intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Văn học: Đặc trưng hậu hiện đại trong tiểu thuyết John Maxwell Coetzee

Chia sẻ: Buctranhdo Buctranhdo | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:207

102
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận án nhằm tìm ra những đặc trưng hậu hiện đại trong 6 tiểu thuyết được dịch ở tiếng Việt của nhà văn Nam Phi Coetzee. Từ đó khẳng định, Coetzee là nhà văn hậu hiện đại tài hoa, dị biệt của văn chương thế giới thế kỷ XXI.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Văn học: Đặc trưng hậu hiện đại trong tiểu thuyết John Maxwell Coetzee

  1. ĐẠI HỌC HUẾ TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM CHU ĐÌNH KIÊN ĐẶC TRƯNG HẬU HIỆN ĐẠI TRONG TIỂU THUYẾT CỦA JOHN MAXWELL COETZEE LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC HUẾ, 2020
  2. ĐẠI HỌC HUẾ TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM CHU ĐÌNH KIÊN ĐẶC TRƯNG HẬU HIỆN ĐẠI TRONG TIỂU THUYẾT CỦA JOHN MAXWELL COETZEE Ngành: LÝ LUẬN VĂN HỌC Mã số: 9220120 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC 1. PGS.TS BỬU NAM 2. PGS.TS TRẦN THỊ SÂM HUẾ, 2020
  3. LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận án tiến sĩ này, tôi xin trân trọng cảm ơn lãnh đạo Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế; lãnh đạo Trường Cao đẳng Sư phạm Thừa Thiên Huế đã tạo những điều kiện tốt nhất trong quá trình học tập và nghiên cứu. Cảm ơn quý Thầy, Cô giáo đã nhiệt tình trực tiếp giảng dạy, trao đổi, góp ý chuyên môn để tôi có được kết quả như ngày hôm nay. Tôi bày tỏ lòng biết ơn đặc biệt đến PGS.TS Bửu Nam, PGS.TS Trần Thị Sâm, những người đã đặt trọn niềm tin vào Nghiên cứu sinh cũng như tận tâm chỉ dẫn tôi từ những ngày còn là sinh viên đến khi hoàn thành luận án. Tri ân đến Thầy và Cô tình cảm sâu sắc nhất. Cuối cùng, xin cảm ơn đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, sinh viên luôn động viên, khuyến khích, ủng hộ tôi trong quá trình thực hiện luận án. Tác giả luận án Chu Đình Kiên
  4. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận án là trung thực, đảm bảo độ chính xác cao nhất có thể. Các tài liệu tham khảo, trích dẫn có xuất xứ rõ ràng. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính trung thực của công trình nghiên cứu. Tp Huế, tháng ... năm 2020 Tác giả Chu Đình Kiên
  5. DANH MỤC VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN 1. Nhà xuất bản: Nxb 2. John Maxwell Coetzee: Coetzee 3. Trang: tr. 4. Người kể chuyện: NKC (Phần in đậm trong Luận án là những nội dung nhấn mạnh của chúng tôi)
  6. NHÀ VĂN JOHN MAXWELL COETZEE (nguồn: https://www.azkunazentroa.eus/az/ingl/activities/encuentro-con-jm- coetzee/al_evento_fa)
  7. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài .................................................................................................. 1 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 2 3. Mục đích nghiên cứu ........................................................................................... 2 4. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu ...................................................... 2 5. Đóng góp của luận án .......................................................................................... 3 6. Cấu trúc luận án................................................................................................... 4 NỘI DUNG ................................................................................................................ 5 Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ....................................... 5 1.1. Tình hình nghiên cứu lý thuyết văn học hậu hiện đại ...................................... 5 1.1.1. Tình hình nghiên cứu lý thuyết văn học hậu hiện đại trên thế giới ........... 5 1.1.2. Tình hình nghiên cứu lý thuyết văn học hậu hiện đại ở Việt Nam ........... 8 1.2. Tình hình nghiên cứu về Coetzee................................................................... 13 1.2.1. Nghiên cứu về Coetzee trên thế giới ....................................................... 13 1.2.2. Nghiên cứu về Coetzee ở Việt Nam ........................................................ 24 Chƣơng 2. ĐẶC TRƢNG HẬU HIỆN ĐẠI TRONG TIỂU THUYẾT CỦA COETZEE NHÌN TỪ TÂM THỨC HẬU THUỘC ĐỊA .......................... 33 2.1. Chế độ Apartheid/hậu Apartheid ở Nam Phi ................................................. 34 2.1.1. Đại tự sự Apartheid - thời kỳ lịch sử bạo lực .......................................... 36 2.1.2. Hậu Apartheid - thời kỳ lịch sử bất ổn .................................................... 39 2.2. Tâm thức lưu vong và ngụ ngôn chính trị ...................................................... 47 2.2.1. Tâm thức lưu vong và lịch sử “đen” - “trắng” ........................................ 47 2.2.2. Ngụ ngôn đen (allegory) chính trị Nam Phi ............................................ 56 2.3. Diễn ngôn “kẻ mạnh”, “kẻ khác” ................................................................... 61 2.3.1. Diễn ngôn “kẻ mạnh” - người da trắng và mặc cảm phạm tội ................ 62 2.3.2. Diễn ngôn “kẻ khác” - người da đen bản xứ và mặc cảm trả thù............ 65 Chƣơng 3. ĐẶC TRƢNG HẬU HIỆN ĐẠI TRONG TIỂU THUYẾT CỦA COETZEE NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN NHÂN VẬT ......................................... 71 3.1. Kiểu con người phi lí, hoài nghi hậu hiện đại gắn với cảm thức hậu thực dân .......................................................................................................... 71 3.1.1. Con người phi lí mang ý thức phản tỉnh .................................................. 72 3.1.2. Con người hoài nghi, cô đơn ................................................................... 77 3.2. Kiểu con người bị ruồng bỏ, bị chấn thương gắn với cảm thức lưu vong ..... 82 3.2.1. Con người bị ruồng bỏ............................................................................. 82 3.2.2. Con người bị chấn thương ....................................................................... 88
  8. 3.3. Kiểu con người tính dục, khao khát tự do và hành trình trở về thiên nhiên gắn với cảm thức sinh thái ........................................................................................... 91 3.3.1. Con người tính dục, khao khát tự do ........................................................... 91 3.3.2. Con người hành trình trở về thiên nhiên gắn với cảm thức sinh thái.......... 97 Chƣơng 4. KỸ THUẬT TRẦN THUẬT HẬU HIỆN ĐẠI TRONG TIỂU THUYẾT CỦA COETZEE .................................................................................. 104 4.1. Kỹ thuật sử dụng người kể chuyện trong tiểu thuyết của Coetzee .............. 104 4.1.1. Người kể chuyện và tính chất lưỡng phân ngôi kể................................ 104 4.1.2. Điểm nhìn đa chiều và người kể chuyện không đáng tin cậy ............... 111 4.2. Kỹ thuật trần thuật gắn với tọa độ không - thời gian trong tiểu thuyết của Coetzee ................................................................................................................ 115 4.2.1. Kỹ thuật trần thuật thời gian gắn với hành trình trải nghiệm từ trung tâm đến ngoại vi ..................................................................................................... 115 4.2.2. Kỹ thuật trần thuật gắn với tọa độ không gian vòng tròn mê cung và thời gian phân mảnh đồng hiện ............................................................................... 120 4.3. Các kỹ thuật trần thuật khác trong tiểu thuyết của Coetzee ......................... 125 4.3.1. Siêu hư cấu trong tiểu thuyết của Coetzee ............................................ 125 4.3.2. Kỹ thuật sử dụng giọng điệu hoài nghi, chua chát ................................ 128 4.3.3. Trò chơi nhại, lối viết tự truyện tiểu sử và thủ pháp giản lược ............. 132 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 144 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ..................................................................................................... 148 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 149
  9. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Thế kỷ XX là thời đại của sự bùng nổ công nghệ, tri thức, các ngành khoa học tự nhiên, trí tuệ nhân tạo và cả khoa học xã hội. Sức sản xuất và năng lượng xã hội được tạo ra bằng cả mười chín thế kỷ cộng lại. Đồng thời với sự phát triển đó là những biến đổi nhanh chóng trong đời sống xã hội. Các quan niệm về văn hóa, chính trị, kinh tế, tôn giáo, sắc tộc… cũng thay đổi sâu sắc, nhất là ở phương Tây. Tác động của cuộc cách mạng hậu công nghiệp ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống văn chương nói chung, lý luận phê bình văn học nói riêng. Sự xuất hiện hàng loạt thuật ngữ, các trường phái phê bình văn học trong thời gian gần đây đã chứng minh điều đó. Thuật ngữ chủ nghĩa hậu hiện đại (postmodernism) ra đời cuối thế kỷ XIX, được xây dựng, phát triển, có nhiều thành tựu nổi bật ở thế kỷ XX, XXI và nhanh chóng trở thành một trào lưu lý luận ngự trị, uy tín, tiên phong ở hầu khắp các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, triết học, đạo đức, tôn giáo, giáo dục, nghệ thuật,… trong đó có lý luận phê bình văn học. 1.2. Hậu hiện đại là thuật ngữ đa bội, không đơn thuần là trường phái lý thuyết phê bình văn học mà cao hơn đó là hệ thống triết - mỹ học, là nền tảng văn hóa mới, hay đó là một hệ hình (paradigm) tư duy và tri thức mới. Xuất phát từ nhiều quan điểm khác nhau của các nhà cấu trúc luận, hiện tượng học cho đến giải cấu trúc, tường giải học, phân tâm học, ngôn ngữ học, kí hiệu học, tân Marxism, nữ quyền luận… nhưng cốt lõi hậu hiện đại là triết học ngôn ngữ. Điểm xuất phát phong phú, phức tạp và chưa đông cứng, chủ nghĩa hậu hiện đại trong triết học cũng như trong ngôn ngữ chủ yếu xoay quanh việc truy vấn bản chất của ngôn từ, văn bản, sự phản kháng chống lại các đại tự sự (grand narrative)… Hậu hiện đại là một lý thuyết chưa đông cứng, đang ở thì hiện tại hoàn thành tiếp diễn, vẫn còn nhiều địa hạt cho các chủ thể sáng tạo. Chưa đi đến hồi kết, nhưng lý luận, nghiên cứu, sáng tạo văn chương hậu hiện đại đã có nhiều hiện tượng tiêu biểu. Xuất hiện nhiều nhà văn sáng tác theo khuynh hướng hậu hiện đại như Patrick White, Gabriel García Márquez, Umberto Eco, Italo Calvino, Don Richard DeLillo, Coetzee, Murakami Haruki,… Điều này đã cho thấy sự thay đổi phương pháp sáng tác của văn chương thế giới đương đại. Nghiên cứu một tiểu thuyết gia đạt giải Nobel Văn học như Coetzee là một việc làm thú vị và cần thiết không chỉ đối với lí luận phê bình Việt Nam mà còn góp phần làm phong phú cho học thuật thế giới. Với mục đích xác lập những đặc trưng nghệ thuật trong một số tiểu thuyết của Coetzee; chúng tôi đi tìm và cố gắng lí giải những ẩn ngữ bên trong con người nhiều tâm sự đối thoại được bao bọc bởi khuôn mặt lạnh lùng, lối sống khép kín và thứ văn chương đầy quyền uy, ma lực. 1.3. Coetzee (sinh năm 1940) là nhà văn Nam Phi giành giải Nobel văn học(1) năm 2003, trở thành đại diện tiêu biểu cho nền văn học lục địa đen. So với các nhà (1) Như vậy đến nay, Nam Phi là quốc gia có hai nhà văn đạt giải thưởng Nobel Văn học. Người thứ nhất là Nadine Gordimer (1923-2014). Bà là nhà hoạt động xã hội da trắng chống chủ nghĩa Apratheid đoạt giải 1
  10. tiểu thuyết hiện đại, hậu hiện đại trên thế giới, ông không đem đến cho bạn đọc những tác phẩm đồ sộ, hoành tráng mà sáng tác của Coetzee có dung lượng vừa phải, tiết kiệm. Là nhà văn chịu ảnh hưởng sâu sắc từ các bậc thầy hậu hiện đại như F.M. Dostoyevsky, F. Kafka, W.C. Faulkner... nên trên từng trang viết của Coetzee luôn đau đáu về thân phận con người trong mối quan hệ với cộng đồng, xã hội. Với lối viết giản dị, tinh tế, đi thẳng trực tiếp các vấn đề, không màu mè, tất cả bi kịch con người Nam Phi được phơi bày sáng rõ… Văn chương của Coetzee đánh thẳng vào tâm lí bạn đọc và xã hội hậu hiện đại những câu hỏi nhức nhối đến ngột ngạt về tình trạng chia rẽ trong xã hội văn minh. Tiểu thuyết của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới trong đó có sáu tiểu thuyết đã được chuyển ngữ ở Việt Nam. Hiện nay, ở nước ta việc nghiên cứu lý thuyết hậu hiện đại trong văn học và ứng dụng lý thuyết vào các trường hợp cụ thể đã có nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Tuy nhiên, với trường hợp nhà văn Nam Phi Coetzee thì chưa có công trình nào đầy đủ, trọn vẹn. Đó chính là lý do cơ bản và chính yếu giúp chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài: Đặc trưng hậu hiện đại trong tiểu thuyết John Maxwell Coetzee. 2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: các tiểu thuyết của nhà văn Nam Phi Coetzee. Hiện nay ở Việt Nam đã có 6 tiểu thuyết dịch ra tiếng Việt (Giữa miền đất ấy, Đợi bọn mọi, Cuộc đời và thời đại của Michael K, Tuổi sắt đá, Ruồng bỏ, Người chậm). Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi cố gắng khảo sát đối chiếu nguyên bản tiếng Anh để từ đó đề xuất các đặc trưng hậu hiện đại trong tiểu thuyết của ông có độ tin cậy. - Phạm vi nghiên cứu: luận án giới hạn phạm vi nghiên cứu những đặc trưng hậu hiện đại trong tiểu thuyết của Coetzee. Trong đó chúng tôi tìm hiểu đặc trưng tiểu thuyết của ông từ tâm thức thuộc địa/hậu thuộc địa, phương diện nhân vật và các kỹ thuật trần thuật hậu hiện đại, từ đó giúp bạn đọc Việt Nam nhận diện những đóng góp của nhà văn Coetzee đối với văn chương thế giới đương đại. 3. Mục đích nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu của luận án nhằm tìm ra những đặc trưng hậu hiện đại trong 6 tiểu thuyết được dịch ở tiếng Việt của nhà văn Nam Phi Coetzee. Từ đó khẳng định, Coetzee là nhà văn hậu hiện đại tài hoa, dị biệt của văn chương thế giới thế kỷ XXI. - Coetzee là nhà văn chịu tác động mạnh mẽ bởi thể chế Apartheid nhưng tỏ thái độ ngoại cuộc trong cuộc chiến chống chế độ phân rẽ, vì vậy tiểu thuyết của ông mang tâm thức hậu thuộc địa, ám ảnh lưu vong tâm hồn. Đây cũng chính là mục đích nghiên cứu của luận án nhằm lí giải hiện tượng đó. 4. Cơ sở lý thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý thuyết Trong phạm vi luận án này, chúng tôi sử dụng lý thuyết hậu hiện đại để nghiên cứu một tác gia văn học tiêu biểu của Nam Phi - Coetzee. Đến nay, lý thuyết Nobel Văn học năm 1991, nổi tiếng với tập tiểu luận Living in hope and history: Notes from our century (Sống trong hi vọng và trong lịch sử: Những ghi chép về thế kỉ chúng ta) được xuất bản năm 1999. 2
  11. hậu hiện đại đang trên đà vận động với nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau, có khi đối lập, trái chiều. Bởi hậu hiện đại là sự hỗn độn, bất tín, lý thuyết của những tiểu tự sự phân mảnh, chắp vá. Sử dụng lý thuyết hậu hiện đại vào nghiên cứu một hiện tượng như Coetzee - đại biểu tiêu biểu của văn học hậu hiện đại trên thế giới không có nghĩa là áp đặt một cách cơ học, vật lí khung lí thuyết vào trong từng tiểu thuyết mà chúng tôi luôn xem xét trong mối quan hệ tương thích với tính cách, con người và thời đại của nhà văn sinh sống. Đặc biệt khi nghiên cứu, chúng tôi gắn đặc trưng tiểu thuyết của Coetzee với bối cảnh chính trị, văn hóa, xã hội Nam Phi thời kì Apartheid/hậu Apartheid và tâm thức sáng tạo của ông để từ đó có những lý giải về đặc trưng hậu hiện đại. Một nhà văn sẽ không thể đáp ứng tất cả các đặc điểm của một phạm trù lý thuyết, vì vậy chúng tôi chỉ tập trung vào đặc trưng tiểu thuyết của Coetzee gắn với tâm thức thuộc địa/hậu thuộc địa, bi kịch con người hậu hiện đại và các phương thức trần thuật hậu hiện đại tiêu biểu. Ngoài ra, để làm rõ đặc trưng hậu hiện đại trong văn chương Coetzee chúng tôi vận dụng các lý thuyết nghiên cứu khác như: thi pháp học, tự sự học, phân tâm học… 4.2. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện luận án, chúng tôi sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu chính sau đây: - Phương pháp lịch sử - văn hóa: dùng để nghiên cứu, khảo sát các tiểu thuyết của Coetzee từ góc nhìn lịch sử, văn hóa Nam Phi thời kì Apartheid/hậu Apartheid. - Phương pháp cấu trúc - hệ thống: dùng để tìm hiểu, nghiên cứu một cách hệ thống các đặc trưng của tiểu thuyết Coetzee từ đó thấy được những đóng góp của ông đối với văn chương hậu hiện đại Nam Phi nói riêng và thế giới nói chung. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng sử dụng hai loại phương pháp nghiên cứu phối hợp sau đây: - Phương pháp so sánh - đối chiếu: dùng để nghiên cứu những tương đồng và khác biệt trong đặc trưng nghệ thuật của Coetzee với các nhà văn hậu hiện đại khác (Albert Camus, Franz Kafka, Toni Morrison, Nadine Gordimer và một số nhà văn Nam Phi đương đại,…) - Phương pháp liên ngành văn học - văn hóa: nghiên cứu tiểu thuyết của Coetzee trong mối quan hệ với văn học, văn hóa Nam Phi, chúng tôi hi vọng tìm thấy đặc trưng hậu hiện đại trong tiểu thuyết cũng như lí giải tầm ảnh hưởng của ông đối với văn chương thế giới. 5. Đóng góp của luận án Luận án trình bày những đặc trưng hậu hiện đại trong tiểu thuyết của Coetzee, từ đó giúp bạn đọc Việt Nam có cái nhìn cơ bản, tổng thể về tiểu thuyết của ông cũng như văn học Nam Phi trong bối cảnh thuộc địa/hậu thuộc địa. Luận án được xem là một trong những công trình đầu tiên, nghiên cứu tương đối có hệ thống các đặc trưng hậu hiện đại trong tiểu thuyết của Coetzee ở Việt 3
  12. Nam, từ đó khẳng định vị trí, tầm vóc cũng như sự ảnh hưởng của Coetzee đối với văn chương thế giới đương đại. Bên cạnh đó, luận án thể nghiệm lý thuyết hậu hiện đại vào việc nghiên cứu một hiện tượng đạt giải thưởng Nobel Văn học, vì vậy, đây sẽ là công trình mang tính gợi mở cho những công việc tiếp theo của các nhà nghiên cứu khác. Luận án hoàn thành sẽ là một tài liệu tham khảo hữu ích cho việc học tập, nghiên cứu về tiểu thuyết gia Coetzee nói riêng cũng như chủ nghĩa hậu hiện đại, văn học hậu hiện đại Nam Phi nói chung. 6. Cấu trúc luận án Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội dung chính của luận án được triển khai trong 4 chương: Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu Chương 2. Đặc trưng hậu hiện đại trong tiểu thuyết của Coetzee nhìn từ tâm thức hậu thuộc địa Chương 3. Đặc trưng hậu hiện đại trong tiểu thuyết của Coetzee nhìn từ phương diện nhân vật Chương 4. Kỹ thuật trần thuật hậu hiện đại trong tiểu thuyết của Coetzee 4
  13. NỘI DUNG Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Trong chương tổng quan, chúng tôi đề cập đến hai nội dung cơ bản. Thứ nhất là tình hình nghiên cứu lý thuyết văn học hậu hiện đại trên thế giới và sự ứng dụng trong nghiên cứu văn học ở Việt Nam hiện nay để từ đó chúng tôi đi đến kết luận quan trọng: chủ nghĩa hậu hiện đại đang ở thì hiện tại tiếp diễn. Sự hình thành của chủ nghĩa hậu hiện đại là quá trình kế thừa và phát triển các học thuyết trước đó, là sản phẩm của thời đại internet, của cách mạng 4.0 - nền công nghiệp tự động hóa... Những đóng góp của chủ nghĩa hậu hiện đại tác động to lớn đến mọi mặt của cuộc sống, trong đó có lĩnh vực văn học nghệ thuật. Các hệ tư duy mới ra đời giải quyết gần như triệt để cấu trúc thượng tầng trong đời sống xã hội. Thứ hai là tình hình nghiên cứu hiện tượng Coetzee và tiểu thuyết của ông ở Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung từ đó đánh giá tổng quan nghiên cứu và hướng triển khai của đề tài. Có thể nói hiện tượng Coetzee trên thế giới đã được nghiên cứu sâu sắc, có hệ thống. Nhiều công trình có tính khái quát cao, phục vụ đắc lực trong học tập và nghiên cứu văn chương đương đại. Tuy nhiên ở Việt Nam, chưa có công trình nghiên cứu nào có tính chuyên sâu về hiện tượng Coetzee, đặc biệt nhất là chỉ ra các đặc trưng hậu hiện đại trong sáng tác của ông. Từ việc tổng thuật của đề tài, chúng tôi đi đến khẳng định Coetzee là nhà văn hậu hiện đại được hình thành từ tâm thức thực dân/hậu thực dân. 1.1. Tình hình nghiên cứu lý thuyết văn học hậu hiện đại Chủ nghĩa hậu hiện đại là một trào lưu tư tưởng phổ biến(2) và hiện nay đang hình thành khái niệm, đặc trưng khu biệt. Lý thuyết này không chỉ có trong lĩnh vực văn hóa, triết học, hội họa, âm nhạc, văn học,… mà đã phổ biến trong mọi lĩnh vực của đời sống con người. Tuy nhiên, ở phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi tổng thuật chủ nghĩa hậu hiện đại trên lĩnh vực văn học để có cái nhìn lịch đại và đồng đại về tình hình nghiên cứu hiện nay. 1.1.1. Tình hình nghiên cứu lý thuyết văn học hậu hiện đại trên thế giới Khái niệm hậu hiện đại được định hình ở các lĩnh vực khác đã xuất hiện từ lâu, tuy nhiên trong văn học thì phải vào những năm 60 của thế kỷ XX mới có những công trình ra đời. Năm 1861, nhà khoa học, triết gia người Pháp, Antoine Augustin Cournot nói đến khái niệm hậu lịch sử (post-histoire) trong cuốn Traité de l'enchaînement des idées fondamentales dans les science et dans l'Histoire (Chuyên luận về sự liên kết những ý tưởng cơ bản trong khoa học và sử học). Trong cuốn sách này, Cournot nhắc đến giả thuyết của Hegel về sự hoàn tất lịch sử ở thời điểm hiện đại, để gián tiếp chỉ định những gì xảy ra sau đó là hậu lịch sử. (2) Trong Hậu hiện đại ở Nga, Văn học và lý luận (2002), tác giả M.Epsstein thống kê: cuối năm 1998, ở Mỹ, riêng tại các thư viện lớn thống kê được 3579 cuốn sách với đầu đề có từ postmodernism và 2666 cuốn có từ posmodern. Trong số sách bán trên thị trường có 421 cuốn về posmodernism và 833 cuốn về postmodern (tr.364-365). Ở Nga, từ cuối 1980 tới năm 1995, riêng trong lĩnh vực văn hoá đã có khoảng hơn 40 đầu sách về lĩnh vực này (tr.321) [153]. 5
  14. Nửa cuối thế kỷ XIX, thuật ngữ “chủ nghĩa hậu hiện đại” (postmodernism) xuất hiện trong lĩnh vực hội họa. Đến công trình Antología de la poesía española e hispano-americana (1882-1932) (Tuyển tập thơ Tây Ban Nha và Mĩ Latinh), nhà phê bình Pederico de Onís đã sử dụng thuật ngữ chủ nghĩa hậu hiện đại để chỉ sự khủng hoảng của ngôn ngữ trong thơ ca. Năm 1947, một sử gia nổi tiếng người Anh là Arnold Joseph Toynbee (1889-1975) trong công trình A Study of History (Nghiên cứu lịch sử) đã sử dụng thuật ngữ này nhằm mục đích để “đánh dấu trước sau năm 1875 văn minh phương Tây đã bước vào một chu kỳ lịch sử mới” (Ihab Hassan). Đến những năm 60, 70 của thế kỉ XX, nhiều nhà lý luận Hoa Kỳ, sau đó là cả châu Âu đã sử dụng rộng rãi thuật ngữ này, và đã có nhiều cuộc tranh luận, đối thoại như giữa học giả Pháp Jean Francois Lyotard với học giả Đức Jürgen Harbamas(3)… Công trình La condition postmoderne: rapport sur le savoir (Hoàn cảnh hậu hiện đại: bản tường trình về tri thức, 1979) và tiếp tục được triển khai trong Le différend (Bất đồng, 1983) của Lyotard trở thành “cương lĩnh” cho nội hàm thuật ngữ này. Đến nay, nó được sử dụng rộng khắp trong mọi lĩnh vực: văn học, nghệ thuật, văn hóa, kiến trúc, thể thao, triết học… Năm 1990, Katie Wales đã đưa thuật ngữ Chủ nghĩa hậu hiện đại vào quyển A Dictionary of Stylistics (Từ điển phong cách học). Tác giả xem khái niệm này là một trào lưu tư tưởng xuất hiện từ 1960 trở đi, là sự tiếp nối của chủ nghĩa hiện đại ở châu Âu khước từ hệ quy chiếu hiện thực. Năm 1996, trong cuốn Literary Theory, An Introduction (Dẫn luận lí luận văn học), Terry Eagleton xác định các phạm trù của hậu hiện đại: tùy tiện, đa trị, lai ghép, lệch tâm, dễ thay đổi, ngưng đọng, hệt như một mô phỏng [101]. Văn chương hậu hiện đại được xem là phản ứng chống lại tư tưởng Khai sáng (Enlightenment) - phong trào ủng hộ lý tính, khoa học và sự hợp lý khởi nguồn từ châu Âu trong thế kỷ XVII - XVIII; chống lại cả sự tiếp cận của những người theo chủ nghĩa hiện đại đối với văn chương. Nó không thích bị định nghĩa hay phân loại là một “trào lưu” (văn chương). Hậu hiện đại có nhiều kiểu lý thuyết phê bình khác nhau, chấp nhận phản ứng đa chiều của người đọc, kể cả cách tiếp cận “giải cấu trúc” (déconstruction) - phương pháp phân tích văn chương của triết gia Pháp Jacques Derrida. Nó phá vỡ cái gọi là “ngầm hiểu”, sợi dây liên kết giữa tác giả, văn bản và người đọc thông qua tác phẩm. Năm 1941, một số nhà nghiên cứu lý luận văn học khẳng định đây là năm khởi đầu cho chủ nghĩa hậu hiện đại. Tuy nhiên, Keith Hopper lại cho rằng The Third Policeman (Người cảnh sát thứ ba) của Flann O‟Brien (nhà văn người Ireland) mới là một trong những tiểu thuyết hậu hiện đại đầu tiên (bản thảo hoàn tất năm 1939 nhưng bị cấm xuất bản, đến năm 1967 mới được ra mắt). Tác phẩm mang những đặc điểm của văn chương hậu hiện đại, sau này rất nhiều các nhà văn khác sử dụng như một hình thức phổ biến: lai lịch và tình huống không thể lí giải của nhân vật, siêu hư cấu... Một quyển khác của Flann O‟Brien có tựa đề là The Dalkey (3) Sinh năm 1929, là nhà triết học, xã hội học thực dụng người Đức, có nhiều quan niệm đối lập với Lyotard về chủ nghĩa hậu hiện đại, nổi tiếng với công trình The Philosophical Discourse of Modernity (Diễn ngôn triết học về tính hiện đại - 1985). 6
  15. Archive(4), xuất bản năm 1964, hai năm trước khi tác giả qua đời cũng được xem là tiểu thuyết khởi đầu giai đoạn văn chương hậu hiện đại. Nhìn chung, tình hình nghiên cứu lý thuyết văn học hậu hiện đại trên thế giới rất phức tạp, nhưng có thể có hai phương pháp tiếp cận cơ bản: cách tiếp cận và quan niệm văn học hậu hiện đại từ góc độ xã hội học và triết học Tân Marxism và cách tiếp cận văn học hậu hiện đại từ góc độ ngôn ngữ và các thủ pháp nghệ thuật đặc thù. Từ góc độ xã hội học và triết học có các tác giả như Fredric Jameson với tiểu luận Postmodernism, or, The Cultural Logic of Late Capitalism (Chủ nghĩa hậu hiện đại hay logic văn hóa của chủ nghĩa tư bản hậu kì, 1984); các bài báo Postmodernism for Kids or What is Postmodernism (Chủ nghĩa hậu hiện đại cho người mới tìm hiểu hay chủ nghĩa hậu hiện đại là gì?) của Arup Ratan Ghosh; The romantic, the modern and postmodern (Lãng mạn, hiện đại và hậu hiện đại) của Ashoke Viswanathan; Postmodernism and India: some preliminary animadversions (Chủ nghĩa hậu hiện đại và Ấn Độ: một vài nhận định ban đầu) của Makarand Paranjape… đã chỉ rõ nền tảng kinh tế của chủ nghĩa tư bản hậu kì đã quy định đến tính chất và diện mạo của văn học. Ngoài ra, ở Trung Quốc các nhà nghiên cứu như Vương Nhạc Xuyên với Nghiên cứu chủ nghĩa hậu hiện đại (1992), Thịnh Ninh với Nghi hoặc và phản tư nhân văn - phê phán tư trào chủ nghĩa hậu hiện đại phương Tây (1997), Trần Hiểu Minh với Thử thách vô biên - tính hậu hiện đại của văn học tiên phong Trung Quốc (2006) và các bài viết của Ngô Lượng, Trác Hồng, Trần Tư Hòa, Vương Ninh, Đỗ Thư Doanh… đã xác lập lý thuyết văn học hậu hiện đại nằm trong quỹ vận động, phát triển của xã hội thế kỷ XX. Thứ hai là cách tiếp cận từ góc độ ngôn ngữ và các thủ pháp nghệ thuật. Cách tiếp cận này chịu ảnh hưởng từ lý thuyết giải cấu trúc của Bakhtin, Derrida, Kristeva, Lacan, Foucault... Từ những kiến giải, các nhà hậu hiện đại đã đưa ra những đặc trưng thẩm mĩ của văn học hậu hiện đại như: hỗn độn, hoài nghi, mảnh vỡ, đa trị, lai ghép, ngoại biên, lệch tâm... Tóm lại, có thể thấy tình hình nghiên cứu lý thuyết văn học hậu hiện đại trên thế giới có nhiều thành tựu góp phần định hình nền văn học đương đại. Với việc định hình và phát triển một lí thuyết nghiên cứu văn học mới đã làm cho đời sống phê bình trở nên hấp dẫn, sôi động. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu, phê bình hiện nay vẫn còn có những giới hạn khi xác định phạm trù khái niệm hậu hiện đại. Thứ nhất, đó là sự chồng chéo, có khi đối lập nhau trong việc xác định khái niệm hậu hiện đại. Thứ hai, chưa làm rõ cũng như chưa xác định phạm trù cái chung và cái riêng trong khái niệm hậu hiện đại. Với đặc điểm hậu hiện đại của mỗi quốc gia, khu vực có những điểm khác nhau, đặc trưng riêng, các nhà hậu hiện đại vẫn chưa tìm thấy điểm chung trên phạm vi toàn thế giới. Dù muốn hay không khái niệm và nội hàm lí thuyết hậu hiện đại đã hiện hữu trong đời sống phê bình văn học. Nó đã xác lập một hệ hình nghiên cứu chính hiện nay và thực sự có nhiều đóng góp thiết thực, làm sinh động hóa các hướng tiếp cận đời sống văn học. (4) Đây là cuốn tiểu thuyết thứ năm và cuối cùng của ông. Năm 1965 được Hugh Leonard chuyển thể thành kịch sân khấu với tên gọi The Saints Go Cycling In. Nhân vật chính là De Selby, một kiểu nhân vật tri thức điên loạn. 7
  16. 1.1.2. Tình hình nghiên cứu lý thuyết văn học hậu hiện đại ở Việt Nam Lý thuyết văn học hậu hiện đại trên thế giới đã tác động mạnh mẽ đến đời sống văn học Việt Nam cũng như các luồng tư tưởng phê bình ở nước ta những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI. Xuất hiện bài báo dịch thuật, công trình nghiên cứu, ứng dụng lý thuyết văn học hậu hiện đại. Điều này đã làm cho không khí phê bình học thuật sôi động, không thua kém so với các nước tiên tiến trên thế giới. Khái niệm hậu hiện đại, chủ nghĩa hậu hiện đại đã hàm chứa nhiều vấn đề phức tạp, gây tranh cãi giữa các nhà khoa học, cho nên khi áp dụng vào Việt Nam cũng không tránh khỏi những tiếp nhận chồng chéo, có khi mâu thuẫn gay gắt. Ở luận án này, chúng tôi sẽ không khảo sát lại các công trình nghiên cứu về lý thuyết văn học hậu hiện đại ở Việt Nam tiêu biểu theo trình tự lịch đại như các luận án trước đã làm mà chỉ tổng quan các thành tựu nổi bật. Về công trình nghiên cứu lý thuyết hậu hiện đại Cuối thế kỷ XX, xuất hiện một số bài báo dịch thuật, giới thiệu những nét phác thảo ban đầu về lý thuyết hậu hiện đại trên thế giới ở Việt Nam. Sự thất bại của cơ cấu luận - Phê bình Levi - Strauss và Jacques Derrida của Phạm Công Thiện và Cơ cấu ngôn ngữ của Michel Foucault của Tuệ Sĩ đăng trên Tạp chí Tư tưởng (số 6, ngày 01/11/1969) thuộc Viện Đại học Vạn Hạnh đã giới thiệu và gợi ý về một sự thay đổi trong xu hướng nghiên cứu mới trong tương lai, cái mà sau này chúng ta gọi là “hậu hiện đại”. Năm 1991, tiểu luận Vài suy nghĩ về cái gọi là tiểu thuyết hậu hiện đại của Antonio Blach (Tây Ban Nha) (Nguyễn Trung Đức dịch) in trên Tạp chí Văn học, (số 5, 1991) đã cung cấp cho bạn đọc các khái niệm cơ bản của văn học hậu hiện đại và tiểu thuyết hậu hiện đại như: tính phức tạp và phiến diện, xóa nhòa ranh giới giữa không gian của nghệ thuật và không gian của kỹ thuật, giữa ý thức và vô thức, giữa hiện thực và ma quái... Năm 1995, bài viết Từ văn bản đến tác phẩm văn học và giá trị thẩm mỹ của Trương Đăng Dung in trên Tạp chí Văn học (số 11, 1995) đã diễn giải mối quan hệ giữa văn bản - người đọc và đi đến khẳng định sự tạo nghĩa chỉ có thể có được thông qua hoạt động tiếp nhận của người đọc. Tuy nhiên, phải đến đầu thế kỷ XXI khái niệm hậu hiện đại mới bắt đầu sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu và phê bình văn học ở Việt Nam. Bài viết Tìm hiểu chủ nghĩa hậu hiện đại của Phương Lựu trên tạp chí Nhà văn (số 8, 2000) đã trực tiếp bàn về khái niệm này, đồng thời chỉ ra con đường phát triển của nó trong nghiên cứu, phê bình văn học. Bài viết Chủ nghĩa hậu hiện đại hay là hiện tượng chồng chéo khái niệm của Nguyễn Văn Dân đăng trên tạp chí Văn học, (tháng 9/2001) và những bài viết trao đổi xung quanh vấn đề này đôi lúc có gay gắt, chủ quan nhưng đã có những bàn luận thẳng thắn về hiện tượng đã hoặc chưa có chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học Việt Nam. Đến nay, dù muốn hay không thì bản thân tác giả cũng thừa nhận sự có mặt của hậu hiện đại trong đời sống văn học Việt Nam. Cũng trong năm này, Phùng Văn Tửu công bố chuyên luận Tiểu thuyết Pháp bên thềm thế kỷ XXI (Nxb Tp Hồ Chí Minh, 2001) với 4 phần: Dưới con mắt các nhà phê bình, Hồi ức và sáng tạo, Các giải thưởng văn chương, Hướng về đông đảo bạn đọc, công trình đã phần nào phác họa diện mạo chung của văn học hậu hiện đại 8
  17. Pháp thông qua việc phân tích một số nhà văn nổi tiếng như Annie Ernaux, Robbe- Grillet, Le Clézio... Năm 2003, Nxb Hội nhà văn và Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây xuất bản công trình Văn học hậu hiện đại thế giới. Trong quyển 1, Văn học hậu hiện đại thế giới - những vấn đề lý thuyết có 7 bài viết của các tác giả Việt Nam và 4 bài viết của các nhà nghiên cứu định cư ở nước ngoài. Cùng năm này, nhóm dịch giả Đào Tuấn Ảnh, Trần Hồng Vân, Lại Nguyên Ân giới thiệu quyển Các khái niệm và thuật ngữ của các trường phái nghiên cứu văn học phương Tây và Hoa Kì thế kỉ XX của hai tác giả I.P.Ilin và Tzurganova. Đây được xem là cuốn sách cung cấp có hệ thống các thuật ngữ và khái niệm hậu hiện đại cũng như chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học. Các nhà nghiên cứu đã đề cập đến các khái niệm của chủ nghĩa hậu hiện đại: cảm quan hậu hiện đại, mặt nạ tác giả, siêu truyện, mã kép, giải nhân cách hóa, phi lựa chọn, pastiche, bất tín nhận thức, liên văn bản, tính nhục thể, ngoại biên... Năm 2004, Trương Đăng Dung đã nghiên cứu và diễn giải bản chất của tư duy lý luận văn học từ hiện đại đến hậu hiện đại một cách hệ thống trong công trình Tác phẩm văn học như là quá trình (Nxb Khoa học Xã hội). Trong Tự sự học - một số vấn đề lí luận và lịch sử (phần 1, Nxb Đại học Sư phạm, 2004) do Trần Đình Sử chủ biên có nhiều bài viết nghiên cứu lý thuyết văn học hậu hiện đại và sự ứng dụng của nó trong một số trường hợp cụ thể như: Kỹ thuật dòng ý thức qua Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh (Nguyễn Đăng Điệp), Cấu tứ tự sự của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp (Nguyễn Văn Tùng), Miêu tả của Robbe-Grillet trong tiểu thuyết Ghen (La jalousie) (Nguyễn Thị Từ Huy)... Bên cạnh đó, tiểu luận phê bình Đi tìm sự thật biết cười (Umberto Eco - Vũ Ngọc Thăng dịch, Nxb Hội Nhà văn - Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2004) đề cập đến nhiều vấn đề khác nhau của lý luận nghệ thuật như: kí hiệu và văn bản học, mĩ học hậu hiện đại, thi pháp mở... Năm 2005, bài viết Quan niệm thực tại và con người trong văn học hậu hiện đại của Đào Tuấn Ảnh (Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 8) đã chỉ rõ con đường du nhập lí thuyết hậu hiện đại trên thế giới ở Việt Nam, đặc trưng thẩm mỹ cũng như các khả năng vận dụng lý thuyết văn học nước nhà. Năm 2006, công trình Chủ nghĩa hậu hiện đại, các vấn đề nhận thức luận của Trần Quang Thái (Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh) phác thảo và hệ thống lịch sử ra đời và quá trình phát triển của chủ nghĩa hậu hiện đại thế giới, đặc biệt tác giả tổng kết những tư tưởng cơ bản của lý thuyết này. Trong thời gian này có nhiều bài nghiên cứu bắt đầu ứng dụng lí thuyết hậu hiện đại làm nền tảng để nghiên cứu, soi chiếu các hiện tượng của văn học Việt Nam đương đại đăng trên Tạp chí Nghiên cứu văn học (số 12, 2007) như: Những dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học Việt Nam qua sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài (Lã Nguyên), Những yếu tố hậu hiện đại trong văn xuôi Việt Nam qua so sánh với văn xuôi Nga (Đào Tuấn Ảnh), Lịch sử trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và dấu vết của hệ hình thi pháp hậu hiện đại (Cao Kim Lan)… Năm 2008, nhóm tác giả bộ giáo trình Lý luận văn học (Phương Lựu chủ biên, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội) đã đưa khái niệm chủ nghĩa hậu hiện đại vào 9
  18. và xem đó là khuynh hướng sáng tác của văn học đương đại thế giới. Điều đó chứng tỏ sự thừa nhận khái niệm này trong giới học thuật chính thống ở các trường Đại học và Cao đẳng ở Việt Nam. Công trình Tự sự học (tập 2) do Trần Đình Sử chủ biên tiếp tục có nhiều bài viết bàn về sự ứng dụng chủ nghĩa hậu hiện đại vào đời sống văn học Việt Nam: Kiểu tự thuật “đánh tráo” chủ thể trần thuật trong tiểu thuyết hậu hiện đại (Trần Huyền Sâm), Tư duy thơ trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Nguyễn Thị Bình), Mẫu gốc như là thành phần tạo nghĩa trong chuyện kể (khảo sát qua mẫu gốc lửa và nước trong “Giàn thiêu” của Võ Thị Hảo) (Đào Vũ Hòa An)… Ngoài ra còn có bài viết Tiếp cận những cách tân của chủ nghĩa hiện đại và chủ nghĩa hậu hiện đại của Hoàng Ngọc Hiến trên (Tạp chí Sông Hương, số 7, 2008) đã chỉ ra những dấu hiện cơ bản hậu hiện đại trong các sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Lê Anh Hoài… Năm 2011, Lý thuyết văn học hậu hiện đại của Phương Lựu (Nxb Đại học Sư phạm) được xem là công trình công phu về việc tái hiện diện mạo chủ nghĩa hậu hiện đại trong tiến trình chung của văn học thế giới. Bên cạnh những khái niệm, lịch sử ra đời, tên gọi, các cuộc tranh luận, các học giả tiêu biểu… thì cuốn sách còn cung cấp những tri thức cơ bản về hậu hiện đại giúp người đọc soi chiếu những đặc trưng của chủ nghĩa hậu hiện đại vào quá trình nghiên cứu các hiện tượng văn chương cụ thể. Năm 2012, chuyên luận Thi pháp chủ nghĩa hậu hiện đại của Liviu Petrescu (Ru-ma-ni) do Lê Nguyên Cẩn dịch và giới thiệu đã góp phần cung cấp thêm góc nhìn về văn học hậu hiện đại trên thế giới với phương diện tiền đề cơ bản và những đặc trưng cơ bản của thi pháp hậu hiện đại. Về công trình ứng dụng lý thuyết hậu hiện đại vào các hiện tượng cụ thể Ở Việt Nam, những năm đầu của thế kỷ XXI, có nhiều công trình ứng dụng lý thuyết hậu hiện đại vào nghiên cứu từng trường hợp cụ thể. Điều này, góp phần khẳng định hậu hiện đại có mặt trong đời sống văn học Việt Nam và trở thành một khuynh hướng nghiên cứu chủ đạo trong thời gian sắp tới. Năm 2012, công trình Văn học hậu hiện đại - lý thuyết và tiếp nhận của tác giả Lê Huy Bắc (Nxb Đại học Sư phạm) được ấn hành với 21 chương. Đây là công sức tìm tòi, khám phá của tác giả trong việc xây dựng lí thuyết cũng như vận dụng vào các hiện tượng trên thế giới và Việt Nam: Franz Kafka, J.M. Coetzee, G.G. Marquez, Don DeLillo, Paul Auster, Ken Kesey, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Ngọc Tư, Thanh Thảo, Bảo Ninh… Tác giả dành 6 chương để khái quát lý thuyết hậu hiện đại, các chương còn lại đã vận dụng hậu hiện đại để nghiên cứu các trường hợp cụ thể như: mờ hóa, mã kép, giải tôi, ngẫu nhiên, đa điểm nhìn, nghịch lí, nhại, hỗn độn, giải luận đề, tính dục, tính đa trị, liên văn bản, tiểu tự sự… Đặc biệt, ở chương 5: Hậu hiện đại từ Franz Kafka đến J.M. Coetzee là bài viết độc đáo cho thấy sự dịch chuyển của lý thuyết hậu hiện đại từ giữa thế kỉ đến cuối thế kỉ XX cũng như sự chuyển tiếp từ bậc thầy văn chương (Kafka) đến nhà hậu hiện đại tiêu biểu (Coetzee). Năm 2013, công trình Văn học hậu hiện đại - diễn giải và tiếp nhận của Nguyễn Thành, Hồ Thế Hà, Nguyễn Hồng Dũng chủ biên (Nxb Văn học), Lý thuyết 10
  19. phê bình văn học hậu hiện đại của Trường Đại học Hồng Đức (Nxb Đại học Vinh) ra đời. Đặc biệt là công trình Văn học hậu hiện đại - lý thuyết và thực tiễn của Lê Huy Bắc, Lê Nguyên Cẩn, Đỗ Hải Phong chủ biên (Nxb Đại học Sư phạm) gồm 29 bài viết với các nội dung: những vấn đề chung của văn học hậu hiện đại (5 bài), ứng dụng lí thuyết vào nghiên cứu các hiện tượng văn học Việt Nam (8 bài), ứng dụng lí thuyết vào nghiên cứu các tác giả và tác phẩm văn học nước ngoài (16 bài). Một số bài viết đã làm sáng tỏ các kĩ thuật đặc trưng của văn học hậu hiện đại như: tính chất trò chơi, tính liên văn bản, phi trung tâm, huyền ảo, mảnh vỡ... Không thể không kể đến công trình Phê bình văn học hậu hiện đại Việt Nam do Lê Huy Bắc chủ biên (Nxb Tri thức, 2013) với 18 bài viết sâu sắc như: Lí thuyết phê bình hậu hiện đại như một siêu ngữ, Từ ngôn ngữ đến trò chơi ngôn ngữ hậu hiện đại (Lê Huy Bắc), Giải cấu trúc và nghiên cứu, phê bình văn học hôm nay (Trần Đình Sử), Thiền và hậu hiện đại (Nhật Chiêu), Chủ nghĩa hậu hiện đại gặp gỡ Đông phương (Inrasara), Phi trung tâm - khái niệm và tiếp nhận (Nguyễn Thị Hạnh), Dẫn luận lí thuyết liên văn bản (Nguyễn Văn Thuấn), Vấn đề chủ nghĩa hậu hiện đại qua “Bốn bề bờ bụi” của Akutagawa Ryunosuke (Nguyễn Thị Tịnh Thy)… Tuy giữa các bài viết còn đôi chỗ mâu thuẫn nhau về quan niệm, cách nhìn hậu hiện đại nhưng tất cả đã góp phần tạo nên sự phong phú cho đời sống phê bình hậu hiện đại ở nước ta hiện nay. Trong những năm gần đây, việc vận dụng lí thuyết hậu hiện đại vào các hiện tượng cụ thể đã trở thành một phong trào phát triển mạnh mẽ. Tiêu biểu có công trình Những dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn xuôi Việt Nam đương đại (giai đoạn 1986 - 2012) của Phùng Gia Thế. Cuốn sách gồm 3 chương: Khái niệm hậu hiện đại và yếu tố hậu hiện đại trong văn hóa Việt Nam đương đại; Mô hình thế giới giải thiêng; Xu hướng Các-na-van hóa đã đề cập đến các vấn đề như: lai lịch thuật ngữ, hậu hiện đại một khái niệm đa nghĩa thuộc nhiều lĩnh vực của văn hóa, điều kiện hậu hiện đại và những yếu tố trong văn hóa Việt Nam. Chương 2 và 3 của công trình đã ứng dụng các lí thuyết của chủ nghĩa hậu hiện đại như: chủ thể trần thuật phi trung tâm, phân mảnh, lắp ghép, người trần thuật không đáng tin cậy, hỗn độn, hoang mang, giễu nhại, siêu hư cấu, thông tục hóa… để làm sáng rõ tác phẩm của một số nhà văn đương đại như: Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Bình Phương, Phạm Thị Hoài, Chu Lai, Hồ Anh Thái… Gabriel García Márquez và nỗi cô đơn huyền thoại (2015) của Phan Tuấn Anh được xem là công trình nghiên cứu dày dặn, có hệ thống về hiện tượng văn chương tiêu biểu châu Mỹ Latin. Cuốn sách tập hợp 12 bài viết về các biểu hiện của chủ nghĩa hậu hiện đại như: yếu tố phi lý, tâm thức mê lộ, liên văn bản, cảm quan đa trị, nghịch dị... trong các tác phẩm Trăm năm cô đơn, Giờ xấu, Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi, Tình yêu thời thổ tả... Đây được xem là công trình ứng dụng lí thuyết hậu hiện đại vào một tác giả tiêu biểu trên thế giới hấp dẫn giúp bạn đọc Việt Nam không chỉ biết đến một nhà văn đạt giải Nobel Văn học (1982) mà còn có nhiều tri thức về văn hóa, xã hội, tâm thức văn chương Mĩ Latin huyền thoại, bí ẩn. 11
  20. Ngoài ra, hai luận án tiến sĩ đã ứng dụng lí thuyết hậu hiện đại vào nghiên cứu các hiện tượng văn học ở Việt Nam: Yếu tố hậu hiện đại trong truyện ngắn Việt Nam của Lê Văn Trung và Ảnh hưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại đối với tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2010 của Nguyễn Hồng Dũng... Đây là kết quả quá trình tìm tòi, nỗ lực của các nhà nghiên cứu phê bình nhằm ứng dụng lí thuyết hậu hiện đại vào đời sống văn học Việt Nam. Năm 2016, công trình Tiểu thuyết phương Tây hiện đại và các hướng tiếp cận của Trần Huyền Sâm (Nxb Văn học) đã mang đến cho người đọc các hướng tiếp cận: tự sự học (thời gian, kiểu trần thuật), so sánh (tiểu thuyết và kinh thánh), tiểu thuyết và liên văn hóa, tiểu sử học về các tiểu thuyết gia: Umberto Eco, Marguerite Duras, J.M. Coetzee, Nikos Kazantzakis, Claude Lévi-Strauss, Le Clézio, M.V. Llosa… Năm 2017, tác giả Thái Phan Vàng Anh xuất bản công trình Tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ XXI - Lạ hóa một cuộc chơi (Nxb Đại học Huế). Đây là kết quả của quá trình tìm tòi xác lập và ứng dụng lý thuyết hậu hiện đại vào nghiên cứu tình hình tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI với những phát hiện mới, độc đáo. Công trình trên góp phần trả lời cho một vài băn khoăn: Việt Nam có hoàn cảnh hậu hiện đại, có tâm thức hậu hiện đại hay không? Các nhà văn Việt Nam khi sáng tác liệu có vận dụng lí thuyết hậu hiện đại hay không? Và khi biểu hiện các nhà văn Việt Nam có điều gì giống và khác với các nhà văn hậu hiện đại trên thế giới? v.v… Bên cạnh đó, có nhiều bài viết được đăng tải trên các trang website uy tín mang đến những thông tin có tính thời sự như: Chủ nghĩa hậu hiện đại và văn học Việt Nam, Các lý thuyết phê bình văn học 9(11): chủ nghĩa hậu hiện đại, Chủ nghĩa hậu hiện đại - những mảnh nghĩ rời, Chủ nghĩa hậu hiện đại và những cái cần chết trong văn học Việt Nam,… của tác giả Nguyễn Hưng Quốc; Thử thưởng thức một tác phẩm văn chương hậu hiện đại của Hoàng Ngọc Tuấn; Chủ nghĩa hậu hiện đại: những khái niệm căn bản của Nguyễn Minh Quân… Các diễn đàn trao đổi sôi nổi về chủ nghĩa hậu hiện đại như: Chủ nghĩa hậu hiện đại và ảnh hưởng ở nước ta của Đông La, Chập chờn bóng ma hậu hiện đại của Đỗ Minh Tuấn, Nhà văn Lê Anh Hoài: Hậu hiện đại đã và đang được Việt hóa của Thái Kim Lan, Bàn về thuật ngữ văn học hậu hiện đại của Nguyễn Văn Tùng, Tùy bút nhỏ về hậu hiện đại của Văn Giá, Thiền và hậu hiện đại của Nhật Chiêu, Xu hướng tân hình thức, hậu hiện đại trong thơ: chiếc áo rộng cho một cơ thể còm của Khánh Phương, Chủ nghĩa hậu hiện đại? của Bùi Quang Thắng, Nhận biết về chủ nghĩa hậu hiện đại trong nghệ thuật của Hồ Sĩ Vịnh, Nhập lưu hậu hiện đại; Hậu hiện đại và thơ hậu hiện đại; Ma net, quá trình chuyển giọng từ hiện đại đến hậu hiện đại… của Inrasara… Từ những công trình, bài viết trên chúng tôi nhận thấy các nhà nghiên cứu, phê bình ở Việt Nam đã tìm tòi, xác lập lí thuyết hậu hiện đại ở Việt Nam trên nhiều phương diện khác nhau: Về lí thuyết phê bình hậu hiện đại, có thể kể đến sự đóng góp của tác giả Phương Lựu. Với những nỗ lực của nhà nghiên cứu văn học hàng đầu ở Việt Nam, tác giả đã xác lập, phân loại các khuynh hướng hậu hiện đại trên thế giới và định 12
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2