Luận án Tiến sĩ Triết học: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức và vận dụng tư tưởng đó trong xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay
lượt xem 29
download
Luận án phân tích thực trạng việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay và nguyên nhân của thực trạng đó. Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công chức ở nước ta hiện nay.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Triết học: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức và vận dụng tư tưởng đó trong xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI NGUYỄN THỊ KHUYÊN t tëng hå chÝ minh vÒ ®¹o ®øc c«ng chøc vµ vËn dông t tëng ®ã trong x©y dùng ®¹o ®øc c«ng chøc ë viÖt nam hiÖn nay Chuyên ngành : Đạo đức học Mã số : 9 22 90 06 LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN VĂN PHÚC HÀ NỘI - 2019
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, tư liệu trong luận án đều được khai thác từ các tài liệu có nguồn gốc rõ ràng; những phát hiện nêu trong luận án là kết quả nghiên cứu của tác giả luận án. Tác giả luận án Nguyễn Thị Khuyên
- MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 5 1.1. Những nghiên cứu liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức 5 1.2. Những nghiên cứu liên quan đến thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay 9 1.3. Những nghiên cứu liên quan đến giải pháp nâng cao hiệu quả của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay 17 1.4. Đánh giá tình hình nghiên cứu và những vấn đề cần tiếp tục làm rõ trong luận án 24 Chương 2: TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÔNG CHỨC 27 2.1. Khái niệm đạo đức, đạo đức công chức, đạo đức công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh 27 2.2. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức 41 2.3. Nội dung cơ bản của đạo đức công chức và những nguyên tắc xây dựng đạo đức công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh 52 2.4. Giá trị lý luận và ý nghĩa thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức 65 Chương 3: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÔNG CHỨC TRONG XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CÔNG CHỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY- THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN 70 3.1. Những nhân tố chủ yếu tác động đến việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công chức hiện nay 70
- 3.2. Thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay 79 Chương 4: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÔNG CHỨC TRONG XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CÔNG CHỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 118 4.1. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức vị trí tầm quan trọng, nội dung của giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về công chức cho đội ngũ công chức hiện nay 118 4.2. Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, cải cách, tinh giảm, làm trong sạch bộ máy công chức hiện nay 128 4.3. Phát huy dân chủ, nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân, tham gia quản lí xã hội của nhân dân; tăng cường vai trò giám sát phản biện của các tổ chức xã hội và nhân dân đối với hoạt động của bộ máy hành chính các cấp 134 4.4. Nâng cao tính tự giác học tập và rèn luyện tu dưỡng đạo đức cách mạng cho đội ngũ công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh 142 KẾT LUẬN 149 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ 151 TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, vĩ đại khi Người bàn về đạo đức và càng vĩ đại khi Người thực hành đạo đức. Tư tưởng đạo đức và tấm gương trong sáng của Người là giá trị tinh thần vô giá của các thế hệ người Việt Nam học tập, noi theo. Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức để xây dựng đạo đức công chức hiện nay là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp trồng người của Đảng. Trong đó cán bộ công chức vừa là đối tượng vừa là chủ thể của quá trình này. Đội ngũ cán bộ công chức Việt Nam là bộ phận rường cột của hệ thống chính trị, vì thế, đạo đức của họ góp phần quan trọng, quyết định khả năng vận hành của bộ máy nhà nước và tạo dựng niềm tin của nhân dân đối với Đảng, đối với Nhà nước. Ngay từ năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh 76/SL về quy chế công chức, bước đầu xác định các vấn đề cơ bản về đội ngũ, vị trí, vai trò, nhiệm vụ và những yêu cầu năng lực, phẩm chất đối với đội ngũ cán bộ công chức trong xã hội mới. Từ đó, đội ngũ cán bộ công chức đã phát huy được vai trò của mình cùng toàn thể nhân dân đẩy mạnh công cuộc kháng chiến - kiến quốc, làm nên những kỳ tích vẻ vang của dân tộc Việt Nam ở nửa cuối thế kỷ XX. Bước sang thời kỳ đổi mới, ngày càng nhận thức rõ tầm quan trọng đặc biệt của đội ngũ công chức trong nền hành chính quốc gia, Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh cán bộ công chức và được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua, Chủ tịch nước ký Lệnh công bố ngày 9 tháng 3 năm 1998, và sửa đổi năm 2000, 2003. Luật Cán bộ công chức đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 13 tháng 11 năm 2008. Sau hơn 30 năm đổi mới chúng ta đã xây dựng được đội ngũ cán bộ công chức vừa có đức, vừa có tài, tư duy năng động và sáng tạo đã hoàn thành nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, trước một thực tế hiện nay, một bộ phận cán bộ công chức đã không giữ vững được đạo đức cách mạng, thiếu ý thức chấp hành pháp luật, thiếu ý thức tự giác học tập đạo đức, từ đó đi đến độc đoán, chuyên quyền, 1
- hách dịch lên mặt "quan cách mạng", tạo bè tạo cánh lợi dụng địa vị, chức quyền để mưu cầu lợi ích riêng. Họ đã trở thành sâu mọt của dân, vì thế việc xây dựng đạo đức cách mạng, đạo đức công chức cho đội ngũ này theo tư tưởng Hồ Chí Minh để họ hoàn thành tốt trách nhiệm của mình trước nhân dân là một yêu cầu bức thiết. Hơn nữa, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đội ngũ này không chỉ xuất phát từ sự suy thoái đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ công chức hiện nay mà còn định hướng phát triển lâu dài trong tương lai với tầm nhìn, hành động, chiến lược. Sự nghiệp đổi mới đất nước đang đi vào chiều sâu, yêu cầu cải cách hành chính và rộng hơn là yêu cầu đổi mới chính trị đòi phải có được đội ngũ công chức phát triển toàn diện vừa "hồng" vừa "chuyên", nhân cách phong phú, đáp ứng được yêu cầu hết sức nặng nề nhưng hết sức vẻ vang mà đất nước đang đặt lên vai họ. Ở đây, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận, là kim chỉ nam định hướng trong công tác xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay. Chính vì vậy, việc nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó đặc biệt là tư tưởng đạo đức của Người là điều cần thiết, ở đó có những giá trị đạo đức mà cán bộ, công chức hiện nay nên biết tới, học tập và vận dụng trong việc lựa chọn quan điểm sống và phong cách sống của mình. Người cán bộ công chức phải luôn là một gương sáng về đạo đức. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát đạo đức ấy ở 8 chữ "cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư". Mỗi cán bộ nếu nhận thức đúng vị trí của mình, giữ đúng phẩm chất cách mạng và chuẩn mực đạo đức sẽ làm cho bộ máy tổ chức luôn có được sự trong sạch, đoàn kết, vững mạnh, ở đó không có chỗ để những quốc nạn như quan liệu, tham nhũng, lãng phí có thể tồn tại. Với những lý do trên, việc nghiên cứu về đạo đức công chức nói chung và việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng đạo đức công chức trong giai đoạn hiện nay có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn. Chính vì vậy, tác giả thực hiện nghiên cứu đề tài "Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức và vận dụng tư tưởng đó trong xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay" làm đề tài luận án tiến sĩ Triết học của mình. 2
- 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích Trên cơ sở làm rõ tầm quan trọng và thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức ở Việt Nam. Luận án đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ Để thực hiện được mục đích trên, luận án có nhiệm vụ: Thứ nhất, tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, luận án đã khái quát tình hình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức. Thứ hai, làm rõ một số nội dung cơ bản xung quanh tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức. Thứ ba, phân tích thực trạng việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay và nguyên nhân của thực trạng đó. Thứ tư, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công chức ở nước ta hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng: đối tượng nghiên cứu là tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức và vận dụng tư tưởng đó trong xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay. - Phạm vi nghiên cứu: + Luận án nghiên cứu việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay. + Thời gian khảo sát tính từ năm 1986 đến nay 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án Cơ sở lý luận: Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về đạo đức, công chức và đạo đức công chức. Đồng thời luận án có kế thừa một 3
- số thành tựu của các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học có liên quan đến luận án. Phương pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng các phương pháp luận chung nhất của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn, phân tích và tổng hợp, lịch sử và logic, thống kê, đối chiếu, so sánh… ngoài ra luận án còn sử dụng kết quả nghiên cứu điều tra xã hội học của các công trình đã công bố liên quan đến đề tài. 5. Cái mới của luận án - Luận án góp phần làm rõ cơ sở hình thành, nội dung và giá trị lý luận, ý nghĩa thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức. - Luận án chỉ ra thực trạng xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức. Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công chức hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Luận án góp phần nâng cao việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức ở nước ta hiện nay nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của nền hành chính nhà nước. Kết quả nghiên cứu của luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu và giảng dạy vấn đề liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức, xây dựng đạo đức công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận án gồm 4 chương, 14 tiết. 4
- Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN Công chức là lực lượng quan trọng quyết định sự thành công của công cuộc cải cách nền hành chính Nhà nước trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đạo đức công chức luôn là vấn đề được Đảng và Nhà nước ta quan tâm hàng đầu nhằm đảm bảo hoàn thiện nền hành chính và là giải pháp hữu hiệu xây dựng thành công nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Những vấn đề này đã được các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau tùy theo từng mục đích đặt ra. Có thể hệ thống hóa một số công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án ở một số vấn đề cơ bản sau: 1.1. Những nghiên cứu liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức Ở nước ta, trong thời gian vừa qua có nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học, các nhà quản lý liên quan đến vấn đền này. Điển hình phải kể đến các công trình nghiên cứu sau: Tác giả Đức Vượng: "Hồ Chí Minh với vấn đề đào tạo cán bộ" Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 1995 [115]. Tác giả đã trình bày quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề cán bộ, vấn đề dùng người. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, vấn đề cán bộ là một trong những vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp cách mạng và đối với công tác xây dựng Đảng bởi "cán bộ là cái gốc của mọi công việc". Vì vậy, chúng ta phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi cán bộ phải thực sự trung thành với Tổ quốc và nhân dân; kiên quyết làm đúng chính sách, nghị quyết của Đảng; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, trung thực, khiêm tốn, giản dị, gương mẫu trước nhân dân, có mối quan hệ mật thiết với nhân dân, đi sâu đi sát thực tế, gần gũi nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đủ năng lực phụ 5
- trách, giải quyết những công việc được giao phó; tích cực học tập, rèn luyện, không ngừng nâng cao trình độ và năng lực công tác. Vấn đề đạo đức công vụ cũng thu hút sự quan tâm của tác giả Trần Văn Phòng (2003), Tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ lãnh đạo chính trị hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị, số 5 [81]. Tác giả cho rằng tiêu chuẩn cán bộ được xác định tùy thuộc vào nhiệm vụ chính trị của từng thời kì.Mỗi thời kỳ sẽ có những tiêu chuẩn và yêu cầu cụ thể. Với nhiệm vụ chính trị của Đảng ta hiện nay, trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, lãnh đạo xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì tiêu chuẩn chung của cán bộ là: Có bản lĩnh chính trị vững vàng. Có đạo đức, lối sống lành mạnh, kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Có tư duy đổi mới, sáng tạo. Dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Nắm chắc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Có kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Có tinh thần đoàn kết, hợp tác, có ý thức tổ chức kỷ luật. Có phong cách làm việc khoa học, gắn bó với nhân dân. Tác giả Thành Duy và Lê Quý Đức (2007) "Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh - Xây dựng nền văn hóa ở nước ta hiện nay", Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội [21]. Các tác giả đã hệ thống tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và khẳng định: Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương trọn đời phấn đấu hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Tác giả Hoàng Trung (2010) "Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh qua các phạm trù mà Người sử dụng", Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh [106], tác giả đã chỉ ra những phạm trù đạo đức cơ bản mà Hồ Chí Minh sử dụng, vận dụng và phát triển tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay. Từ đó, tác giả nhấn mạnh mỗi người Việt Nam cần phải tiếp tục tuyên truyền, giáo dục và thực hiện ngày càng sâu rộng trong các phạm trù đạo đức mà Người đã sử dụng, thường xuyên đấu tranh chống lại các biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân. 6
- Cũng nghiên cứu về vấn đề này, các tác giả Nguyễn Đăng Thành, Võ Kim Sơn (chủ biên, 2012) giáo trình "Đạo đức công vụ" Nxb Lao động [95], gồm 7 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về đạo đức, tác giả cũng đề cập đến mối quan hệ giữa đạo đức và các hình thái ý thức xã hội khác; những khía cạnh liên quan đến đạo đức cá nhân; đạo đức tổ chức và đạo đức xã hội. Chương 2: Đạo đức người làm việc cho nhà nước và tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức. Các tác giả cho rằng, đạo đức người làm việc cho nhà nước phải trở thành tấm gương; chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật nhà nước; chấp hành một cách tự giác những nét biểu hiện văn hóa đạo đức được xã hội tôn trọng. Chương 3: Đạo đức nghề nghiệp. Tác giả cho rằng: Đạo đức nghề nghiệp chính là tập hợp tất cả những hành vi được coi là phù hợp với các nhân viên, người lao động trong một công ty, doanh nghiệp. Chương 4: Đạo đức thực thi công vụ của công chức, đạo đức thực thi công vụ của công chức. Tác giả đã nhấn mạnh các yếu tố đạo đức công vụ là công việc và con người thực thi công việc đó. Đạo đức công vụ trước hết được hình thành từ đạo đức cá nhân của công chức; đạo đức công vụ được hình thành từ khía cạnh đạo đức xã hội của công chức, đạo đức công vụ là đạo đức nghề nghiệp đặc biệt - công vụ của công chức….đạo đức thực thi công vụ là sự hài hóa của các giá trị. Chương 5: Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong thực thi công vụ: Đạo đức công vụ trước hết là đạo đức cách mạng: trung với nước, hiếu với dân; cần, kiệm, liêm, chính; chí công vô tư, nhân, nghĩa, trí, dũng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng đề cập một nội dung mới, phản ánh đạo đức cao rộng hơn là "trung với nước hiếu với dân". Đó là một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức. Nội dung chủ yếu của "trung với nước" là: trong mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng và xã hội, phải biết đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết, trước hết; Quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu cách mạng; Thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. 7
- Một phẩm chất đạo đức nữa luôn gắn liền với những hoạt động hàng ngày của Chủ tịch Hồ Chí Minh và luôn được đề cập nhiều nhất, thường xuyên nhất là Cần Kiệm - Liêm Chính - Chí Công - Vô Tư. Hồ Chí Minh đã sử dụng những khái niệm cần kiệm liêm chính, chí công vô tư của đạo đức phương Đông và đạo đức truyền thống Việt Nam. Chương 6: Pháp luật về đạo đức công vụ. Tác giả đưa ra những nguyên tắc chung để xây dựng pháp luật về đạo đức công vụ: Chương 7: Pháp luật về đạo đức của một số nước lựa chọn như: Trung Quốc, Liên Bang Nga, Thái Lan, và đạo đức công vụ của các nước thuộc khối OECD. Tác giả Vũ Khiêu (2014) - một học giả lớn đã có nhiều công trình, bài viết về tư tưởng Hồ Chí Minh cho ra đời cuốn "Học tập đạo đức Bác Hồ", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội [48]. Cuốn sách trình bày ngắn gọn, súc tích nhưng vô cùng sâu sắc về tấm gương, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, về vấn đề học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong sự nghiệp của nhân dân ta ngày nay. Trong tác phẩm này, tác giả đã đề cập, phân tích sâu sắc, minh chứng rõ ràng về nội dung tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong một số lĩnh vực, đó là: Đạo đức trong lao động, đạo đức trong chiến đấu, đạo đức trong học tập… Tác giả Nguyễn Thị Kim Dung, "Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sử dụng cán bộ" Tạp chí Lý luận chính trị số 6-2013 [20]. Tác giả đã chỉ ra quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cách sử dụng cán bộ như: phải khéo dùng cán bộ. Trong công tác cán bộ phải "khéo dùng", là phải dùng đúng người, đúng việc, đúng năng lực, sở trường, làm cho cán bộ vui vẻ, thoải mái, yên tâm công tác và hăng hái thi đua cống hiến sức mình cho sự nghiệp cách mạng. Phải tin tưởng, yêu thương, giúp đỡ cán bộ. Tin tưởng cán bộ là sự tôn trọng phẩm chất, năng lực của cán bộ. Tin tưởng trao việc cho họ, "thả cho họ làm", "thả cho họ phụ trách", không bao biện làm thay. Có như vậy, họ mới phấn khởi, mạnh dạn, tin vào năng lực của mình, dám làm dám chịu trách nhiệm. Phải kết hợp giữa cán bộ lớn tuổi và cán bộ trẻ, lớp cán bộ cũ và cán bộ mới, tạo nguồn cán bộ kế cận để bảo đảm sự chuyển giao công việc, phải bồi 8
- dưỡng cán bộ cách mạng cho đời sau vượt qua khó khăn để vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ. Trong công tác cán bộ, cần phải chú trọng thực hiện việc luân chuyển cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác của cán bộ. Thông qua thực tiễn để rèn luyện, thử thách cán bộ, làm cho cán bộ thích ứng với nhiệm vụ Đảng giao, phát huy năng lực của mình ở mức cao hơn trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Qua việc luân chuyển cán bộ, phát hiện được điểm mạnh, điểm yếu của họ về năng lực và phẩm chất để từ đó bổ nhiệm công tác phù hợp hơn. Trách nhiệm của công chức là phạm trù quan trọng trong đời sống xã hội, từ trách nhiệm đối với bản thân, đối với cộng đồng xã hội mà mỗi cán bộ, công chức đều phải đảm trách một công việc nhân danh công quyền, nhất định phải thực hiện và gánh vác. Như vậy, các công trình trên đã nghiên cứu đạo đức công chức ở những khía cạnh khác nhau nhằm góp phần giải quyết những vấn đề cấp thiết của thực tiễn đạo đức công chức trong nền công vụ Việt Nam và góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, thực tiễn của đạo đức công chức ở nước ta hiện nay. Những công trình này ở một mức độ nhất định đã đề cập đến một số phương diện trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức. Những công trình đó đã gợi mở cho tôi nhiều ý tưởng quan trọng, đồng thời là nguồn tư liệu quý báu trong quá trình tôi thực hiện đề tài của mình. Tuy nhiên, những công trình trên do khuôn khổ và mục đích riêng, chưa làm sáng tỏ được tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức, cũng như chưa vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công chức trong điều kiện hiện nay. 1.2. Những nghiên cứu liên quan đến thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay Trong những năm qua, cùng với công cuộc đổi mới phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, vấn đề văn hóa, tư tưởng, đạo đức, đạo đức công chức cũng 9
- được quan tâm cả trên lĩnh vực lý luận lẫn thực tiễn. Điển hình là các công trình nghiên cứu vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức: Cuốn sách "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề cán bộ và công tác cán bộ trong sự nghiệp đổi mới hiện nay", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997. Cuốn sách được biên soạn trên cơ sở hội thảo khoa học: "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ trong sự nghiệp đổi mới hiện nay". Các tham luận đã đề cập đến nhiều vấn đề cơ bản như: cơ sở lý luận và thực tiễn hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ, tiêu chuẩn cán bộ, công tác đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng và chính sách cán bộ… các ý kiến tham luận đã làm rõ thêm sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay đồng thời đưa ra những giải pháp, những kiến nghị nhằm góp phần đổi mới công tác tổ chức và đào tạo cán bộ trong thời gian tới. Tác giả Nguyễn Chí Mỳ (chủ biên, 1999) "Sự biến đổi thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới chi cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay" Nxb Chính trị quốc gia [75], gồm ba phần: Phần 1, Đạo đức mới trong nền kinh tế thị trường Phần 2, Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa Phần 3, Xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý trong nền kinh tế thị trường phương hướng và giải pháp hình thành thang giá trị đạo đức mới, tác giả đưa ra yêu cầu đối với cán bộ quản lý trong đó có công chức: tác giả đã phân tích sự thoái hóa về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên đã ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, làm giảm sút lòng tin của nhân dân, tổn thương mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, hạ thấp sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo của Đảng. Những biểu hiện rõ nhất của sự thoái hóa về đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý là chủ nghĩa cá nhân, cục bộ, thực dụng, đang có xu hướng gia tăng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ về tác hại của chủ nghĩa cá nhân: Chủ nghĩa cá nhân đẻ trăm thứ bệnh nguy hiểm: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí... 10
- Tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Phúc (đồng chủ biên, 2003), "Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội [14]. Cuốn sách gồm ba phần: Phần 1: Những tác động của nền kinh tế thị trường đối với đạo đức. Các tác giả đã phân tích những tác động của kinh tế thị trường đến đạo đức xã hội Việt Nam hiện nay và khẳng định kinh tế thị trường đang có những tác động tích cực và tiêu cực tới đời sống đạo đức xã hội Việt Nam. Tác động tích cực của kinh tế thị trường là làm cho con người chủ động, tích cực, ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân không ngừng được nâng lên. Những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường đến đời sống đạo đức xã hội Việt Nam như: lối sống chạy theo đồng tiền, thực dụng, tệ nạn xã hội có xu hướng gia tăng; điều đó cũng tác động đến một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức. Kinh tế thị trường đòi hỏi và tạo điều kiện cho công chức thực hiện công vụ tốt hơn. Nhưng mặt trái của kinh tế thị trường cũng khiến nhiều công chức sa ngã, chạy theo lợi ích cá nhân, tham nhũng, sách nhiễu nhân dân, trái với tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức. Phần 2: Vai trò của đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường. Các tác giả đã lý giải vai trò của đạo đức với tư cách là động lực tinh thần của sự phát triển kinh tế - xã hội, yêu cầu đẩy mạnh công tác giáo dục đạo đức mới thích ứng với kinh tế thị trường. Phần 3: Xây dựng đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Các tác giả phân tích những giải pháp kinh tế, xã hội và những giải pháp giáo dục trong việc xây dựng đạo đức vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường. Tác giả Bùi Thế Vĩnh (chủ biên), (2003) "Xây dựng đạo đức cán bộ, công chức Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế" Nxb Thống kê [114]. Tác giả hệ thống hóa những vấn đề cơ bản của đạo đức cán bộ công chức từ những chỉ dẫn của C.Mác, Ph.Ăngghen đến V.I.Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời, bước đầu cũng đã đưa ra một số giải pháp xây dựng đạo đức cán bộ, công chức trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Đánh giá thực 11
- trạng đạo đức cán bộ, công chức vào những năm 2002 về trước theo những tiêu chí, những yêu cầu của Hồ Chí Minh về đạo đức công chức. Tác giả đề cập đến việc xây dựng đạo đức của cán bộ công chức trong thời kỳ đổi mới phải mang tính chất toàn diện, nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho đội ngũ cán bộ công chức đồng thời đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng và hoàn thiện hệ thống pháp luật và những văn bản quy định về chế độ công vụ… Tác giả Nguyễn Trọng Điều (2003)"Nâng cao phẩm chất và năng lực đội ngũ cán bộ công chức đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế", Tạp chí cộng sản, số 18 [31], tác giả cho rằng: đối với cán bộ hoạt động trong lĩnh vực hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi: Người đứng đầu trong một tổ chức phải là người có đủ năng lực và phẩm chất. Phải chú trọng cả năng lực chuyên môn và năng lực tổ chức, điều hành. Trong công tác thực thi chính sách hội nhập kinh tế quốc tế cần lựa chọn và bố trí những cán bộ có trình độ, năng lực chuyên môn giỏi về luật pháp, kinh tế, thương mại quốc tế, có kinh nghiệm thực tiễn, nhất là có bản lĩnh và khả năng đàm phán độc lập nhằm chủ động giành thắng lợi trước đối tác theo nguyên tắc cùng có lợi". Đội ngũ các cán bộ hỗ trợ phải năng động, thích ứng với môi trường đối ngoại. Tác giả Lương Đình Hải (2004), "Mấy vấn đề về phẩm chất đạo đức của cán bộ, Đảng viên trong thời kỳ đổi mới", Tạp chí Triết học, số 5 [37]. Tác giả đã chỉ ra những biểu hiện suy thoái về phẩm chất đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên do nhiều nguyên nhân, có cả nguyên nhân chủ quan lẫn nguyên nhân khách quan: xét đến cùng, đời sống đạo đức của cán bộ, đảng viên hiện nay là sản phẩm của tình hình kinh tế nước ta. Tính chất đan xen hết sức phức tạp của các loại hình kinh tế đang tồn tại ở nước ta tạo nên sự hòa quyện, bài trừ nhau giữa các hệ giá trị, chuẩn mực đạo đức khác nhau trong đời sống xã hội. Điều đó làm cho sự suy thoái và xuống cấp đạo đức của cán bộ, đảng viên có thêm cơ hội phát triển và biểu hiện dưới những biến thể khác nhau. Tác giả cũng cho rằng: vấn đề rèn luyện, bồi dưỡng đạo đức cách mạng đang là vấn đề quan trọng và cấp bách hàng đầu, có quan hệ trực tiếp đến uy tín, thanh danh, chất lượng và vai trò lãnh đạo của Đảng đến sự thành bại của công cuộc đổi mới trong tương lai. Vì vậy, tác giả đã 12
- đưa ra các chuẩn mực đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh như: Trung với nước, hiếu với dân; thực hiện cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân; lao động sáng tạo, có hiệu quả cao. Tác giả Nguyễn Thế Kiệt (chủ biên) (2005) "Đạo đức người cán bộ lãnh đạo chính trị hiện nay. Thực trạng và giải pháp" Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội [49]. Tác giả đã phân tích vai trò, nội dung và yêu cầu về đạo đức của người cán bộ lãnh đạo chính trị ở Việt Nam hiện nay, khẳng định tầm quan trọng của đạo đức người cán bộ lãnh đạo chính trị hiện nay: đạo đức cách mạng của người cán bộ lãnh đạo chính trị là phải nêu gương cho quần chúng noi theo trong quá trình xây dựng lối sống mới, xây dựng các quan hệ xã hội mới và là nhân tố tác động tích cực quyết định trực tiếp trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng và tệ nạn xã hội hiện nay; cũng như vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội, hoàn thiện con người, mà trước hết nó là mục tiêu và động lực xây dựng, phát triển hoàn thiện đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị. Tác giả nêu lên thực trạng đạo đức của người cán bộ lãnh đạo chính trị trước tình hình phát triển của đất nước, người cán bộ lãnh đạo chính trị phải giữ được những phẩm chất như: Lòng trung thành với lý tưởng của Đảng, tính trung thực, tinh thần dân chủ, lòng yêu nước, tính nguyên tắc, lòng dũng cảm, lòng nhân ái, tính khiêm tốn. Mặt khác, tác giả cũng đã xác định một số phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị ở Việt Nam. Tác giả Trần Đình Huỳnh (2005) "Hồ Chí Minh kiến trúc sư lỗi lạc của nền hành chính nhà nước Việt Nam", Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội [44], khẳng định vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc xây dựng nền hành chính Việt Nam, tác giả đã chỉ rõ: theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người ta bất cứ ai cũng phải có đạo đức công dân, đạo đức công dân chính là đạo đức làm người trong một Nhà nước dân chủ. Đạo đức cách mạng, đồng nhất với đạo đức công chức. Bất kỳ cán bộ, công chức nào cũng phải xác định mình là một người đứng trong hàng ngũ cách mạng, là làm cách mạng và phải có đạo đức cách mạng là: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, nhân, nghĩa, trí, dũng, tín, trung với nước, hiếu với dân. Trong công trình này tác giả đã chỉ ra một số 13
- thành tựu cũng như những hạn chế trong thực trạng xây dựng đạo đức công chức theo các tiêu chí: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Các nguyên nhân của thành tựu bao gồm: nhận thức đầy đủ hơn tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức, cải cách hành chính đã có bước phát triển; công tác giáo dục đạo đức công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh đang từng bước đi vào thực chất… Tác giả cũng chỉ ra những hạn chế trong nhận thức của các cấp lãnh đạo, những hạn chế trong cải cách hành chính, những hạn chế về mặt pháp luật, những hạn chế trong các nội dung và hình thức giáo dục cũng như những hạn chế của một bộ phận cán bộ, công chức trong việc rèn luyện đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Nghiên cứu về vấn đề này, luận văn thạc sỹ của tác giả Phan Kiều Thanh Hương (2010), "Đạo đức công vụ trong hoạt động quản lý nhà nước ở Thành phố Hồ Chí Minh" [46]. Trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh, tác giả đã đánh giá nhận thức của công chức về nội dung thực hiện đạo đức của công chức được quy định trong điều 15 Luật cán bộ, công chức năm 2008. Khẳng định công chức phải có đức có tài, lấy đức là chính, khắc phục mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, xa rời quần chúng, quan liêu, tham nhũng, vô trách nhiệm, chia rẽ, cục bộ địa phương. Mức độ quan tâm của nhân dân trong việc thực hiện đạo đức công vụ trong quản lý nhà nước của công chức. Tác giả cho rằng cán bộ công chức không những phải đáp ứng yêu cầu về trình độ chuyên môn nghiệp vụ mà còn phải đáp ứng yêu cầu về phẩm chất đạo đức. Từ đó tác giả chỉ ra nguyên nhân của thực trạng về thực hiện đạo đức công vụ và đề ra giải pháp nâng cao trách nhiệm, thực thi đạo đức công vụ của công chức trong hoạt động quản lý nhà nước ở Thành phố Hồ Chí Minh. Tác giả Nguyễn Thế Kiệt (2011)"Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với việc nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay", Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội [50]. Tác giả đã nêu lên thực trạng và đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ lãnh đạo quản lý ở Việt Nam hiện nay dưới ánh sáng của đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh. Tác giả khẳng định: việc học tập tư tưởng đạo đức 14
- Hồ Chí Minh nhằm để khắc phục hàng loạt các hiện tượng tiêu cực của xã hội hôm nay cũng như là một nhiệm vụ cần thiết để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới của đất nước. Tác giả Trần Đình Thắng "xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên gắn với việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng", Tạp chí Tổ chức nhà nước số 4/2012 [99]. Tác giả đã chỉ ra rằng theo Hồ Chí Minh đạo đức là nền tảng của người cách mạng, người cán bộ, đảng viên phải có đạo đức cách mạng thì mới tận tâm, tận tụy với cách mạng, với công việc mới lãnh đạo được quần chúng và đưa cách mạng đến thắng lợi. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên phải là đạo đức vì dân, vì nước; đạo đức phục vụ sự nghiệp cách mạng, phục vụ nhân dân. Nhân dân nhìn vào Đảng là nhìn vào đội ngũ cán bộ, đảng viên và trước hết là nhìn vào tư cách đạo đức của họ, vì vậy cán bộ, đảng viên có đạo đức tốt mới lôi kéo được quần chúng , tập hợp được lực lượng cho cách mạng. Luận án Tiến sĩ Triết học "Trách nhiệm công vụ và đạo đức công chức ở nước ta hiện nay" (2012) tác giả Cao Minh Công [16] đã phân tích thực trạng của đạo đức công chức ở nước ta hiện nay và đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao trách nhiệm công vụ và đạo đức công chức ở nước ta hiện nay nhằm phục vụ công cuộc cải cách nền hành chính nhà nước theo hướng chuyên nghiệp, chuyển từ mệnh lệnh hành chính sang phục vụ nhân dân. Theo tác giả thể chế hành chính nhà nước trong mối quan hệ với nhân dân thời gian qua đã góp phần khắc phục tính quan liêu, hách dịch của một bộ phận công chức, từng bước hướng đến nền công vụ minh bạch, dân chủ, phục vụ nhân dân. Công chức có đạo đức trong thực thi công vụ, thể hiện lương tâm, trách nhiệm của mình vì lợi ích chung của xã hội, của nhân dân, ý thức rõ về cái cần phải làm và mong muốn được làm vì nhân dân, phục vụ nhân dân một cách liêm chính nhất. Đa số công chức dù làm việc ở những vị trí khác nhau đều có cống hiến nhất định cho dân tộc, góp phần phục vụ nhân dân. Cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính nhà nước từ Trung ương đến địa phương được điều chỉnh, sắp xếp tinh gọn, hợp lý hơn. Tác giả cũng đề cập đến một số hạn chế trong xây dựng 15
- đạo đức công chức đó là: đạo đức công chức chưa thể hiện rõ ràng ở việc cải cách thể chế; chất lượng đội ngũ cán bộ công chức vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước trong cơ chế mới; đạo đức và thái độ phục vụ nhân dân của một bộ phận công chức còn yếu kém; chế độ tiền lương đối với công chức chưa có bước đột phá tích cực; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí làm cản trở quá trình phát triển của Việt Nam, đi ngược lại với mục tiêu nâng cao trách nhiệm công vụ và đạo đức công chức. Luận án Tiến sĩ triết học "Đạo đức công chức và vấn đề xây dựng đạo đức công chức trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay" của Lê Thị Hằng (2014) [40]. Tác giả đã hệ thống hóa những chuẩn mực cơ bản của đạo đức công chức, điều chỉnh hành vi của cán bộ công chức trong điều kiện kinh tế thị trường. Luận án tiến sĩ Triết học "Vấn đề kế thừa, phát triển một số phạm trù cơ bản của đạo đức Nho giáo trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh" của Nguyễn Thị Hồng Doan (2015) [18] đã nghiên cứu sự kế thừa, phát triển một số phạm trù cơ bản của đạo đức Nho giáo (Nhân, Trí, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín; Trung, Hiếu; Cần, Kiệm, Liêm, Chính) trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, từ đó rút ra ý nghĩa lý luận và thực tiễn của việc kế thừa, phát triển đó đối với giáo dục đạo đức, lối sống cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong đó có công chức ở nước ta hiện nay. Trong các công trình trên, các tác giả đã đưa ra những chuẩn mực đạo đức, những nguyên tắc và yêu cầu đạo đức cách mạng của cán bộ, lãnh đạo quản lý. Các tác giả cũng thống nhất khi luận giải việc giáo dục đạo đức nói chung và giáo dục đạo đức cách mạng nói riêng phải trên cơ sở của môi trường kinh tế, văn hoá xã hội nhất định. Từ đó đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ lãnh đạo quản lý hiện nay. Như vậy, trong các công trình nêu trên, với những mục đích và phạm vi khác nhau các tác giả đã trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng đạo đức công chức. Đánh giá thực trạng, các tác giả đã phân tích những hoạt động nghiên cứu, hệ thống hóa các yêu cầu, các chuẩn mục đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh và việc vận dụng các yêu cầu, các chuẩn mục đó trong xây dựng các chuẩn mực cũng như thực hiện các 16
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục - Đào tạo với việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay
195 p | 501 | 221
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Thuyết tam tòng, tứ đức trong nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với phụ nữ Việt Nam hiện nay
174 p | 586 | 101
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc với việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay
177 p | 347 | 91
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Vai trò của nhà nước trong việc kết hợp giữa tăng trường kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái nước ta hiện nay
176 p | 277 | 83
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Phê phán quan điểm phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
155 p | 344 | 77
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Nhà nước với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay
165 p | 248 | 55
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Phê phán quan điểm phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
27 p | 224 | 24
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lãnh đạo phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn (CHDCND Lào) từ năm 1991 đến năm 2010
170 p | 158 | 20
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Thuyết tam tòng, tứ đức trong nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với phụ nữ Việt Nam hiện nay
29 p | 193 | 19
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc với việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay
28 p | 184 | 19
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Nhà nước với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay
27 p | 171 | 19
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho giảng viên các trường chính trị tỉnh khu vực đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn hiện nay
177 p | 26 | 16
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p | 154 | 12
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Xây dựng hình ảnh văn hóa Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay
220 p | 14 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Tư tưởng Triết học của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa của nó
32 p | 162 | 6
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Triết lý yêu nước Việt Nam và ý nghĩa của việc giáo dục triết lý đó cho sinh viên các trường đại học ở nước ta hiện nay
151 p | 12 | 5
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lãnh đạo phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn (CHDCND Lào) từ năm 1991 đến năm 2010
12 p | 113 | 3
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Phát huy vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội ở Tây Bắc hiện nay
27 p | 16 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn