xứng với kinh tế; đời sống văn hóa tinh thần ở miền núi, vùng sâu, hải đảo hay của công nhân các khu công nghiệp còn gặp nhiều khó khăn. Từ đó, tác giả nêu lên những vấn đề cần phải giải quyết trong giai đoạn 2016-2020 và những năm tiếp theo như: kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin; xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam; xây dựng nền văn hóa dân chủ, kỷ cương, văn minh, sáng tạo. Tác giả Nguyễn Thị Thường trong bài viết Toàn cầu hóa từ góc nhìn văn hóa. (Tạp chí Cộng sản số 872, tháng 6-2015), đã phân tích và đưa ra quan điểm: sự dịch chuyển biên giới về văn hóa đã tạo ra những cảm giác lo ngại, có thể trong tương lai sẽ có một nền văn hóa quốc tế xuyên bản sắc và nó cũng có thể thay thế bản sắc văn hóa dân tộc. Điều này gây nên sự bất an, lo lắng từ chủ thể các nền văn hóa. Từ thực tế trên, tác giả đặt ra câu hỏi, liệu sự du nhập của văn hóa thế giới có tạo ra một bản sắc văn hóa mới và đưa đến một nền văn hóa chung của thế giới hay không? hay lại xuất hiện những khó khăn, bất ổn và bản sắc dân 15
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục - Đào tạo với việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay
195 p | 500 | 221
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Thuyết tam tòng, tứ đức trong nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với phụ nữ Việt Nam hiện nay
174 p | 580 | 101
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc với việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay
177 p | 342 | 91
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Vai trò của nhà nước trong việc kết hợp giữa tăng trường kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái nước ta hiện nay
176 p | 275 | 83
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Phê phán quan điểm phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
155 p | 341 | 77
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Nhà nước với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay
165 p | 247 | 55
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Phê phán quan điểm phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
27 p | 223 | 24
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lãnh đạo phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn (CHDCND Lào) từ năm 1991 đến năm 2010
170 p | 158 | 20
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc với việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay
28 p | 184 | 19
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Nhà nước với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay
27 p | 170 | 19
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Thuyết tam tòng, tứ đức trong nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với phụ nữ Việt Nam hiện nay
29 p | 183 | 18
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho giảng viên các trường chính trị tỉnh khu vực đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn hiện nay
177 p | 26 | 16
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p | 154 | 12
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Xây dựng hình ảnh văn hóa Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay
220 p | 14 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Tư tưởng Triết học của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa của nó
32 p | 158 | 6
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Triết lý yêu nước Việt Nam và ý nghĩa của việc giáo dục triết lý đó cho sinh viên các trường đại học ở nước ta hiện nay
151 p | 12 | 5
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lãnh đạo phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn (CHDCND Lào) từ năm 1991 đến năm 2010
12 p | 112 | 3
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Phát huy vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội ở Tây Bắc hiện nay
27 p | 12 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn